Mục Lục
Trang
Mở đầu 3
Phần 1:Lý luận chung về DNNVV 4
I.Các vấn đề cơ bản 4
1.Tiêu chuẩn về DNNVV 2.Vai trò của DNNVV 8
3.Quan hệ giữa DNNVV với Doanh nghiệp lớn 11
II . Chính sách phát triển hệ thống DNNVV 12
1.Khái niệm chính sắch và chính sách phát triển các DNNVV 12
2.Nội dung của chính sách 13
3.Chính sách phát triển DNNVV ở một số nước 14
Phần 2:Chính sách phát triển và vai trò hiện nay của các DNNVV ở Việt Nam 22
I.Tình hình phát triển và vai trò hiện nay của các
42 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1386 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chính sách phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DNNVV ở Việt Nam 22
1.Vài nét về tình hình phát triển các DNNVV ở Việt Nam 22
2.Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam 22
II.Hệ thống thể chế,chính sách khuyến khích trợ giúp DNNVV ở Việt Nam 24
1.Chính sách khuyến khích đầu tư 26
2.Chính sách về mặt bằng kinh doanh 27
3.Chính sách về vốn 27
4.Chính sách thị trường 28
5.Chính sách về thuế 29
6.Chính sách về công nghệ 31
7.Chính sách về lao động 31
Phần 3:Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy phát
triển DNNVV ở nước ta 33
I.Chính sách phát triển DNNVV trong giai đoạn 2001-2010 33
1.Chính sách thương mại 34
2.Chính sách công nghiệp 34
3.Chính sách tiền tệ 34
a.Chính sách huy động vốn 34
b.Chính sách thuế 35
c.Chính sách tiền tệ 35
d.Chính sách đầu tư 35
e.Chính sách công nghệ đào tạo 36
II.Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách 36
1.Hoàn thiện chính sách thương mại và công nghiệp 36
2.Hoàn thiện chính sách tài chính tín dụng 37
3.Hoàn thiện chính sách thuế 37
4.Hoàn thiện chính sách công nghệ và đào tạo 37
5.Hoàn thiện chính sách đầu tư 38
6.Hoàn thiện chính sách thị trường 38
Kết luận 39
Tài liệu tham khảo 40
Lời nói đầu
Trong lịch sử phát triển kinh tế của các nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) luôn có vai trò và tác dụng rất quan trọng. Gần đây, chính trong thời điểm khoa học và công nghệ tiến triển rất mạnh mẽ, xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra khá sôi nổi, thực tiễn quản lý kinh tế và quản lý doanh nghiệp có những chuyển biến sâu sắc, thì các DNNVV lại càng được chú trọng ở các nước. Điều đó có thể thấy rõ qua các khối lượng về tài liệu về chuyên đề này rất dồi dào, đa dạng, được công bố hầu như hàng ngày, hàng tuần, từ các luật lệ của các Chính phủ, các chiến lược, các chương trình phát triển DNNVV của các quốc gia, đến các sách hướng dẫn, các công trình nghiên cứu và các bài báo về DNNVV.
Trong nước ta, DNNVV cũng có vai trò quan trọng như vậy, do sự phát triển còn thấp của nền kinh tế quốc dân, do tiềm năng rất lớn của nội lực dân tộc, do yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Trong 15 năm đổi mới vừa qua, DNNVV ngày càng được coi trọng. Đầu năm 2001, báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương đảng tại Đại hội IX của Đảng một lần nữa vạch rõ: “Chú trọng phát triển các DNNVV...” Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 nhấn mạnh: “ Phát triển rộng khắp các cơ sở sản suất công nghiệp nhỏ và vừa với nghành nghề đa dạng...”
Chọn đề tài: “Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” em muốn góp thêm tiếng nói nhỏ của mình vào việc nhận thức đúng về vai trò và sự cần thiết của việc khuyến khích, thúc đẩy phát triển các DNNVV ở Việt Nam hiện nay. Đề án được chia làm 3 phần :
Phần I: Lý luận chung về DNNVV.
Phân II: Chính sách phát triển DNNVV ở Việt Nam.
Phần III: Hoàn thiện chính sách phát triển DNNVV ở Việt Nam.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do hạn chế về trình độ và thời gian, đề án vẫn còn nhiều thiếu sót, rất mong được sự giúp đỡ của cô giáo và các bạn.
Cuối cùng, em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Hồng Thuỷ đã giúp đỡ em trong việc hoàn thành đề tài này.
Hà nội, ngày 17-11-2001
Phần I
Lý luận chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa
I.Các vấn đề cơ bản:
Tiêu chuẩn về doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)
Câu hỏi đầu tiên được đặt ra khi nghiên cứu đề tài này là một câu hỏi tiêu chuẩn thế nào là DNNVV ?
Việc nghiên cứu những tiêu chuẩn này, tự thân nó vốn đã cần thiết, lại càng trở nên quan trọng do có những khác biệt khá nhiều về tiêu chuẩn DNNVV giữa nước này vơí nước khác.
Nếu không có quan niệm đủ rõ về tiêu chuẩn thì rễ ngộ nhận, thiếu chính xác. Chỉ có nắm rõ tiêu chuẩn DNVVN ở từng nước, thì mới theo dõi được tình hình, đánh giá được chất lượng hoạch định và hiểu quả thực hiện chính sách đối với DNNVV, hiểu và phân tích được số liệu thống kê về kết quả hoạt động của các DNNVV.
Nhìn chung trên thế giới, hai tiêu chuẩn được sử dụng phổ biến để phân loại doanh nghiệp là: Số lao động sử dụng và số vốn. Trong hai tiêu chuẩn ấy khá nhiều nước coi tiêu chuẩn về số lao động sử dụng là quan trọng hơn.
Tiêu chuẩn phân loại doanh nghiệp là không cố địng, và chẳng những khác nhau giữa các nước mà còn thay đổi trong một nước. Trước hết, đó là sự thay đổi theo nghành, nghề. Thường thường ở nhiều nước, người ta phân biệt 3 loại nghành nghề : Một là doanh nghiệp chế tác, hai là các doanh nghiệp thương mại, ba là các doanh nghiệp dịch vụ. Trong mỗi loại nghành, nghề có tiêu chuẩn riêng về DNNVV một số nước còn phân loại nghành, nghề kỹ lưỡng hơn nữa.
Tiêu chuẩn phân loại doanh nghiệp không cố định mà thay đổi theo thời gian. Điều này rõ nhất là ở Mỹ, nơi cứ hàng năm tiêu chuẩn về DNNVV trong từng nghành, nghề đều được xem xét lại, điều chỉnh nếu cần thiết và được chính thức công bố.
Bảng1 dưới đây cung cấp tiêu chuẩn của một số nước về DNNVV.
Qua bảng này có thể thấy rằng: Để trả lời câu hỏi thế nào là DNNVV, phải thấy cả hai mặt:
+ Trong từng nước, từng nghành, từng nghề, từng thời gian, tiêu chuẩn DNVVN là rõ ràng, có tính định lượng.
+ Giữa các nước, giữa các nghành, nghề, giữa những thời điểm khác nhau, tiêu chuẩn DNNVV là tương đối, nghĩa là có một số nét chung, đồng thời cũng có những nét riêng khác nhau và có thể thay đổi.
Cũng cần nói thêm rằng ở hầu hết các nước, người ta hay nói gộp chung doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp vừa thành DNVVN, vì các Nhà Nước thường có chính sách chung cho cả hai loại doanh nghiệp đó.
Bảng 1
Nước
Phân loại
Số lao động
Vốn
Doanh thu
A.Các nền kinh tế phát triển.
1.Mỹ
Tất cả các ngành
0á500
Không
Không
2.Nhật Bản
Chế tác
Bán buôn
Bán lẻ
Dịch vụ
1á300
1á100
1á50
1á100
300 triệu Yên
0á100
0á50
0á50
Không
3.EU
DN cực nhỏ
DN nhỏ
DN vừa
<10
<50
<250
Không
Không
7 triệu Ecu
27 triệu Ecu
4.Australia
Chế tác
+DN nhỏ
+DN vừa
Dịch vụ
+DN nhỏ
+DN vừa
<100
100á199
<20
20á199
Không
Không
5.Canada
Chế tác
+DN nhỏ
+DN vừa
Dịch vụ
+DN nhỏ
+DN vừa
<100
100á500
<50
50á500
Không
<5tr CDN$
5á20
<5tr CDN$
5á20
6.New Zealand
Tất cả các ngành
0á50
7.Hàn Quốc
Chế tác
Khai mỏ và vận tải
Xây dựng
Thương mại và DV
0á300
0á300
0á200
0á20
20á80 tỷ Won
Không
Không
Không
Không
8.Đài Loan
Chế tác
Nông, lâm, ngư nghiệp và DV
0á200
0á20
80 triệu NT$
Không
Không
100 triệu NT
B.Các nền kinh tế đang phát triển.
1.Thái Lan
Sản xuất
+DN nhỏ
+DN vừa
Bán buôn
+DN nhỏ
+DN vừa
Bán lẻ
+DN nhỏ
+DN vừa
Không
0á50 triệu Baht
50á200
0á50
50á100
0á30
30á60
Không
2.Malaysia
Chế tác
0á150
Không
0á25 triệu RM
3.Mêxicô
DN cực nhỏ
DN nhỏ
DN vừa
0á15
16á100
101á250
Không
Không
4.Pêru
Không
Không
<17 triệu USD
5.Philipin
DN nhỏ
DN vừa
10á99
100á199
1,5á15tr Pêxô
15á60 tr Pêxô
Không
6.Inđônêxia
DN nhỏ
DN vừa
Không
0á20.000 USD
20.000á1trUSD
0á100100 $
100000á5tr $
7.Brunei
Tất cả các ngành
1á100
Không
Không
B.Các nền kinh tế đang chuyển đổi.
1.Nga
DN nhỏ
DN vừa
1á249
249á999
Không
Không
2.Trung Quốc
DN nhỏ
DN vừa
50á100
101á500
Không
Không
3.Hungary
DN cực nhỏ
DN nhỏ
DN vừa
1á10
10á50
50á250
Không
Không
4.Balan
DN nhỏ
DN vừa
<50
51á200
Không
Không
5.Slovakia
DN nhỏ
DN vừa
1á24
25á100
Không
Không
6.Rumani
DN nhỏ
DN vừa
1á20
Không
Không
7.Bungary
DN nhỏ
<50
20 triệu BGL
Không
8.Uzbêkistan
DN nhỏ
DN vừa
<300
300á1000
Không
Không
9.Acmenia
DN cực nhỏ
DN nhỏ
+Công nghiệp
+Vận tải
+Xây dựng
+Dịch vụ
+Bán lẻ
+Nông nghiệp
+Các LV khác
DN vừa
+Công nghiệp
+Vận tải
+Xây dựng
+Dịch vụ
+Bán lẻ
+Nông nghiệp
+Các LV khác
<5
6á50
6á20
6á25
6á15
6á20
6á10
6á20
51á100
21á40
26á50
16á25
11á40
11á25
21á40
Không
Không
Nguồn: 1. Hồ sơ các DNNVV của APEC, APEC, 1998.
2. Phát triển DNNVV của các nước đang chuyển đổi, UNECE, 1999 3. Tổng quan các DNNVV của OECD, OECD, 2000.
4.APEC và chính sách DNNVV, Chris Hall, Đại học công nghệ úc Và các tài liệu khác.
ở Việt Nam, theo Công văn số 681/CP-KTN ngày 20 tháng 6 năm 1998 của Văn Phòng Chính Phủ, DNNVV là những doanh nghiệp có vốn điều lệ duới 5 tỷ đồng (Tương đương 387600 USD vào thời điểm ban hành Công Văn số 681) và có số lao động dưới 200 ngưòi.
Dựa trên định nghĩa này, một số nhà nghiên cứu đã cụ thể hoá thêm : Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động ít hơn 50 người hoặc có tổng giá trị vốn dưới 1 tỷ đồng; doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 51 đến 200 người hoặc có tổng giá trị vốn (hoặc doanh thu) từ 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng; doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp có số lao động trên 200 người hoặc có tổng giá trị vốn (hoặc doanh thu) trên 5 tỷ đồng.
Qua thực tiễn, có thể thấy tiêu chí về DNNVV trên đây ( Theo Công Văn số 681) có những vấn đề đáng suy nghĩ sau:
-Có thể chỉ dùng một tiêu chí là lao động hoặc số vốn, bởi vì hai tiêu chí đó không luôn luôn tương thích với nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay, có những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao, số vốn hoặc doanh thu khá lớn nhưng số lao động lại rất ít, vì đó là những lao động có chuyên môn kỹ thuật cao.
-Theo kinh nghiệm của nhiều nước, nên có tiêu chí riêng cho các DNNVV hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau như thương mại, dịch vụ...Và cần có sự điều chỉnh qua từng thời gian, tuỳ thuộc vào yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước, vì mục đích của tiêu chí là để thực hiện những chính sách khuyến khích của Nhà Nước trong từng thời gian, đối với từng nghành, nghề.
-Tiêu chí hiện hành mới được qui định bằng một Công Văn của Văn Phòng Chính Phủ, tính pháp lý chưa cao cần được qui định ít nhất là bằng một Nghị Định của Chíng Phủ.
2.Vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế
Không có ngoại lệ, hầu hết tất cả các nước đều đánh giá DNNVV có vai trò và tác dụng quan trọng, thậm chí rất quan trọng.
Có lẽ chăng, là trước đây trong một số nước XHCN, do quan niệm thiếu chuẩn xác về một nước công nghiệp hiện đại, nên vai trò của DNNVV tương đối ít quan trọng hơn. DNNVV thuộc mọi hình thức sở hữu, song đúng là phần lớn thuộc khu vực dân doanh.
Vai trò của DNNVV quan trọng đến đâu và như thế nào ? ở đây cũng có những sắc thái đánh giá khác nhau tuỳ từng nước.
ở mức cao nhất, DNNVV được coi là động lực mạnh nhất và thường xuyên lâu dài qua mọi thời kỳ phát triển kinh tế – xã hội hơn cả các doanh nghiệp lớn và cực lớn. DNNVV được coi là động lực mạnh nhất hoặc một động lực mạnh trong các nước đang phát triển cao, trong các nước đang phát triển trên con đường hiện đại hoá, và trong các nước đang chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường phù hợp với định hướng chế độ xã hội ở mỗi nước.
ở mức vừa phải, thông thường DNNVV đựơc coi là một động lực mạnh, có tác dụng nhiều mặt; là sự bổ xung không thể thiếu đối với doanh nghiệp lớn.
Vai trò tác dụng về nhiều mặt đã được nhiều nhà quản lý, nhiều nhà phân tích trong nhiều tài liệu, có thể tóm tắt như sau:
Tăng GDP.
Tạo nhiều việc làm.
Xoá đói, giảm nghèo.
Đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, làm linh hoạt và thêm sống động thị trường.
Mở mang xuất khẩu.
Thúc đẩy cả công nghệ quản lý và kĩ năng con người.
Bảng 2 dưới đây tóm tắt vai trò và tác dụng của DNNVV ở một số nước khác nhau trên thế giới.
Bảng 2: Vai trò của các DNNVV tại một số nước.
Nước
% tổng số DN
% tổng số lao động
% GTGT của kv tư nhân
% trong xuất khẩu
A. các nền kinh tế phát triển
1. Mỹ (1999)
99,7%
52%
51%
31%
2. Nhật Bản
99,7%
72,7%
55,6%
13,5%
3. Anh (1999)
99,8%
55,4%
51% (trong tổng DT)
-
4. Pháp (1998)
99%
47%
-
26% (1996)
5.Australia (1997)
99,8%
50,2%
-
-
6.New Zealand (1996)
96%
42%
33%
-
7.Hàn Quốc (1997)
99,1% (Chế tác)
77,4%
46,3%
(Chế tác)
43%
8.Đài Loan (1999)
97,7%
76,39%
47,58%
47%
9.Singapore (1998)
91,5%
51,8%
34,7%
16%
b. các nền kinh tế đang phát triển
1.Thái Lan (1998)
97,9%
70%
50,4%
50%
2.Inđônêxia (1996)
98%
83,3%
38,9%
18,4%
3.Philipin (1997)
99,48%
66,21%
68,2%
60%
4.Malayxia (1996)
84%
12,17%
19,13%
15%
c. các nền kinh tế chuyển đổi
1.Trung Quốc (1998)
99%
84,3%
66,99%
(trong tổng DT)
40á60%
2.Hungary (1999)
99,8%
70,2%
54,8%
-
3.Balan (1997)
99%
60,6%
40%
62%
4.Slovakia (1998)
99%
59,4%
58%
-
5.CH Sec (1997)
-
43,6%
40%
-
Nguồn: 1. Hồ sơ các DNNVV của APEC, APEC, 1998.
2. Phát triển DNNVV của các nước đang chuyển đổi, UNECE, 1999. 3. Tổng quan các DNNVV của OECD, OECD, 2000.
4.APEC và chính sách DNNVV, Chris Hall, Đại học công nghệ úc và các tài liệu khác.
Có vai trò và tác dụng như trên là do bản chất đặc thù của DNNVV. Cả điểm mạnh và điểm yếu đều do tính chất nhỏ và vừa của doanh nghiệp. Những đặc điểm ấy được phân tích trong nhiều công trình nghiên cứu, tóm tắt sau đây:
Những điểm mạnh của DNNVV
1.Dễ khởi nghiệp, lúc ban đầu không đòi hỏi nhiều gì về mọi mặt. Một số doanh nghiệp lớn hiên nay đã khởi nghiệp từ DNNVV.
2.Giàu tính mềm mại, linh hoạt, năng động để thích ứng nhanh, thậm chí đón đầu những biến chuyển của công nghệ quản lý, nhưng dao động lâm thời từng lúc hoặc cơ bản lâu dài của thị trường, những thay đổi có khi đột ngột của môi trường thể chế, chế độ kinh tế, xã hội.
3.Đặc biệt thích nghi với việc phát huy mọi tiềm năng của địa phương và cơ sở. Có ưu thế của sự gần kề với các nguồn lực đầu vào (lao động, tài nguyên, nguồn vốn tại chỗ) và với thị trường tiêu thụ. Sự “gần kề” này (proximity) là một lợi thế so sánh lớn để cạnh tranh ngay trong thời đại toàn cầu hoá, được nghiên cứu về khoa học và vận dụng nhiều thực tế ở các nước.
4.Giàu hơn về những hiệu quả tràn ra ngoài tích cực và ít hơn hẳn về những tích cực và ít hơn hẳn về những hiệu quả tràn ra ngoài tiêu cực so với doanh nghiệp lớn.
5.Thuận lợi để kết hợp kinh tế với công bằng xã hội, để thể hiện trong kinh tế bản sắc văn hoá dân tộc và những nét riêng ưu trội của địa phương.
6.Là sự bổ sung thiết yếu cho chính sự sinh tồn và phát triển của các doanh nghiệp lớn. Về nghiên cứu- triển khai, có thể là nơi thử nghiệm những đổi mới, phát minh, sáng chế. Về sản sản xuất, là người đảm nhiệm có hiệu quả cao những công đoạn cả ở phần đầu, phần giữa và phần cuối của quá trình chế tác, mà doanh nghiệp lớn không cần và không nên làm. Về phía dịch vụ, với ưu thế của sự “ gần kề”, tạo nên những hiểu biết qua tiếp xúc trong ” thế giới thực” với khách hàng. Về thương mại, DNNVV có tính cơ động, nhanh nhậy thâm nhập vào những thị trường tốt và rút lui khỏi những thị trường xấu, từ những thị trường nghách đến những thị trường lớn.
Những điểm yếu của DNNVV
1.Thiếu nguồn lực để tiến hành những công trình nghiên cứu. Triển khai lớn, đáp ứng yêu cầu và tận dụng khả năng của cách mạng khoa học và công nghệ.
2.Không đủ sức thực hiện những dự án lớn về đầu tư về chuyển đổi cơ cấu, về tiếp thị, về đào tạo… để theo kịp, thúc đẩy và tận thu lợi ích của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế.
3.Không có ưu thế của kinh tế qui mô (ecomomy of scale), tức là những thành quả và lợi ích đặc biệt mà chỉ từ một qui mô thích hợp (thường là đủ lớn) thì mới là có được. DNNVV là ”mèo nhỏ”, nên chỉ làm và chỉ bắt được ”chuột con”.
4.Nói chung vẫn lép vế trong các mối quan hệ (với Nhà nước, với thị trường, với ngân hàng, với các trung tâm khoa học, với giới báo chí, với đối tác, đối thủ, với khách hàng…). Thậm chí, thường phải dựa cậy và phụ thuộc vào các doanh nghiệp lớn, như doanh nghiệp con của doanh nghiệp mẹ, như chân rết ngoại vi của trung tâm.
5.Thiếu sức phòng, tránh và chống các rui ro, thường xuyên có nhiều, rất nhiều DNNVV ra đời, thì cũng có nhiều, rất nhiều DNNVV phá sản.
6.Ngay trong trường hợp thực tế là và được công nhận là động lực chính hoặc động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế, DNNVV rất khó tự tập hợp hoặc được tập hợp thành lực lượng thống nhất và rất mạnh để có thể có thể có vị thế chi phối về kinh tế-xã hội và chính trị. Nói chung, DNNVV là” người ăn theo” chứ không phải là người đề xuất, là người tuân lệnh chứ không phải là người ra lệnh (về điểm này) hiện nay trên thế giới và nhiều nước còn có sự tranh cãi.
Khi đánh giá DNNVV cần tránh sự thiên lệch, hoặc quá nặng về những điểm mạnh hoặc quá nặng về những điểm yếu. Thấy đúng, thấy rõ mặt mạnh để phát huy và thấy đúng, thấy rõ mặt yếu để tìm cách khắc phục, đó là sự đánh giá cần thiết để có chính sách và hành động sáng suốt, có hiệu quả cao.
3.Quan hệ giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn
Nếu nói một cách đơn giản, thì đó là mối quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh tranh, với những phương pháp phức tạp do sự cùng tồn tại trong các tổ hợp sản xuất, kinh doanh khổng lồ hoặc các cụm kinh tế có tầm cỡ quốc gia hoặc toàn cầu.
Đại thể của mối quan hệ đó là: Doanh nghiệp lớn vừa giúp đỡ, hướng dẫn, sử dụng vừa kiềm chế, chèn ép, thậm chí bãi bỏ (thủ tiêu DNNVV); còn DNNVV thì vừa tranh thủ sự giúp đỡ, hợp tác, vừa thủ thế, giành giật đối với doanh nghiệp lớn. Động cơ ở đây chính là lợi nhuận, cuộc đấu tranh để sinh tồn và phát triển vì lợi nhuận trong kinh tế thị trường.
Phân tích cụ thể hơn có thể thấy mối quan hệ trên đây diễn biến nhiều hình vẻ, nhiều mức độ, nhiều phạm vi, có lúc nặng hơn về hợp tác, có lúc nặng hơn về cạnh tranh, do tác động của mấy yếu tố sau:
1.Tuỳ ở chỗ DNNVV là doanh nghiệp độc lập hay là doanh nghiệp con, nằm trong tổ chức của doanh nghiệp lớn.
2.Tuỳ ở chỗ DNNVV thuộc nghành sản suất, nghành kinh doanh, nghành dịch vụ nào, hoạt động trên thị trường nào (chú ý rằng mối quan hệ của DNNVV với doanh nghiệp lớn cùng nghành, cùng thị trường có khá nhiều mối quan hệ của DNNVV với doanh nghiệp lớn khác nghành, khác thị trường).
3.Tuỳ ở mục tiêu, chiến lược, phương pháp và tài năng xoay sở của doanh nghiệp lớn cũng như của DNNVV. Nói rõ hơn cả hai bên giống nhau hoặc mỗi bên khác nhau trong sự lựa chọn, và có khả năng đến đây để thực hiện sự lựa chọn ấy: giành giật hay là cộng tác, hay là pha trộn cả hai.
4.Tuỳ ở chính sách Nhà nước và tác động của dư luận xã hội tại từng nước, dẫn đến chỗ thị trường được hướng dẫn đúng hay sai, bị bóp méo nhiều hay ít, mặt tích cực được phất huy và mặt tiêu cực được khắc phục thế nào.
Như vậy, về quan hệ giữa DNNVV với doanh nghiệp lớn, trên cơ sở một số không nhiều các nét chung dễ nhận thấy, cần phải phân tích cụ thể với từng thời kỳ, từng quốc gia, từng ngành, từng vùng, từng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, ngay dù chỉ vì mục đích thu thật nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp lớn và DNNVV đều cần đến nhau. Dù giỏi kìm chế và chèn ép đến đâu, doanh nghiệp lớn cũng không thể thủ tiêu hết DNNVV, chính từ lợi ích của bản thân mình. Cũng như vậy, dù giỏi xoay sở và giành giật đến đâu, DNNVV cũng không thể thay thế được, càng không thể loại bỏ được doanh nghiệp lớn, chính từ yêu cầu tồn tại của bản thân mình. Cả hai loại doanh nghiệp là những bộ phận hợp thành không thể thiếu của một nền kinh tế ở thế kỷ 21.
II. Chính sách phát triển hệ thống DNNVV
1. Khái niệm chính sách và chính sách phát triển các DNNVV
Trước hết, ta cần hiểu thế nào là”chính sách”. Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên báo chí, các phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế- xã hội đều có những chính sách của mình. Ví dụ, có chính sách của các cá nhân, chính sách của doanh nghiệp , chính sách của Đảng, chính sách của một quốc gia, chính sách của một liên minh các nước hay tổ chức quốc tế .v.v..
Theo quan điểm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại.
Tuyên bố chính sách có nghĩa là một tổ chức hay một cá nhân đã quyết định một cách thận trọng và có ý thức cách giải quyết những vấn đề tương tự.
Chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định. Chúng vạch ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở những nhà quản lí quyết định nào là có thể và những quyết định nào là không thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiên các mục tiêu chung của tổ chức.
Chính sách kinh tế- xã hội (chính sách công), xét theo nghĩa rộng, là tổng thể các quan điểm tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước.
Chính sách theo quan niệm trên là đường nối phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. ở Việt Nam, đường nối do Đảng Cộng Sản Việt Nam- lực lượng chính trị lãnh đạo Nhà nước và xã hội xây dựng.
Theo nghĩa hẹp, có nhiều khái niệm khác nhau về chính sách phát triển kinh tế- xã hội (chính sách công) được đưa ra. Nhìn chung lại, ta có thể đưa ra khái niệm cơ bản sau: chính sách kinh tế- xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động nên các chủ thể kinh tế- xã hội nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.
Từ những quan điểm về chính sách nói chung và chính sách kinh tế- xã hội (chính sách công) nói riêng, ta có thể rút ra khái niệm về chính sách phát triển hệ thống DNNVV ở Việt Nam như sau: Chính sách phát triển hệ thống DNNVV là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để nhằm khuyến khích, thúc đẩy sự phát triển của các DNNVV, góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả cho hệ thống các doanh nghiệp này, nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Nói cách khác, chính sách phát triển DNNVV là sự thể chế hoá pháp luật của Nhà nước đối với các vấn đề về các DNNVV, là hệ thống các quan điểm, phương hướng, mục tiêu và các giải pháp nhằm phát triển hệ thống này.
2.Nội dung của chính sách:
Chưa bao giờ và không ở đâu sự phát triển của DNNVV lại chỉ do bàn tay vô hình, tức là sự hoạt động tự phát của thị trường, ở mọi quốc gia và trong mọi thời kỳ, bàn tay hữu hình luôn luôn hiện hữu, tức là tác động của Nhà nước rất quan trọng, rất cơ bản, thậm chí có tính quyết định. Đối với toàn bộ khu vực DNNVV, Nhà nước là người khởi xướng, ngưòi khuyến khích, người giúp đỡ, người bảo vệ, người cứu trợ (khi khó khăn) người điều tiết thoả đáng (khi cần thiết).
Hầu hết các Nhà nước chẳng những đối xử với DNNVV bình đẳng như với doanh nghiệp lớn, mà còn dành ưu đãi rõ rệt cho DNNVV, với nhận thức đúng đắn rằng sự bất bình đẳng có lợi cho DNNVV là dân chủ, là con đường và biện pháp tốt để thực hiện bình đẳng xã hội.
Bàn tay hữu hình của Nhà nước thể hiện qua hệ thống luật lệ của Nhà nước, từ chính quyền trung ương đến chính quyền địa phương và chính quyền cơ sở, có thể hiện hữu ngay trong hiến pháp, và từ hệ thống luật lệ toả ra trong mọi công việc mà Nhà nước tiến hành.
Tóm tắt những chính sách thể hiện trong luật lệ của Nhà nước về DNNVV là như sau:
1. Tạo dễ dàng việc khởi nghiệp và việc hành nghề của DNNVV.
2. Cho vay vốn với điều kiện thuận lợi( như Nhà nước góp phần thế chấp hoặc bảo lãnh) với lãi suất thấp, với ân hạn dài, với sự trợ giúp khi gặp khó khăn trong việc trả nợ.
3. Cho hưởng nhiều ưu đãi về thuế.
4. Chuyển giao và giúp làm chủ công nghệ và quản lý tiên tiến.
5. Giúp đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, từ giám đốc đến kĩ thuật viên, nhân viên quản lý, kế toán và công nhân hành nghề.
6. Cho nhận thầu công việc sản xuất, kinh doanh; cho đảm nhận từng dự án hoặc bộ phận dự án kinh tế ( của Nhà nước ); cho hạn ngạch hoặc tỷ phần trong việc cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ cho thị trường trong nước và cho xuất khẩu. 7. Giúp tiếp cận thị trường, cung cấp thông tin kịp thời và chuẩn xác về thị trường, cho tham gia nhiều hình thức thiết lập và phát triển quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước.
8. Đặc biệt chăm sóc và giúp đỡ:
+ Các DNNVV nhiều triển vọng
+ Các DNNVV bị thiệt thòi hoặc gặp nhiều khó khăn
+ Các DNNVV do phụ nữ làm chủ
+ Các DNNVV trong một số nghành và vùng ưu tiên v.v...
9. Hoạch định, thông qua và thực hiện những chiến lược trung hạn và dài hạn, những chương trình quốc gia từng năm hoặc vài năm về phát triển DNNVV.
10. Theo dõi tình hình, thường thì làm thống kê riêng về DNNVV, kiểm điểm việc thực hiện các luật lệ, chiến lược và chương trình nói trên, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề nảy sinh để phát triển DNNVV.
11. Lập cơ quan Nhà nước chuyên trách về DNNVV, có nơi là cơ quan cấp bộ hoặc là một bộ trong Chính Phủ.
12. Giúp thành lập và hoạt động có hiệu quả của các hiệp hội DNNVV. Dành cho các hiệp hội ấy cơ hội và vị trí đích đáng trong các Hội đồng, các Uỷ ban, các hội nghị quan trọng của Nhà nước để hoạch định các chính sách kinh tế quốc gia.
Qua nghiên cứu luật lệ của nhiều nước, thì rõ ràng mỗi nước bắt đầu từ một số luật lệ nhằm vào những vấn đề bức xúc và quan trọng nhất của sự phát triển DNNVV, do vậy còn chưa hoàn thiện và chưa đầy đủ, rồi từng bước các luật lệ đó được bổ sung hoàn chỉnh dần, đến khi bao quát khắp các mặt như vừa giới thiệu trong 12 diều nêu trên.
Sự khác nhau giữa các nước chủ yếu là ở mức độ khuyến khích, ưu đãi, giúp đỡ nhiều hay ít, cao hay thấp đối với DNNVV, và một phần nữa là ở một số biện pháp khuyến khích cụ thể, có nét riêng biệt của từng nước.
3.Chính sách phát triển DNNVV ở một số nước
a. Một số chính sách phát triển DNNVV chủ yếu của Nhật Bản
Hình thức tổ chức doanh nghiệp của Nhật Bản ra đời cách đây hơn 100 năm với hai loại hình chính:
1. Hình thức tổ chức kiểu ”cái ô”, công ty mẹ được phân thành hệ thống các công ty con có quan hệ với công ty mẹ theo hình cái ô; mỗi công ty con chịu trách nhiệm sản xuất một số phụ tùng chuyển về công ty mẹ lắp ráp hoàn chỉnh sản phẩm.
2. Hình thức tổ chức ”mắt xích”, tập đoàn sản xuất bao gồm nhiều công ty được liên kết với nhau theo kiểu mắt xích. Cả hai hình thức tổ chức doanh nghiệp nêu trên đều phù hợp với loại hình DNNVV, do vậy loại hình doanh nghiệp này ở Nhật Bản đã phát triển từ rất sớm. Trong lịch sử phát triển hơn 50 năm, khu vực DNNVV đã khẳng định vai trò của mình trong đời sống kinh tế- xã hội Nhật Bản, góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước này. Đạt được những thành tựu như trên của DNNVV phải kể đến vai trò to lớn của Chính Phủ Nhật Bản.
Trong thời kỳ phát triển của nền kinh tế đất nước, Nhà nước Nhật Bản đã ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển khu vực DNNVV. Những thay đổi về chính sách nhằm đặt khu vực DNNVV vào vị trí phù hợp nhất và khẳng định tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế. Ngay trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ II, Chính Phủ Nhật Bản đã tiến hành cải thiện các công cụ cơ bản về các chính sách đối với DNNVV. Trong thời kỳ tăng trưởng nhanh của nền kinh tế(1955- 1972), Chính Phủ tập trung vào việc hệ thống hoá và hiện đại hoá các chính sách phát triển DNNVV. Thời kỳ tăng trưởng ổn định(1973- 1984), các chính sách phát triển DNNVV tập trung vào tăng cường tri thức và tăng cường các nguồn lực quản lý vô hình cho DNNV. Thời kỳ chuyển đổi (từ năm 1985 đến nay), các chính sách tập trung vào việc thay đổi cơ cấu và tích tụ công nghiệp, trợ giúp thành lập doanh nghiệp mới và các hoạt độmg kinh doanh mới.
Xét một cách tổng quát, các chính sách phát triển DNNVV của Nhật Bản tập trung vào các mục tiêu chủ yếu sau đây: thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của các DNNVV; tăng cường lợi ích kinh tế và xã hội của các doanh nghiệp và người lao động tại DNNVV; khắc phục những bất lợi mà các DNNVV gặp phải; và hỗ trợ tính tự lực của các DNNVV. Dưới đây là các nội dung chủ yếu của các chính sách đó:
* Cải cách pháp lý:
Trong những năm qua, hàng loạt các luật về DNNVV đã được ban hành nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động của khu vực doanh nghiệp này. Đặc biệt, trong những năm gần đây, việc cải cách môi trường pháp lý được coi là một ưu tiên hàng đầu của Nhà nước Nhật Bản.
Luật cơ bản về DNNVV mới được ban hành năm 1999 trợ giúp cho việc cải cách cơ cấu để tăng tính thích nghi của DNNVV với những thay đổi của môi trường kinh tế- xã hội, tạo thuận lợi cho việc tái cơ cấu công ty. Các luật tạo thuận lợi cho thành lập doanh nghiệp mới và luật trợ giúp DNNVV đổi mới trong kinh doanh khuyến khích mạnh mẽ việc thành lập các doanh nghiệp mới, tăng nguồn cung ứng vốn rủi ro, trợ giúp về công nghệ và đổi mới. Luật xúc tiến các hệ thống phân phối có hiệu quả ở DNNVV trợ giúp cho việc tăng cường sức cạnh tranh trong lĩnh vực bán lẻ thông qua công nghệ thông tin và xúc tiến khu vực bán hàng. Một hệ thống cứu tế tương hỗ cũng đã được thiết lập nhằm hạn chế sự phá sản của DNNVV.
* Hỗ trợ về vốn:
Các biện pháp trợ giúp vốn được sắp đặt bởi ba thể chế tài chính thuộc Chính Phủ: công ty đầu tư kinh doanh nhỏ, Ngân hàng hợp tác trung ương về thương mại, công nghiệp và Công ty Đầu tư an toàn quốc gia. Trợ giúp có thể dưới dạng các khoản cho vay thông thường với lãi suất cơ bản hoặc các khoản vay đặc biệt với những ưu đãi theo các mục tiêu chính sách.
+Theo hệ thống trợ giúp tăng cường cơ sở quản lý của các DNNVV ở từng khu vực, các khoản vay được thực hiện tuỳ theo điều kiện của khu vực thông qua một quỹ được góp chung bởi chính quyền trung ương và các chính quyền địa phương và được ký quỹ ở một thể chế tài chính tư nhân.
+Kế hoạch cho vay nhằm cải tiến quản lý của các doanh nghiệp nhỏ (kế hoạch cho vay Marukei) được áp dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ, không đòi hỏi phải có thế chấp hoặc bảo lãnh.
+Hệ thống bảo lãnh tín dụng nhận bảo lãnh các DNNVV vay vốn tại các thể chế tài chính tư nhân. Còn hiệp hội bảo lãnh tín dụng có chức năng mở rộng các khoản tín dụng bổ xung và các bảo lãnh tín dụng cho các DNNVV. Hệ thống bảo lãnh đặc biệt, đã hoạt động từ năm 1998, có chức năng như một mạng lưới an toàn, nhằm giảm nhẹ những rối loạn về tín dụng và góp phần làm giảm các vụ phá sản của DNNVV.
+Công ty TNHH tư vấn và đầu tư DNNVV (SBIC), thành lập năm 1963, đã thực hiện nhiều kế hoạch và chương trình đầu tư trợ giúp DNNVV nhằm góp vốn cổ phần, đặc biẹt đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đầu tư cho các công ty R&D và các công ty đã trưởng thành.
*Trợ giúp về công nghệ và đổi mới:
Các DNNVV có thể được hưởng các chính sách trợ giúp cho các hoạt động R&D hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mới dựa trê._.n công nghệ. Các khoản trợ cấp, bảo lãnh vốn vay và đầu tư trực tiếp cho DNNVV được tiến hành theo các qui định của luật xúc tiến các hoạt động sáng tạo của DNNVV. Các DNNVV thực hiện các hoạt động kinh doanh mang tính chất đổi mới muốn tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phần hoặcc trái phiếu công ty được trợ giúp bởi các quỹ rủi ro thuộc các địa phương. Còn hệ thống nghiên cứu đổi mới kinh doanh nhỏ Nhật Bản (SBIR) cung cấp tài chính cho các DNNVV có hoạt động kinh doanh mang tính đổi mới trong các giai đoạn đầu thiết kế sản phẩm hoặc các qui trình sản xuất mới. Để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua áp dụng công nghệ thông tin, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực truyền bá thông tin và ứng dụng các phần mềm tin học được trợ giúp bởi chính quyền các điạ phương, bao gồm các dịch vụ tư vấn và "dịch vụ phát triển doanh nghiệp kiểu mẫu".
*Trợ giúp về quản lý:
Hoạt động tư vấn và quản lý kinh doanh được thực hiện thông qua hệ thống đánh giá DNNVV. Mỗi quận, huyện và chính quyền của 12 thành phố lớn đánh giá các điều kiện quản lý của DNNVV, đưa ra những kiến nghị cụ thể và cung cấp các hướng dẫn.
Việc quản lý kinh doanh nhỏ và công nghệ thực hiện các chương trình đào tạo cho các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật của DNNVV và đội ngũ nhân sự của các quận, huyện. Việc tăng cường tiếp cận thông tin của DNNVV là một ưu tiên của chính phủ. Sách trắng về DNNVV được xuất bản hằng nằm chứa đựng nhiều thông tin về khu vực doanh nghiệp này dựa trên các cuộc điều tra về thực trạng trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp.
*Xúc tiến xuất khẩu:
Chính phủ Nhật Bản cung cấp những hướng dẫn và dịch vụ thông tin cho DNNVV nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Chương trình môi giới và tư vấn kinh doanh tạo cơ hội cho các DNNVV của Nhật Bản cũng như của nước ngoài có thể đăng ký trực tiếp vào cơ sở dữ liệu trên mạng Internet và quảng cáo các loại liên kết kinh doanh hoặc liên minh chiến lược mà các doanh nghiệp đang tìm kiếm.
b. Chính sách của Chính Phủ hướng dẫn và trợ giúp DNNVV ở Đài Loan
Đài Loan được coi là vương quốc của các DNNVV. Sự tăng trưởng kinh tế siêu tốc của Đài Loan trong thập kỷ vừa qua gắn liền với những đóng góp to lớn về mọi mặt của các DNNVV, đặc biệt trên hai lĩnh vực quan trọng là tạo việc làm và xuất khẩu. Trong cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ Châu á vừa qua, những tương phản giữa sự thích ứng trôi chảy của nền kinh tế Đài Loan với sự sụp đổ của nền kinh tế dựa trên các tập đoàn lớn (Cheabol) của Hàn Quốc lại càng làm nổi bật thêm những ưu điểm của hệ thông kinh tế dựa trên DNNVV của hòn đảo này.
*Khuôn khổ hệ thống chính sách DNNVV của Đài Loan:
Có thể nói rằng những chính sách trợ giúp DNNVV của Đài Loan đã khá thành công, mà kết quả cuối cùng là những đóng góp to lớn của khu vực DNNVV vào quá trình phát triển kinh tế " thần kỳ " của hòn đảo này. Trong báo cáo " sự thần kỳ Đông á ", ngân hàng thế giới đã cho rằng chính sách DNNVV của Đài Loan là chính sách DNNVV tốt nhất trong khu vực Đông á.
Cho tới nay, Đài Loan đã hình thành được một hệ thống chính sách và biện pháp trợ giúp DNNVV tương đối toàn diện và có tính ổn định cao. Hệ thống này đã được thể chế hoá bởi văn bản " Đại cương các chính sách nhằm vào các DNNVV "do Cục quản lý DNNVV ban hành. Theo văn bản này, khuôn khổ chính sách và biện pháp trợ giúp DNNVV của Đài Loan tập trung vào 3 nhóm lớn sau:
+Xây dựng môi trường kinh doanh tối ưu:
Các chính sách:
Duy trì sự cạnh tranh công bằng và hợp lý.
- Trợ giúp các DNNVV về các nhân tố sản xuất như nhân lực, công nghệ thông tin.
Cải thiện hệ thống tài chính cho các DNNVV.
Trợ giúp các DNNVV tham gia vào việc mua sắm của Chính Phủ.
Giúp DNNVV cải thiện điều kiện lao động và môi trường.
+Thúc đẩy sự hợp giữa các DNNVV và giữa các DNNVV với các doanh nghiệp lớn.
Các chính sách:
Thúc đẩy những giao dịch nội ngành và liên ngành.
- Thực hiện những dự án thúc đẩy hợp tác như kế hoạch doanh nghiệp trung tâm- vệ tinh, thúc đẩy các hệ thống marketing chung và các quĩ trợ giúp lẫn nhau.
- Trợ giúp sự phát triển của các tổ chức hợp tác: thúc đẩy các liên minh chiến lược, các dạng thoả thuận đồng sản xuất và kế hoạch kinh doanh theo dây chuyền.v.v…
Thúc đẩy việc sử dụng các phương tiện sản xuất.
Thúc đẩy sự hợp tác giữa các kinh doanh địa phương.
+Thúc đẩy sự tăng trưởng độc lập của doanh nghiệp.
Các chính sách:
Trợ giúp các DNNVV tối ưu hoá quản lý.
Trợ giúp sự phát triển của nguồn nhân lực.
Thúc đẩy các hãng hoạt động ở nước ngoài.
Trợ giúp việc thành lập doanh nghiệp mới.
Giúp các hãng thay đổi với những thay đổi của cấu trúc công
nghiệp.
Cung cấp một hệ thống hướng dẫn toàn diện dành cho DNNVV.
* Một số biện pháp trợ giúp DNNVV hiện hành của Đài Loan:
+Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý trợ giúp cho sự phát triển của các DNNVV.
Trong các năm gần đây, Đài Loan đang xúc tiến sửa đổi một số luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các DNNVV. Gần đây Chính Phủ Đài Loan đã thành lập " Nhóm đặc trách thúc đẩy DNNVV " có chức năng soát xét và kiến nghị sửa đổi luật lệ để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các DNNVV. Nhóm đặc trách này cũng được quyền tham gia và góp ý vào quá trình soạn thảo mọi văn bản luật và qui định có liên quan tới các DNNVV. Dựa trên việc tiến hành thu thập ý kiến của giới chủ DNNVV, nhóm đặc trách này thực hiện các báo cáo định kỳ về việc xây dựng và sửa đổi các luật lệ và qui định của Chính Phủ và thuê chuyên gia đánh giá tác động của các luật và qui định này.
Tóm lại, Đài Loan coi việc soát xét và sửa đổi các luật lệ để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh sản xuất của các DNNVV là một biện pháp thường xuyên và có tầm quan trọng hàng đầu trong việc trợ giúp các DNNVV.
+Các biện pháp trợ giúp tài chính cho các DNNVV.
Các thể chế quan trọng có chức năng trợ giúp tài chính cho các DNNVV ở Đài Loan bao gồm: Quỹ Bảo Lãnh Tín Dụng cho DNNVV, Quỹ Bảo Lãnh Tương Hỗ, Quỹ Phát Triển DNNVV và Tập Đoàn Phát Triển DNNVV.
Ngoài ra các DNNVV còn được nhận những khoản vay đặc biệt nhằm vào các mục đích như giảm ô nhiễm môi trường, giảm chi phí hoạt động và trợ giúp để có được đất đai thông qua nhiều quỹ đặcbiệt của Chính Phủ.
+Các hệ thống hướng dẫn ( tư vấn) dành cho các DNNVV.
Đài Loan đang xúc tiến thực hiện 10 hệ thống hướng dẫn chính cho các DNNVV. Các hệ thống này tạo thành một hệ thống hướng dẫn dày đặc, với Cục quản lý DNNVV chịu trách nhiệm điều phối tổng thể, cung cấp thông tin, hướng dẫn chuẩn đoán ngắn hạn, cung cấp hướng dẫn cho từng trường hợpv.v…Trong năm 2000, 10 hệ thống này đã thực hiện xấp xỉ 100 kế hoạch hướng dẫn, với trên 1000 doanh nghiệp được hưởng lợi từ doanh nghiệp này. Mười hệ thống hướng dẫn này bao gồm: (1) Hệ thống hướng dẫn tài chính và tín dụng, (2) Hệ thống hướng dẫn quản lý, (3) Hệ thống hướng dẫn công nghệ, (4) Hệ thống hướng dẫn nghiên cứu và phát triển, (5) Hệ thống hướng dẫn quản lý thông tin, (6) Hệ thống hướng dẫn an toàn công nghiệp, (7) Hệ thống hướng dẫn quản lý ô nhiễm, (8) Hệ thống hướng dẫn marketing, (9) Hệ thống hướng dẫn hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau và Hệ thống hướng dẫn nâng cao chất lượng.
Bên cạnh 10 hệ thống hướng dẫn đó, Đài Loan gần đây đã thành lập thêm các tổ chức hướng dẫn mới dành cho các DNNVV, đó là các trung tâm dịch vụ DNNVV ở các địa phương, Trung tâm giải đáp nhanh, Trung tâm đào tạo DNNVV v.v… Nói chung, các DNNVV Đài Loan có rất nhiều kênh để nhận được sự trợ giúp về thông tin, về đào tạo, về kỹ thuật, giúp họ có thể ngày càng gia tăng sức cạnh tranh.
+ Hệ thống doanh nghiệp trung tâm vệ tinh.
Hệ thống doanh nghiệp trung tâm- vệ tinh (CSPS) là một trong những chính sách trợ giúp DNNVV quan trọng của Đài Loan. Mục tiêu của việc tạo dựng hệ thống này là nhằm giảm chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách phát triển những quan hệ hữu cơ các công ty lớn và các công ty nhỏ. Chính sách này được bắt đầu khởi xuớng từ năm 1984, với một cơ quan chuyên trách của Chính Phủ chịu trách nhiệm thực hiện.
Có nhiều dạng hợp tác CSPS khác nhau, trong đó các doanh nghiệp trung tâm có thể là các doanh nghiệp lớn hay là các doanh nghiệp nhỏ. Những hệ thống này đã tạo điều kiện đẩy sâu thêm những quan hệ liên kết theo chiều dọc và chiều ngang vốn đã rất chặt chẽ với các doanh nghiệp Đài Loan.
*Định hướng chính sách DNNVV hiện nay và sắp tới của Đài Loan
ở tầm vĩ mô, Đài Loan cho rằng toàn cầu hoá và công nghệ cao là hai sức ép lớn nhất đối với các DNNVV của hòn đảo này. Do vậy, theo Cục quản lý kinh doanh nhỏ của Đài Loan, những nỗ lực chính sách DNNVV trong thời gian tới sẽ tập trung vào:
- Tạo một môi trường chính trị và kinh tế vĩ mô ổn định.
- Tạo ra một môi trường hoạt động lành mạnh cho các DNNVV.
- Hạ thấp các hàng rào ra nhập thị trường. Sự can thiệp của Chính Phủ chỉ cần thiết để duy trì môi trường tự do cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
- Thiết lập một hệ thống kết cấu hạ tầng cần thiết để sản sinh và truyền bá tri thức.
- Tạo điều kiện cho việc thiết lập các cụm DNNVV.
- Khai thác tối đa những cá nhân có năng lực cao.
- Thúc đẩy các thị trường vốn cho các DNNVV, trong đó đặc biệt khuyến khích các DNNVV niêm yết trên thị trường chứng khoán.
- Thiết lập môi trường phần cứng và phần mềm cho thương mại điện tử.
- Trợ giúp cho các DNNVV thông qua bảo lãnh vốn, trợ giúp kỹ thuật và các hệ thống hướng dẫn. Tuy nhiên, do số lượng khổng lồ của các DNNVV, những biện pháp này sẽ chỉ có tác dụng hạn chế.
c. Các chính sách trợ giúp DNNVV của Thái Lan
Trong quá khứ, Thái Lan hầu như không có chính sách trợ giúp các DNNVV. Tuy nhiên, chuyển từ thái cực này sang thái cực khác, hiện nay chính sách DNNVV đang trở thành một hệ thống tiêu điểm của hệ thống chính sách cải cách kinh tế của Thái Lan kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997. Các DNNVV được coi là những động cơ chủ chốt cho quá trình hồi phục từ khủng hoảng của đất nước này.
Quá trình hoạch định chính sách này của Thái Lan có thể mang tới nhiều gợi ý hữu ích đối với những nước cũng đang bắt đầu phát triển. Các chính sách trợ giúp DNNVV Việt Nam dưới đây là kinh nghiệp và bài học của việc bước đầu hoạch định chính sách DNNVV của Thái Lan.
Từ giữa năm 1998, Bộ Công Nghiệp đã kiến nghị cần soạn thảo một văn bản luật về DNNVV. Kiến nghị này đã được Chính Phủ Thái Lan phê duyệt về nguyên tắc vào tháng 12- 1998. Sau đó, Bộ Công Nghiệp đã tiến hành soạn thảo "dự luật xúc tiến DNNVV " và được quốc hội thông qua vào 12-1-2000. Bộ luật này là cơ sở dể ban hành những chiến lược và chính sách cụ thể về DNNVV. Bộ luật này cũng đã qui định thành lập một ủy Ban cao cấp do thủ tướng làm chủ tịch để điều phối trợ giúp các DNNVV. Tiếp theo việc ban hành luật, Chính Phủ Thái Lan đã thông qua " Kế hoạch lớn nhằm phát triển DNNVV" ( Kế hoạch này được soạn thảo bởi Bộ Tài Chính) và hiện nay đã gấp rút soạn thoả "Kế hoạch hành động nhằm phát triển DNNVV. Trước đó, Bộ Công Nghiệp Thái Lan đã đưa ra "Chiến lược "ấp ủ"" và tăng cường các DNNVV công nghiệp trong thời kỳ 5 năm 1998- 2002.
Trọng tâm của các chính sách trợ giúp DNNVV của Thái Lan là phát triển mạng lưói trợ giúp công nghiệp phục vụ xuất khẩu với mục tiêu chính là phục vụ cho chiến lược phục hồi sau khủng hoảng của Thái Lan dựa trên phát triển xuất khẩu và thu hút đầu tư của nước ngoài. Dưới đây là nội dung chính của chính sách DNNVV mới được ban hành của Thái Lan:
*Củng cố mạng lưới thể chế chuyên trách về DNNVV:
-Thành lập ủy Ban quốc gia về khuyến khích DNNVV với Thủ tướng làm Chủ tịch, Bộ Trưởng Bộ công nghiệp làm phó Chủ tịch. ủy Ban này có trách nhiệm đặt ra các chính sách và chương trình khuyến khích các DNNVV và sửa đổi các luật có liên quan.
-Thành lập ủy Ban khuyến khích DNNVV (SMEPO), một cơ quan độc lập trực tiếp thuộc Thủ tướng Chính Phủ, nhiệm vụ của ủy Ban này là soát xét định nghĩa về DNNVV, đưa ra các chính sách, biện pháp khuyến khích DNNVV và quản lý quỹ phát triển DNNVV. ủy Ban này có trách nhiệm chuẩn bị " sách trắng hàng năm về DNNVV Thái Lan " đệ trình Thủ tướng.
-Thành lập "Quĩ phát triển DNNVV" trực thuộc SMEPO. Quĩ này được cấp vốn hàng năm bởi Chính Phủ, được trợ giúp bởi khu vực tư nhân, các Chính Phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế.
-Chuyển dần chức năng hoiạch định chính sách DNNVV từ Bộ Công Nghiệp sang Bộ Tài Chính.
-Thành lập Viện nghiên cứu DNNVV, củng cố các tổ chức như Tập đoàn bảo lãnh tín dụng kinh doanh nhỏ, Tập đoàn tài chính kinh doanh nhỏ, Hiệp hội công nghiệp.
*Hoạch định kế hoạch lớn phát triển DNNVV:
"Kế hoạch lớn phát triển DNNVV" bao gồm 7 chiến lược cơ bản để trợ giúp các DNNVV. Mỗi chiến lược cơ bản này lại bao gồm nhiều biện pháp cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu chung của chiến lưọc.
Chiến lược 1: Nâng cấp năng lực kỹ thuật và quản lý của các DNNVV.
Chiến lược 2: Phát triển doanh nhân và nguồn lực con người của các DNNVV.
Chiến lược 3: Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường của các DNNVV.
Chiến lược 4: Tăng cường hệ thống trợ giúp các DNNVV.
Chiến lược 5: Cung cấp môi trường kinh doamh thuận lợi hơn.
Chiến lược 6: Phát triển các doanh nghiệp cực nhỏ và các doanh nghiệp cộng đồng.
Chiến lược 7: Phát triển các mạng lưới và các cụm DNNVV.
*Xác định các nhóm ngành cần phải nhanh chóng phát triển mạng lưới DNNVV.
Chính Phủ Thái Lan đã chỉ ra 10 ngành cần phải nhanh chóng phát triển mạng lưới các DNNVV, được chia ra làm hai nhóm:
-Nhóm thứ 1: Gồm 5 ngành mà sự phát triển các DNNVV là cực kỳ quan trọng và cấp bách, bao gồm các ngành: lương thực và thức ăn gia súc; dệt may; sản phẩm nhựa; thiết bị điện tử và điện tử; ôtô và bộ phận ôtô.
-Nhóm thứ 2: Gồm 5 ngành mà sự phát triển của các DNNVV là quan trọng vừa phải, bao gồm các ngành: sản phẩm da và giầy dép; sản phẩm gỗ; cao su và sản phẩm cao su; gốm và kính; đá qúi và đồ trang sức.
Mười ngành này là những ngành công nghiệp có định hướng xuất khẩu, có kết cấu hạ tầng tương đối tốt và có giá trị tăng cao.
*Hoạch định chương trình hành động nhằm phát triển các DNNVV (dự thảo).
Dự thảo của chương trình này đề ra 18 biện pháp cần phải thực hiện trong thời gian tới để phát triển các DNNVV:
1.Trợ giúp Tài chính cho các DNNVV.
2.Thành lập và phát triển thị trường vốn cho các DNNVV.
3.Phát triển các doanh nhân và người lao động cho các DNNVV.
4.Nghiên cứu, phát triển và truyền bá các công nghệ hiện đại thích hợp cho các DNNVV.
5.Phát triển sản phẩm và nâng cấp tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm.
6.Xúc tiến DNNVV và trợ giúp marketing; mở rộng thị trường nội địa và toàn cầu.
7.Phát triển sự thực hành quản lý hiện đại, với trọng tâm là hiệu quả và tính minh bạch.
8.Trợ giúp việc sử dụng công nghệ thông tin.
9.Phát triển các liên kết giữa các DNNVV và các doanh nghiệp lớn.
10.Phát triển các Hiệp hội DNNVV.
11.Phát triển các DNNVV ở nông thôn và các DNNVV cộng đồng.
12.Thúc đẩy và tăng cường các tổ chức của khu vực tư nhân có chức năng xúc tiến và trợ giúp các DNNVV.
13.Kết cấu hạ tầng cho các đầu tư của DNNVV.
14.Các biện pháp khuyến khích để giải quyết những yếu kém cố hữu của các DNNVV.
15.Khuyến khích bảo vệ môi trường.
16.Sửa đổi các qui định luật pháp gây trở ngại cho các DNNVV.
17.Xúc tiến và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
18.Các biện pháp xúc tiến khác nhằm khuyến khích các DNNVV mới thành lập.
Nhằm đẩy mạnh việc phát triển hệ thống các DNNVV cả về số lượng và chất lượng, Chính Phủ Thái Lan gần đây đã đặt ưu tiên chính sách vào việc phát triển mạng lưới DNNVV. Những chính sách DNNVV của Thái Lan, cho dù vẫn còn nhiều thiếu sót và bất cập, là một hướng đi hứa hẹn mang tới nhiều lợi ích cho đất nước này trong tương lai.
Phần 2
chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
tại Việt Nam
I.Tình hình phát triển và vai trò hiện nay của các DNNVV ở Việt Nam
1.Vài nét về tình hình phát triển các DNNVV ở Việt Nam
Theo tổng kết cuộc tổng điều tra các cơ sở kinh tế hành chính sự nghiệp trên phạm vi cả nước tại thời điểm ngày 1/7/1995 tiến hành ở 23.708 doanh nghiệp, thì có 20.856 doanh nghiệp, tức là 87,6% trong tổng số là DNNVV, dựa vào tiêu chí phân loại theo tổng giá trị vốn đã qui định. Doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng: 20.856, chiếm 88%, doanh nghiệp có số vốn trên 5 tỷ đồng: 2.852, chiếm 12%.
Trong những doanh nghiệp có số vốn dưới 5 tỷ đồng:
+Doanh nghiệp có số vốn dưới 1tỷ đồng: 16.673, chiếm 70,3%.
+Doanh nghiệp có số vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng: 4.183, chiếm 17,6%.
Như vậy là, theo tiêu chí vốn, năm 1995, các DNNVV chiếm 99,56% trong tổng số các doanh nghiệp tư nhân, chiếm 97,38% trong tổng số các hợp tác xã, chiếm 94,72% trong tổng số các công ty TNHH, chiếm 42,37% trong tổng số các công ty cổ phần và 65,88% trong tổng số các doanh nghiệp Nhà Nước. Trong tổng số doanh nghiệp được điều tra là 23.708, có tới 20.856 DNNVV.
Theo số liệu thống kê đến 30/6/1998, trong tổng số các doanh nghiệp dân doanh là 25.517, có 17.535 doanh nghiệp tư nhân, 6.900 công ty TNHH, 153 công ty cổ phần và 2.900 hợp tác xã.
Xét về lĩnh vực kinh doanh, cũng theo số liệu của cuộc điều tra nói trên, trong số 20.856 DNNVV có 77,6% hoạt động trong các ngành thương nghiệp, sửa chữa và công nghiệp chế biến, trong đó các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp, sửa chữa chiếm 42,2% và các doanh nghiệp hoạt động trong công nghiệp chế biến chiếm 35,4%. Doanh nghiệp hoạt động trong xây dựng chiếm gần 10%; trong khách sạn, nhà hàng 44,4%; trong ngành vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc 3,3%; trong ngành kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn 2,1%; trong ngành khai thác mỏ 1,2%; còn lại dưới 1% là những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác.
Về phân bố giữa các địa phương, DNNVV tập chung chủ yếu tập ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu Long chiếm 55% tổng số DNNVV của cả nước, ngoài ra là Đồng bằng sông Hồng chiếm 18,1%, Duyên hải miền Trung 10,1%.
2.Vai trò của các DNNVV trong nền kinh tế Việt Nam
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay DNNVV có vị trí đặc biệt quan trọng thể hiện qua các mặt dưới đây:
-Tạo việc làm cho người lao động. Đây là một thế mạnh rõ rệt của DNNVV và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải đặc biệt chú trọng phát triển DNNVV ở nước ta hiện nay.
Số liệu điều tra lao động và việc làm (7/2000) cho thấy ở Việt Nam, dân số trong độ tuổi lao động (nam từ 15 đến 60, nữ từ 15 đến 55) là 46,2 triệu người chiếm 59,2% tổng dân số (năm 1989 mới chỉ là 55%). Việt Nam đang chuyển từ giai đoạn cấu trúc dân số trẻ sang "cơ cấu dân số vàng", nghĩa là tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở mức cao trong khi tỷ lệ dân số phụ thuộc giảm. Dự báo trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tiếp tục tăng và đạt đỉnh cao nhất là gần 70% vào năm 2009 (56 triệu người). Từ năm 1999 đến năm 2009 mỗi năm sẽ có thêm 1,8 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Đây là mức tăng nguồn nhân lực cao nhất từ trước đến nay trong lịch sử dân số Việt Nam, là tiềm năng, cơ hội lớn về nguồn nhân lực và cũng là thách thức rất lớn về giải quyết việc làm.
Khu vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút thêm lao động rất lớn vì suất đầu tư cho một làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác trong dân. Theo tài liệu "Một số chỉ tiêu chủ yếu về qui mô và hiệu quả của 1,9 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam " của Tổng Cục Thống Kê xuất bản năm 1997, lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc trong doanh nghiệp tư nhân chỉ có 35 triệu đồng và trong công ty TNHH là 45 triệu đồng, trong khi lượng vốn trung bình cho một chỗ làm việc tại doanh nghiệp Nhà Nước là 87,5 triệu đồng. Các DNNVV đang là nơi có nhiều thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động nhất là ở nông thôn tăng mỗi năm; đồng thời còn tiếp nhận số lao động từ các doanh nghiệp Nhà nước dôi ra qua việc cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê, phá sản doanh nghiệp hiện đang được triển khai.
-Đóng góp tăng trưởng kinh tế. Mỗi năm DNNVV đóng góp khoảng 25-26% GDP của cả nước. Năm 1995, DNNVV tạo ra 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng khối lượng vận chuyển hàng hoá, 100% giá trị sản lượng hàng hoá của một số ngành nghề như chiếu cói, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ ...
Xét về tương quan giá trị TSCĐ với doanh thu để xem xét hiệu quả sử dụng đồng vốn, có thể thấy hiệu quả sử dụng đồng vốn ở khu vực DNNVV đang rất khả quan: để tạo ra một đồng doanh thu, các doanh nghiệp Nhà nước thuộc Trung ương quản lý phải đầu tư 0,562 đồng vốn cố định, trong khi đó các doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý chỉ đầu tư 0,220 đồng; doanh nghiệp tập thể 0,298 đồng; doanh nghiệp tư nhân 0,197 đồng; công ty TNHH 0,188 đồng. Nếu so sánh các doanh nghiệp Nhà nước Trung ương quản lý số vốn cố định mà doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý sử dụng cho một đồng doanh thu chỉ bằng 39%; tương tự như vậy, các doanh nghiệp tập thể bằng 53%; các doanh nghiệp tư nhân băng 35%; còn công ty TNHH chỉ bằng 33%.
-Bảo đảm cho nền kinh tế năng động hơn. Do yêu cầu vốn ít, qui mô nhỏ, DNNVV có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ làm cho nền kinh tế năng động hơn. Một số nền kinh tế như Đài Loan vừa qua ít chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực, chủ yếu do dựa vào DNNVV. Đối với doanh nghiệp lớn, DNNVV cũng có thể làm đại lý, vệ tinh, tiêu thụ hàng hoá hoặc cung cấp vật tư đầu vào với giá rẻ hơn do đó góp phần hạ giá thành nâng cao hiệu quả sản xuất cho doanh nghiệp lớn.
-Tăng thu nhập cho dân cư. Thu nhập của nhân dân ta còn quá thấp do kinh tế chậm phát triển; ngay trong nông nghiệp, dù sản lượng thóc có tăng nhanh thì cũng chỉ đủ no, chứ không giầu được nếu không có công nghiệp chế biến. Phát triển DNNVV ở thành thị cũng như nông thôn là biện pháp chủ yếu để tăng thu nhập, đa dạng hoá thu nhập của các tầng lớp nhân dân khắp các vùng trong nước. Việc phát triển DNNVV chế biến nông, lâm, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ truyền thống phân bố rộng khắp trong các vùng nông thôn sẽ tạo nên bộ mặt mới cho nông thôn cả về kinh tế, văn hoá, xã hội, góp phần rất quan trọng thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
-Góp phần thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Xét về các loại cơ cấu, như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành, nghề, cơ cấu lãnh thổ, phân bố dân cư... Việc phát triển DNNVV sẽ tạo ra những chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế có đủ cơ cấu theo hướng tiến lên xã hội văn minh, hiện đại. Rất dễ nhận thấy là mấy năm gần đây, bộ mặt kinh tế, xã hội của nhiều vùng đã có thay đổi theo hướng đó: nhiều thị trấn, thị tứ, đông đúc hợn trước, nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới được hình thành, đi đôi với giao thông nông thôn phát triển và nhiều đường dẫn toả ra nhiều vùng nông thôn...
-Và cuối cùng là góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tế một đội ngũ doanh nhân mới trong kinh tế thị trường. Trong thực tế, có những DNNVV vẫn tiếp tục giữ tổ chức của mình là nhỏ hoặc vừa vì qui mô này phù hợp với khả năng kinh doanh ngành, nghề đang theo đuổi, nhưng cũng có những doanh nghiệp phát triển lên thành những doanh nghiệp có qui mô lớn. Đã có những gương doanh nhân thành đạt xuất thân từ những công việc rất đơn giản, do ý chí và quyết tâm rất đáng khích lệ, dù ở qui mô nào, DNNVV cũng vẫn là những vườn ươm nhân tài cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.
II.Hệ thống thể chế, chính sách khuyến khích trợ giúp DNNVV ở Việt Nam.
DNNVV ở nước ta hiện nay đang còn nhiều yếu kém, việc trợ giúp là hết sức cần thiết.
Đối với các doanh nghiệp, trong đó có DNNVV, từ những năm đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật để từng bước hình thành hệ thống thể chế, chính sách khuyến khích phát triển.
Có thể kể ra đây những văn bản quan trọng nhất.
-Hiến pháp năm 1992 công nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công dân theo qui định của pháp luật; công nhận quyền được đối xử bình đẳng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
-Luật đất đai năm 1993, được sửa đổi hai lần bằng các luật sửa đổi, bổ xung một số điều của luật đất đai của năm 1998 và năm 2001, qui định các doanh nghiệp có quyền hợp pháp về sử dụng đất, có quyền chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất.
-Luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 qui định khung pháp luật cho các doanh nghiệp này hoạt động hoặc tham gia thị trường trong nước và nước ngoài.
-Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 1994 được sửa đổi bằng các pháp lệnh năm 1997 và năm 2001.
-Luật dân sự năm 1995 qui định nhiều quyền dân sự, trong đó có quyền kinh doanh thông qua hợp đồng và quyền thực hiện hợp đồng thông qua tài sản cầm cố và thế chấp.
-Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 1997, đơn giản hoá và thực hiện thống nhất một sắc thuế thu nhập cho các loại hình doanh nghiệp trong nước.
-Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 thay thế luật thuế doanh thu bị coi là thuế chồng lên thuế bằng một sắc thuế đơn giản hơn, công bằng hơn.
-Luật thương mại năm 1997 tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp.
-Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998 và nghị định số 51 (tháng 7/1999) cụ thể hoá điều kiện luật đó đã đề ra khá nhiều chính sách cụ thể áp dụng cho tất cả loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, kể cả cá nhân, nhằm kinh doanh theo nghị đinh 66-HĐBT ngày 2/3/1992.
-Nghị địng số 57 (7/1998) qui định tất cả các doanh nghiệp đã đăng ký có quyền xuất khẩu và xuất khẩu các mặt hàng đã đăng ký kinh doanh (mà trước đây cần phải có giấy phép) trừ một số ít sản phẩm còn qui định hạn ngạch hoặc xuất nhập khẩu có điều kiện.
-Luật doanh nghiệp năm 1999 (có hiệu lực thi hành từ 1/1/2000) qui định tổ chức và hoạt động của 4 loại hình doanh nghiệp: công ty TNHH, đào tạo cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, trên cơ sở hợp nhất hai luật về công ty và doanh nghiệp tư nhân trước kia.
-Quyết định số 46/2001 ngày 4/4/2001 của Thủ tướng Chính Phủ về xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2005 đề ra một số cơ chế 5 năm thay cho cơ chế hàng năm trước đây, giảm bớt các biện pháp phi quan thuế, tăng các biện pháp kinh tế.
Rõ ràng là, trải qua 15 năm đổi mới theo đường lối của Đảng, thể chế kinh tế nước ta đã từng bước chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, một hệ thống các văn bản pháp luật theo thể chế kinh tế thị trường đã từng bước hình thành, tuy chưa thật hoàn chỉnh; nhờ đó kinh tế dân doanh bước đầu bừng nở, mọi lực lượng sản xuất được giải phóng đã đem lại sức phát triển mới của kinh tế nước ta, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động.
Thế nhưng, trên con đường kinh doanh, DNNVV đang còn gặp không ít khó khăn. Để khuyến khích phát triển mạnh hơn nữa nhiều DNNVV, việc tiếp tục đổi mới công tác quản lý của Nhà nước là hết sức quan trọng, mà trước hết là cải cách thể chế kinh tế. Trong khi các yếu tố của kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang rất sơ khai, không đồng bộ, thể chế ấy phải bảo đảm hình thành, phát triển và hoàn thiện các loại thị trường, nhất là thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học- công nghệ. Điều quan trọng trong thể chế là phải dứt khoát xoá bỏ cơ chế "xin cho" tràn lan đã ăn sâu trong nếp nghĩ cũng như cung cách quản lý của không ít cơ quan và công chức, đôi khi lại còn vì cơ chế cũ đã đem lại cho họ những bổng lộc mà họ không sao dứt bỏ được.
Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ IX của Đảng đã đề ra nhiệm vụ "trong 5 năm tới, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế quản lý kinh tế thị trường định hướng XHCN, khắc phục những yếu kém, tháo gỡ những vướng mắc" và đến năm 2010, "thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN phải được định hướng về cơ bản".
Như vậy, việc cần thiết là tiếp tục cụ thể hóa thêm thể chế, chính sách đó và vận dụng phù hợp với đặc điểm DNNVV trong tình hình hiện nay. Dưới đây là một số chính sách cụ thể nhất cần được quan tâm.
1.Chính sách khuyến khích đầu tư:
Lâu nay, phần lớn DNNVV tập trung đầu tư vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ đời sống (chiếm tới 46,2% số doanh nghiệp), còn lĩnh vực công nghiệp thì quá ít. Điều đó thể hiện rõ tâm lý của người dân chưa thật sự tin tưởng vào kinh doanh dài hạn, nhiều rủi ro. Vì vậy, việc khuyến khích đầu tư vào công nghiệp, nhất là phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu rất cần được chú trọng. Công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản cần được đầu tư nhiều hơn nữa, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Nghị định 51-CP ngày 8/7/1999 đã đề ra nhiều chính sách khuyến khích đầu tư phát triển doanh nghiệp trong nước, về ngành, nghề, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, thế nhưng hiệu lực thi hành nghị định này rất kém thể hiện ở hai mặt: một là, có những ngành (ví dụ thuế) không những không thực hiện đúng qui định trong nghị định 51 lại còn đòi hỏi những điều kiện trái với nghị định; hai là, còn nhiều thủ tục hành chính hạn chế doanh nghiệp dân doanh tiếp cận các chính sách ưu đãi. Vì vậy, rất cần kiểm điểm để đẩy mạnh việc thi hành Nghị định 51, bổ xung những qui định cần thiết.
Đồng thời, rất cần thiết rà soát lại toàn bộ thể chế, chính sách đối với doanh nghiệp, xoá bỏ những trở ngại trong sản xuất kinh doanh, những bất bình đẳng, sửa đổi, bổ xung những qui định mới có tác dụng khuyến khích mạnh hơn nữa, tiến đến một cơ chế chung cho doanh nghiệp dân doanh với doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp có vốn nước ngoài. Việc này cần có thời gian, tiến hành từng bước, trước mắt, cần sớm sửa đổi, bổ xung những cơ chế, chính sách đã rõ là không hợp lý, tiếp tục tạo thuận lợi cho doanh nghiệp (kể cả DNNVV).
2. Chính sách về mặt bằng kinh doanh:
Hiện nay, hầu hết các DNNVV đều thiếu đất làm mặt bằng kinh doanh, để thiết lập cơ sở mới hoặc mở rộng cơ sở sản xuất. Đó là do các qui định về quyền sử dụng đất thường không rõ ràng, quyền mua bán, thế chấp chuyển nhượng đất công nghiệp vẫn chưa được thừa nhận. Khó khăn đang còn rất lớn. Một ví dụ: năm 1997 t._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28827.doc