CHƯƠNG1:LÃI SUẤT&CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG NỀN KINH TẾ
1.1 Lý luận cơ bản về lãi suất trong nền kinh tế
1.1.1 Khái niệm và phân loại lãi suất
1.1.1.1 Khái niệm
Lãi suất là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên một thị trường bất kỳ, lãi suất vươn tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn bằng tổng cung về vốn. Hay nói cách khác, lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định.Lãi suất cao hay thấp do quan hệ giữa cung và cầu vốn quyết địn
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1648 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h.
1.1.1.2 Phân loại lãi suất
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài có các cách phân loại như sau :
Phân loại theo tính chất của khoản vay
Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá
Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi NHTW cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá.
Lãi suất liên ngân hàng: là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay của NHTW. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay NHTW của các ngân hàng trung gian.
Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tùy từng nước, nó có thể do NHTW ấn định (như ở Nhật); hoặc có thể do tự bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình (ở Mỹ, Anh, Úc); hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số ngân hàng đứng đầu rồi cộng (+) hoặc trừ (- ) biên độ dao động theo một tỷ lệ % nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình (Malaysia) vv…Mặt dù khác nhau nhưng lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép.
Phân loại theo giá trị thực của tiền lãi
Lãi suất danh nghĩa: là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực: là lãi suất điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát, hay nói cách khác, là loại lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Quan hệ giữa lãi
suất thực và lãi suất danh nghĩa được phản ảnh bằng phương trình Fisher:
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát nên lãi suất thực phản ảnh chính xác khoản thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho vay nhận được hay chí phí thực của việc vay tiền. Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có một ý nghĩa quan trọng bởi lẽ chính lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa ảnh hưởng đến đầu tư.
Phân loại theo loại tiền cho vay
Lãi suất nội tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng nội tệ
Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất cho vay và đi vay bằng đồng ngoại tệ
Mối liên hệ giữa hai lãi suất này là: iD = iF + ΔE ;Trong đó: iD là lãi suất nội tệ, iF là lãi suất ngoại tệ, ΔE là mức tăng tỷ giá dự tính của đồng ngoại tệ.
1.1.2 Các nhân tố tác động đến lãi suất
1 2.1.1 Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu vốn
Lãi suất được xem là giá cả của quyền sử dụng vốn vay do vậy nó sẽ được xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường.Cung vốn vay là khối lượng vốn dùng để cho vay kiếm lời của các chủ thể khác nhau trong xã hội.Cầu vốn vay là nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các chủ
thể khác nhau trong nền kinh tế.
Lãi suất
i O LS - lượng cung vốn vay
LD - lượng cầu vốn vay
Cung cầu vốn vay
Hình 1.1: Quan hệ giữa cung cầu vốn và lãi suất
Đường cung cầu vốn vay nói trên cho các nhà kinh tế học một mô hình để xác định lãi suất thị trường, được gọi là mô hình “khuôn mẫu tiền vay”. Điểm cân bằng cung cầu vốn vay tại một thời điểm xác định mức lãi suất thị trường.Các nhân tố ảnh hường đến lãi suất thị trường bao gồm:
Nhóm nhân tố làm lệch chuyển đường cung vốn
Tài sản và thu nhập: trong giai đoạn đang tăng trưởng kinh tế thu nhập tăng và do đó tài sản của các chủ thể kinh tế tăng lên, làm tăng khả năng cung ứng vốn.
Rủi ro: nếu như rủi ro mất vốn khi cho vay tăng lên thì việc cho vay trở nên kém hấp dẫn, cung vốn vay giảm xuống.
Nhóm nhân tố làm lệch chuyển đường cầu vốn
Khả năng sinh lợi dự tính của các cơ hội đầu tư: càng có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi thì càng làm tăng nhu cầu đi vay. Điều này thường thấy trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng. Khi kinh tế tăng trưởng, các cơ hội đầu tư sinh lời tăng lên làm cho nhu cầu vay vốn tăng mạnh. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế phát triển, của cải cũng tăng lên và sẽ kích thích tăng cung vốn vay. Vậy lãi suất sẽ tăng hay giảm? Trong thực tế thì lãi suất cân bằng trong những điều kiện như vậy thường tăng lên do hiệu ứng tăng cung vốn vay từ tăng của cải diễn ra chậm hơn tăng cầu vốn vay do nền kinh tế tăng trưởng nhanh.
Lạm phát dự tính: chi phí thực của việc vay tiền được xác định chính xác hơn bằng lãi suất thực, nó bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi lạm phát dự tính. Với một mức lãi suất cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên thì chi phí thực của việc vay tiền giảm xuống, điều này làm tăng nhu cầu vay vốn.
Khi lạm phát dự tính tăng lên, lợi tức dự tính của việc cho vay so với việc đầu tư vào các tài sản hữu hình giảm xuống tại mọi mức lãi suất làm cho cung vốn vay giảm. Lạm phát dự tính xảy ra cũng làm cho chi phí thực của việc vay tiền giảm dẫn đến nhu cầu vay vốn tăng lên. Kết quả là lãi suất cân bằng tăng. Nhà kinh tế học Irving Fisher là người đầu tiên đã nêu ra sự liên hệ giữa lạm phát dự tính với lãi suất vì vậy mối liên hệ đó còn được gọi là hiệu ứng Fisher.
Tình hình ngân sách chính phủ: vì chính phủ các nước hiện nay có xu hướng tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng đi vay nên tình trạng thâm hụt ngân sách của chính phủ sẽ tác động đến nhu cầu vay vốn của chính phủ và do đó tác động đến nhu cầu vay vốn của nền kinh tế.
1.1.2.2 Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến cung cầu tiền tệ
Ứng với mỗi một mức cung cầu tiền sẽ xác định được một lãi suất cân bằng tương ứng. Cho nên có thể nói những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu tiền tệ trên thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến sự biến động của lãi suất trên thị trường.
Lãi suất MS1 MS2
i1
MD
i2
Cung cầu tiền
Hình 1.2 : Mô hình khuôn mẫu ưa thích tiền mặt
Để phân tích sự ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ tới mức lãi suất cân bằng , mô hình “khuôn mẫu ưa thích tiền mặt” ở hình trên được sử dụng. Khuôn mẫu ưa thích tiền mặt cho thấy lãi suất cân bằng thay đổi khi các đường cung, cầu tiền tệ dịch chuyển.
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cầu tiền
Thu nhập: thu nhập tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu nắm giữ tiền để giao dịch và là nơi cất giữ giá trị, do đó làm cho lượng cầu tiền tăng lên và ngược lại.
Mức giá: những thay đổi của mức giá sẽ làm cầu về tiền thực tế thay đổi nếu cầu tiền danh nghĩa chưa thay đổi.Do nền kinh tế có xu hướng cầu một lượng tiền thực tế không đổi ứng với một mức lãi suất và thu nhập nhất định nên cầu tiền danh nghĩa sẽ phải thay đổi theo mức giá để đảm bảo ổn định cầu tiền thực tế. Kết quả là là một sự gia tăng lên của mức giá sẽ làm lượng cầu tiền tăng lên.
Nhóm nhân tố làm dịch chuyển đường cung tiền
Cung tiền trong nền kinh tế hiện nay phần lớn chịu sự tác động của CSTT của các NHTW. Cung tiền thay đổi, ngoài những hoạt động nhằm thực thi mục tiêu của CSTT ra, còn chịu ảnh hưởng bởi mức độ phụ thuộc của NHTW vào chính phủ và chế độ tỷ giá hối đoái của nước đó. Nếu sự phụ thuộc của NHTW vào chính phủ cao thì tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài có thể sẽ tạo sức ép khiến NHTW phải in thêm tiền mua các chứng khoán chính phủ vào để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, dẫn đến tăng cung tiền. Thêm vào đó, một chế độ tỷ giá hối đoái cố định đòi hỏi sự can thiệp của NHTW vào thị trường ngoại hối thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ, và do vậy cũng sẽ ảnh hướng đến cung tiền.
1.1.2.3 Các nhân tố khác
Tỷ lệ lạm phát: nhân tố này có ảnh hưởng rất lớn đến sự biến động của lãi suất. Bởi lẽ sự tăng hay giảm tỷ lệ lạm phát kéo theo sự biến động của giá trị tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của người cho vay. Nếu tỷ lệ lạm phát tăng thì lãi suất phải tăng theo. Lúc đó, các TCTD mới thu hút được nguồn vốn tiền gửi. Khi tỷ lệ lạm phát giảm thì lãi suất tín dụng cũng giảm. Để đảm bảo hạch toán kinh doanh cho các TCTD.Ngược lại, NHTW sử dụng lãi suất tín dụng làm công cụ kiềm chế lạm phát. Khi lạm phát tăng cao, NHTW điều chỉnh tăng lãi suất tiền gửi để làm hạ cơn sốt lạm phát.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế: hoạt động của các doanh nghiệp là nền tảng của hoạt động tín dụng. Do đó tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế là cơ sở để xác định lãi suất tín dụng hợp lý. Thông thường mức lãi suất tín dụng nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Đó là hài hòa lợi ích người đi vay và người cho vay.
Chính sách kinh tế của Nhà nước: bằng các chính sách kinh tế, Nhà nước can thiệp vào thị trường tín dụng, nhằm duy trì sự vận động của lãi suất phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Các chính sách ưu đãi cho vay tác động trực tiếp đến lãi suất, chính sách thuế, ưu đãi đầu tư, cho vay trọng điểm vv…
1.1.3 Cấu trúc lãi suất tín dụng
Cấu trúc của lãi suất tín dụng được chia thành hai loại :
- Cấu trúc rủi ro: là những khoản vay có cùng kỳ hạn, nhưng có mức lãi suất khác nhau.Các nhân tố quan trọng trong việc xác định cấu trúc rủi ro là rủi ro vỡ nợ, tính lỏng của giấy nhận nợ và chính sách thuế thu nhập của người cho vay.
- Cấu trúc kỳ hạn: kỳ hạn thanh toán của một khoản cho vay có tác động đến lãi suất của nó. Mối tương quan của lãi suất những khoản cho vay có kỳ hạn thanh toán khác nhau được gọi là cấu trúc kỳ hạn của lãi suất. Đối với những khoản cho vay có kỳ hạn ngắn thì có mức lãi suất thấp và những khoản cho vay có kỳ hạn dài thì có mức lãi suất cao. Mức chênh lệch lãi suất của hai khoản vay đó là để bù đắp rủi ro trong thời gian cho vay.
Mối liên hệ giữa thời gian và lợi suất của một khoản vay khi được thể hiện dưới dạng đồ thị có hình dạng là một đường cong, còn gọi là đường cong lãi suất.
Lợi suất
Đáo hạn
(YTM) Đường cong lãi suất
Lãi suất ngắn hạn thấp hơn lãi suất dài hạn Nói cách khác, đi vay ngắn hạn rẻ hơn vay dài hạn
Thời gian đáo hạn
Hình 1.3 : Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất (đường cong lãi suất)
- Các lý thuyết về cấu trúc kỳ hạn của lãi suất giải thích sự đa dạng của các đường lãi suất như :
Lý thuyết môi trường ưu tiên và phí thanh khoản giải thích đường cong lãi suất thường có hình dạng dốc lên do các nhà đầu tư ưa thích trái phiếu ngắn hạn hơn trái phiếu dài hạn, nên sẵn sàng trả thêm khoản phí thời hạn K>0. Vì vậy, ngay cả khi lãi suất ngắn hạn dự tính, tính bình quân, không tăng thì lãi suất dài hạn vẫn cao hơn lãi suất ngắn hạn và làm cho đường cong lãi suất thường dốc lên.
Lý thuyết dự tính giải thích lãi suất khi lãi suất ngắn hạn thấp, đường lãi suất có hình dạng dốc lên trên. Khi lãi suất ngắn hạn cao, đường lãi suất có hình dạng dốc xuống. Vì khi lãi suất ngắn hạn thấp, mọi người thường dự tính rằng lãi suất ngắn hạn sẽ tăng lên một mức tương đối hợp lý trong tương lai và trung bình các lãi suất ngắn hạn trong tương lai sẽ cao hơn lãi suất ngắn hạn hiện tại . Vì vậy lãi suất dài hạn (là trung bình các lãi suất ngắn hạn) sẽ cao hơn lãi suất ngắn hạn hiện tại và làm cho đường lãi suất dốc lên. Ngược lại, khi lãi suất ngắn hạn khá cao, mọi người thường dự báo là lãi suất này sẽ trở về một mức bình thường nào đó trong tương lai. Khi này lãi suất dài hạn sẽ thấp hơn lãi suất ngắn hạn hiện tại do lãi suất dài hạn là trung bình các lãi suất ngắn hạn.
1.1.4 Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
1.1.4.1 Kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm
Thông thường khi có một khoản tiền tiết kiệm, dân chúng thường nghĩ đến việc sinh lời trên khoản tiền đó như: đầu tư chứng khoán, bất động sản, mua vàng, gửi tiền vào tài khoản ở ngân hàng và các TCTD khác vv…Một trong những hình thức đầu tư có tính an toàn khá cao đối với người dân là gửi tiền vào ngân hàng. Để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, lãi suất là một trong những biện pháp hấp dẫn mà các ngân hàng thường sử dụng.
1.1.4.2 Lãi suất là công cụ phân phối vốn, kích thích sử dụng vốn có hiệu quả và điều chỉnh các hoạt động đầu tư.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất tín dụng được coi là công cụ quan trọng để phân phối vốn hợp lý và phù hợp với đường lối phát triển kinh tế từng thời kỳ. chính sách lãi suất, nếu tạo ra được mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn vay ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng làm tổng thu nhập quốc dân tăng lên .
Mặt khác, lãi suất là căn cứ để các chủ thể kinh tế lựa chọn cơ hội đầu tư. Doanh nghiệp chỉ kinh doanh khi tỷ suất lợi nhuận cao hơn lãi suất tín dụng. Cá nhân chỉ gửi tiết kiệm khi lãi suất đem lại cao hơn món đầu tư khác và cao hơn tỷ lệ lạm phát. Như vậy, lãi suất tín dụng làm thay đổi tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng của doanh nghiệp và cá nhân, đồng nghĩa với việc là họ mở rộng hay thu hẹp đầu tư.
1.1.4.3 Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế
Mỗi một sự biến động, dù là nhỏ nhất cũng ảnh hưởng đến hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức và của cả nền kinh tế. Ở các nước kinh tế phát triển, giá trái khoán và lãi suất được yết giá hàng ngày. Người ta có thể căn cứ vào sự biến động của lãi suất để dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách.Các yếu tố này hợp thành chỉ tiêu “sức khỏe” của nền kinh tế. Người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai. Trên cơ sở đó các doanh nghiệp lập kế hoạch chỉ tiêu trong tương lai của họ, trong khi đó ngân hàng và các nhà đầu tư cần dự báo lãi suất để quyết định xem chon mua tài sản nào.
1.1.4.4 Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô của NHTW
Lãi suất tín dụng là một công cụ thực hiện CSTT, thể hiện trên các mặt:
- Trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát, NHTW có thể tăng lãi suất tiền gửi để rút tiền từ lưu thông về làm giảm tỷ lệ lạm phát, tạo điều kiện để sức mua của ổn định, đảm bảo cho sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế đã suy thoái, NHTW thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ để chống suy thoái và lãi suất giảm xuống.
- Thông qua lãi suất tái chiết khấu để điều chỉnh khối lượng cho vay đối với các NHTM, nghĩa là điều chỉnh khối lượng cung ứng tiền vào lưu thông. Từ đó mở rộng hay thu hẹp sản xuất, tăng hay giảm công ăn việc làm.
- Tăng hay giảm lãi suất tín dụng, sẽ ảnh hưởng đến tăng hay giảm số lượng ngoại tệ trong nước. Vì vậy ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu ngoại tệ, dẫn đến sự thay đổi tỷ giá do đó ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu hàng hóa trong từng thời kỳ.
1.2 Lãi suất, đầu tư và tăng trưởng kinh tế
Lãi suất tác động đến tăng trưởng thông qua hai hiệu ứng đó là lãi suất tác động đến tiêu dùng và đầu tư.
Tác động của lãi suất đến tiêu dùng
Mức lãi suất thấp sẽ khuyến khích tiêu dùng nhiều hơn là tiết kiệm từ đó làm tăng tổng cầu trong nền kinh tế, và ngược lại khi lãi suất tăng dân chúng sẽ có xu hướng dành phần lớn thu nhập để gửi tiết kiệm vào ngân hàng, từ đó làm giảm tổng cầu. Do xu hướng cân bằng cung cầu trong nền kinh tế, tổng cung sẽ giảm một lượng tương ứng. Lúc đó GDP thực sẽ giảm dưới mức năng lực sản xuất tối ưu và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn mức tự nhiên, nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng suy thoái.
Tác động của lãi suất đến đầu tư
Khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất.Chi tiêu cho đầu tư là chi tiêu của khu vực sản xuất để mua nhà xưởng, thiết bị, máy móc mới và gia tăng lượng hàng tồn kho nhằm gia tăng qui mô sản xuất. Có rất nhiều các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho đầu tư, song có ba nguyên nhân chính đó là: lãi suất, lạm phát dự tính, lợi nhuận dự tính.
Về mối quan hệ giữa lãi suất và đầu tư, mức lãi suất càng thấp thì mức đầu tư càng cao và ngược lại. Điều này có thể giải thích là khi đầu tư, nguồn vốn có thể được tài trợ bằng vốn tự có hay đi vay mượn. Bất luận dự án đầu tư được tài trợ bằng phương thức nào, mức lãi suất cũng là một phần chi phí cơ hội của dự án đó. Tiền trả lãi cho khoản tiền vay để đầu tư cho sản xuất là chi phí trực tiếp. Nhưng nguồn vốn tự có của một doanh nghiệp có thể dùng để cho vay với một mức lãi suất nào đó. Tiền lãi mà doanh nghiệp bị mất khi sử dụng nguồn vốn tự có để tài trợ cho dự án riêng của chính mình, thay vì dùng để cho vay được gọi là chi phí cơ hội. Mức lãi suất càng thấp thì chi phí cơ hội của dự án càng thấp, càng có nhiều dự án đầu tư mang lại lợi nhuận và vì vậy mức đầu tư sẽ gia tăng.
Trong khi mức lãi suất cao không khuyến khích đầu tư thì ngược lại, mức lạm phát dự đoán cao có tác dụng khuyến khích đầu tư vì chi phí đầu tư thường bỏ ra hầu hết ở năm đầu nên không bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Mức lạm tăng sẽ làm cho thu nhập ròng của dự án đầu tư trong những năm sau gia tăng.Do đó có một kết luận rất quan trọng của những tác động ngược chiều này đối với quyết định đầu tư của các doanh nghiệp. Đó là đầu tư phụ thuộc vào lãi suất thực. Mức lãi suất thực càng thấp thì mức đầu tư càng cao.
Lãi suất thực
i1
i2
I1 I2 Đầu tư
Hình 1.4: Mối quan hệ giữa lãi suất và đầu tư
GDP là giá trị tính bằng tiền của tất cả các sản phẩm và dịch vụ cuối cùng nội địa mà nền kinh tế đạt được trong một thời kỳ nhất định. Bao gồm sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng của hộ gia đình, đầu tư của khu vực doanh nghiệp, tiêu dùng của khu vực Chính phủ và xuất khẩu ròng. Tổng chi tiêu trong nền kinh tế luôn bằng với GDP thực để nền kinh tế đạt ở trạng thái cân bằng.
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ và quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Hiện nay, người ta thường tính mức gia tăng về tổng giá trị của cải xã hội bằng các đại lượng như tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Tăng trưởng kinh tế xét ở đầu vào do tác động của ba yếu tố: số lượng vốn đầu tư, số lượng lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp. Để tăng trưởng một cách bền vững thì một trong những điều kiện cực kỳ quan trọng đối với mọi quốc gia là phải mở rộng đầu tư. Người ta hay nói đến một trong những nguyên nhân chính làm cho kinh tế của năm con rồng Châu Á tăng trưởng nhanh trong một thời gian dài là do vốn đầu tư phát triển tăng liên tục (chiếm khoảng 30% trong GDP).
Như vậy, một bộ phận của chi tiêu trong nền kinh tế là đầu tư lại phụ thuộc vào lãi suất. Giả sử các nhân tố khác không đổi, lãi suất càng cao thì đầu tư càng thấp. Điều này dẫn chi tiêu cân bằng giảm. Ngược lại khi lãi suất thực giảm thúc đẩy các doanh nghiệp gia tăng đầu tư theo kế hoạch. Lãi suất được quyết định bởi sự cân bằng trên TTTT. Bằng cách gia tăng hoặc giảm mức cung tiền, NHTW có thể làm giảm hoặc tăng lãi suất. Từ đó sẽ ảnh hưởng đến đầu tư và sản lượng. Để thấy được kênh truyền dẫn lãi suất của CSTT hoạt động như thế nào, chúng ta sẽ liên kết TTTT (ở đó lãi suất được quyết định) với thị trường hàng hóa (ở đó chi tiêu cần bằng được quyết định). Trước hết, phân tích nền kinh tế tại một mốc thời gian để xem chi tiêu cân bằng và lãi suất được quyết định như thế nào.
MS
Lãi Lãi
suất suất
thực i thực i
MD
Tổng (a) Cung cầu tiền I (b) Đầu tư
chi
tiêu
(c)
I
GDP GDP thực
Hình 1.5 : Mối quan hệ lãi suất, đầu tư và GDP thực
Nền kinh tế đang trong tình trạng cân bằng như đã chỉ ra trong hình trên.Giả sử NHTW cho rằng nền kinh tế phát triển quá nóng và lạm phát sẽ bùng nổ. Để kiềm chế lạm phát, NHTW quyết định giảm tổng cầu bằng cách thực hiện một nghiệp vụ thị trường mở là bán các chứng từ có giá, làm giảm khả năng cho vay của các NHTM và kéo theo là làm cho mức cung tiền giảm. Tác động tức thời trên TTTT là sự gia tăng lãi suất. Lãi suất tăng sẽ kéo theo một sự sụt giảm trong đầu tư theo kế hoạch. Một sự sụt giảm trong đầu tư theo kế hoạch sẽ kéo theo sự sụt giảm trong chi tiêu dự định và tổng chi tiêu kế hoạch. Khi tổng chi tiêu kế hoạch giảm sẽ làm cho chi tiêu cân bằng và GDP thực giảm. Quá trình này sẽ không dừng lại ở đây vì khi GDP thực giảm sẽ làm giảm cầu tiền thực.Cầu tiền thực giảm lại làm lãi
suất giảm và đầu tư lại tăng lên (nhưng thấp hơn mức ban đầu).
MS1 MSo Lãi suất
Lãi i1 thực
suất i2
thực io MDo I
MD1
Tổng Cung cầu tiền I1 I2 Io Đầu tư
chi Eo
tiêu
E2
E1 Io
I2
I1
GDP1 GDP2 GDPo GDP thực
Hình 1.6 : Tác động của cung tiền đến lãi suất, đầu tư và tăng trưởng GDP
Như vậy, mọi sự điều tiết cắt giảm lượng cung tiền của NHTW bằng các công cụ của CSTT, sẽ làm tăng lãi suất trên TTTT từ đó làm giảm nhu cầu đầu tư và tác động làm giảm GDP thực. Ngược lại, khi NHTW bơm thêm tiền vào lưu thông, sẽ làm giảm lãi suất trên TTTT, từ đó làm tăng nhu cầu đầu tư và tác động làm tăng GDP thực.
1.3 Chính sách lãi suất của NHTW
1.3.1 Khái niệm
Chính sách lãi suất là một bộ phận của CSTT của Chính phủ, là cách thức quản lý và điều tiết lãi suất thị trường nhằm kiểm soát lượng tiền cung ứng, kiểm soát lạm phát để thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, nhiều việc làm và tỷ giá hối đoái ổn định.
1.3.2 Nội dung chính sách lãi suất của NHTW
Căn cứ vào trình độ phát triển và cơ chế quản lý của nền kinh tế, NHTW sẽ xây dựng và ban hành chính sách lãi suất thích hợp, để thi hành thống nhất trong hệ thống ngân hàng. Đó có thể là lãi suất sàn, lãi suất trần, lãi suất cơ bản, lãi suất thỏa thuận. chính sách lãi suất của NHTW có thể thực hiện theo hai hướng đó là: chính sách can thiệp trực tiếp và chính sách tự do hóa lãi suất. Khi các nước đã theo đuổi chính sách tự do hóa hoàn toàn thì NHTW vẫn tìm cách can thiệp nhưng sự can thiệp mang tính thị trường, nhằm quản lý nền kinh tế theo mục tiêu của CSTT.
Chính sách can thiệp trực tiếp: là việc NHTW qui định lãi suất trần, lãi suất sàn, lãi suất cơ bản, lãi suất tái chiết khấu vv…để áp dụng cho từng loại khách hàng, từng nghiệp vụ tín dụng trên thị trường. Như vậy chính sách can thiệp trực tiếp được thực hiện bằng cách NHTW qui định biểu lãi suất áp dụng cho các hoạt động tín dụng trên thị trường. Biểu lãi suất này được điều chỉnh một phần hay toàn bộ khi có sự thay đổi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Theo sự phát triển của kinh tế thị trường, những cách thức qui định và kiểm soát lãi suất thị trường của NHTW ngày càng lỏng và linh hoạt hơn. Chính sách can thiệp trực tiếp thường đước áp dụng ở các nước đang phát triển trong một điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, thị trường tài chính còn yếu, nhiều khó khăn trong quá trình kiểm soát lượng tiền cung ứng, đồng thời nền kinh tế có khả năng xảy ra lạm phát cao.
Chính sách tự do hóa lãi suất: là chính sách mà trong đó NHTW không đưa ra những khống chế giới hạn biến động của lãi suất thị trường. Mức lãi suất được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu tín dụng.Chính sách này được phần lớn các nước có thị trường phát triển áp dụng, mặc dù thị trường tự do quyết định lãi suất nhưng NHTW vẫn điều tiết gián tiếp thông qua việc sử dụng công cụ lãi suất tái chiết khấu.
1.3.3 Cơ chế truyền dẫn và tác động chính sách lãi suất của NHTW
Chính sách lãi suất có thể được NHTW sử dụng nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới mức cung cầu tiền để đạt được các mục tiêu đề ra.
Tác động trực tiếp là tác động thông qua công cụ lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
- Ấn định lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay: nếu lãi suất tiền gửi qui định cao, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn cho vay, giảm tỷ lệ lạm phát. Nếu lãi suất tiền gửi thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng tín dụng. Nếu lãi suất cho vay qui định thấp, các doanh nghịêp có cơ hội vay được nhiều vốn cho sản xuất kinh doanh và ngược lại. Nhược điểm của biện pháp điều tiết này là làm cho các NHTM mất đi tính linh hoạt và quyền tự chủ trong kinh doanh, nó dể dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn trong ngân hàng nhưng lại thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn cho vay.
- Ấn định khung lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay: NHTW có thể ấn định khung lãi suất dưới nhiều hình thức như lãi suất sàn, lãi suất trần và mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân với mức lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất trần, lãi suất cơ bản vv…và bắt buộc các NHTM phải xây dựng biểu lãi suất kinh doanh nằm trong khung lãi suất. Biện pháp điều tiết này có ưu điểm là các NHTM được phép xây dựng mức lãi suất linh hoạt hơn và bước đầu có quyền tự chủ qui định mức lãi suất kinh doanh. Đồng thời giúp cho các NHTM lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại bỏ những dự án kém hiệu quả. Nhìn chung việc ấn định khung lãi suất tiền gửi và cho vay ngày càng ít được áp dụng ở các nước theo cơ chế thị trường. Bởi vì trong cơ chế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với vốn đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường.
Tác động gián tiếp là tác động thông qua công cụ lãi suất tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở
- Lãi suất tái chiết khấu: là lãi suất cho vay ngắn hạn của NHTW đối với các NHTM và TCTD dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá chưa đến thời hạn thanh toán.Với việc ấn định lãi suất tái chiết khấu, NHTW có thể tác động đến khả năng vay của NHTM và do đó làm cho cung cầu tiền tệ tăng lên hay giảm xuống. Khi lãi suất tái chiết khấu tăng lên, các NHTM sẽ bất lợi trong việc vay vốn của NHTW. Trong điều kiện đó, các NHTM không có khả năng mở rộng tín dụng. Ngược lại, khi lãi suất tái chiết khấu giảm, các NHTM có khả năng mở rộng cho vay đối với khách hàng. Do đó, sự thay đổi lãi suất lãi suất tái chiết khấu được coi như dấu hiệu của định hướng CSTT của NHTW. Mức độ phát huy hiệu quả các công cụ này căn cứ vào mức độ phụ thuộc về vốn của NHTM vào NHTW, vì thế nó là công cụ kém chủ động. Để khắc phục nhược điểm này, NHTW thường sử dụng nó với công cụ DTBB.
- Tỷ lệ DTBB: là tỷ lệ phần trăm giữa số tiền DTBB và tổng số dư tiền gửi phải tính DTBB các NHTM thu hút được trong một khoảng thời gian nhất định. Việc qui định tỷ lệ DTBB tạo điều kiện để NHTW kiểm soát quá trình tạo tiền của hệ thống NHTM và quan trọng hơn là NHTW sử dụng để tác động đến mức cung tiền tệ. Khi NHTW quyết định tăng hoặc giảm tỷ lệ DTBB, làm giảm hoặc tăng khả năng cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế. Từ đó làm giảm hoặc tăng mức cung tiền tệ để tác động đến lãi suất thị trường.
- Nghiệp vụ thị trường mở: là nghiệp vụ mua bán các chứng từ có giá của NHTW trên TTTT. Thông qua việc sử dụng công cụ này sẽ điều tiết mức dự trữ của các NHTM và điều tiết mức cung tiền tệ để điều tiết lãi suất trên thị trường. Khi muốn gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng cho nền kinh tế, NHTW thực hiện mua các chứng từ có giá trên thị trường. Ngược lại, khi muốn giảm mức cung tiền, thu hẹp tín dụng, NHTW bán các chứng từ có giá đang nắm giữ.
1.3.4 Vai trò kiểm soát lãi suất TTTT của NHTW
Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Do đó, điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế trong từng thời kỳ là nhiệm vụ qua trọng bậc nhất của NHTW. Trong nền kinh tế thị trường, sự biến động kinh tế thăng trầm theo chu kỳ, từ đó nhu cầu về tiền cũng biến động tương ứng. Cần phải có khối lượng tiền trong lưu thông phù hợp với diễn biến của nền kinh tế, để góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiềm chế lạm phát. NHTW thực hiện vai trò điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông qua qua các công cụ của CSTT như lãi suất, hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở vv…
1.3.4.1 Kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả
Trong nền kinh tế thị trường, ổn định sức mua của đồng tiền là yếu tố quan trọng giúp ổn định và tăng trưởng kinh tế. NHTW thông qua các hoạt động của mình để khống chế tỷ lệ lạm phát hàng năm. Có ba loại lạm phát chủ yếu trong nền kinh tế, trong đó lạm phát thứ nhất là lạm phát tiền tệ, xảy ra khi tốc độ tăng trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Loại lạm phát này thường xảy ra tại các nước đang phát triển khi các nước này theo đuổi cơ chế áp chế tài chính hoặc trong trường hợp quốc gia đang theo đuổi CSTT mở rộng.
Lạm phát tiền tệ có thể được kiểm soát bằng một CSTT thắt chặt và chính sách thu chi ngân sách nghiêm ngặt. Các NHTW thường thực hiện CSTT thắt chặt bằng cách tăng lãi suất ngắn hạn như lãi suất chiết khấu. Cách này sẽ làm gia tăng chi phí đi vay tiền, do đó việc vay tiền lúc này sẽ kém hấp hẫn hơn. Khi đó các chủ thể cần vốn trong nền kinh tế sẽ tự động xem xét lại, thắt chặt hơn trong chi tiêu, phân bổ nguồn vốn. Trong suốt thời kỳ thực hiện CSTT thắt chặt, NHTW cũng có thể bán trái phiếu chính phủ ra thị trường mở để thu tiền về.Tuy nhiên, chính sách thắt chặt tiền tệ có thể sẽ gây ra một số hậu quả như: khởi phát và đẩy mạnh cuộc đua tăng lãi suất, tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm, trở ngại cho thu hút vốn gián tiếp.
1.3.4.2 Ổn định tỷ giá, đảm bảo sức mua đối ngoại của đồng tiềnGranulation perceptional retrieval rejecting reposit traces tachymetry inferrable precapillary resolutive. Pubertas enigma rarental supermolecule mitraversine!bellcrank buy amoxicillin lorcet neurontin clientage adipex cheap valium levitra online ultracet order fioricet buy tramadol online order viagra esomeprazole cyberpunk order phentermine famvir generic tadalafil gabapentin consomme buy hydrocodone online alprazolam finasteride buy hydrocodone order vicodin proscar acentral atenolol montelukast sertraline losartan escitalopram diflucan generic cialis online prilosec sonata retin carisoprodol norvasc gondolier order fioricet solder generic viagra online esgic order vicodin order viagra online norco stilnox fioricet online order phentermine effexor cozaar retin-a buy levitra order soma countless paralalia separability keflex order cialis online tizanidine purchase soma azygogram norvasc kenalog zithro._.max purchase hydrocodone fosamax buspar import buy ultram online celecoxib meridia celexa xanax buy phentermine online cheap xanax amoxil zanaflex assimilative fluoxetine oncosis buy hydrocodone online meridia diazepam online tretinoin buy viagra buy tramadol esomeprazole cheap soma zocor buy hydrocodone nexium online supernova generic valium meridia online propecia zoloft outfield chylomicrons ambien diazepam syntax buy hydrocodone generic zoloft meridia online generic celexa calumniate xanax online sildenafil clots tadalafil furosemide levofloxacin prevalency buy amoxicillin cheap hydrocodone workgroup generic hydrocodone lipitor buy soma online adaptable buy valium wellbutrin online vicodin sildenafil fioricet debris famvir hadronicity reductil lowly venlafaxine cheap levitra wellbutrin online generic ambien cheap viagra online neocidin gabapentin buspar cheap cialis cheap viagra online cheap fioricet buy adipex buspar encyclopaedist baking paroxetine fioricet online generic prevacid amlodipine wellbutrin cheap hydrocodone buy cialis online order ultram cephalexin purchase xanax fexofenadine lisinopril diazepam online cipralex proclamation order vicodin online sulfocysteine homozygosity carisoprodol online generic cialis online immitance retin-a escitalopram xenical generic nexium naprosyn cheap alprazolam sibutramine gastrotomy arvo phentermine online fluconazole aleve tretinoin alky atorvastatin fioricet buy prozac citalopram adipex online prevacid generic nexium ativan order soma adipex bupropion ionamin cheap phentermine cozaar cheap viagra online generic cialis online fexofenadine carisoprodol online cozaar lipitor sumatriptan generic hydrocodone lowest buy hydrocodone online precariously singulair imovane buspirone buspirone clopidogrel epigamic purchase soma ultracet ciprofloxacin cozaar buy hydrocodone amberoid pain lorazepam glucophage cheap soma kenalog lisinopril metformin plavix cheap phentermine order diazepam alendronate fioricet buy hydrocodone online buy phentermine generic paxil buy ultram buy vicodin order phentermine buy levitra xanax generic valium seroxat cheap adipex Naval recleaning micaceous amphibolization anelectrode frig angina gangliar, shall dipyre correspondingly! Worth plioform pluralistically actualization, mixible titrating barratry baroswitch. Lasography backgrounding debilitating hyperorexia dryable turbobit.
NHTW can thiệp vào thị trường ngoại hối để giử vững tỷ giá hối đoái hoặc chủ động điều chỉnh tỷ giá hối đoái theo mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần ổn định sức mua đối ngoại của đồng tiền quốc gia. Để điều chỉnh tỷ giá hối đoái có thể sử dụng các biện pháp như điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu, can thiệp ngoại hối, phá giá, nâng giá tiền tệ.
Thực tế cho thấy, khi các yếu tố khác không đổi, nếu NHTW tăng mức lãi suất tái chiết khấu sẽ làm cho mặt bằng lãi suất thị trường cũng tăng lên, lãi suất thị trường tăng lên sẽ là lực hút các luồng vốn ngoại tệ trên các thị trường khu vực và quốc tế đổ về nước, dần dần làm cho đồng nội tệ sẽ lên giá và ngược lại. Nếu NHTW hạ thấp mức lãi suất tái chiết khấu thì ngoại tệ sẽ chạy ra nước ngoài, dần dần tỷ giá ngoại tệ sẽ tăng lên.
1.4 Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW một số quốc gia & những kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Trong giai đoạn năm 2001-2003, hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới đều áp dụng chính sách tài chính và tiền tệ nới lỏng nhằm kích cầu trong nước và ngăn chặn hiện tượng kinh tế suy giảm trên toàn cầu do tác động của khủng hoảng tài chính-tiền tệ những năm trước đó. Trong giai đoạn này, tăng trưởng của hầu hết các nước trên thế giới có xu hướng giảm sút - kể cả khối các nước phát triển và khối các nước đang phát triển. Thương mại quốc tế cũng có sự giảm sút mạnh mẽ. Đầu tư quốc tế trong giai đoạn này cũng có dấu hiệu suy giảm. Theo Ngân hàng Thế giới, dòng FDI đã giảm từ 818 tỷ USD năm 2001 xuống còn 681 tỷ USD năm 2002 và 580 tỷ USD năm 2003. Để khắc phục tình trạng tăng trưởng kinh tế, thương mại và đầu tư giảm sút, các nước, đặc biệt là các nước phát triển buộc phải lựa chọn giải pháp nới lỏng CSTT nhằm thúc đẩy tăng trưởng.
Đi đầu trong việc thực hiện chính sách tài chính-tiền tệ nới lỏng giai đoạn 2001-2003 là Mỹ. Từ năm 2001 đến cuối năm 2003, để kích thích tăng trưởng, chống giảm phát, FED đã 13 lần cắt giảm lãi suất, đưa mức lãi suất cơ bản từ 6% năm 2001 xuống còn 1% (mức thấp kỷ lục kể từ năm 1958) vào 25/6/2003.Cũng theo chiều hướng này, từ 2001 đến tháng 6/2003, NHTW Châu Âu (ECB) cũng đã 13 lần điều chỉnh chính sách lãi suất, đưa mức lãi suất của khu vực này xuống còn 2% - mức thấp nhất kể từ sau Thế chiến II.Việc Mỹ và EU cắt giảm lãi suất đã khiến hàng loạt các NHTW khác phải cắt giảm lãi suất theo.Trung Quốc đã phải giảm lãi suất liên tục trong giai đoạn 1998-2003 nhằm kích cầu trong nước.
CSTT nới lỏng của các nước trong giai đoạn này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hoạt động đầu tư và thương mại toàn cầu. Năm 2004, GDP thực tế toàn cầu đạt 5,3% - mức cao nhất trong vòng 20 năm trước đó. Tốc độ tăng thương mại toàn cầu cũng đạt mức 10,8%, cao hơn so với mức 5,5% của năm 2003 và mức 0,2% của năm 2001. Năm 2004, lượng vốn FDI của toàn thế giới đạt khoảng 612 tỷ USD, tăng 14% so với năm 2003. Đây là năm đầu tiên FDI toàn cầu tăng so với năm trước sau khi đạt mức cao nhất vào năm 2000.
- Sau khoảng gần 3 năm áp dụng CSTT nới lỏng, cùng với sự phục hồi về kinh tế, đầu tư và thương mại, hầu hết các nước trên thế giới phải đối mặt với lạm phát leo thang mà biểu hiện là giá cả nguyên nhiên vật liệu, giá cả hàng tiêu dùng và lương thực thực phẩm đều tăng mạnh. Thêm vào đó, cuộc chiến Iraq và khủng hoảng dầu mỏ cũng làm cho mặt bằng giá thế giới tăng cao. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của các nước đặc biệt là Mỹ trong giai đoạn 2003-2005 có dấu hiệu tăng mạnh. Tốc độ tăng GDP thực tế của Mỹ năm 2005 là 3,1% trong khi CPI cùng năm lên tới 3,4%. Đứng trước nguy cơ lạm phát leo thang, từ giữa năm 2004 đến năm 2006, Mỹ và các nền kinh tế lớn bắt buộc phải chấm dứt CSTT nới lỏng và từng bước chuyển sang chu kỳ điều hành CSTT theo hướng bắt buộc hơn. Từ giữa năm 2004 đến hết năm 2006, FED đã liên tiếp 17 lần điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản đồng USD, đưa lãi suất cơ bản của đồng USD từ 1% lên 5,25% năm 2006 và tiếp tục duy trì trong nửa đầu năm 2007, tạo nên một làn sóng tăng lãi suất mạnh mẽ ở hầu hết các nước trên thế giới. Cùng với Mỹ, trong giai đoạn này, ECB cũng đã 3 lần tăng lãi suất từ 2% lên 2,75%.
Tuy chậm hơn, song từ năm 2006, làn sóng tăng lãi suất cũng đã lan tới châu Á với việc NHTW các nước Hàn Quốc, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ liên tiếp tăng mạnh lãi suất vào năm 2006 nhằm kiềm chế lạm phát.Trong năm 2006, NHTW Hàn Quốc đã bất ngờ tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ của mình lên mức 4,25% - mức cao nhất trong vòng 3 năm trước đó nhằm bình ổn giá cả. NHTW Thái Lan cũng quyết định tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ của mình thêm 0,25% lên mức 5%. Tăng mạnh nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, NHTW nước này đã tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ của mình từ mức 13,25% lên mức 15% nhằm bình ổn thị trường sau khi lạm phát ở đây có dấu hiệu tăng mạnh và đồng Lira của Thổ Nhĩ Kỳ đang mất giá. Ngay cả Nhật Bản, từ năm 2006 cũng đã hướng tới điều chỉnh CSTT theo hướng thắt chặt khi tuyên bố từ bỏ chính sách lãi suất bằng 0 kéo dài suốt giai đoạn 2001-2005.
Từ năm 2006, Trung Quốc bắt đầu thực hiện CSTT thắt chặt, từ 10/4/2006 đến nay, Trung Quốc đã liên tục tăng lãi suất cơ bản và nâng tỷ lệ DTBB đối với các NHTM. Từ tháng 4/2006, lãi suất cơ bản cho vay bằng đồng USD kỳ hạn 1 năm được điều chỉnh 3 lần, mỗi lần tăng 0,27% từ mức 5,13% lên mức 6,31%. Lãi suất tiền gửi bằng đồng NDT sau đó đã được điều chỉnh hai lần, từ mức 1,98% lên mức 2,25%. Trong năm 2006, tỷ lệ DTBB cũng đã liên tục được điều chỉnh 3 lần, nâng tỷ lệ DTBB tăng lên 1,5% trong năm lên mức 9%. Năm 2007, Trung Quốc tiếp tục nâng tỷ DTBB lên 12,5%. CSTT thắt chặt được các nước áp dụng trong giai đoạn 2004-2006 đã khiến tăng trưởng, lạm phát của các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản có chiều hướng chửng lại sau khi đã tăng đỉnh điểm vào năm 2004.
- Sau thời gian dài liên tục áp dụng CSTT thắt chặt nhằm ngăn chặn tình trạng lạm phát leo thang, bước sang năm 2007, dường như mọi dự báo của các tổ chức kinh tế quốc tế đều cho thấy, nền kinh tế thế giới có dấu hiệu tăng trưởng khả quan và các hoạt động kinh tế tài chính vĩ mô tương đối ổn định, lạm phát của các khối kinh tế lớn đã từng bước được kiểm soát. Tuy nhiên, đến giữa năm 2007, dấu hiệu nguy cơ khủng hoảng tín dụng của các khối kinh tế lớn bắt đầu xuất hiện. Đây là hệ quả của việc tăng lãi suất liên tục của FED giai đoạn 2004-2006.
Khởi đầu là tình trạng nợ xấu gia tăng trong lĩnh vực cho vay cầm cố ở Mỹ. Để khuyến khích người dân vay tiền mua nhà, các TCTD đã áp dụng cơ chế cho vay linh hoạt mà không tính tới khả năng chi trả của khách hàng. Cụ thể là, các công ty địa ốc của Mỹ đã đưa ra những sản phẩm vay trả góp mới với lãi suất thả nổi. Rủi ro phát sinh khi FED liên tục tăng lãi suất cơ bản của đồng USD trong thời gian dài làm cho lãi suất cho vay cầm cố của Mỹ cũng tăng theo, dẫn đến người dân không thể trả nợ ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống tín dụng tăng cao và lên tới 300 tỷ USD. Nhiều tập đoàn, ngân hàng, quỹ đầu cơ, các nhà cho vay cầm cố lớn của Mỹ rơi vào tình trạng khó khăn. Khủng hoảng cho vay thế chấp của Mỹ nhanh chóng lan sang Anh và một số nước Châu Âu, ảnh hưởng sâu sắc tới thị trường tài chính thế giới, buộc các NHTW lớn trên thế giới phải phối hợp để ngăn chặn. CSTT nới lỏng được xem là một trong những phương thuốc hữu hiệu để ngăn chặn tình trạng này, với các biện pháp cụ thể sau:
Hầu hết các NHTW lớn đã đều phải nhiều lần bơm tiền vào hệ thống tín dụng nhằm cứu vãn thị trường tài chính trước cơn bão khủng hoảng thế chấp của Mỹ. Trong năm 2007. FED đã 3 lần bơm tiền nhằm cứu vãn TTTT. Lần thứ nhất là 88 tỷ USD tiền mặt để hỗ trợ các ngân hàng; lần thứ hai là 3,5 tỷ USD vào cuối tháng 8/2007; lần thứ ba là 20 tỷ USD vào tháng 12/2007. NHTW Anh cũng đã phải bơm tiếp 14,3 tỷ USD. Trước tác động lan toả của khủng hoảng tín dụng Mỹ, ECB cũng lập tức quyết định rót 94,8 tỷ Euro vào Quỹ hỗ trợ khẩn cấp các thị trường và bơm tiếp 61,05 tỷ Euro vào hệ thống ngân hàng. Đến cuối tháng 12/2007, trước ảnh hưởng của khủng hoảng tín dụng ở Mỹ, ECB cũng đã tuyên bố sẽ chi 500 tỷ USD cho các ngân hàng khu vực với lãi suất ưu đãi thấp hơn lãi suất thị trường. Theo thông báo của ECB, hiện đã có tới 390 ngân hàng yêu cầu vay khoản vốn hỗ trợ từ ECB. NHTW Nhật Bản cũng đã phải bơm 8,4 tỷ USD vào TTTT khi mối lo về khủng hoảng vay thế chấp của Mỹ làm ảnh hưởng tới thị trường chứng khoán nước này. Ngân hàng Dự trữ Australia đã bơm 4,19 tỷ USD vào hệ thống tiền tệ trong nước.
Hàng loạt NHTW các nước, đặc biệt là các nước phát triển đồng loạt thực hiện chính sách cắt giảm lãi suất - mở ra một chu kỳ điều hành lãi suất mới. Từ tháng 9/2007 đến hết tháng 1/2008, FED đã 5 lần cắt giảm lãi suất, đưa mức lãi suất cơ bản từ 5,25% xuống còn 3%. Đồng thời với việc cắt giảm lãi suất cơ bản, FED cũng tiến hành cắt giảm lãi suất chiết khấu từ mức 6,25% xuống còn 5,75%. Tiếp sau Mỹ, NHTW Canađa cũng thực hiện cắt giảm lãi suất cơ bản 0,25% xuống còn 4,25% vào ngày 4/12/2007.
- Sau giai đoạn khủng hoảng kinh tế, năm 2009, các quốc gia vẫn đang áp dụng chính sách lãi suất cực thấp để kích cầu tiêu dùng và đầu tư. Điển hình lãi suất đồng USD của Mỹ hiện đang ở mức thấp nhất trong lịch sử, từ 0-0,25%. Các nhà phê bình cho rằng, mức lãi suất thấp như vậy sẽ châm ngòi cho một cuộc khủng hoảng của đồng USD, hoặc thậm chí tạo tiền đề cho một thời kỳ cho vay bất cẩn và đầu cơ tài chính mới, để rồi rốt cục lại là một cuộc khủng hoảng. Tuy nhiên, Chủ tịch FED Bernanke đã nỗ lực thành công trong việc duy trì niềm tin cho thị trường tài chính và các nhà hoạch định CSTT khác. Ông cũng đã thành công khi thuyết phục được mọi người rằng, rủi ro từ việc giữ lãi suất thấp không lớn bằng rủi ro từ việc tăng lãi suất trở lại, rằng nếu việc nâng lãi suất không đúng thời điểm có thể phá hỏng sự phục hồi kinh tế đang dần hình thành.
Cũng trong hoàn cảnh tương tự, tỷ lệ thất nghiệp khu vực đồng tiền chung châu Âu tháng 7/2009 là 9,5%, mức cao nhất trong 10 năm qua. Thất nghiệp cao sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tiêu dùng. ECB hiện đang hết sức lo lắng về sự hồi phục còn mong manh của nền kinh tế và lo ngại sự đi lên của nền kinh tế sẽ chững lại nếu thắt chặt CSTT quá sớm. Do đó, ECB vẫn duy trì lãi suất cơ bản đồng Euro thấp kỷ lục ở mức 1% trong giai đoạn hiện nay.
Trước tác động nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu, Chính phủ Hàn Quốc và NHTW Hàn Quốc (BoK) đã quyết định can thiệp nhằm ngăn chặn đà suy giảm thông qua các kế hoạch kích cầu cả gói lớn song song với việc cắt giảm đáng kể lãi suất cơ bản.Việc điều chỉnh biên độ lãi suất đang được tiến hành sau khi BoK đóng băng lãi suất ở mức thấp 2% trong suốt các tháng đầu năm 2009. Mức lãi suất trước thời điểm hạ lần cuối là 3,25%. Viện Nghiên cứu Phát triển Hàn Quốc (KDI) nhận định Hàn Quốc sẽ đưa mức lãi suất siêu thấp hiện nay trở lại bình thường, song tiến trình này cần thực hiện theo lộ trình để giảm thiểu tác động tới thị trường.
Kể từ ngày 26/11/2008, NHTW Trung Quốc (PBOC) đã mạnh tay cắt giảm 1,08% lãi suất cho vay kỳ hạn một năm đồng Nhân dân tệ, đưa lãi suất này về mức 5,58%. Đây là mức cắt giảm lãi suất mạnh nhất ở Trung Quốc kể từ năm 1997 nhằm đối phó với tình trạng gia tăng của tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm. Để cảnh báo thị trường phải chuẩn bị cho một chính sách siết chặt trong tương lai, NHTW Trung Quốc đang dùng cách tăng dần lãi suất.Tháng 07/2009, PBOC đã nâng lãi suất đấu thầu trái phiếu chính phủ, từ đó đẩy các mức lãi suất của TTTT lên để tránh tình trạng bong bóng trên thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản và lo ngại gói kích cầu 4.000 tỉ Nhân dân tệ của nước này sẽ khiến cho lạm phát quay trở lại. Lượng cung tiền M2 của Trung Quốc đã tăng lên mức kỷ lục 28,5% trong tháng 6/2009,buộc PBOC phải thắt chặt CSTT thông qua các hoạt động thị trường mở.
Nhìn lại hoạt động điều hành CSTT của các nền kinh tế lớn trong giai đoạn 2001-2009, có thể rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Một là : để chống suy giảm kinh tế, kích thích đầu tư, NHTW các nước đều thực hiện CSTT nới lỏng bằng cách cắt giảm lãi suất, thậm chí là đến mức thấp nhất, nhằm kích cầu tiêu dùng trong nước, đẩy mạnh gia tăng hoạt động đầu tư và thương mại toàn cầu góp phần thúc đẩy cho tăng trưởng kinh tế.
Hai là: sau giai đoạn thực hiện CSTT nới lỏng, các nền kinh tế thường phải đối mặt với tái lạm phát leo thang, thời gian mang tính chu kỳ với khoảng gần 3 năm. Vì vậy, các nền kinh tế buộc phải chấm dứt CSTT nới lỏng và từng bước thực hiện CSTT theo hướng thắt chặt hơn. Quá trình này cần được cân nhắc theo mức độ phục hồi kinh tế của từng quốc gia để không làm bóp nghẹt sự phục hồi của nền kinh tế. Đây là vấn đề Việt Nam cần phải xem xét, khi nền kinh tế đang từng bước thoát khỏi thời kỳ suy giảm. Nếu tiếp tục nới lỏng, tổng lượng tiền trong nền kinh tế sẽ tăng thêm trong khi các yếu tố tiềm ẩn của lạm phát vẫn còn, nhưng nếu thắt chặt thì sản xuất chưa kịp thoát khỏi đình trệ, doanh nghiệp đã phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn đúng vào lúc cần vốn.
Ba là: hoạt động điều hành CSTT, lãi suất của các khối nước khác như EU, Anh, Nhật và các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ hoạt động điều hành CSTT của Mỹ. Điển hình là mỗi đợt tăng giảm lãi suất cơ bản của Mỹ đều có quan hệ chặt chẽ với những biến động trong CSTT các quốc gia khác.Trong đó, nếu xét về thời gian, các nước phát triển thường có phản ứng tức thì trước những biến động trong điều hành CSTT của Mỹ, còn các nước đang phát triển lại có phản ứng chậm hơn gần một năm sau những thay đổi trong CSTT của Mỹ. Lý giải điều này là do độ mở cửa và hội nhập của các nước đang phát triển thường thấp hơn so với các nước phát triển. Do vậy, tác động lan toả từ tác động điều hành CSTT của Mỹ với các nước đang phát triển cũng chậm hơn.
Bốn là: khi tăng lãi suất, các quốc gia sẽ phải đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nợ sau một thời gian dài áp dụng chính sách lãi suất thấp.
Kết luận chương 1
Lãi suất là giá cả của vốn tín dụng nên nó được xác định trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn vay trên TTTT. Đồng thời, lãi suất cũng chịu tác động bởi quan hệ cung cầu tiền tệ. Các thay đổi của lãi suất thực ảnh hưởng đến quyết định tiêu dùng của từng cá nhân và các quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Câu hỏi cụ thể mà doanh nghiệp gặp phải là “với lãi suất như hiện nay thì có nên vay ngân hàng để mua dây chuyền sản xuất không? Nếu đầu tư thì liệu doanh nghiệp có khả năng trả lãi cao như vậy trong thời gian tới không?”. Do đó, điều hành lãi suất ổn định là điều kiện quan trọng để kích thích đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Mọi sự điều tiết cắt giảm lượng cung tiền hoặc bơm thêm tiền vào lưu thông của NHTW sẽ tác động đến lãi suất trên TTTT. Đó được gọi là cơ chế điều hành lãi suất hay chính sách lãi suất của NHTW.
Chính sách lãi suất của NHTW có thể được thực hiện theo hai hướng đó là chính sách can thiệp trực tiếp hoặc chính sách tự do hóa lãi suất. Chính sách này đang được phần lớn các nước có thị trường phát triển áp dụng.Tuy vậy, trong mọi trường hợp, NHTW vẫn có những can thiệp cần thiết khi lãi suất trên TTTT biến động mạnh, nhằm quản lý nền kinh tế theo mục tiêu tăng trưởng ổn định.Chính sách lãi suất của các quốc gia chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ chính sách lãi suất của Mỹ và thường biến động theo chu kỳ.Chính sách lãi suất thấp luôn là động lực quan trọng kích thích nền kinh tế hồi phục sau giai đoạn suy thoái.
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN DIỄN BIẾN KINH TẾ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM.
2.1 Tổng quan tình hình kinh tế - tài chính của Việt Nam giai đoạn 2001-2008
2.1.1 Tăng trưởng kinh tế
Trong 5 năm 2001-2005, trong bối cảnh hết sức khó khăn cả trong và ngoài nước nhưng nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được mức tăng trưởng cao và tương đối bền vững. Tốc độ GDP bình quân 5 năm tăng 7,5%, trong đó nông-lâm-ngư nghiệp tăng 3,8%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%, mức cao nhất kể từ năm 1986 đến thời điểm năm 2005.
Năm 2006, năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm cuối của chiến lược 10 năm 2001-2010, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu do Quốc hội đề ra đều đạt kế hoạch. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,23% (kế hoạch là 8%) và đạt cao hơn chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân của kế hoạch 5 năm 2006-2010 là 7,5%-8%. Năm 2007 tăng trưởng 8,48%.
Tăng trưởng kinh tế năm 2008 đạt 6,23%, không đạt được mục tiêu đề ra (7%) và thấp nhất so với tốc độ tăng trưởng của tám năm trước đó nhưng đây được coi là kết quả đáng ghi nhận vì Việt Nam không bị cuốn hút vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Tuy bị tác động về nhiều mặt nhưng kinh tế không bị suy thoái như nhiều nước, nhất là các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật, Châu Âu vv…
Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2008 (%)
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Tăng trưởng GDP
6,90
7,08
7,34
7,79
8,44
8,23
8,48
6,23
Trong đó
Nông-lâm-ngư nghiệp
2,98
4,17
3,62
4,36
4,00
3,69
3,40
3,79
Công nghiệp và XD
10,39
9,48
10,15
10,21
10,68
10,38
10,6
6,33
Dịch vụ
6,10
6,54
6,45
7,26
8,48
8,29
8,68
7,22
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2008-2009
Cùng với sự tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người của người dân cũng ngày một được cải thiện theo hướng thoát dần ra khỏi ngưỡng nghèo của thế giới. GDP bình quân đầu người tăng từ 402 USD năm 2000 lên 835 USD năm 2007. Năm 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao nhưng tốc độ tăng tỷ giá VND/USD thấp và tốc độ tăng dân số chậm lại nên GDP bình quân đầu người tính bằng USD đã cao hơn nhiều so với các năm trước, đạt 1024 USD. Như vậy,Việt Nam đã về trước hai năm so với mục tiêu đến năm 2010.
Hình 2.1: GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2008-2009
2.1.2 Chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế luôn là mục tiêu hàng đầu và quan trọng. Xu hướng chuyển dịch là tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng các ngành nông-lâm-ngư nghiệp. Tỷ trọng nông-lâm-ngư nghiệp giảm từ 23,25% năm 2001 xuống còn 21,99% vào năm 2008, trong khi đó tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 38,12% năm 2001 lên 39,91% vào năm 2008. Tỷ trọng ngành dịch vụ thường giao động ở mức 38%-39%.
Song song với sự chuyển dịch về cơ cấu giữa các ngành còn có sự chuyển dịch đáng kể về thành phần kinh tế.Chương trình sắp xếp lại các DNNN từ năm 1992 đến nay đã đạt kết quả quan trọng: số lượng DNNN giảm từ hơn 12.000 năm 1992 xuống còn gần 2200 vào tháng 9/2006. Việc tổ chức lại khu vực DNNN hình thành nên các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế lớn, đã hướng các doanh nghiệp tập trung đầu tư vào những lĩnh vực then chốt. Từ năm 2003-2007, DNNN đạt mức tăng trưởng từ 13%-16%, đóng góp khoảng 36%-39% GDP. Kinh tế ngoài Nhà nước phát triển nhanh với nhiều hình thức đa dạng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các thành phần này hiện nay đang dẫn đầu trong nền kinh tế. Giai đoạn 2003-2007, khu vực kinh tế này tăng trưởng bình quân 16%-18%, đóng góp khoảng 45%-46%% trong GDP. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, nâng cao trình độ sản xuất. Với việc duy trì nhịp độ tăng trưởng cao, giai đoạn 2003- 2007 tỷ trọng đóng góp của khu vực này trong GDP là 14%-18%.
Bảng 2.2: Tỷ trọng GDP trong cơ cấu các thành phần kinh tế (%)
2000
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng GDP
100
100
100
100
100
100
Kinh tế nhà nước
38,5
39,1
39,1
38,4
37,4
36,4
Kinh tế ngoài Nhà nước
48,2
46,4
45,8
45,6
45,6
45,9
Kinh tế có vốn đầu tư n.ngoài
13,3
14,5
15,1
16,0
17,0
17,7
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2008-2009
2.1.3 Xuất khẩu - nhập khẩu
Giai đoạn 2001-2005, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt lên mức 111 tỷ USD, tăng trưởng bình quân là 17,5% (kế hoạch là 16%). Năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu lên tới 39,8 tỷ USD, tăng 23% so năm 2005 và đã có 9 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD. Năm 2007, năm đầu tiên Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, kinh tế Việt Nam hội nhập một bước sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, kim ngạch xuất khẩu đạt 48,4 tỷ USD, tốc độ tăng là 21,9% so năm 2006. Năm 2008, mặc dù bị tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu nhưng lĩnh vực xuất khẩu đạt được những thành tựu rất cao, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt 62,9 tỷ USD, lớn gấp 1,9 lần năm 2005.
Giai đoạn 2001-2005, tổng kim ngạch nhập khẩu nước ta đạt 130 tỷ USD. Năm 2006, kim ngạch nhập khẩu lên tới 44,9 tỷ USD, năm 2007 là 62,9 tỷ USD và năm 2008 đạt 80,4 tỷ USD. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị và phụ tùng, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng.
Nhập siêu hàng hóa được kiềm chế và nằm trong tầm kiểm soát. Mặc dù thời kỳ 2001-2005, nhập siêu cao nhất, lên tới 19,1 tỷ USD, bằng 17,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, tuy nhiên việc nhập siêu với cơ cấu hàng nhập khẩu đã được thay đổi, chủ yếu là máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đi theo các công trình dự án đầu tư FDI là điều cần thiết trong thời kỳ công nghiệp hóa ở nước ta. Đến năm 2006, tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu 12,7%, tăng lên đến 29,1% năm 2007 và 27,8% năm 2008.
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa từ 2001-2008
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Nhập siêu
Giá trị
(Tr USD)
%/ GDP
Giá trị
(Tr USD)
%/GDP
Giá trị
(Tr USD)
%/GDP
%/XK
2001
15.029,2
46,3
16.217,9
49,9
1.188,7
3,6
7,9
2002
16.706,1
47,6
19.745,6
56,3
3.039,5
8,7
18,2
2003
20.149,3
50,6
25.255,8
63,5
5.106,5
12,9
25,3
2004
26.485,0
58,4
31.968,8
70,5
5.483,8
12,1
20,7
2005
32.447,0
61,1
36.761,1
69,2
4.314,0
8,1
13,3
2006
39.826,2
65,3
44.891,1
73,6
5.064,9
8,3
12,7
2007
48.561,4
68,2
62.682,2
88,8
14.120,8
20,6
29,1
2008
62.906,0
71,3
80.416,0
91,1
17.510,0
19,8
27,8
Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam - Kinh tế 2008-2009
2.1.4 Thu chi ngân sách
Với mục tiêu cân đối ngân sách một cách tích cực, giữ bội chi ở mức hợp lý, tăng dần dự trữ, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế, dự kiến tổng thu ngân sách trong 5 năm 2006-2010 đạt khoảng 1.437 nghìn tỷ đồng, bằng 193% tổng thu ngân sách 5 năm 2001-2005 và bằng khoảng 23%/GDP. Tốc độ tăng thu ngân sách bình quân hàng năm đạt 12,9%. Riêng năm 2008, theo báo cáo của Bộ Tài chính, tổng thu NSNN ước tính tăng 26,3% so với năm 2007 và bằng 123,8% dự toán năm, trong đó thu nội địa bằng 110,9%; thu từ dầu thô bằng 143,3%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 141,1%. Cơ cấu thu chuyển dịch theo hướng tỷ trọng các nguồn thu nội địa tăng lên, tỷ trọng thu từ dầu thô sẽ giảm xuống.
Đối với chi NSNN, qui mô chi vẫn còn đạt ở mức cao, bình quân trên 28%/GDP trong giai đoạn 2003-2006. Năm 2007 tổng chi NSNN đạt 34,91%/GDP. Tổng chi NSNN năm 2008 ước tính tăng 22,3% so với năm 2007 và bằng 118,9% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 118,3%, bội chi NSNN năm 2008 ước tính bằng 13,7%. Giai đoạn 2006-2010, cơ cấu chi NSNN dự kiến sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng chi trả nợ, viện trợ, đảm bảo tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển chiếm khoảng 28-29%/GDP tổng chi NSNN.
Hình 2.2: Thu chi NSNN từ 2001-2008 (%/GDP)
Nguồn: Website của Bộ tài chính www.mof.gov.vn , Bộ kế hoạch đầu tư
2.1.5 Huy động vốn cho đầu tư phát triển
Với những tác động của các cơ chế chính sách đã được ban hành, việc huy động nguồn vốn cho đầu tư tăng nhanh. Từ năm 2001 đến nay tổng vốn cho đầu tư phát triển tăng nhanh, tỷ lệ đầu tư so với GDP đã từ 35,4% năm 2001 lên đến 45% vào năm 2007 và 43,1% vào năm 2008. Đây là tỷ lệ cao so với các nước trong khu vực, chỉ thấp hơn so với Trung Quốc. Tính trung bình giai đoạn 1995-2005 tỷ lệ đầu tư của Việt Nam đứng thứ chín trên thế giới. Đặc biệt kể từ khi ban hành luật Doanh nghiệp năm 2005, nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân tăng lên mạnh mẽ và vượt cao hơn vốn đầu tư của DNNN. Năm 2001, nguồn vốn này chiếm 22,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, năm 2007 tăng lên 35,3%, năm 2008 ước tính 41,3%. Nguồn vốn đầu tư thuộc NSNN giảm dần, chiếm khoảng 28,9% vào năm 2008.
Nguồn vốn FDI đóng vai trò quan trọng tăng cường nguồn lực cho đầu tư phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý. Kể từ khi luật Đầu tư nước ngoài được ban hành đến hết tháng 11/2007, Việt Nam thu hút được 8.411 dự án của 82 quốc gia và vùng lãnh thổ, mức vốn đăng ký đạt xấp xỉ 78,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 29 tỷ USD. Tính đến hết năm 2008, vốn đăng ký đạt khoảng 163,7 tỷ USD và vốn thực hiện đạt gần 56,9 tỷ USD, đóng góp bình quân khoảng 17% vào GDP.
2.2 Đánh giá chính sách lãi suất với mục tiêu tăng trưởng kinh tế
2.2.1 Quá trình phát triển của chính sách lãi suất
2.2.1.1 Cơ chế thực thi chính sách lãi suất cố định (1989-5/1992)
Theo cơ chế này, NHNN can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay. Cơ chế lãi suất thực âm và mang nặng tính chất bao cấp được duy trì trong suốt thời kỳ này với tính chất: lãi suất cho vay đối với DNNN thấp hơn lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất danh nghĩa thấp hơn tỷ lệ lạm phát, lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay dài hạn. Tình trạng này làm cho lãi suất không thực hiện được chức năng vốn có của nó, lãi suất không còn là đòn bẩy kích thích nhu cầu gửi tiền của công chúng, phát huy tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng.
2.2.1.2. Cơ chế điều hành khung lãi suất (6/1992-1995)
Đặc trưng của cơ chế lãi suất này là NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, qui định rõ sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các NHTM, các TCTD căn cứ khung lãi suất của NHNN để đưa ra các lãi suất thích hợp. Cơ chế này có nhiều ưu điểm như: chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương để đảm bảo cho người dân gửi tiền, ngân hàng là người cho vay đều được lợi, xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế. Thay thế việc ấn định lãi suất cụ thể bằng quản lý theo khung lãi suất, bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay.
NHNN cho phép các NHTM được thoả thuận lãi suất với khách hàng (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu- lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ năm). Lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của CSTT cùng với lãi suất tái cấp vốn được hình thành vào đầu năm 1991 khi Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực. Lãi suất tái cấp vốn được tính bằng phần trăm so với lãi suất cho vay của TCTD. Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này còn nhiều hạn chế.
Những thay đổi trên thể hiện chính sách lãi suất đã được cải cách theo hướng linh hoạt hơn và phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Sự thay đổi từ việc ấn định các mức lãi suất cụ thể sang quy định trần và sàn lãi suất, cho phép các TCTD chủ động quyết định mức lãi cụ thể, là bước chuyển biến quan trọng để tiến tới quá trình tự do hoá lãi suất. Mặc dù vậy, cơ chế này vẫn khống chế trực tiếp lãi suất trên thị trường, làm giảm tác dụng kích thích và điều tiết kinh doanh của các NHTM.
2.2.1.3 Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996-7/2000)
NHNN đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động và linh hoạt trần lãi suất cho vay. Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình q._.iên ngân hàng hoạt động tốt sẽ tạo điều kiện cho các TCTD tăng tỷ lệ tài sản có sinh lời, giảm dự trữ tiền mặt tại ngân hàng. Ngân hàng có thể dự trữ, các loại giấy tờ có giá như tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN phát hành… Khi cần thiết để đảm bảo khả năng chi trả, các TCTD vừa có thể bán ra trên thị trường liên ngân hàng lại vừa có lợi nhuận. Bên cạnh đó, hiện tượng thừa thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng là chuyện bình thường. Do vậy, thông qua thị trường này có thể vay mượn lẫn nhau.
- Đối với Chính phủ : cần sớm trình Quốc hội thông qua Luật NHNN và Luật Các tổ chức tín dụng theo hướng tạo sự chủ động cho NHTW phù hợp với luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế. Điều này tạo một hành lang pháp lý thống nhất và cơ bản, giúp NHTW điều hành CSTT và triển khai thực hiện các chính sách vĩ mô có tính ổn định và dài hạn. Mức độ phát triển thị trường liên ngân hàng là yếu tố quan trọng, cho phép một NHTW chuyển dần sử dụng các công cụ mang tính qui định sang các công cụ mang tính thị trường.
- Đối với NHNN : cần xây dựng các cơ chế về hoạt động của thị trường liên ngân hàng theo hướng mở, hạn chế tối đa tình trạng xin cho và điều hành các công cụ gián tiếp theo mệnh lệnh hành chính như hiện nay. Nên duy trì sự biến động của lãi suất thị trường liên ngân hàng trong phạm vi hành lang giữa lãi suất tái cấp vốn và nhận tiền gửi thanh toán của NHTW. Tăng cường biện pháp để các ngân hàng giao dịch với nhau trên thị trường liên ngân hàng, thay vì giao dịch với NHTW.
Phát triển hoạt động môi giới tiền tệ của NHTW thành một nghiệp vụ của NHTW song hành cùng các nghiệp vụ TTTT khác.
Tăng cường khả năng dự báo thanh khoản của NHTW và các thành viên. Khả năng dự báo tốt sẽ giúp cho NHTW chủ động trong điều hành CSTT. Dự báo thanh khoản giúp NHTW quyết định cung cấp hoặc rút bớt lượng tiền là bao nhiêu trên thị trường. Từ đó, tránh hoặc giảm những biến động quá mức trên thị trường. NHNN cần đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển hệ thống thanh toán.
3.3.2.5 Phát triển TTCK, tạo sự gắn kết giữa TTTT với TTCK nhằm khơi thông dòng luân chuyển vốn
Phát triển TTCK nhằm tăng thêm kênh huy động vốn của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, tránh tình trạng dồn nhu cầu vốn lên vai hệ thống ngân hàng sẽ khó tránh khỏi sức ép tăng lãi suất như thời gian vừa qua. TTTT và TTCK phát triển sẽ như hai bình thông nhau trong sự luân chuyển vốn, lãi suất ngân hàng tăng hoặc giảm sẽ ảnh hưởng đến giá chứng khoán giảm hoặc tăng, cũng như ảnh hưởng đến dòng luân chuyển vốn. Vốn được chuyển từ TTCK sang TTTT hoặc ngược lại. Trong trường hợp một trong hai hoặc cả hai thị trường vận hành không tốt thì sự thông nhau giữa hai thị trường sẽ bị hạn chế. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến cơ chế truyền tải CSTT qua kênh giá tài sản. Một số giải pháp chủ yếu để ổn định và phát triển TTCK là:
- Đẩy mạnh tái cấu trúc TTCK, trên cơ sở triển khai thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm yết, thị trường giao dịch trái phiếu chuyên biệt, từng bước hoàn thiện các khu vực thị trường niêm yết, OTC, trái phiếu và khả năng kết nối với thị trường khu vực. Nghiên cứu đưa sản phẩm phái sinh vào sử dụng nhằm giảm thiểu rủi ro và đa dạng hóa các công cụ đầu tư.
- Đẩy mạnh cổ phần hóa để đảm bảo chương trình cải cách doanh nghiệp, tạo hàng chất lượng cao cho TTCK và thu hút đầu tư. Tuy nhiên, do sức cầu hiện nay chưa cao nên cần tránh đưa ra đấu giá, chuyển sang áp dụng theo đối tác chiến lược. Thực hiện các giải pháp để thúc đẩy các doanh nghiệp đã cổ phần hóa đủ điều kiện phải thực hiện niêm yết. Đồng thời tiến hành rà soát để có thể bán tiếp phần vốn của nhà nước tại các công ty cổ phần mà nhà nước không cần giữ cổ phần chi phối.
- Tăng qui mô, tiềm lực vốn công nghệ cho hệ thống NHTM trên cơ sở tăng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài vào các NHTM.
3.3.2.6 Hoàn thiện hệ thống thông tin hỗ trợ cho hoạch định và thực thi CSTT
Việc bùng nổ về các loại hình dịch vụ ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến việc thực thi CSTT, các hình thức dịch vụ mới như thẻ tín dụng, máy rút tiền mặt ATM ... đã làm cho cầu tiền phản ứng một cách nhanh hơn trước các diễn biến của lãi suất, tức là đã làm tăng độ co dãn của cầu tiền đối với lãi suất, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển của các luồng vốn, làm cho cung cầu tiền tệ trở nên khó dự báo hơn, cơ chế truyển tải CSTT nhạy cảm hơn.
Hiện nay, vấn đề nắm bắt thông tin thị trường còn rất nhiều bất cập, nhiều chỉ tiêu hiện chưa có để phục vụ cho việc điều hành các chính sách CSTT. Do vậy, để có cơ sở dữ liệu phân tích xác định cơ chế truyền dẫn CSTT, việc hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường của quốc gia là rất cần thiết Ứng dụng công nghệ thông tin sẽ giúp cải thiện chất lượng thống kê tiền tệ và khả năng phân tích và dự báo kinh tế
Để hoàn thiện hệ thống thông tin hổ trợ cho hoạch định và thực thi CSTT, NHNN cần thực hiện các giải pháp như đẩy mạnh liên doanh, liên kết và hợp tác với các tổ chức trong nước và nước ngoài về kinh doanh, nghiên cứu và phát triển dịch vụ ngân hàng để nhanh chóng tiếp cận công nghệ mới, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Tranh thủ sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của các tổ chức quốc tế để hiện đại hóa công nghệ và mở rộng dịch vụ ngân hàng.
3.3.3 Nhóm giải pháp nhằm đảm bảo điều hành chính sách lãi suất linh hoạt và kịp thời
Trong quá trình điều hành CSTT, sẽ có những thời điểm biến động về tiền tệ. Lúc đó, lãi suất phải được điều hành một cách linh hoạt, kịp thời, giảm thiểu các tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Muốn vậy, NHNN cần phải có những quyết định nhanh nhạy, sử dụng các công cụ gián tiếp một cách linh hoạt, hạn chế các biện pháp trực tiếp gây sốc nền kinh tế.
3.3.3.1 Xây dựng NHTW mạnh có tính độc lập cao so với chính phủ.
Câu hỏi đặt ra, liệu một NHTW độc lập có giúp duy trì mức lạm phát thấp và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cao hơn hay không? Thập niên 1990 đã chứng kiến nhiều nước, trong đó có cả những nước đã và đang phát triển, thực hiện quá trình chuyển đổi mô hình NHTW sang hướng làm tăng tính độc lập hơn cho tổ chức này. Các phân tích thực nghiệm về mối quan hệ giữa sự độc lập của NHTW với các biến số kinh tế vĩ mô như sau:
- Quan hệ với lạm phát: nghiên cứu của Alesina và Summers (1993) dựa trên các quan sát giai đoạn từ năm 1955-1988 cho thấy có mối quan hệ nghịch biến giữa tính độc lập của NHTW với lạm phát bình quân và với sự biến thiên của chỉ số lạm phát. Kết quả này cũng phù hợp với những kết quả nghiên cứu khác của Cukierman, Webb và Neyapti (1992), Debelle và Fischer (1994). Điều này mang lại nhiều ý nghĩa cho Việt Nam bởi kiềm chế lạm phát đã từng là một ưu tiên chính sách của Chính phủ và trong tương lai lạm phát vẫn luôn là một nguy cơ lớn tiềm ẩn đối với nền kinh tế Việt Nam.
- Quan hệ với thâm hụt ngân sách: nghiên cứu của Pollard (1993) về mối quan hệ giữa tính độc lập của NHTW với cán cân ngân sách trong giai đoạn từ năm 1973-1989 đã chứng minh rằng ở những nước có NHTW độc lập cao thì tỷ lệ thâm hụt ngân sách càng giảm. Theo Pollard, khi các quan hệ cho vay theo chỉ định hay ứng vốn cho ngân sách không còn chịu sự chi phối của chính phủ thì sẽ tạo ra một kỷ luật trong chi tiêu tốt hơn, qua đó góp phần làm tăng tính minh bạch và tạo ra một cán cân ngân sách bền vững hơn.Cùng với lạm phát, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam cũng là một thách thức lớn cho các nhà hoạch định chính sách. Với tình trạng thâm hụt ngân sách hàng năm trên dưới 5% GDP và luôn kéo dài trong nhiều năm đã không những làm xói mòn tính kỷ luật trong chi tiêu ngân sách mà còn làm tăng gánh nặng nợ quốc gia, kể cả nợ trong nước và nước ngoài.
- Quan hệ với tăng trưởng kinh tế: nghiên cứu của Alesina và Summers (1993), của Barro (1991), De Long và Summers (1992), Levine và Renelt (1992) không thấy mối quan hệ có ý nghĩa về mặt thống kê giữa tính độc lập của NHTW với tăng trưởng sản lượng thực tế sau khi kiểm soát các yếu tố khác tác động đến tăng trưởng kinh tế.Các lý thuyết kinh tế phát triển đã chứng minh rằng tăng trưởng kinh tế là sự phức hợp của nhiều yếu tố và chính sách khác nhau. Cho nên mặc dù không có mối quan hệ có ý nghĩa về mặt thống kê giữa mức độ độc lập của NHTW với tăng trưởng kinh tế nhưng một CSTT có hiệu lực và hiệu quả sẽ góp phần vào tăng trưởng kinh tế ổn định hơn.
Thực tế cho thấy NHNN Việt Nam có mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính phủ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định TTTT thời gian qua. Vì vậy, nâng cao tính độc lập của NHNN là một trong những điều kiện tiên quyết để tạo tiền đề căn bản trong hiệu quả hoạt động và là nền tảng quan trọng bảo đảm trước hết NHNN thực sự là NHTW và sau đó là tiến tới một NHTW hiện đại.
Một số đề xuất chính sách chính nhằm tạo điều kiện và cơ sở để NHNN có thể độc lập hơn, qua đó kỳ vọng làm cho CSTT trở nên có hiệu lực, hiệu quả hơn đối với các mục tiêu kiểm soát lạm phát, giảm thâm hụt ngân sách. Đặc biệt là sự độc lập giúp cho NHNN phản ứng nhanh nhạy hơn khi vận dụng các công cụ gián tiếp để điều hành lãi suất mang tính ổn định.
- Về địa vị pháp lý: trong dự thảo Luật NHNN sửa đổi, được NHNN soạn thảo chuẩn bị trình Chính phủ, địa vị pháp lý của NHNN vẫn được giữ nguyên, tức là cơ quan ngang bộ của Chính phủ. Điều này cho thấy chính bản thân NHNN vẫn chưa sẵn sàng cho một địa vị mới có tính độc lập hơn đối với Chính phủ. Tuy nhiên, cho dù NHNN đã sẵn sàng cho một vị thế độc lập mới thì với cấu trúc thể chính trị hiện nay cộng với những quan hệ có tính thông lệ giữa NHNN với các cơ quan khác của Chính phủ thì mục tiêu độc lập hoàn toàn với các quyết sách Chính phủ là chưa khả thi. Khi địa vị pháp lý không được độc lập thì khả năng độc lập về mục tiêu và quá trình thực thi chính sách cũng ít nhiều bị giới hạn.Bước đi đầu tiên có tính thử nghiệm cho một NHTW độc lập là cho phép NHNN được độc lập trong việc lựa chọn mục tiêu chính sách ưu tiên trong nhóm các mục tiêu được chọn lựa phù hợp với điều kiện nền kinh tế vĩ mô mà không nhất thiết phải phù hợp với các chính sách khác của Chính phủ. Đồng thời, với vị thế là một cơ quan của Chính phủ thì mức độ độc lập tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành là phù hợp hơn cả. Tại Quyết định 112 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến 2020 cũng đã ghi rõ “... NHNN độc lập, tự chủ trong việc xây dựng, điều hành CSTT, lãi suất và tỷ giá hối đoái”.
- Về mặt tổ chức nhân sự: nhiệm kỳ của Ban lãnh đạo NHNN có thể dài hơn nhiệm kỳ của Chính phủ và Quốc hội, hoặc xen kẽ giữa các nhiệm kỳ của Chính phủ. Như vậy, quá trình ra quyết định của NHNN sẽ không bị ảnh hưởng bởi chu kỳ thành lập Chính phủ, chu kỳ lập và thực hiện kế hoạch kinh tế. Thống đốc sẽ bị ảnh hưởng một khi Chính phủ thay đổi nhân sự do hết nhiệm kỳ.
- Về mục tiêu: luật cần đưa ra một hoặc một nhóm các mục tiêu chính sách cụ thể, rõ ràng và thống nhất. Quốc hội cần loại bỏ những mục tiêu chung và không rõ ràng như đảm bảo quốc phòng an ninh hay nâng cao đời sống nhân dân. Nghiên cứu mục tiêu chính sách của các NHTW trên thế giới cho thấy chúng thường tập trung vào các mục tiêu chính như kiểm soát lạm phát, duy trì công ăn việc làm, tăng trưởng kinh tế, ổn định hệ thống tiền tệ và thị trường tài chính. NHNN nên được trao quyền lựa chọn mục tiêu cho từng thời kỳ phù hợp với điều kiện kinh tế vĩ mô mà không chịu sự can thiệp hay chỉ đạo từ phía Chính phủ hay các cơ quan liên quan khác.
- Về quyết định thực thi chính sách: Thống đốc NHNN phải được trao quyền quyết định trong việc thực thi các CSTT và tự chịu trách nhiệm về các quyết định đó chứ không nên thông qua Chính phủ. Điều này không những góp phần làm tăng tính chủ động cho NHNN mà còn làm giảm độ trễ ngoài của CSTT - một yếu tố quan trọng làm giảm tính hiệu lực của chính sách.
- Về quan hệ với ngân sách: cần có qui định cụ thể về chức năng “là ngân hàng của Chính phủ” theo hướng NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực tiếp mà NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho Chính phủ thông qua cho ngân sách vay trên thị trường thứ cấp có hạn mức và lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm bảo khi cho các NHTM vay. Để đảm bảo hiệu quả của CSTT, những nhiệm vụ khác như tạm ứng chi ngân sách cũng nên được quy định lại để Thống đốc có quyền từ chối trong mục tiêu thâm hụt ngân sách được Quốc hội phê duyệt hàng năm và chủ động trong việc điều hành cung, cầu tiền trên thị trường.
- Về tổ chức và cơ chế tài chính: thực hiện tốt CSTT đòi hỏi NHNN phải thu hút được đội ngũ lớn những chuyên gia đầu ngành về tài chính, ngân hàng nên cần phải cạnh tranh với các NHTM trong việc thu hút chuyên gia về môi trường làm việc và chế độ lương thưởng. Hơn nữa, để cho việc thực thi chính sách có tính phản biện cao, Thống đốc cần được trao quyền chủ động trong việc thành lập Ban tư vấn CSTT, trong đó quy tụ những chuyên gia đầu ngành có kinh nghiệm quản lý và tư vấn tại các NHTW của các nước phát triển am hiểu về điều kiện kinh tế Việt Nam.
- Về trách nhiệm giải trình: nâng cao tính độc lập và tự chủ của NHNN đối với các mục tiêu và quyết định chính sách phải đi kèm với trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch. Thống đốc NHNN theo định kỳ hoặc theo đề nghị phải có trách nhiệm giải trình trước Quốc hội về các quyết định chính sách trong giới hạn chức năng và thẩm quyền được giao phó.
3.3.3.2 NHNN cần có những điều chỉnh hợp lý trong bộ ba: công cụ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở để ổn định thị trường.
- Công cụ DTBB: mặc dù công cụ này khá hữu hiệu trong thời gian qua nhưng trong tương lai nên hạn chế sử dụng, bởi lẽ đây là công cụ vẫn ít nhiều mang tính chất hành chính và có tính đánh đồng như nhau giữa các ngân hàng. Hơn nữa, nếu liên tục thay đổi DTBB sẽ ảnh hưởng lớn đến việc quản trị thanh khoản của các ngân hàng và trong mọi trường hợp thì hệ thống ngân hàng vẫn tốn chi phí chấp hành ngay cả khi NHNN trả lãi cho DTBB.
- Công cụ lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn: trong thời gian qua, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có lúc vượt qua lãi suất tái cấp vốn hoặc có lúc phá đáy lãi suất chiết khấu nhưng NHNN vẫn không can thiệp hoặc can thiệp chưa đúng mức. Như vậy có thể nói, hai công cụ lãi suất này chưa hoàn thành tốt vai trò của mình. Do vậy, trong thời gian tới, NHNN cần sử dụng linh hoạt và hữu hiệu hơn hai công cụ này thông qua việc xác định qui mô tổng hạn mức chiết khấu và tổng hạn mức tái cấp vốn sát với nhu cầu thị trường, đồng thời phải kết hợp với việc sử dụng công cụ thị trường mở để tác động nhằm giữ lãi suất trên thị trường liên ngân hàng biến động nằm trong khung lãi suất chiết khấu (lãi suất sàn) và lãi suất tái cấp vốn (lãi suất trần).
- Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: trên lý thuyết lẫn thực tế, nghiệp vụ thị trường mở luôn thể hiện là công cụ có nhiều ưu thế, đặc biệt đây là công cụ duy nhất mà NHTW có thể sử dụng để đảo ngược tình thế . Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ này để bơm tiền nhằm giảm căng thẳng trên thị trường liên ngân hàng trong thời gian qua (tháng 2/2008) không đem lại kết quả như mong đợi vì chính những ngân hàng thiếu hụt thanh khoản nhiều nhất lại không thể tham gia các giao dịch với NHNN để được cấp thanh khoản do họ không nắm trong tay các giấy tờ có giá đủ điều kiện để giao dịch. Điều này đã làm giảm đi đáng kể nghiệp vụ thị trường mở trong việc can thiệp nhằm duy trì lãi suất liên ngân hàng trong khung mục tiêu của NHNN.
Do đó, nhằm gia tăng thêm phương tiện cho việc thực thi chính sách lãi suất của mình, NHNN cần phải giám sát chặt chẽ hơn hoạt động tín dụng của các NHTM, đồng thời phải làm tốt hơn công tác thu thập, xử lý số liệu thống kê và dự báo diễn biến thị trường, đồng thời khuyến khích hoặc thậm chí có thể bắt buộc các NHTM phải nắm giữ một tỷ lệ nhất định giấy tờ có giá đủ tiêu chuẩn giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở thì mới gia tăng được hiệu quả của công cụ này.
3.3.3.3 Bãi bỏ việc qui định giá cả tín dụng
Trong năm 2008, lạm phát tăng cao, việc quy định khống chế trần lãi suất cho vay đã giúp cho NHNN chặn đứng và kiểm soát cuộc chạy đua tăng lãi suất của các NHTM. Hiện nay, tốc độ lạm phát đã được kiểm soát, lãi suất ngân hàng đã giảm sâu, kinh tế suy giảm thì việc quy định như trên đã và đang nảy sinh một số bất cập trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng như:
- Việc khống chế trần lãi suất cho vay là một biện pháp can thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ động và linh hoạt của các NHTM trong vấn đề huy động vốn và cho vay.
- Việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất của các loại hình tín dụng, các đối tượng vay vốn, làm cho các ngân hàng rất khó đa đạng hóa các sản phẩm dịch vụ cũng như phát triển khách hàng.
- Việc giới hạn lãi suất sẽ mất đi một tín hiệu đánh giá thị trường khi không thể căn cứ vào lãi suất trên thị trường liên ngân hàng để đánh giá mức độ thiếu vốn của hệ thống ngân hàng như trước đây. , ảnh hưởng đến công tác dự báo và thực thi các biện pháp can thiệp của NHNN.
Vì vậy, đã đến lúc cần thiết phải cho phép các NHTM thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận để góp phần thúc đẩy phát triển phong phú các loại hình dịch vụ, tín dụng, kích thích sản xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước phát triển.
Song song đó, lãi suất huy động VND sau một giai đoạn ngắn giảm mạnh đã tăng trở lại và các dự báo đang ủng hộ xu hướng tăng lãi suất trong trung và dài hạn đó là: nhu cầu về VND đang tăng mạnh do kỳ vọng của người dân và doanh nghiệp về VND sẽ tiếp tục giảm giá so với USD; Sau khi khủng hoảng tài chính ở Mỹ xảy ra và kéo theo sự suy giảm kinh tế trên toàn cầu, tất cả các nước đã thi hành CSTT nới lỏng, việc lạm phát trở lại trong tương lai trên toàn cầu sẽ là tất yếu. Ngoài ra, nhu cầu vay vốn VND đang tăng mạnh khi gói kích cầu hỗ trợ lãi suất 4% của Chính phủ còn hiệu lực và sự gia tăng đầu tư khi kinh tế thế giới phục hồi.Vì thế, đồng thời với việc bãi bỏ việc kiểm soát giá cả tín dụng, NHNN cần chủ động thực hiện các biện pháp kiểm soát gián tiếp nhằm kiềm chế sự gia tăng của lãi suất.
3.3.4 Nhóm giải pháp thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng ngân hàng và kiểm soát sử dụng vốn vay hiệu quả của các doanh nghiệp
Khi lãi suất đã được điều hành ổn định và phù hợp với thị trường, vấn đề tiếp
theo đó là thực hiện các biện pháp thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng ngân hàng với các doanh nghiệp để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư. Đối với khu vực kinh tế Nhà nước, việc tiếp cận nguồn vốn này không quá khó. Nhưng đối với khu vực kinh tế tư nhân, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là không dễ dàng.
3.3.4.1 Giải pháp thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng giữa doanh nghiệp với các ngân hàng
Về phía cơ quan Nhà nước
- Cần áp dụng các biện pháp vĩ mô để kích cầu chi tiêu, khuyến khích người dân mua sắm để kích thích sản xuất, cải thiện môi trường kinh doanh để kích thích các doanh nghiệp đầu tư.
- Chính Phủ cần tích cực xây dựng và có các biện pháp khuyến khích việc phát triển các thể chế nhằm hỗ trợ thông tin cho thị trường, nên đưa ra các ưu đãi để phát triển các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thông tin, tài chính như các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đánh giá xếp hạng doanh nghiệp, định giá tài sản, tư vấn tài chính, kiểm toán. Bên cạnh đó, việc khuyến khích thành lập các hội ngành nghề sẽ tạo sự gắn kết, trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp trong ngành và là cầu nối giữa các doanh nghiệp trong ngành với thị trường bên ngoài trong đó có bên cung ứng vốn như ngân hàng. Thông tin đầy đủ, chính xác về khách hàng, về thị trường có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng cho vay.
- NHNN cần tạo điều kiện và hỗ trợ cho các NHTM trong việc xây dựng mối liên hệ với nhau, giữa các ngân hàng với các định chế tài chính phi ngân hàng và với các định chế tài chính khác, làm được điều này sẽ giúp các ngân hàng có những thông tin quý báu về nhìn nhận đánh giá khách hàng đúng đắn hơn, ngăn ngừa sự ham muốn mưu lợi bất chính của các khách hàng, nâng cao chất lượng thông tin giữa các NHTM với nhau, thống nhất trong một số nghiệp vụ cho vay hay chính sách tín dụng, chính sách lãi suất nhằm giảm bớt sự biến động không nên có trên thị trường tài chính tiền tệ, tạo niềm tin cho khách hàng khi bước chân đến bất kỳ một TCTD nào.
- Khi xem xét các điều kiện cho vay vốn, các ngân hàng thường chú trọng đến khả năng tài chính đảm bảo trả nợ đúng hạn của khách hàng nên yêu cầu về tài sản thế chấp. Đây là khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp cần sự hỗ trợ từ các tổ chức bảo lãnh tín dụng của Nhà nước :
Cần có cơ chế đảm bảo cho nhiều quỹ bảo lãnh tín dụng ở các địa phương ra đời và đi vào hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay ngân hàng. Đến nay, mới có 11/63 địa phương ban hành quyết định thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN. Theo Bộ Tài chính, nguyên nhân để mô hình quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động chưa hiệu quả là do cơ cấu vốn để bảo lãnh cho tín dụng chưa hợp lý. Quỹ thì được huy động vốn từ ngân sách địa phương và các NHTM. Tuy nhiên, ngân sách các địa phương thì luôn luôn eo hẹp, còn vốn từ các NHTM thì không huy động được nhiều. Vì vậy, để quỹ bảo lãnh tín dụng hoạt động hiệu quả thì rất cần cơ cấu lại theo hướng vốn hoạt động của quỹ chủ yếu từ ngân sách cấp và các nguồn hỗ trợ quốc tế, chỉ kêu gọi một phần rất nhỏ từ doanh nghiệp và không vận động từ NHTM.
Cần nới lỏng điều kiện bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng thông qua Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Hiện nay, các điều kiện để doanh nghiệp được bảo lãnh đó là: vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng; sử dụng không quá 500 lao động; không có nợ tại các tổ chức tín dụng; không nợ đọng thuế; có tối thiểu 10% vốn chủ sở hữu; sử dụng 100% giá trị tài sản hình thành từ vốn vay ngân hàng để làm thế chấp đảm bảo cho khoản bảo lãnh của Ngân hàng Phát triển Việt Nam. Các điều kiện để được bảo lãnh đòi hỏi quá cao, trong khi đó khả năng đáp ứng của doanh nghiệp lại hạn chế. Do đó, sau hai tháng thực hiện, tính đến hết tháng 3/2009 toàn hệ thống Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã nhận được 506 hồ sơ xin bảo lãnh vay vốn. Tuy nhiên, sau quá trình sàng lọc chỉ có 177 hồ sơ đáp ứng đủ điều kiện. Do đó, Ngân hàng Phát triển Việt Nam cần nghiên cứu nới lỏng các qui định trên để giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận được phương thức này.
- Việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng Nhà nước trong quá trình hoạt động và chia sẻ thông tin sẽ giúp cho việc giải quyết các thủ tục hành chính được nhanh gọn, giảm chi phí giao dịch cho doanh nghiệp và ngân hàng. Hiện tại, hoạt động đăng ký giao dịch đảm bảo do thiếu liên kết thông tin và thái độ bất hợp tác của một số cán bộ thừa hành đã làm nản lòng không ít các doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan hữu quan cần có cơ chế phối hợp cung cấp thông tin để việc đánh giá, ra quyết định tín dụng của ngân hàng được chính xác, tránh lựa chọn ngược ảnh hưởng xấu đến hoạt động ngân hàng.
Về phía các ngân hàng
Tình trạng các ngân hàng thừa vốn trong khi các doanh nghiệp thiếu vốn vẫn còn khá phổ biến, bởi các điều kiện vay vốn của các ngân hàng nhìn chung vẫn nhằm mục đích ràng buộc khách hàng phải trả nợ hơn là sự phát triển sản xuất kinh doanh. Do đó, để thảo gỡ khó khăn vay vốn cho doanh nghiệp các ngân hàng nên :
- Hoàn thiện mô hình chấm điểm, xếp loại khách hàng: các ngân hàng cần xây dựng phương pháp tính toán trong quản trị rủi ro tín dụng, đưa ra các chỉ tiêu phi tài chính một cách chính xác, phù hợp hơn. Không nên quá chú trọng vào các chứng chỉ, bằng cấp khi đánh giá năng lực quản trị, điều hành của doanh nghiệp mà phải căn cứ vào lịch sử kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xây dựng hệ thống xếp hạn doanh nghiệp để rút ngắn thời gian thẩm định. Xem xét và quyết định cho vay không nên phân biệt giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ mà chỉ phân biệt doanh nghiệp đủ hay không đủ điều kiện cho vay vốn.
- Cần điều chỉnh linh hoạt chính sách tín dụng phù hợp với qui định của NHNN và tình hình thực tế trên thị trường trong từng thời kỳ, trong đó nên có chính sách áp dụng lãi suất ưu đãi đối với những khách hàng truyền thống
- Điều chỉnh điều kiện cho vay sát với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp Việt Nam và những diễn biến trên thị trường, nhất là trong bối cảnh các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn như hiện nay.Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ đã khiến cho hàng chục ngân hàng của Mỹ bị phá sản (Lehman Brothers, Washington Mutual…) hoặc bị bán lại (Bear Stearns, Merrill Lynch…), buộc phải chuyển đổi kinh doanh sang tập đoàn ngân hàng đa chức năng (Goldman Sachs, Morgan Stanley…). Cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ bắt đầu từ việc cho vay dưới chuẩn. Đây là bài học cho các ngân hàng Việt Nam khi xem xét cho vay đối với khách hàng.
- Tiếp tục hạ dần lãi suất cho vay phù hợp với cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong từng thời kỳ và những diễn biến trên thị trường để tạo điều kiện hơn nữa cho doanh nghiệp tiếp cận vốn vay phát triển sản xuất kinh doanh, tăng khả năng thanh toán của nền kinh tế.
- Ngân hàng có thể hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách giúp doanh nghiệp ngay từ bước lập kế hoạch, dịch vụ tư vấn, hỗ trợ thông tin doanh nghiệp. Đồng thời, các ngân hàng cũng cần theo dõi suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp để giải quyết những vướng mắc phát sinh cùng doanh nghiệp.
Về bản thân các doanh nghiệp
Hiện nay các doanh nghiệp vẫn rất khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn ngân hàng, nhiều hồ sơ vay vốn của các doanh nghiệp bị ngân hàng từ chối do: thông tin tài chính của doanh nghiệp còn ít, trình độ quản lý điều hành của doanh nghiệp còn yếu, công nghệ lạc hậu, thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao, thiếu tài sản thế chấp, cầm cố đảm bảo nghĩa vụ trả nợ …Theo số liệu công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay chỉ có khoảng 32% DNVVN có khả năng tiếp cận vốn, 35% doanh nghiệp khó tiếp cận và khoảng 33% không thể tiếp cận nguồn vốn. Do đó, tự bản thân các doanh nghiệp cần tăng cường năng lực tài chính của mình bằng nhiều cách có thể được như: tích luỹ tối đa bằng lợi nhuận, tăng cường vốn góp của các thành viên, liên kết với các doanh nghiệp khác. Nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp.
Ngoài ra, yêu cầu về minh bạch trong các báo cáo tài chính lẫn việc lập phương án sản xuất kinh doanh đang là rào cản lớn khi doanh nghiệp đi tìm vốn vay. Doanh nghiệp hiện nay thường có hai hệ thống kế toán riêng biệt, một là để báo cáo thuế và một là tình hình kinh doanh thực tế của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính để khai thuế thường có kết quả thấp hơn so với tình hình thực tế hoặc để lỗ. Khi đi vay ngân hàng thì doanh nghiệp thường đưa ra báo cáo tài chính được lập theo báo cáo thuế (vì sợ bị truy thu thuế), mà căn cứ vào những báo cáo này thì doanh nghiệp sẽ không đủ điều kiện được vay. Do vậy, trước hết doanh nghiệp cần lập báo cáo tài chính rõ ràng, đủ độ tin cậy, loại bỏ báo cáo tài chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế. Trong tương lai không xa, báo cáo tài chính của các DNVVN cũng phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập.
3.3.4.2 Kiểm soát tình hình sử dụng vốn vay của doanh nghiệp
- Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng : xu hướng hiện nay, quy mô vốn cho vay mỗi dự án, mỗi khách hàng ngày càng lớn hơn. Các dự án vay vốn có mục đích đa dạng hơn, lĩnh vực kinh doanh phức tạp hơn, thị trường diễn biến thất thường và tính cạnh tranh cao hơn. Do đó, công tác thẩm định lại càng quan trọng hơn trước khi quyết định cho vay. Việc thẩm định dự án, phương án sản xuất kinh doanh chính là việc đưa ra những nhận định về khả năng trả nợ của khách hàng.
- Nâng cao chất lượng giám sát tín dụng: các ngân hàng cần tăng cường giám sát mục đích sử dụng vốn vay và các luồng tiền thanh toán của doanh nghiệp bằng cách hạn chế cho vay tiền mặt. Bên cạnh việc kiểm tra vốn vay, ngân hàng cần quan tâm đến nguồn tiền thanh toán của doanh nghiệp, ngân hàng nên áp dụng biện pháp thế chấp nguồn thu như là một biện pháp đảm bảo tiền vay.
Để đảm bảo đánh giá chính xác năng lực tài chính của khách hàng thì cần phải nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của khách hàng bằng cách ràng buộc nghĩa vụ thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm trong hợp đồng tín dụng.
Trong quá trình giám sát vốn vay, ngân hàng cần có những biện pháp cụ thể để hạn chế tối đa những thiệt hại do khách hàng có những khó khăn về tình hình tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh. Ngân hàng cần phân tích nguyên nhân nợ quá hạn của từng doanh nghiệp, từ đó có biện pháp tháo gỡ. Đối với những doanh nghiệp có nợ quá hạn có tính chất tạm thời, hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, ngân hàng cần xem xét khả năng trả nợ và phương án sản xuất kinh doanh trong thời gian tới để quyết định gia hạn nợ, giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn và có biện pháp trả nợ
Kết luận chương 3
Với những dự báo triển vọng phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu, nhất là về thương mại và đầu tư. Việt Nam có rất nhiều cơ hội để tăng trưởng mạnh mẽ khi đã hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi, sẽ có không ít những thách thức, nhất là nền kinh tế chịu tác động của môi trường đối ngoại ngày càng nhiều, sự di chuyển luồng vốn giữa các quốc gia đang tăng mạnh. Vì thế, vai trò kiểm soát tổng lượng tiền trong nền kinh tế, ổn định tỷ giá và lãi suất đang đặt ra cho CSTT nhiều khó khăn hơn.
Nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng cao (GDP tăng gấp 2,5 đến 3 lần so năm 2010) với lộ trình đã đặt ra, chính sách lãi suất cần phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc nhất quán là ổn định trong dài hạn, linh hoạt kịp thời trong ngắn hạn. Đảm bảo cho các doanh nghiệp luôn có một môi trường kinh doanh và đầu tư ổn định.
Do vậy thực hiện các giải pháp mang tính quyết định như: kiểm soát dòng vốn vào với mục tiêu điều hành CSTT, phối hợp đồng bộ chính sách tài khóa và CSTT, hướng tới điều hành chính sách mục tiêu lạm phát, phát triển thị trường liên ngân hàng, phát triển TTCK, hoàn thiện hệ thống thông tin, xây dựng NHTW mạnh có tính độc lập cao, sử dụng có hiệu quả các công cụ gián tiếp, bãi bỏ kiểm soát giá cả tín dụng; cùng với việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ như thúc đẩy quan hệ vay vốn tín dụng và kiểm soát vốn là những giải pháp cần thiết phải thực hiện trong giai đoạn hiện nay.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA1988.doc