Chính sách lãi suất của Nhà nước và việc vận dụng vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phầnQĐ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT - MỸ VỚI VẤN ĐỀ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG MỸ NGƯỜI THỰC HIỆN : TRẦN LƯU HOÀNG LỚP A1CN9 KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : THS. PHẠM THU HƯƠNG HÀ NỘI 2003 LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá là xu thế chung của các nước, các khu vực và toàn thế giới. Các nước ngày càng phát triển thì càng phụ thuộc lẫn nhau nhiều hơn trên tinh thần hợp

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách lãi suất của Nhà nước và việc vận dụng vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phầnQĐ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và cùng có lợi. Việt Nam từ khi mở cửa kinh tế đến nay đã thu được nhiều thành công, mà thành công trong phát triển kinh tế là rất quan trọng. Cán cân thương mại giữa Việt Nam và các nước ngày càng lớn. Trên con đường hội nhập vào xu thế quốc tế hoá của kinh tế thế giới, quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với các nước là vô cùng quan trọng. Cho đến nay Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với trên 120 nước, đã ký Hiệp định thương mại với trên 60 nước và thoả thuận về quy chế tối huệ quốc với hơn 70 nước và vùng lãnh thổ, trong đó quan hệ thương mại với Hoa Kỳ là rất quan trọng. Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ được thiết lập năm 1995 đã giúp cho thương mại giữa hai nước ngày càng được cải thiện. Tiến trình bình thường hoá quan hệ kinh tế đã được cụ thể hoá bằng Hiệp định thương mại Việt - Mỹ ngày 13/7/2000, trong đó hai bên cam kết dành cho nhau qui chế tối huệ quốc ngay lập tức và vô điều kiện. Hiệp định thương mại giữa hai nước đã là tiền đề quan trọng cho hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ, một thị trường lớn có nhiều phân đoạn. Tuy nhiên với trình độ sản xuất còn hạn chế, hàng Việt Nam gặp không ít thách thức khi vào thị trường này. Do đó, Việt Nam cần phải đưa ra được những định hướng, chủ trương kịp thời để thực hiện Hiệp định thương mại hiệu quả góp phần phát triển tốt kinh tế đất nước. Hiểu được tầm quan trọng của Hiệp định thương mại đối với hoạt động xuất nhập khẩu của đất nước, em chọn đề tài: “Hiệp định thương mại Việt- Mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ”. Nội dung của khoá luận tốt nghiệp được trình bày trong 3 chương : Chương I: Tổng quan về Hiệp định thương mại Việt- Mỹ và nhu cầu của thị trường Mỹ. Chương II: Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và cơ hội - thách thức đối với việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ Chương III: Đánh giá việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và các giải pháp đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ Em đã cố gắng thu thập, xử lý thông tin và đem những kiến thức đã học được ở trường Đại học Ngoại thương để hoàn thành khoá luận này. Tuy nhiên, do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của thày cô và bạn bè để khoá luận được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Phạm Thu Hương, THS, Giảng viên trường Đại học Ngoại thương, đã hướng dẫn em hoàn thành khoá luận này. CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT- MỸ VÀ NHU CẦU CỦA THỊ TRƯỜNG MỸ. I. Tổng quan về Hiệp định thương mại Việt-Mỹ 1. Bối cảnh cuộc đàm phán thương mại Việt - Mỹ 1.1 Bối cảnh chung Xu hướng phát triển kinh tế thế giới hiện nay là toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh mẽ đến sự phát triển thương mại trên phạm vi toàn thế giới. Toàn cầu hoá là hướng tới một nền kinh tế toàn cầu thống nhất không còn biên giới quốc gia về kinh tế. Đó là, quá trình liên kết hợp nhất của các nền kinh tế quốc gia vào kinh tế thế giới trên tất cả các lĩnh vực: sản xuất, thương mại, đầu tư, tài chính, thông tin, vận tải, bảo hiểm, dịch vụ … Trình độ phát triển ngày càng cao, hình thành các hệ thống sản xuất, phân phối tài chính, các mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông vận tải toàn cầu, hình thành các công ty xuyên quốc gia, các hệ thống tài chính quốc tế và các trung tâm kinh tế thế giới quan trọng. Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức xúc, đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia. Chúng ta có thể thấy hàng loạt các vấn đề nóng bỏng toàn cầu như: Thương mại, đầu tư, tiền tệ, dân số, lương thực, năng lượng, môi trường… Môi trường toàn cầu ngày càng bị phá hoại, các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt; Dân số thế giới tăng nhanh trở thành một thách thức lớn; Các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự phối hợp điều tiết đã làm nảy sinh các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu âu, Châu Mỹ, và Châu á trong các thập kỷ cuối thể kỷ vừa qua. Điều cần thiết là phải có sự phối hợp toàn cầu để đối phó với các thách thức đó. Chính sách của từng chính phủ chỉ tác động ở từng quốc gia riêng lẻ. Còn trên bình diện thế giới chưa có một “bàn tay hữu hình” chung làm chức năng điều tiết toàn cầu. Mà sau khi chấm dứt chiến tranh lạnh, chấm dứt sự đối đầu giữa các cường quốc thì thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển đã làm cho kinh tế thế giới sôi động hơn. Các nước trao đổi buôn bán với nhau nhiều hơn. Toàn cầu hoá là một quá trình tất yếu, là hệ quả của quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, của các phương tiện khoa học công nghệ. Toàn cầu hoá, khu vực hoá dẫn đến hội nhập quốc tế. Trong xu hướng đó, các nước ngày càng tuỳ thuộc lẫn nhau, tạo điều kiện đẩy lùi nguy cơ chiến tranh thế giới. Duy trì môi trường hoà bình ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế quốc gia, khu vực và thế giới ngày càng phát triển. Tự do hoá thương mại, xoá dần đi các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, các phân biệt đối xử trong quan hệ buôn bán quốc tế. Buôn bán quốc tế chuyển sang một thời kỳ mới đó là mở rộng tự do buôn bán được cụ thể hoá bằng việc ra đời WTO và những ưu đãi thương mại trong khuôn khổ hợp tác cùng có lợi. 1.2. Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hoá như vậy, vấn đề hội nhập để phát triển theo kịp thế giới đối với Việt Nam là một tất yếu khách quan. Con đường thích hợp với Việt Nam là hội nhập để kết nối thị trường trong nước với khu vực và trên thế giới, tạo ra môi trường kinh doanh có khả năng cạnh tranh cao. Với đường lối đối ngoại rộng mở Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước, sẵn sàng mở rộng hợp tác, quan hệ hữu nghị với các nước trên thế giới, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Hội nhập là quá trình tham gia vào cạnh tranh quốc tế cũng như cạnh tranh ở thị trường nội địa. Hội nhập tốt thì sản phẩm của Việt Nam sẽ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế, các nguồn đầu vào của sản xuất và kinh doanh trong nước ngày càng phong phú, dễ lựa chọn những loại hàng hoá có chất lượng cao mở rộng tiêu dùng trong nước, kích thích nhu cầu, tăng đầu tư và đưa ra những sản phẩm có chất lượng cao ngang tầm quốc tế. Khi thực hiện tự do hoá thương mại, Việt Nam tham gia nhanh chóng vào hệ thống phân công lao động quốc tế hiện đại. Hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới giúp Việt Nam phát triển kinh tế nhanh, rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và thế giới. Kinh tế Việt Nam chuyển đổi nhanh sang kinh tế thị trường với định hướng mạnh vào xuất khẩu đưa kinh tế Việt Nam mở rộng về quy mô và trình độ. Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam đã diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau: Song phương, tiểu khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Đáng kể là, trong thời gian vừa qua, tiếp theo việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ, hai bên đã tiến hành nhiều vòng đàm phán để ký kết các Hiệp định kinh tế song phương. Từng bước bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại. Trong khi đó ở khu vực, từ khi là thành viên của ASEAN, Việt Nam ngày càng nỗ lực thực hiện các chương trình hợp tác kinh tế, đặc biệt là chương trình khu vực mậu dịch tự do AFTA. Sau một thời gian chuẩn bị, Việt Nam đã là thành viên APEC năm 1998. Đối với tiến trình hợp tác Á - Âu (ASEM) chúng ta đã cùng các nước Châu á khác tham gia tích cực hội nghị cấp cao ASEM – 3 ở Seoul (Hàn quốc). Việt Nam cũng tích cực chuẩn bị đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) một tổ chức kinh tế thương mại toàn cầu thể hiện sự hội nhập với kinh tế thế giới. Ngoài ra Việt Nam cũng hợp tác với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) để phục vụ tốt cho tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế. Việt Nam là một nước đang phát triển, có nền kinh tế chuyển đổi, tham gia hội nhập với xuất phát điểm tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, hội nhập kinh tế đem đến nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng có không ít khó khăn. Để hội nhập có hiệu quả, chúng ta phải phát huy tối đa nội lực, thực hiện nhiều cải cách, điều chỉnh hợp lý cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu lại kinh tế trong nước phù hợp với phát triển kinh tế quốc tế. Cải cách bên trong sẽ hỗ trợ hội nhập nhanh và hiệu quả. Ngược lại hội nhập kinh tế sẽ đẩy nhanh tiến trình cải cách trong nước hiệu quả hơn. 2. Tiến trình đàm phán ký kết Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 2.1. Kết quả đạt được qua các vòng đàm phán. Đàm phán ký kết Hiệp định thương mại với Mỹ là một yêu cầu quan trọng nhằm tạo môi trường pháp lý cho quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển và làm tiền đề cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam được thuận lợi hơn. Vấn đề cốt lõi của Hiệp định thương mại giữa hai nước cũng như gia nhập WTO của Việt Nam là Mỹ dành cho Việt Nam Quy chế Quan hệ Thương mại bình thường (NTR) trong quan hệ song phương hay đa phương. Mục tiêu cần đạt được là hai nước sẽ dành cho nhau NTR trên cơ sở có đi có lại, không điều kiện và không phải xem xét lại hàng năm. Hầu hết các quốc gia có quan hệ thương mại với Mỹ đều được hưởng NTR. Quy chế này quy định các mức thuế thấp đánh vào hàng nhập khẩu đã đạt được trong các vòng đàm phán về tự do thương mại. Khi Việt Nam còn chưa được hưởng NTR thì hàng Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ phải chịu thuế suất cao, làm cho hàng hoá Việt Nam bán trên thị trường Mỹ kém hấp dẫn, thậm chí không có khả năng cạnh tranh với hàng hoá sản xuất tại Mỹ. Tháng 10/1995, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam và Đại diện Thương mại Mỹ thoả thuận hai bên tập trung thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại và chuẩn bị đàm phán Hiệp định thương mại. Tháng 11/1995, Đoàn Liên bộ Mỹ thăm Việt Nam để tìm hiểu Hệ thống luật lệ thương mại, đầu tư của Việt Nam. Tháng 4/1996, Mỹ trao cho Việt Nam bản “Những yếu tố bình thường hoá quan hệ kinh tế - thương mại với Việt Nam”. Tháng 7/1996, Việt Nam trao cho Mỹ bản “Năm nguyên tắc bình thường hoá quan hệ kinh tế - thương mại và đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ” đáp lại văn bản nói trên. Để ký kết được Hiệp định thương mại, Việt Nam và Mỹ đã tiến hành đàm phán qua các vòng: - Vòng 1 : Từ 2/9/1996 đến 26/9/1996 tại Hà Nội. - Vòng 2 : Từ 9/12/1996 đến 11/12/1996 tại Hà Nội. - Vòng 3 : Từ 12/4/1997 đến 17/4/1997 Mỹ trao cho Việt Nam văn bản dự thảo Hiệp định đề cập đến các vấn đề như : Quy định về giá và điều tiết giá. Hệ thống thuế. Các trợ cấp đối với mỗi lĩnh vực của nền kinh tế nhất là đối với nông nghiệp. Chế độ đầu tư. Cán cân thanh toán. Thuế quan nhập khẩu, bao gồm tất cả thuế quan ưu đãi, phí hải quan, miễn thuế. Các biện pháp tự vệ và các đền bù thương mại khác (Chống bán phá giá và thuế đối kháng). Giấy phép nhập khẩu. Các công ty, doanh nghiệp Nhà nước. Tiêu chuẩn và chứng nhận hàng hoá nhập khẩu, các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ. Hoạt động đối ngoại. Hệ thống thống kê và phát hành các ấn phẩm về ngoại thương. Hệ thống bảo hộ quyền tác giả. Các bước tự do hoá thương mại trong tương lai được thể hiện trong các quy định và các bộ luật của quốc gia... - Vòng 4 : Từ 6/10/1997 đến 11/10/1997 tại Washington, sơ bộ trao đổi về những quy định chung và chương Thương mại hàng hoá trong Hiệp định. - Vòng 5 : Từ 16/5/1998 đến 22/5/1998 tại Washington. - Vòng 6 : Từ 15/9/1998 đến 22/9/1998 tại Hà Nội. Tại các vòng đàm phán 5, 6 hai bên tập trung trao đổi tổng thể về Thương mại hàng hoá, Sở hữu trí tuệ, Thương mại dịch vụ và Đầu tư. Sau 6 vòng đàm phán đầu tiên, nhìn chung các vấn đề cơ bản của một Hiệp định thương mại đã được đưa ra đàm phán và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ sau: + Các bên cơ bản thống nhất được các lĩnh vực quan trọng là dựa trên các chuẩn mực của WTO để đưa ra dự thảo Hiệp định như chương về Thương mại hàng hoá, Sở hữu trí tuệ, tuy nhiên có một số vấn đề có thể mở rộng hơn WTO nhưng đang bàn ở diễn đàn khác như Đầu tư. + Các bên qua thời gian giải thích về chính sách hiện hành của mình đã hiểu biết nhau hơn và đã có thể đánh giá được mức độ cam kết sẽ được các bên chấp nhận ở mức độ nào nhưng chưa thể đi đến những kết luận cụ thể vì những vấn đề còn khác nhau thường phải do cấp cao quyết định còn ở cấp chuyên viên chưa thể quyết định được. + Các bên đã đưa ra dự thảo của mình với quy mô khác nhau nhưng cũng ở mức hàng trăm trang (nếu kể cả các phụ lục thì dài hơn nhiều) và dựa trên cơ sở đó để so sánh và tiến hành đàm phán rõ quan điểm của nhau. Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các công ty Mỹ ở Việt Nam, Quy chế Đối xử quốc gia trong thương mại dịch vụ và đầu tư, mức độ mở cửa thị trường cho hàng hoá của nhau là những nội dung chính của vòng đàm phán thứ 6 ở cấp chuyên viên. Tại vòng đàm phán này nhiều nội dung đã được làm rõ và tuy vẫn còn nhiều sự khác biệt, hai bên cũng đã thoả thuận được một số vấn đề cụ thể. Bên Việt Nam đồng ý thực hiện hầu hết những quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trừ vấn đề thuế nhập khẩu, nhưng không thể đồng ý với yêu cầu của phía Mỹ muốn Việt Nam bãi bỏ ngay những chính sách không phù hợp với những quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Khu vực tự do mậu dịch ASEAN (AFTA) như chế độ hạn ngạch, hàng rào phi quan thuế...và áp dụng ngay những quy định đó trong quan hệ thương mại với Mỹ, trước khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức này. - Vòng 7 : Từ 15/3/1999 đến 19/3/1999 tại Hà Nội. Tại vòng đàm phán thứ 7, hai đoàn tập trung trao đổi những vấn đề quan trọng nhất còn lại chưa xử lý được trong các vòng đàm phán trước nằm ở các chương “ Phát triển Quan hệ đầu tư”, “ Thương mại dịch vụ”, “ Thương mại hàng hoá” và “ Sở hữu trí tuệ”. Cuộc đàm phán đã đạt được kết quả tốt đẹp. Phần lớn các vấn đề nêu ra đã tìm được tiếng nói chung, khoảng cách giữa hai bên đã được thu hẹp. Hai đoàn hài lòng với kết quả đàm phán. Tuy nhiên, hai đoàn cũng ghi nhận còn một số vấn đề thuộc lĩnh vực quyền thương mại và dịch vụ mà hai bên sẽ xem xét và thảo luận tiếp để có thể sớm đi đến ký kết Hiệp định thương mại nhằm thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế - thương mại, tăng cường trao đổi phát triển hàng hoá và hợp tác đầu tư giữa hai nước. - Vòng 8: Từ 14/6/1999 đến 18/6/1999 tại Washington. Nội dung của vòng đàm phán thứ 8 là giải quyết các vấn đề còn tồn tại từ vòng trước. Cả hai bên đều tỏ thái độ thiện chí và cố gắng nhằm giải quyết những vướng mắc còn tồn đọng. Theo các thành viên đoàn Việt Nam, những vấn đề còn lại tuy không nhiều nhưng lại nằm rải rác ở mỗi chương, nhưng đây lại là những vấn đề khó nhất. Dư luận Mỹ, đặc biệt là giới doanh nghiệp Mỹ rất quan tâm ủng hộ việc ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước. Họ đã tổ chức viết thư lên các nghị sỹ Quốc hội Mỹ kiến nghị đẩy nhanh quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế với Việt Nam, điều này góp phần cải thiện bầu không khí quan hệ giữa hai nước. Quyết định miễn áp dụng Đạo luật bổ sung Jackson - Vanik đối với Việt Nam là một dấu hiệu tốt cho việc phát triển mối quan hệ Việt - Mỹ, nhất là trước vòng đàm phán thứ 8. Các vấn đề do phía Việt Nam đưa ra đều được xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và chuẩn mực quốc tế. Phía Việt Nam đã đưa ra một lộ trình hợp lý để thực hiện các nguyên tắc của WTO trong bối cảnh Việt Nam là một nước đang phát triển và đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Ông Nguyễn Đình Lương, Trợ lý Bộ trưởng Thương mại, Trưởng đoàn đàm phán Việt Nam khẳng định rằng các đề xuất nói trên thể hiện nỗ lực cao nhất của Việt Nam để tiến tới kết thúc quá trình đàm phán và ký Hiệp định thương mại giữa hai nước, thể hiện đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hội nhập kinh tế thế giới, tạo điều kiện để Việt Nam phát huy cao độ nội lực, nhằm xây dựng một nền kinh tế vững mạnh. Ông Nguyễn Đình Lương tỏ ý mong muốn phía Mỹ thể hiện sự hiểu biết thực sự và có đánh giá đầy đủ hơn về những nỗ lực của phía Việt Nam trong các đề xuất được đưa ra tại vòng đàm phán này, để có thể sớm kết thúc đàm phán và tiến tới ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước trong thời gian sớm nhất. Hai bên đã thu hẹp đáng kể nhiều vấn đề tồn tại, tạo thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ thương mại giữa hai nước nhưng vẫn còn một số vấn đề quan trọng chưa được giải quyết như dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm ... Đại sứ Mỹ Pete Peterson cho rằng những cơ sở tài chính ở Việt Nam hiện nay vẫn còn rất non nớt và phải khá lâu nữa mới có thể sánh ngang hàng với những hệ thống tài chính quốc tế. Chính vì thế, Mỹ đòi hỏi Việt Nam phải củng cố các cơ sở tài chính trong nước để có thể cạnh tranh trên thương trường quốc tế cũng như thoả mãn những đòi hỏi trong nước. Như vậy, trong tương lai, Việt Nam sẽ phải cho phép những cơ sở tài chính cũng như các hãng bảo hiểm của nước ngoài vào làm ăn tại đây. - Vòng 9 : Từ 23/7/1999 đến 25/7/1999 tại Hà Nội, gặp mặt cấp Bộ trưởng - Hiệp định đã được thoả thuận về nguyên tắc. - Vòng 10 : Từ 28/8/1999 đến 2/9/1999 tại Washington, xử lý các vấn đề về kỹ thuật. - Vòng 11: 3/7/2000 tại Washington, hoàn tất Hiệp định. Qua 11 vòng đàm phán, hai bên đều thể hiện sự quyết tâm thúc đẩy nhanh tiến trình đàm phán ký kết Hiệp định thương mại. Cả Việt Nam và Mỹ đều bày tỏ sự quan tâm tới quá trình bình thường hoá quan hệ về kinh tế vì các doanh nghiệp của cả hai phía đang mong đợi điều này. Tuy nhiên không phải vì lợi ích trước mắt mà bỏ qua những lợi ích lâu dài nên các bên vừa quyết tâm đàm phán vừa phải bảo vệ lợi ích lâu dài của mình. Ngày 13/7/2000 tại Washington (tức ngày 14/7/2000 ở Việt Nam), Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Vũ Khoan và bà Charlene Barshefsky, Đại diện Thương mại thuộc phủ Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã thay mặt Chính phủ hai nước ký Hiệp định giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước, kết thúc một quá trình đàm phán lâu dài và kiên trì. Hiệp định được ký đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 5 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, đã hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. 2.2 . Ý nghĩa của Hiệp định. Sau sự kiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, giới báo chí và doanh nhân của cả hai nước đều tỏ ý vui mừng trước những nỗ lực mà hai phía đã đạt được trong suốt 4 năm liền đàm phán bền bỉ. Hiệp định được ký kết dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế và các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), có tính đến Việt Nam là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế và đang hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Hiệp định có hiệu lực (sau khi được Quốc hội của hai Nhà nước phê chuẩn) sẽ đánh dấu việc bình thường hoá hoàn toàn quan hệ Việt - Mỹ, tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ kinh tế - thương mại hai nước phát triển trên cơ sở cân bằng lợi ích, phù hợp với mong muốn của nhân dân hai nước. Cho đến nay, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với trên 60 nước và thoả thuận về Quy chế Tối huệ quốc với hơn 70 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, đối với nước ta đây là lần đầu một Hiệp định thương mại mang tính chất đồng bộ, đề cập một cách toàn diện tới các lĩnh vực kinh tế - thương mại hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, bản quyền, sở hữu trí tuệ được ký kết. Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ vừa là kết quả vừa tạo thêm điều kiện để tiếp tục triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chắc chắn Hiệp định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước, cho phép tăng nhanh kim ngạch trao đổi thương mại không chỉ với Mỹ mà cả với các nước khác, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Mỹ tham gia vào các hoạt động kinh tế ở Việt Nam. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết là bước đi lịch sử trong quá trình bình thường hoá, hoà giải và hàn gắn giữa hai dân tộc, thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam với cộng đồng Quốc tế và tăng cường mậu dịch giữa hai nước. Hiệp định này không chỉ bảo đảm lợi ích của hai nước Việt Nam và Mỹ mà còn là một đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định, hợp tác để phát triển ở khu vực và trên thế giới. Mỹ cũng đánh giá Hiệp định này là một bước tiến quan trọng của việc Việt Nam tham gia Tổ chức thương mại thế giới và khẳng định tích cực ủng hộ Việt Nam gia nhập tổ chức này. Với thiện chí và quyết tâm của cả hai bên, chúng ta tin rằng Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ được thực hiện đầy đủ trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng lợi ích và chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, góp phần phát triển kinh tế - thương mại của hai quốc gia nói riêng và thế giới nói chung. Việc ký kết và thực hiện Hiệp định là phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được yêu cầu đó, các ngành, các cấp và các doanh nghiệp cần ra sức phát huy tối đa nội lực, cải tiến quản lý, tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật, nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. 3. Những nội dung chủ yếu của Hiệp định Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000 là một sự kiện đánh dấu bước phát triển tích cực của mối quan hệ song phương kể từ ngày hai quốc gia lập quan hệ ngoại giao. Hiệp định dài gần 120 trang, gồm 7 chương với 72 điều và 9 phụ lục, đề cập đến 4 nội dung chủ yếu: Thương mại hàng hoá, Thương mại dịch vụ, Sở hữu trí tuệ và Quan hệ đầu tư. Như vậy có nghĩa là bản Hiệp định này tuy được gọi là Hiệp định về quan hệ thương mại nhưng không chỉ đề cập đến lĩnh vực thương mại hàng hoá. Khái niệm “ thương mại ” ở đây được đề cập theo ý nghĩa rộng, hiện đại, theo tiêu chuẩn của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và có tính đến đặc điểm kinh tế của mỗi nước để quy định sự khác nhau về khung thời gian thực thi các điều khoản. Do Mỹ đã tuân thủ tất cả các luật lệ của WTO và là một trong những nước tự do hoá thương mại nhất trên thế giới nên hầu như tất cả các điều khoản trong Hiệp định, Mỹ đều thực hiện ngay. Còn Việt Nam là nước đang phát triển ở trình độ thấp và đang chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, nên kèm theo bản Hiệp định là 9 bản phụ lục có quy định các lộ trình thực hiện cho phù hợp với Việt Nam. Hiệp định được xây dựng trên hai khái niệm quan trọng. Khái niệm “Tối huệ quốc” (đồng nghĩa với Quan hệ thương mại bình thường) mang ý nghĩa hai bên cam kết đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước kia không kém phần thuận lợi so với cách đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước thứ ba (đương nhiên không kể đến các nước nằm trong Liên minh thuế quan hoặc Khu vực mậu dịch tự do mà hai bên tham gia, ví dụ Mỹ sẽ không được hưởng những ưu đãi của ta dành cho các nước tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ta cũng không được hưởng tất cả các ưu đãi Mỹ dành cho các nước khác trong Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Còn khái niệm “Đối xử quốc gia” thì nâng mức này lên như đối xử với các công ty trong nước. Hai khái niệm này quan trọng vì chúng được đề cập đến ở hầu hết các chương của bản Hiệp định. Ngoài ra, các phụ lục được dùng để liệt kê các trường hợp loại trừ, chưa hoặc vĩnh viễn không áp dụng hai khái niệm trên. Chương 1: Thương mại hàng hoá gồm 9 điều. Chương 2: Quyền Sở hữu trí tuệ gồm 18 điều. Chương 3: Thương mại dịch vụ gồm 11 điều. Chương 4: Phát triển Quan hệ đầu tư gồm 15 điều. Chương 5: Những điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động bình thường. Chương 6: Những điều khoản minh bạch và quyền được kháng cáo. Chương 7: Những điều khoản chung. Sau đây chúng ta sẽ xem xét những nội dung chủ yếu của Hiệp định. 3.1 Thương mại hàng hoá. * Những quyền về thương mại: Cả hai bên cam kết thực hiện những quyền thương mại theo chuẩn mực quốc tế và WTO. Tuy nhiên, đây là lần đầu Việt Nam đồng ý thực hiện quyền về xuất nhập khẩu một cách cởi mở, tuân theo những quy định chặt chẽ của WTO. Do vậy, những quyền đối với các doanh nghiệp Việt Nam, các công ty do Mỹ đầu tư, và tất cả các cá nhân và công ty Mỹ hoạt động tại Việt Nam theo Hiệp định này sẽ được tiến hành trong từng giai đoạn từ 3- 6 năm (được áp dụng dài hơn đối với một số mặt hàng nhạy cảm). * Quy chế tối huệ quốc: Việt Nam và Mỹ cam kết thực hiện đối xử thuế quan tối huệ quốc đối với tất cả các mặt hàng nhập khẩu vào mỗi nước (mức thuế quan này là 50% đối với các quốc gia không nhận được MFN). * Cắt giảm thuế quan: Việt Nam đồng ý cắt giảm thuế quan (mức cắt giảm điển hình là từ 1/3 đến 1/2 ) đối với một loạt các sản phẩm được các nhà xuất khẩu Mỹ quan tâm như các sản phẩm vệ sinh, phim, máy điều hoà nhiệt độ, tủ lạnh, xe gắn máy, điện thoại di động, video games, thịt cừu, bơ, khoai tây, cà chua, hành, tỏi, các loại rau xanh khác, nho, táo và các loại hoa quả tươi khác, bột mỳ, đậu tương, dầu thực vật, thịt và cá đã được chế biến, các loại nước hoa quả...Việc cắt giảm thuế quan các mặt hàng này được áp dụng dần dần trong giai đoạn 3 năm. Phía Mỹ thực hiện cắt giảm ngay theo quy định của Hiệp định song phương. * Những biện pháp phi quan thuế: Phía Mỹ, theo quy định của WTO sẽ không có những rào cản phi quan thuế (trừ hạn ngạch đối với hàng dệt may). Trong khi đó, Việt Nam đồng ý loại bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với một loạt các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp (các linh kiện lắp ráp, thịt bò, các sản phẩm cam, quýt...) trong giai đoạn từ 3 -7 năm, phụ thuộc vào từng mặt hàng. * Cấp giấy phép nhập khẩu: Việt Nam sẽ loại bỏ tất cả các thủ tục cấp giấy phép một cách tuỳ ý, và sẽ tuân thủ theo các quy định của Hiệp định WTO. Về việc định giá trị đánh thuế hải quan và các khoản phí hải quan, Việt Nam cần tuân thủ các luật lệ của WTO đối với việc định giá các giao dịch và định giá thuế hải quan, cũng như hạn chế các khoản phí hải quan đánh vào các dịch vụ được thanh toán trong vòng 2 năm. Về phía Mỹ, theo Luật Thương mại Mỹ, các công ty của Việt Nam và các nước khác đều sẽ được cấp giấy phép hoạt động khi có yêu cầu. * Những thước đo về tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm: Hai bên cam kết tuân thủ theo các tiêu chuẩn của WTO. Các quy định về kỹ thuật, và những thước đo về vệ sinh an toàn thực phẩm phải được áp dụng trên cơ sở đối xử quốc gia, và chỉ được áp dụng trong chừng mực cần thiết để giải quyết những mục đích chính đáng (bảo vệ con người, bảo vệ cuộc sống của động vật, sinh vật). * Mậu dịch quốc doanh: Cần phải được thực thi theo các quy định của WTO (ví dụ, các doanh nghiệp quốc doanh Việt Nam trước kia chỉ tiến hành các cuộc giao dịch theo những mối quan tâm về thương mại và còn ít quan tâm tới các quy định của WTO). 3.2. Thương mại dịch vụ. Thương mại dịch vụ được đề cập trong Chương 3 của Hiệp định. Chương này áp dụng cho các biện pháp của các bên có ảnh hưởng tới dịch vụ thương mại. * Các cam kết chung bao gồm: Các quy định của khuôn khổ Hiệp định chung về Thương mại và Dịch vụ (GATS) bao gồm Tối huệ quốc, Đãi ngộ quốc gia và Pháp luật quốc gia. Về các lĩnh vực và ngành cụ thể: * Các dịch vụ pháp lý: Các nhà dịch vụ Mỹ có thể cung cấp dịch vụ dưới hình thức chi nhánh, công ty 100% vốn Mỹ; các chi nhánh này nhận được giấy phép hoạt động là 5 năm và có thể được gia hạn mỗi lần không quá 5 năm. * Các dịch vụ kế toán, kiểm toán: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ được hoạt động trong lĩnh vực này. Giấy phép được cấp trên cơ sở từng trường hợp, có hiệu lực trong 3 năm, không có giới hạn sau đó. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, không giới hạn sau đó. * Các dịch vụ kiến trúc: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ được phép kinh doanh. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó không hạn chế. * Các dịch vụ kỹ thuật: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ hoạt động và có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó không giới hạn. * Các dịch vụ về vi tính và các dịch vụ liên quan: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ. Có thể cung cấp dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó không hạn chế. * Các dịch vụ quảng cáo: Chỉ các liên doanh với các đối tác Việt Nam mới được phép kinh doanh một cách hợp pháp các dịch vụ quảng cáo. Phần góp vốn của phía Mỹ không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực hạn chế này là 51% và 7 năm sau sẽ không hạn chế về tỷ lệ góp vốn từ phía Mỹ trong các liên doanh. * Các dịch vụ tư vấn quản lý: Chỉ thông qua các công ty liên doanh. 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực được phép lập các công ty 100% vốn Mỹ. * Các dịch vụ viễn thông: 1) Các dịch vụ viễn thông có giá trị gia tăng: Liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 2 năm (3 năm đối với dịch vụ Internet), vốn của Mỹ không quá 50% vốn pháp định của liên doanh. 2) Các dịch vụ viễn thông cơ bản (bao gồm mobile, cellular và vệ tinh): Liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 4 năm, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh. 3) Dịch vụ điện thoại cố định: Liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 6 năm, vốn đóng góp của phía Mỹ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh. Phía Việt Nam có thể xem xét những yêu cầu tăng vốn đóng góp từ phía Mỹ khi Hiệp định này được xem xét lại sau 3 năm. * Các dịch vụ nghe nhìn: Bao gồm các dịch vụ sản xuất và phân phối phim, các dịch vụ chiếu phim. Liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ nghe nhìn, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49% và sau 5 năm hạn chế về vốn này sẽ là 51%. * Các dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ có liên quan: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 3 năm đầu tiên, sau đó không hạn chế. * Các dịch vụ phân phối (bán buôn và bán lẻ): Được phép lập ._.liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49%. Sau 6 năm Hiệp định có hiệu lực hạn chế về vốn này sẽ được bãi bỏ. * Các dịch vụ giáo dục: Chỉ dưới các hình thức liên doanh, 7 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực sẽ được phép lập trường học với 100% vốn Mỹ. * Các dịch vụ tài chính: 1) Các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và các bảo hiểm không bắt buộc: được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 50%. Sau 5 năm được phép 100% vốn Mỹ. 2) Các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trong xây dựng...): được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, không giới hạn vốn đóng góp của phía Mỹ, sau 6 năm được phép 100% vốn Mỹ. * Các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính liên quan khác: 1) Các nhà cung cấp, công ty thuê mua tài chính và ngoài ngân hàng: được phép thành lập công ty liên doanh trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, cho phép 100% vốn Mỹ. 2) Ngân hàng: sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Mỹ được phép thành lập ngân hàng chi nhánh 100% vốn Mỹ tại Việt Nam .Trong thời gian 9 năm đó các ngân hàng Mỹ có thể thành lập ngân hàng liên doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần góp vốn của đối tác Mỹ không dưới 30% và không quá 49%. 3) Các dịch vụ chứng khoán: các nhà kinh doanh chứng khoán Mỹ chỉ được lập văn phòng đại diện tại Việt Nam . * Các dịch vụ y tế: Được phép thành lập các cơ sở chữa bệnh 100% vốn Mỹ. Vốn đầu tư tối thiểu cho bệnh viện là 20 triệu USD, phòng khám đa khoa là 2 triệu và phòng khám chuyên khoa là 1 triệu USD. * Các dịch vụ du lịch và dịch vụ lữ hành liên quan: 1) Các dịch vụ khách sạn và nhà hàng: Các công ty cung cấp dịch vụ Mỹ cùng với việc đầu tư xây dựng khách sạn nhà hàng được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn Mỹ. 2) Các dịch vụ đại lý và điều phối du lịch lữ hành: Được phép lập liên doanh, phần góp vốn phía Mỹ không quá 49% và 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực hạn chế này là 51% và 5 năm sau hạn chế này sẽ được bãi bỏ. 3.3. Quan hệ đầu tư. * Các cam kết chung bao gồm: Các hoạt động đầu tư của mỗi nước đều được nước đối tác cam kết bảo hộ, Việt Nam đảm bảo việc bảo hộ các công ty Mỹ không bị sung công các khoản đầu tư của họ tại Việt Nam. * Các chuyển khoản tài chính: Cho phép đối tác Mỹ được đem về nước các khoản lợi nhuận và các chuyển khoản tài chính khác trên cơ sở đãi ngộ quốc gia. * Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs): Phía Mỹ cam kết thực hiện ngay từ đầu, Việt Nam sẽ huỷ bỏ dần các TRIMs không phù hợp với các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO trong 5 năm như những quy định về tỷ lệ số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước. * Đối xử quốc gia: Việt Nam cam kết thực hiện chế độ Đối xử quốc gia với một số ngoại lệ. Việc thẩm tra giám sát đầu tư sẽ được dần huỷ bỏ hoàn toàn đối với hầu hết các khu vực trong giai đoạn 2, 6 hoặc 9 năm (tuỳ thuộc vào loại khu vực đầu tư, ví dụ, đầu tư trong các Khu Công nghiệp hay trong Khu vực sản xuất), tuy nhiên Việt Nam duy trì quyền áp dụng thẩm tra giám sát trong những khu vực ngoại lệ nhất định. * Loại bỏ việc giới hạn đóng góp vốn trong các liên doanh: Quy định hiện nay đối với phần góp vốn phía Mỹ trong các công ty liên doanh ít nhất phải 30% vốn pháp định; loại bỏ những quy định bán cổ phần phía Mỹ trong liên doanh cho đối tác Việt Nam. Phía Mỹ chưa được thành lập công ty cổ phần và chưa được phát hành cổ phiếu ra công chúng, chưa được mua quá 30% vốn của một công ty cổ phần. Những ràng buộc này sẽ duy trì trong vòng 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. * Bộ máy nhân sự của liên doanh: Trong vòng 3 năm huỷ bỏ quy định về số thành viên nhất định người Việt Nam trong Ban giám đốc; giới hạn mạnh mẽ các vấn đề trong đó “sự nhất trí” của ban giám đốc phải đạt được (ví dụ, trong vấn đề đó các thành viên Việt Nam có quyền phủ quyết); cho phép các nhà đầu tư Mỹ được phép tuyển chọn nhân sự quản lý không phụ thuộc vào quốc tịch. Phía Việt Nam cũng cam kết ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực sẽ loại bỏ dần tất cả các đối xử không công bằng về giá đối với các công ty và các cá nhân Mỹ như phí lắp đặt điện thoại và các dịch vụ viễn thông khác, các phí vận tải, thuê mướn nhà xưởng, trang thiết bị, giá nước và dịch vụ du lịch. Trong vòng 2 năm sẽ bỏ chế độ hai giá đối với đăng ký ô tô, giá dịch vụ cảng và giá đăng ký điện thoại. Trong vòng 4 năm sẽ bỏ hẳn chế độ hai giá đối với mọi hàng hoá và dịch vụ kể cả giá điện hay vé máy bay. 3.4. Quyền Sở hữu trí tuệ. Trên lĩnh vực bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ, tuy Việt Nam chưa tham gia nhiều Điều ước Quốc tế đa phương về bảo hộ quyền tác giả nhưng Việt Nam đã tham gia nhiều Điều ước Quốc tế đa phương về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp như Công ước Paris 1883, Thoả ước Madrid 1881, Công ước Stockholm 1967...Việt Nam cũng đã ký kết các thoả thuận hợp tác song phương về Sở hữu trí tuệ với úc, Thái Lan, Pháp và tham gia Hiệp định khung về hợp tác Sở hữu trí tuệ của các nước thành viên khối ASEAN. Chủ trương chung của Việt Nam là sẽ gia nhập Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật cũng như chuẩn bị các điều kiện để gia nhập WTO nhằm mở rộng toàn diện nguyên tắc “làm việc theo pháp luật” trong lĩnh vực bảo hộ Sở hữu trí tuệ trên quy mô quốc tế. Hiệp định Quyền tác giả được ký giữa Việt Nam và Mỹ ngày 27/6/1997 giúp Việt Nam tăng cường thêm một bước công tác quản lý các hoạt động văn hoá thông tin nhằm ngăn chặn việc phổ biến các tác phẩm có nội dung không lành mạnh tại Việt Nam, hạn chế tệ sử dụng tác phẩm của Mỹ mà không chịu trả tiền để kinh doanh kiếm lời của một số tổ chức và cá nhân trong nước. Ngoài ra, thông qua việc thực hiện Hiệp định, các tác phẩm của Mỹ sẽ được lựa chọn kỹ hơn và phổ biến ở Việt Nam với nội dung và hình thức tốt hơn. Quyền Sở hữu trí tuệ được đề cập trong chương 2 của Hiệp định. Việt Nam nhất trí tuân thủ hoàn toàn các quyền Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) trong tất cả các lĩnh vực trong một khuôn khổ thời gian ngắn bao gồm: Bảo hộ bản quyền và nhãn hiệu hàng hoá trên cơ sở TRIPs được thực thi trong 12 tháng; Bảo hộ các bí mật thương mại và bản quyền trên cơ sở TRIPs được thực thi trong 18 tháng. Việt Nam đồng ý thực hiện những biện pháp bảo hộ mạnh mẽ hơn trong một số lĩnh vực khác như tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, bảo hộ bản quyền đối với các động vật và thực vật, bảo hộ những dữ liệu kiểm tra bí mật được trình cho các Chính phủ. Đối với trường hợp bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình mã hoá, sẽ được thực hiện theo giai đoạn là 30 tháng. Theo Hiệp định thương mại song phương, phía Mỹ cam kết thực thi quyền Sở hữu trí tuệ được ký kết kể từ ngày Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực trừ các nghĩa vụ tại Điều 8 và Điều 3.1 liên quan đến việc bảo hộ thiết kế bố trí (topography) mạch tích hợp được thi hành sau 24 tháng kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định cũng quy định trường hợp có xung đột giữa các quy định của Hiệp định này và Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ về quyền tác giả, ký tại Hà Nội ngày 27/6/1997 thì các quy định của Hiệp định này được ưu tiên áp dụng trong phạm vi xung đột. II. Nhu cầu của thị trường Mỹ đối với hàng hoá Việt Nam 1. Đặc điểm cơ bản thị trường Mỹ Mỹ là một nước lớn với dân số 271,8 triệu người, có diện tích hơn 9 triệu km2. Tổng GDP năm 2000 của Mỹ đạt trên 10 ngàn tỷ USD, chiếm 25% tổng GDP toàn cầu. Trong đó, nông nghiệp chiếm 1,6%, công nghiệp chiếm 22,8%, dịch vụ chiếm 75,8%. Mỹ là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới, là một thị trường khổng lồ, có sức mua lớn khoảng 7000 tỷ USD năm. Trên thế giới nếu kể 100 tập đoàn kinh tế làm ăn có hiệu quả nhất thì có tới 61 tập đoàn là của Mỹ. 2. Nhu cầu của thị trường Mỹ đối với hàng hoá Việt Nam Theo số liệu của Bộ thương mại thì năm 2002 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đã tăng 60% so với năm 2001. Năm 2002, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ đạt 2,5 tỷ UDS (năm 2001 Hoa Kỳ nhập khẩu 1146 tỷ USD và xuất khẩu 714 tỷ USD). Các mặt hàng xuất khẩu thuộc thế mạnh của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao đó là hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản. Điều đáng lưu ý là trong điều kiện kinh tế toàn cầu khó khăn như hiện nay việc mở rộng thị trường Mỹ là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam. Mấy năm qua hàng Việt Nam vào Mỹ phần lớn phải chịu mức thuế cao tới 40% nhưng kim ngạch xuất khẩu của ta sang Mỹ vẫn liên tục tăng đáng kể. Theo số liệu của Hải quan Hoa Kỳ năm 1994 kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ ở mức 50,4 triệu USD nhưng đến năm1996 đã lên đến 308 triệu USD, đến năm 1999 là 601,9 triệu USD và đến năm 2002 thuế nhập khẩu vào thị trường Mỹ còn 3% thì kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ đã đạt mức 2,5 tỷ USD. Các nền kinh tế trên thế giới đều lấy Mỹ làm thị trường chủ lực. Bởi vì thị trường Mỹ có tổng trị giá buôn bán lớn nhất toàn cầu. Hàng nhập khẩu đa dạng, các doanh nghiệp có thể biết được năng lực cạnh tranh của mình, tạo điều kiện thâm nhập thuận lợi vào các thị trường khác. Điều cần lưu ý là trong nhập khẩu Mỹ thường xuyên nhập siêu. Hàng năm mức nhập siêu từ 60 tỷ USD đến 110 tỷ USD. Mỹ là thị trường có sức mua lớn các mặt hàng tiêu dùng như : quần áo, giày dép, túi sách, hàng gia dụng, hải sản… Điều này giải thích tại sao các nước Nics Châu á, Thái lan, Trung quốc đã và đang thành công trong việc mở rộng xuất khẩu các loại hàng hoá này sang Mỹ. Quan hệ thương mại Việt Nam với Mỹ cho đến nay tuy đã có bước tiến đáng kể, song quy mô còn rất nhỏ bé so với tiềm năng và nhu cầu của hai bên. Việt Nam xuất sang Mỹ hàng gia vị, cà phê, chè, hải sản, gạo, may mặc; nhập từ Mỹ gần 100 loại hàng hoá như phụ tùng máy bay, phân bón, máy móc nồi hơi, thiết bị điện, bông, dụng cụ y tế, nông sản, hoá chất, đồ uống… Buôn bán với doanh nghiệp Mỹ do đặc điểm của họ là yêu cầu đơn hàng lớn, giao hàng tập trung, nên đã kích thích tập trung hoá sản xuất. Như trong lĩnh vực dệt may đã hình thành các nhóm sản xuất sản phẩm giữa các doanh nghiệp có năng lực sản xuất khá, được đầu tư đồng bộ với các doanh nghiệp địa phương, năng lực sản xuất bị hạn chế; giải quyết tình trạng có doanh nghiệp có năng lực làm không hết việc, trong khi doanh nghiệp khác lại dư thừa năng lực do thiếu điều kiện nên thiếu việc làm. Trong ngành dệt may đã có doanh nghiệp có doanh thu trên 1 ngàn tỷ đồng chủ yếu nhờ làm ăn với Mỹ. Một số doanh nghiệp trong ngành chế biến bánh kẹo, thủ công, đồ gỗ gia dụng… cũng có cơ hội tăng quy mô sản xuất. Nhiều doanh nghiệp đã đặt được quan hệ buôn bán với các hãng bán lẻ nổi tiếng của Mỹ trong lĩnh vực dệt may là các hãng K.Mart, Unitra, Express, Gap, Jepenney. Trong chế biến thực phẩm là hệ thống siêu thị Cissco… Đã tạo được điều kiện chủ động sản xuất trong thời gian dài ví dụ các doanh nghiệp dệt may, nhất là doanh nghiệp thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam có nhiều doanh nghiệp đã ký hợp đồng xuất hàng cho thị trường Mỹ cả năm 2003. 3. Thị hiếu của người Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường tiêu thụ lớn do thị hiếu của người Mỹ là thích tiêu dùng nhiều. Điều này lý giải theo quan hệ cung cầu thì cầu càng nhiều bao nhiêu thì cung càng phát triển bấy nhiêu để đáp ứng cầu, càng kích thích sản xuất và dịch vụ phát triển làm cho nền kinh tế ngày càng tiến lên. Các hãng sản xuất thu được nhiều lợi nhuận, ngày càng mở rộng, tái đầu tư sản xuất nâng cao công nghệ để phát triển không ngừng. Không chỉ có các hàng hoá đắt tiền được tiêu thụ, mà tất cả các loại hàng hoá từ giá rẻ đến đắt đều bán được. Vì nhu cầu của dân Mỹ đa dạng, có nhiều tầng lớp giàu nghèo khác nhau. Hàng hoá bán trên thị trường Mỹ rất cần đa dạng, có cá tính, hợp thị hiếu và phải sử dụng thuận tiện. Mỹ là một nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú, không bị ảnh hưởng lớn của hai cuộc chiến tranh thế giới, lại tập trung nhiều nhà bác học, thiên tài về nhiều lĩnh vực, lại có chiến lược phát triển kinh tế lâu dài, nên đã tạo cho Hoa Kỳ có vị thế cường quốc số một, tạo cho người Mỹ có mức thu nhập rất cao. Vì vậy, họ có thừa khả năng để mua sắm và rất thích mua sắm. Họ thường mua hàng ở những hiệu quen, nơi họ thấy tin tưởng về chất lượng và giá cả. Đối với những mặt hàng mới nếu như lần đầu họ đã mất lòng tin thì khó có chỗ đứng trên thị trường Mỹ. Điều này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải có cái nhìn chu đáo đến những sản phẩm muốn bán trên đất Mỹ. Hoa Kỳ còn là một hợp chủng quốc với nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới di cư đến, nên tâm lý và sở thích văn hoá rất đa dạng, phong phú tạo nên những phân đoạn thị trường lớn, tạo nên những thói quen tiêu dùng đa dạng không phụ thuộc vào các ước lệ hay tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh mẽ hay bắt buộc như ở các nước khác. Họ cũng tôn trọng chất lượng nhưng lại hay thay đổi trong tiêu dùng. Điều này lý giải những sản phẩm quá tốt, quá bền, giá cao sẽ kém cạnh tranh hơn so với những sản phẩm giá rẻ chất lượng đủ tốt, độ bền hợp lý, mẫu mã luôn thay đổi cho hợp thị hiếu của các nước đang phát triển lại bán tốt trên đất Mỹ. Hơn nữa, người Mỹ lại có một thói quen thích du lịch, thích nghỉ mát, ưa khám phá thiên nhiên mà điều kiện thiên nhiên môi trường Mỹ với nhiều cảnh đẹp phong phú đã khuyến khích phát triển. Trong những chuyến đi như vậy họ mua rất nhiều thứ như: quần áo, giày dép, mũ, lương thực, thực phẩm và các loại hàng hoá khác từ loại đắt tiền phù hợp với người thu nhập cao cho đến các loại hàng hoá rẻ tiền phù hợp với người thu nhập trung bình và thấp. Với một thị trường có sức tiêu thụ lớn như vậy, mà lại không quá khắt khe đối với xuất xứ sản phẩm hàng hoá tiêu dùng thì hàng hoá của Việt Nam có rất nhiều cơ hội bán ra ở thị trường Mỹ. Và thực tế đã cho thấy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ ngày càng tăng. Mặc dù chưa phản ánh đầy đủ tiềm năng của Việt Nam nhưng đã là một dấu hiệu đáng mừng tạo niềm tin vững chắc cho các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. CHƯƠNG II. HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT - MỸ: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI VIỆC XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG MỸ I. Quá trình phát triển hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Mỹ. 1. Giai đoạn trước khi ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. 1.1.Trước năm 1975. Thời kỳ trước năm 1975, Mỹ có quan hệ kinh tế với chính quyền Sài Gòn cũ. Kim ngạch buôn bán không lớn, chủ yếu là hàng nhập khẩu của Mỹ để phục vụ cuộc chiến tranh xâm lược. Về xuất khẩu sang Mỹ có một số mặt hàng như cao su, gỗ, hải sản, đồ gốm v.v…với số lượng ít ỏi. Từ tháng 5 năm 1964, Mỹ thực thi cấm vận miền Bắc nước ta và khi Việt Nam thống nhất, Mỹ đã mở rộng cấm vận tới toàn bộ lãnh thổ Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực thương mại, tài chính, tín dụng ngân hàng… đồng thời Mỹ khống chế các nước đồng minh và ngăn cản tổ chức tiền tệ và tài chính quốc tế cho Việt Nam vay tiền. Theo số liệu thống kê của Việt Nam, xuất khẩu sang Mỹ thời kỳ 1986 - 1989 hầu như không có gì. 1.2. Những năm đầu thập kỷ 90. Bước sang thập kỷ 90, quan hệ ngoại giao cũng như quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước Việt Nam và Mỹ đã có những bước tiến đáng kể, lỗ lực hướng tới các mối quan hệ hữu nghị, hợp tác, bình đẳng cùng có lợi, vì lợi ích của mỗi nước cũng như hoà bình và thịnh vượng chung trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương và trên thế giới. Để đến được với lộ trình này, cả hai phía đã có những lỗ lực vượt bậc theo hướng của "Bản lộ trình" được đưa ra dưới thời cựu tổng thống G.Bush, trong đó đưa ra các bước tiến tới bình thường hoá quan hệ với Việt Nam mà trọng tâm là vấn đề rút quân khỏi Campuchia và vấn đề người Mỹ mất tích, tù binh chiến tranh ở Việt Nam (POW/MIA). Sự hợp tác tích cực và có hiệu quả của chính phủ và nhân dân Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích trong chiến tranh được dư luận Mỹ đánh giá cao, đã làm thay đổi thái độ của một bộ phận không nhỏ các lực lượng vốn có thái độ tiêu cực ở Mỹ, có lợi cho việc cải thiện dần dần quan hệ Việt Nam - Mỹ. Cuối năm 1988, Mỹ cho phép gửi sách báo và văn hoá phẩm từ Mỹ về Việt Nam với số lượng không hạn chế. Đồng thời chính phủ Mỹ cho phép Bộ Ngoại giao cấp thị thực vào Mỹ cho những người Việt Nam đến Mỹ với mục đích trao đổi khoa học với thời hạn theo nguồn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ. Trong năm 1991, cùng với việc Việt Nam đồng ý cho Mỹ mở văn phòng POW/MIA ở Hà Nội (8/7) và ký Hiệp định hoà bình Campuchia tại Paris (23/10), phía Mỹ đã có nhiều nới lỏng như chính thức bỏ hạn chế đi lại trong vòng 25 dặm đối với cán bộ ngoại giao Việt Nam tại trụ sở Liên Hợp Quốc ở New York (23/10), chính thức bỏ hạn chế các nhóm du lịch, cựu chiến binh, các nhà báo, các nhà kinh doanh trong việc tổ chức đoàn đi Việt Nam (17/11) và bắt đầu viện trợ nhân đạo cho Việt Nam (ngày 25/4, Mỹ lần đầu tiên tuyên bố viện trợ 1 tỷ USD giúp Việt Nam trong lĩnh vực chân tay giả). Với những chuyển biến tích cực này, ngày 22/11 thứ trưởng ngoại giao Lê Mai và trợ lý ngoại trưởng Mỹ R.Solomon tiến hành cuộc đàm phán chính thức đầu tiên về bình thường hoá quan hệ Việt Nam - Mỹ. Sang năm 1992 đã có 3 cuộc gặp gỡ cấp Bộ trưởng ngoại giao và 5 lần Mỹ cử Đặc phái viên tổng thống vào Việt Nam để xúc tiến vấn đề POW/MIA, do đó vấn đề này có những cải thiện rõ rệt và phía Mỹ một lần nữa thực hiện dỡ bỏ một loạt các hạn chế trong quan hệ Việt Nam: Cho phép lưu bưu chính viễn thông Mỹ - Việt Nam (13/4), cho phép xuất sang Việt Nam những mặt hàng phục vụ nhu cầu cơ bản của con người và bỏ các hạn chế đối với việc các tổ chức phi chính phủ Mỹ viện trợ nhân đạo cho Việt Nam (30/4); đặc biệt là cho phép các công ty Mỹ được lập văn phòng đại diện và ký các hợp đồng kinh tế ở Việt Nam nhưng chỉ được giao dịch kinh doanh sau khi bỏ cấm vận (14/12). Năm 1993, ông B. Clinton lên nắm quyền, đã tán thành và cam kết tiếp tục "Bản lộ trình" của chính quyền ông G.Bush: ngày 2/7 tổng thống Clinton quyết định không ngăn cản các tổ chức tài chính quốc tế nối lại viện trợ cho Việt Nam. Quyết định có ý nghĩa hơn nhiều đối với doanh nghiệp Mỹ là ngày 14/9/1993 tổng thống Clinton cho phép các công ty Mỹ tham gia đấu thầu các dự án phát triển ở Việt Nam do các tổ chức tài chính quốc tế tài trợ. Song song với những nỗ lực cải thiện quan hệ của hai chính phủ, của các tổ chức hoạt động ngoại thương giữa 2 nước trong những năm đầu thập kỷ 90 này đã có được những bước đột phá ban đầu. Theo số liệu thống kê, nếu xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ thời kỳ 1986 - 1989 hầu như không có gì, thì năm 1990 đã xuất khẩu được lượng hàng trị giá khoảng 5.000 USD tăng lên 9.000USD năm 1991, 11.000USD năm 1992 và lên tới 58.000USD năm 1993. Ngày 3/2/1994, Tổng thống Mỹ Bill Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận chống Việt Nam. Tiếp đó, Bộ Thương mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, CuBa và Việt Nam) lên nhóm Y ít hạn chế thương mại hơn (gồm Liên Xô cũ, các nước thuộc khối Vacsava cũ, Anbani, Mông Cổ, Lào, Campuchia và Việt Nam). Bộ Vận tải và Bộ Thương mại Mỹ bãi bỏ lệnh cấm tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam, cho phép tàu mang cờ Việt Nam vào cảng Mỹ. Chính phủ Mỹ cũng đồng thời tiến hành các công việc chuẩn bị về chính sách và luật pháp nhằm mục đích phát triển hợp tác kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại với Việt Nam. Đây chính là những sự kiện quan trọng đầu tiên, đánh dấu bước tiến vượt bậc trong củng cố và phát triển quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước. Trước năm 1990, quan hệ thương mại mang tính một chiều, chỉ có Mỹ xuất khẩu hàng hoá sang Việt Nam, còn về phía Việt Nam thì hầu như chưa có hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ. Việt Nam và Mỹ đang cùng hướng tới nhau trong mối quan hệ về nhu cầu rộng lớn bao gồm cả đầu tư và thương mại hàng hoá cũng như dịch vụ, đặc biệt là việc xuất nhập khẩu các mặt hàng mang tính chất bổ sung lẫn nhau. Mỹ đang hướng tới Việt Nam như hướng tới một khu vực đầu tư và thị trường đông dân đầy tiềm năng trong việc tiêu thụ các mặt hàng công nghiệp, đặc biệt hàng công nghiệp điện tử - tin học - viễn thông mà hiện nay đang còn ở dạng sơ khai và một thị trường hàng nông sản đầy triển vọng ở khu vực Châu á. Còn Việt Nam hướng tới Mỹ như một thị trường tiêu thụ rộng lớn, có nền công nghệ kỹ thuật hiện đại và có tiềm lực dồi dào về tài chính. Theo số liệu của Hải quan Hoa Kỳ kim ngạch mậu dịch Việt - Mỹ năm 1994 đạt 222 triệu USD so với 62 triệu USD năm 1993 (tăng hơn 30 lần). Năm 1995 kim ngạch hai chiều đã lên tới 450 triệu USD (gấp hơn 2 lần năm 1994) và năm 1996 tổng kim ngạch đạt 935 triệu USD. Năm 1997, xuất nhập khẩu của Việt Nam và Mỹ đạt 666 triệu USD và năm 1998 đạt 789 triệu USD (trong đó xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đạt 519,5 triệu USD và nhập khẩu đạt 269,5 triệu USD) đứng thứ 75 trong danh sách đối tác thương mại của Mỹ trong năm 1998. Năm 1994, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ lượng hàng hoá trị giá 50,4 triệu USD, trong đó hàng nông nghiệp là 38 triệu (chiếm 76% giá trị hàng xuất khẩu sang Mỹ) và hàng phi nông nghiệp chỉ chiếm 12 triệu (tương ứng 24%). Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt 200 triệu USD (gấp gần 4 lần năm 1994), trong đó hàng nông nghiệp chiếm 151 triệu USD (chiếm 76% giá trị hàng xuất khẩu sang Mỹ) và hàng phi nông nghiệp đạt 47 triệu USD (24%). Năm 1996, xuất khẩu của ta sang Mỹ đạt 319 triệu USD, năm 1997 đạt 372 triệu USD và đến năm 2000, giá trị lượng hàng hoá mà Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đã đạt 827,4 triệu USD. Bảng số 1:Thương mại hai chiều Việt-Mỹ từ 1994 - 2000 (triệu USD) 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 XK 50,4 200 319 372 519,5 601,9 827,4 NK 172 252 616 278 269,5 277,3 330,5 Tổng 222 450 935 666 789 879,2 1.157,9 (Nguồn: Hải quan Hoa Kỳ) Thực tiễn trong năm qua cho thấy Việt Nam vẫn xuất siêu sang Mỹ và sự tăng trưởng xuất khẩu này khá ổn định, xấp xỉ 15 - 20%/năm. Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu tập trung vào các mặt hàng mà chênh lệch giữa hai mức thuế MFN và non-MFN bằng “0” hay không đáng kể. Những kết quả xuất khẩu trong những năm qua thể hiện tiềm năng mở rộng và thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ nhất là khi Hiệp định thương mại song phương đã được ký kết và hai nước cam kết dành cho nhau MFN. Xét về cơ cấu, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ trong thời kỳ 1994 - 1997 chủ yếu thuộc nhóm nông, lâm, thuỷ - hải sản. Trong đó, cà phê, chè, gia vị chiếm phần lớn với kim ngạch 31,193 triệu USD năm 1994; 146,455 triệu USD năm 1995; 110,910 triệu USD năm 1996 và 108,208 triệu USD năm 1997. Hàng công nghiệp nhẹ bắt đầu xâm nhập và tăng trưởng nhanh nhưng vẫn chỉ mang tính giới thiệu sản phẩm. Năm 1995, kim ngạch hàng công nghiệp nhẹ đạt 20 triệu USD. Từ 1996, kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng giày dép, nguyên liệu khoáng sản tăng nhanh. Năm 1997 kim ngạch giày dép đạt 97 triệu USD. Trong năm 1994 - 1995 nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm tỷ lệ rất nhỏ, chủ yếu là xuất khẩu thiếc. Năm 1996, ta bắt đầu xuất dầu thô sang Mỹ và đạt trị giá 80,650 triệu USD, năm 1997 đạt 36,670 triệu USD, năm 1998 đạt 66,1 triệu USD, năm 1999 đạt 83,8 triệu USD. Năm 1996, giá trị kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt khoảng 319 triệu USD, trong đó hàng nông nghiệp chỉ còn chiếm 46% và hàng phi nông nghiệp đã chiếm 54%. Bảng số 2: Cơ cấu kim ngạch buôn bán hai chiều Việt - Mỹ 1994 – 1997 1994 1995 1996 1997 I. Xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ 50,450 200 319,037 372 Hải sản 5,802 19,583 33,990 46,376 Cà phê, chè, gia vị 31,193 146,455 110,910 108,208 Ngũ cốc 4,506 5,845 20,955 Sản phẩm thịt, cá 10,477 Đường, bánh, kẹo 1,252 (Triệu USD) Dầu thô 1,105 80,650 36,670 Cao su và sản phẩm cao su 1,572 0,564 3,013 Sản phẩm da 0,490 0,896 0,502 0,493 May mặc 2,518 16,867 23,601 25,928 Giày dép 3,308 39,169 97,644 Hàng gốm 0,190 0,454 0,818 1,209 Hạt điều 7,585 15,386 II. Nhập khẩu từ Mỹ 172,223 252,860 616,047 277,787 Nhiên liệu 0,734 4,719 4,844 Hoá chất hữu cơ 1,379 2,467 6,100 4,891 Phân bón 16,533 35,909 52,259 8,943 Chất dẻo 2,004 4,057 7,381 7,392 Giấy và bột giấy 0,729 9,588 10,684 4,111 Bông 12,735 7,259 11,590 12,091 Giày dép 1,357 14,196 16,405 Nhôm 4,266 11,154 13,679 Thiết bị điện 14,624 24,583 42,114 43,942 Lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi 16,484 65,025 67,667 53,251 Sản phẩm quang học, đo lường 3,621 8,691 12,375 15,258 Xe ô tô 6,245 37,138 23,742 19,920 (Nguồn: Phòng Thông tin Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam ) Do chưa được hưởng quy chế Tối huệ quốc (MFN) nên hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải chịu các rào cản thuế quan và phi thuế quan. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ gồm thuỷ sản chiếm 15,6% kim ngạch xuất khẩu năm 1998, cà phê chiếm 18,54%, dầu thô chiếm 17%, gạo chiếm 8,38% và giày dép các loại chiếm 20,4%. Các nhóm hàng này chiếm đến 80% kim ngạch xuất khẩu và là các mặt hàng có hàm lượng chế biến thấp. Nhìn chung năm 1999 thương mại giữa hai nước tăng trưởng ổn định trong hoàn cảnh nền kinh tế toàn cầu đang diễn biến rất phức tạp. Xét về tổng kim ngạch thương mại song phương, Việt Nam hiện đang xếp thứ 72/227 nước có quan hệ buôn bán với Mỹ trên nhiều nước như Bulgaria, Ukraina, Slovenia mặc dù hàng Việt Nam hiện đang phải chịu mức thuế suất nhập khẩu cao hơn so với các nước này (nếu tính về kim ngạch xuất khẩu thì Việt Nam đứng cao hơn, tức là khoảng thứ 65/227 nước xuất khẩu vào Mỹ). Tuy nhiên so với ngay các nước trong khu vực ASEAN như Thái Lan (xuất khẩu đạt gần 14,3 tỷ USD), Philippines (12,4 tỷ USD) thì xuất khẩu của ta còn thua kém nhiều. Có nhiều lý do giải thích cho sự việc này, nhưng lý do nổi bật nhất vẫn là thuế suất nhập khẩu quá cao mà hàng xuất khẩu của ta cho đến nay vẫn phải chịu khi nhập khẩu vào Mỹ. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc đạt được khung pháp lý điều chỉnh quan hệ thương mại giữa hai nước. Xét riêng tháng 1/2000, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt 67,3 triệu USD so với 44,9 triệu USD cùng kỳ năm ngoái, đạt mức tăng trưởng 49,9%. Đây là một trong những mức tăng cao nhất trên thế giới (trung bình xuất khẩu của thế giới vào Mỹ tăng 22,26% trong tháng 1/2000; khu vực ASEAN tăng 8,01%). Mặc dù mức tăng trưởng này đạt được dựa trên cơ sở kim ngạch chưa cao nhưng đây là một tín hiệu tốt, thể hiện những phản ứng tích cực từ phía các doanh nghiệp đối với các diễn biến trong quan hệ thương mại hai nước. Bảng số 3 : Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Mỹ giai đoạn 1998 - 2000 (triệu USD) 1998 1999 1999/1998 1- 3/1999 1- 3/2000 % Giày dép 114,9 145,7 26,8% 38,9 38,3 (0,6) - (2,00) Cà phê, chè 117,7 147,6 - 20,26% 46,6 49,4 2,8 (6,00) Cá, hải sản 79,5 108,1 35,97% 18,9 27,6 8,7 46,03 Nhiên liệu khoáng 66,1 83,8 13,92% 9,4 26,9 17,5 86,17 (Nguồn: Thương vụ thuộc Sứ quán Việt Nam tại Mỹ) Xét theo mặt hàng, hàng xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ đa dạng dần về chủng loại (85 nhóm mặt hàng). Chiếm tỷ trọng cao nhất là hàng giày dép và các bộ phận của giày dép. Năm 1999, nhóm hàng này đạt 145,7 triệu USD, tăng 26,8% so với cùng kỳ năm ngoái (114,9 triệu USD), chiếm tỷ trọng 24,2% tổng kim ngạch hàng xuất của ta sang Mỹ. Việt Nam hiện là nước xuất khẩu giày dép lớn thứ ba trong số các nước xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Quý I năm 2000, giá trị hàng giày dép của ta xuất sang Mỹ đạt 38,9 triệu USD, giảm 2% so với cùng kỳ năm ngoái. Một thực tế là các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép hiện nay hầu hết là các doanh nghiệp FDI cho nên kim ngạch xuất khẩu cao nhưng phần giá trị của Việt Nam lại thấp so với các nhóm hàng xuất khẩu khác. Nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn thứ hai là cà phê, chè gia vị (20,26%). Nhóm hàng này có xu hướng phục hồi trong năm 1999, đạt 6% (147,6 triệu USD so với 117,7 triệu USD của năm 1998). Tuy vậy tình hình xuất khẩu đầu năm 2000 lại có dấu hiệu giảm sút so với 1999. Nhóm hàng hải sản (chủ yếu là tôm và một số loại cá) và nhiên liệu khoáng sản vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể (tương ứng 18% và 14% tổng giá trị hàng xuất khẩu của ta). Tuy nhiên mức tăng trưởng của nhóm hàng này khá cao đạt mức 46,03 % đối với hàng hải sản và 86,17 % đối với hàng nhiên liệu khoáng sản trong quý I/2000 so với cùng kỳ năm 1999. Mỹ chưa phải là thị trường truyền thống của ta đối với mặt hàng này nhưng các yêu cầu chất lượng và kiểm dịch của Mỹ lại không chặt chẽ và khó khăn như của thị trường EU. Khả năng tăng trưởng xuất khẩu mạnh ở các mặt hàng này là không có trong tương lai gần vì phụ thuộc vào tiến trình đầu tư trang thiết bị cũng như mở rộng sản xuất nuôi trồng trong nước. Bảng số 4 : Các mặt hàng xuất khẩu tăng mạnh (Triệu USD) 1998 1999 1999/1998 1-3/1999 1-3/2000 % Muối, lưu huỳnh 1,1 4,4 300% 0,0 1,3 1,3 Đồ nội thất 1,3 4,0 207,69% 0,4 2 1,6 300 Dụng cụ gia đình 0,3 1,3 333,33% 0,1 0,5 0,4 400 (Nguồn: Hải Quan Hoa Kỳ) Theo số liệu bảng 4 cho thấy các mặt hàng muối, lưu huỳnh, đồ nội thất, dụng cụ gia đình mặc dù kim ngạch chưa cao nhưng thể hiện khả năng thâm nhập thị trường Mỹ. Do vậy ta cần chú ý định hướng cho doanh nghiệp củng cố thị phần để tận dụng khả năng xuất khẩu lớn khi được hưởng mức thuế MFN của Mỹ. 2. Giai đoạn sau khi ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký ngày 13/7/2000 và đến ngày 10/12/2001 thì có hiệu lực hoàn toàn và vô điều kiện. Như vậy kể từ ngày 10/12/2001 trở đi tất cả các hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ đều được hưởng mức thuế quan tối huệ quốc (NTR) mức thuế này trung bình chỉ còn 3% so với mức trung bình 40% trước đó không có NTR. Nhìn chung năm 2000, năm ký Hiệp định, thương mại giữa hai nước tăng trưởng ổn định. Bảng 5: Thương mại hai chiều Việt – Mỹ 1998 – 2000 (Triệu USD) 1998 1999 2000 1999/1998 2000/1999 2000/1999 XK 519,5 601,9 827,4 15,8% 225,5 37,63% NK 269,5 277,3 330,5 2,9% 53,2 19,18% Tổng XNK 789 879,2 1157,9 11,4% 278,7 131,8% Nguồn: Theo số liệu Hội đồng thương mại Hoa kỳ 2/2001 Xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đạt mức 827,4 triệu USD tăng 37,63% so với năm 1999, so với mức tăng xuất khẩu của thế giới vào Hoa kỳ là 19,73% thì mức tăng 37,63% của ta là tương đối cao. Đây là điều đáng mừng phản ánh._.ất lượng sản phẩm. Bên cạnh đó là chiến lược dài hạn tăng cường khả năng xuất khẩu các loại bông, sợi hoá học, vải, nguyên phụ liệu trong nước; nâng cao năng lực cũng như quy mô sản xuất của các xí nghiệp may và chất lượng thiết kế mẫu mã, khả năng bán hàng theo phương thức FOB, tham gia hội chợ triển lãm, liên kết mạng lưới bạn hàng trong việc cung ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh những cố gắng nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành dệt may, Nhà nước vẫn cần hỗ trợ các chính sách về vốn đầu tư, ưu đãi thuế, khuyến khích sản xuất mặt hàng mới. 2.2 Đối với hàng giày dép Thị trường Mỹ rất coi trọng các tiêu chuẩn về kỹ thuật đòi hỏi chất lượng rất cao. Hàng hoá phải được phía Mỹ kiểm tra rồi mới chấp nhận cho nhập. Việc ký kết Hiệp định thương mại vừa qua, Nhà nước chỉ mới tạo ra hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp, tạo thuận lợi trong quá trình trao đổi thương mại, còn bản thân các doanh nghiệp phải tự lo liệu hết các khâu từ việc tìm đối tác, tìm nhu cầu sản phẩm trên thị trường tới việc thoả thuận giá cả, làm hàng mẫu...Hiện nay, đã có nhiều doanh nghiệp tìm được đối tác và bắt đầu sản xuất hàng mẫu. Một số ít doanh nghiệp da giày có sản phẩm giày xuất khẩu sang thị trường Mỹ hoặc qua đối tác trung gian xuất khẩu sang Mỹ sẽ có điều kiện mở rộng, đẩy mạnh sản xuất và tăng kim ngạch xuất khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có điều kiện xuất khẩu số lượng lớn sang Mỹ sẽ giãn bớt ở thị trường EU và trước mắt tạo điều kiện cho số đông các doanh nghiệp của ta duy trì và phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường EU. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp giày Việt Nam sẽ tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết bị và nâng cao trình độ quản lý, kỹ thuật để tiếp cận và mở rộng thị trường vào Mỹ. Hiện nay, ngành Da giày Việt Nam đang đứng trước những thách thức lớn, đó là sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu giày; trong đó đáng chú ý là Trung Quốc. Trình độ kỹ thuật, quản lý sản xuất chưa cao, chi phí lớn làm cho giá thành cao, điều này rất bất lợi khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Phần lớn các doanh nghiệp của ta còn phụ thuộc vào đối tác gia công nên việc thâm nhập thị trường Mỹ chưa chủ động. Đối với số đông các doanh nghiệp, việc hiểu biết các quy định, các luật trong thương trường Mỹ còn ít. Nếu các doanh nghiệp ngành Da giày không nhanh chóng có kế hoạch đầu tư chiều sâu cải tiến mẫu mã, xây dựng công nghệ khuôn đúc cho riêng mình thì e rằng khó có thể thâm nhập được vào thị trường Mỹ khó tính nhưng nhiều triển vọng về lâu dài này. Vì vậy, về lâu dài, đối với sản xuất trong nước cần đẩy mạnh việc chuyển dần từ nhận gia công sang chủ động mua nguyên liệu trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu. Nhà nước cần đầu tư xây dựng một số Khu Công nghiệp liên hoàn về ngành thực phẩm và da giày để hỗ trợ nhau và tạo nên hiệu quả kinh tế tối ưu, bao gồm: nhà máy giết mổ, chế biến thức ăn sẵn, chế biến đồ hộp, thuộc da, chế biến sản phẩm da và thiết kế mẫu mốt. Liên doanh với các đối tác nước ngoài nhưng yêu cầu họ phải từng bước chuyển giao công nghệ... Tổng công ty Da giày Việt Nam đã thành lập và hoạt động được một thời gian; bởi vậy, cần đúc rút những kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và đề ra phương hướng đầu tư phù hợp trong thời gian tới. Tổng công ty Da giày đã và đang đầu tư xây dựng mới từ 2 đến 3 nhà máy sản xuất mũ giày phục vụ sản xuất giày xuất khẩu. Các trường hợp đầu tư mở rộng trong ngành giày nên được hưởng ưu đãi (theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước như đối với đầu tư xây dựng cơ sở mới). Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để đầu tư thì không bắt buộc phải có vốn tự có tương đương 30% khoản vay. Đề nghị hạ mức này xuống 10% hoặc bãi bỏ hoàn toàn điều kiện này. Ngân hàng sẽ tự thẩm định dự án đầu tư và cho vay dựa trên những tính toán về hiệu quả đầu tư. 2.3 Đối với hàng thuỷ sản Theo các chuyên gia, để có thể trụ vững ở thị trường Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ hải sản Việt Nam sẽ phải không ngừng nâng cao chất lượng bởi hệ thống kiểm soát chất lượng của Mỹ rất ngặt nghèo, sự cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại nhập từ nước khác là vô cùng quyết liệt. Về chất lượng, theo quy định của Mỹ, tất cả các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài vào Mỹ, đặc biệt là các mặt hàng thực phẩm chế biến, trong đó có hàng thuỷ sản, đều phải qua khâu kiểm tra chất lượng rất chặt chẽ của Cơ quan Kiểm soát chất lượng thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA). Mặt khác, riêng đối với mặt hàng thuỷ sản, Mỹ chỉ áp dụng tiêu chuẩn hệ thống kiểm soát HACCP (chương trình kiểm soát vệ sinh an toàn chất lượng của riêng nước này), chứ không chấp nhận bất cứ một tiêu chuẩn nào khác, kể cả tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng được coi là rất khắt khe của Liên minh Châu âu (EU). Chính vì vậy, hiện chỉ có 25 doanh nghiệp Việt Nam xây dựng được tiêu chuẩn chế biến thủy, hải sản theo chương trình HACCP có thể xuất sang thị trường Mỹ, trong khi đó có rất nhiều doanh nghiệp khác mặc dù đã được EU đưa vào danh sách nhóm 1 (được xuất trực tiếp sản phẩm thuỷ hải sản sang toàn bộ 15 nước EU mà không cần kiểm tra), nhưng vẫn không được thị trường này chấp nhận. Ngay cả khi đặt chân vào thị trường Mỹ, hàng Việt Nam vẫn phải cạnh tranh quyết liệt với rất nhiều sản phẩm của các nước khác như Thái Lan và các nước AESAN khác cùng có mặt trên thị trường này. Theo một số doanh nghiệp đã và đang có mặt trên thị trường Mỹ, nếu xét về chất lượng, hàng thuỷ, hải sản của Việt Nam hoàn toàn không thua kém so với các nước khác, song do phải chịu thuế suất đầu vào cao (20- 40%), nên giá thành bị đội lên quá cao, khiến sức cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm đáng kể. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phải xây dựng cho được tiêu chuẩn hệ thống kiểm soát chất lượng theo chương trình HACCP. Nhưng đó mới là “ tiêu chuẩn đầu vào”. Điều quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hiểu đầy đủ các thông tin về thị trường cũng như thị hiếu của khách hàng Mỹ, trên cơ sở đó xuất những mặt hàng vừa có lợi thế so sánh cao so với các nước khác, vừa được người tiêu dùng chấp nhận để duy trì khả năng cạnh tranh của mình. Bộ Thuỷ sản và các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội chế biến thuỷ sản đã xác định rõ là để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản, trước hết phải nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời phải tăng cường xúc tiến thương mại để mở rộng thị trường. Ngành thuỷ sản đã sớm đi đầu trong việc xây dựng và áp dụng các hệ thống mới về quản lý chất lượng sản phẩm như để từng bước thay thế các phương thức kiểm soát chất lượng truyền thống. Từ năm 1991, thuỷ sản Việt Nam đã tiếp cận với hệ quản lý chất lượng của Mỹ đối với hàng thuỷ sản và coi đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang các thị trường lớn và khó tính như Mỹ, EU. Cụ thể, Bộ thuỷ sản đã có quy định là từ ngày 1/1/2000, tất cả các cơ sở chế biến thuỷ sản trong nước bắt buộc phải áp dụng các tiêu chuẩn này. Ngoài các mặt hàng truyền thống như đã nêu trên, khả năng xuất khẩu phần mềm máy tính hay những phần mềm cho thương mại điện tử cũng là mặt hàng có nhiều triển vọng mà ta với Mỹ có những tương đồng phù hợp lợi ích cả hai bên. Nhà nước cần có các biện pháp mạnh mẽ khuyến khích các công ty Việt Nam sang Mỹ tiếp cận thị trường trong lĩnh vực này. Thị phần của thương mại điện tử ở Mỹ đang trên đà tăng trưởng mạnh và trong một số năm tới có thể lên đến hàng ngàn tỷ USD mỗi năm. 2.4 Hàng cà phê Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng đối với những vùng cà phê có năng suất hiệu quả kém. Các biện pháp này sẽ góp phần ổn định nguồn cung qua đó ổn định thị trường và giúp cà phê phục hồi. Đồng thời đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ thoả đáng về tài chính, tín dụng, kỹ thuật, thuỷ lợi... đối với công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đưa một số diện tích cà phê sang các cây trồng khác theo quy hoạch trên địa bàn Tây Nguyên. Giảm diện tích cà phê vối tăng diện tích cà phê chè. Đề nghị Nhà nước xem xét tiếp tục cho phép thực hiện những biện pháp hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất như miễn giảm thuế sử dụng đất, giảm thuế nhập khẩu phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, tiếp tục chính sách thưởng theo kim ngạch xuất khẩu. Về chất lượng, chú trọng từ khâu giống cho tới quy trình chăm sóc, thu hái và chế biến, bảo quản để nâng cao chất lượng cà phê, qua đó nâng giá trị xuất khẩu trên một đơn vị khối lượng Về sản phẩm, đa dạng hoá các sản phẩm cà phê xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng cà phê chế biến sâu (cà phê hoà tan, rang xay...). Đối với cà phê nhân, cần tăng cường xuất khẩu các loại cà phê không có hạt đen, cà phê chế biến ướt, cà phê hữu cơ để tăng giá trị xuất khẩu. Tăng cường hỗ trợ trong việc cung cấp các thông tin về kỹ thuật và thị trường cho người trồng cà phê: mức cung cầu, tình hình sản xuất, xuất khẩu, thông tin về giá cả trên thế giới. Đổi mới công tác bao bì, mẫu mã, tránh tình trạng cà phê Việt Nam không có nhãn mác nhằm bảo vệ thương hiệu của cà phê Việt Nam. Xây dựng quỹ bảo hiểm cho sản xuất và xuất khẩu cà phê do Hiệp hội ngành hàng phụ trách. Đây là vấn đề mà các nhà kinh tế, các nhà quản lý đã đặt vấn đề từ lâu song chưa được quan tâm đúng mức. Những năm được mùa, giá cà phê cao, xuất khẩu có hiệu quả cao, cần phải trích nộp quỹ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm đó sẽ hỗ trợ những năm mất mùa hoặc giá cà phê xuống quá thấp, sản xuất và xuất khẩu không có hiệu quả. Củng cố và tăng cường hoạt động của Hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam để đủ sức tham mưu cho Nhà nưóc, các địa phương, người sản xuất và xuất khẩu trong các lĩnh vực từ sản xuất, chế biến đến xuất khẩu, khắc phục tình trạng tranh mua, tranh xuất vô tổ chức dẫn đến bị ép cấp, dìm giá... Quản lý chặt chẽ các đầu mối xuất khẩu. Khuyến khích các nhà xuất khẩu trực tiếp, các doanh nghiệp chuyên doanh cà phê tham gia xuất khẩu. Hiệp hội cần có sự can thiệp để thống nhất giá bán, không cho phép bất cứ nhà xuất khẩu nào tự phá giá, gây thiệt hại cho toàn ngành. 2.5 Chè Hoàn thiện quy hoạch tổng thể vùng chè. Trong đó có những vùng chè đặc sản xuất khẩu như chè Thái Nguyên, Nghĩa Lộ, Lâm Đồng, Hà Giang. Quy hoạch vùng chè xuất khẩu phải gắn với nhu cầu thị trường để sản xuất theo nhu cầu thị trường. Đầu tư xây dựng cơ sở chế biến, tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Trồng mới và cải tạo vườn chè cũ. Nâng cấp hiện đại hoá các nhà máy chế biến chè theo tiêu chuẩn quốc tế. Bổ sung và hoàn thiện cơ chế chính sách đối với người trồng chè. Tìm kiếm thị trường và bạn hàng mới. 2.6 Rau quả Đề nghị Nhà nước có chính sách thưởng theo kim ngạch đối với xuất khẩu rau quả nói chung. Sau khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ thực thi, thị trường Mỹ mở ra khả năng mới cho việc xuất khẩu hoa quả hộp, dứa đông lạnh. Bước đầu ngoài việc thưởng theo kim ngạch, để nghị Nhà nước xem xét cho các doanh nghiệp xuất khẩu được vay ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất. Nghiên cứu hình thành các vùng sản xuất nguyên liệu chuyên canh, đầu tư cho thu hoạch, sau thu hoạch và chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng mặt hàng... Tóm lại để thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang Mỹ và thị trường thế giới từ nay đến năm 2010 cần phải chú trọng theo hướng: - Nhanh chóng quy hoạch chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng nông sản và khả năng cạnh tranh trong việc xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm. - Đối với những nông sản xuất khẩu chủ yếu có tính cạnh tranh quốc tế gay gắt (lúa gạo, cà phê) phải tính đến diện tích cho phù hợp, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để hạ giá thành, nâng cao chất lượng hàng hoá. - Đối với cây trồng có thị trường xuất khẩu với giá cả như hiện nay, người sản xuất vẫn có lãi hoặc chấp nhận được như cao su, tiêu, điều, chè..., cần giữ vững hoặc phát triển thêm ở vùng có điều kiện. Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ khuyến khích mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế tham gia tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản. 2.7 Hàng gốm, sứ Kinh doanh hàng gốm, sứ đang là một trong những ngành nghề mang lại mức lợi nhuận khá hấp dẫn trên thị trường Mỹ, nếu trừ đi tất cả các chi phí: giá hàng mua, chi phí thuê tầu, chi phí vận chuyển đường bộ (trucking - 150USD/100Km), chi phí giao nhận, thuếu nhập khẩu, thuê kho (3,5USD/square feet/năm hay 37,5USD/m2/năm),... thì lợi nhuận mang lại bình quân cho 1 lô hàng 2 containers 40 feet dao động trong khoảng 150% - 180% (gấp 1,5 đến 1,8 lần). Để giảm thiểu chi phí công nhân, các nhà phân phối cấp 2, cấp 3 ở Mỹ (nhất là người Châu á) thương tự thực hiện các công việc như: sắp xếp hàng hóa vào kho bằng xe nâng hàng, đến khâu giao hàng bán lẻ cho khách. Những vấn đề mà các doanh nghiệp gốm sứ Việt Nam cần lưu ý khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ là: - Phải chú ý toàn bộ hàng hoá xuất khẩu vào thị trường Mỹ đều phải được cấp chứng thư phun trùng của nước xuất khẩu(Furmingation Certificate). - Chất liệu chèn lót hàng hoá phỉa phù hợp với quy định của từng tiểu bang vào từng thời điểm cụ thể, điều này các doanh nghiệp Việt Nam thường mắc phải do chủ quan của những lần giao hàng trước. - Phải tuân thủ theo đúng những quy cách đã được ký kết trong hợp đồng (có sai số cho phép ± 3%), không được viện vào lý do hàng làm bằng tay mà sai số chênh lệch quá xa so với quy định trong hợp đồng thương mại. - Đóng dấu đầy đủ các ký hiệu trên hàng gốm mà nhà nhập khẩu đã quy định. - Lấy chứng nhận xuất xứ (CO), phải thể hiện đầy đủ số lượng, chủng loại hàng hoá và phải phù hợp với lô hàng thực tế, điều này rất quan trọng đến việc tính thuế nhập khẩu và thời gian thông quan khi hàng đến cảng. - Tính toán việc đóng container sao cho hiệu quả nhất cho nhà nhập khẩu, tránh trường hợp để container rỗng quá vì chi phí vận chuyển rất cao, thường chiếm đeesn 30% giá trị lô hàng. - Phải thông báo trước cho nhà nhập khẩu trọng lượng thực tế của lô hàng. Việc này rất quan trọng trong việc bốc dỡ và nhất là vận chuyển đường bộ qua các tiểu bang có nhiều chiếc cầu quy định trọng tải nghiêm ngặt. - Mẫu mã: cần phải tìm hiểu thị trường, tiếp cận hơn nữa văn hoá Mỹ, liên tục đưa ra những mẫu mã mới phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của khách hàng. - Sản phẩm phân biệt: phải tìm ra cho mình những dòng sản phẩm độc đáo, mang đậm nét đặc thù văn hoá Việt Nam, đa số các sản phẩm gốm sứ của chúng ta hiện nay đều ít nhiều mang dáng dấp của gốm sứ Trung Quốc, từ những đường nét hoa văn đến những hình tượng, sự tích, thậm chí những câu đối bằng tiếng Trung mà ngay chính nhà sản xuất cũng không hiểu được hết ý nghĩa của những nội dung này. - Nên thành lập ngay một Hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu hàng gốm sứ sang Mỹ để các doanh nghiệp thống nhất giá bán trên cơ sở cập nhật thường xuyên giá của các nước có tiềm năng sản xuất gốm sứ như: Trung Quốc, Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, Phillippines,... - Không ngừng cải cách học hỏi các mô hình quản trị tiên tiến, phấn đấu đạt tiêu chuẩn ISO và các tiêu chuẩn quốc tế khác, để tạo được lòng tin nơi khách hàng và tạo điều kiện dễ dàng hơn nữa trong việc xuất khẩu hàng hoá vào thị trường các nước. - Mạnh dạn đầu tư khoa học kỹ thuật để nâng cao năng suất saản lượng hàng gốm sứ và đầu tư hơn nữa cho chi phí nghiên cứu phát triển công nghệ. 3. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Mỹ. Trong quan hệ kinh tế - thương mại Việt - Mỹ, Nhà nước chỉ có tác dụng tạo ra một khuôn khổ pháp lý ổn định và môi trường kinh doanh thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp. Việc tận dụng và phát huy được những lợi thế của mình hay không là phụ thuộc vào các doanh nghiệp. Sau đây là các giải pháp đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu: 3.1. Giải pháp về vốn. Thành lập các tập đoàn công ty lớn hoặc liên kết các công ty có quy mô nhỏ để sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng chủ lực trên quy mô sản xuất lớn, có khả năng cạnh tranh cao, tạo ra nguồn cung cấp hàng hoá xuất khẩu ổn định và lâu dài, đápp ứng được nhu cầu đặt hàng nhanh với số lượng lớn của các đối tác Mỹ. Thực tiễn cho thấy đối với mặt hàng dệt may, Mỹ không đặt đơn hàng lẻ. Một đơn hàng của Mỹ có thể lên tới cả triệu sản phẩm mà thời gian cung ứng hàng lại rất nhanh. Do vậy, cần đưa năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ngành may lên cao và cần liên kết lại nhằm đủ sức thực hiện một đơn hàng. Quy mô sản xuất của ta hiện nay còn quá nhỏ để có thể cạnh tranh vì sản xuất còn phân tán theo vùng và sản xuất thủ công là chính nên giá thành còn cao, chất lượng chưa đồng đều và sức cạnh tranh kém. Để khắc phục nhược điểm này, chúng ta cần tổ chức lại sản xuất ở quy mô hợp lý, kết hợp sử dụng lao động lành nghề và giản đơn, áp dụng phương thức quản lý tiên tiến, đưa hệ thống sản xuất của ta vào định hướng xuất khẩu các loại hàng hoá mà các đối tác nước ngoài cần chứ không phải dựa vào những gì mình có, cố gắng tận dụng phát huy những lợi thế so sánh của mình để tăng khả năng xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Để có quy mô sản xuất lớn hai yếu tố chính là vốn và thị trường. Vì vậy việc thu hút vốn là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh nhưng nếu thiếu thị trường thì cũng không thể tăng quy mô sản xuất. Trung bình một công ty quy mô vừa ở Mỹ có doanh số khoảng 100 triệu USD . Các công ty dưới mức này thường liệt vào dạng nhỏ. Các công ty siêu quốc gia cũng đang trên đường hội nhập và đang có xu thế sáp nhập để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, về vốn cần phát huy nội lực là chính, đồng thời có thể dựa vào nguồn vốn của các ngân hàng trong và ngoài nước, các tổ chức tài chính, các nguồn viện trợ, các khoản vay ngắn, trung và dài hạn, các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc tiếp cận vốn trên thị trường chứng khoán. Kinh doanh càng phát triển sẽ tích luỹ được nhiều vốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng đầu tư chiều sâu, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Về thị trường, các doanh nghiệp phải dựa một phần lớn vào hệ thống toàn cầu mới giải quyết được trên cơ sở hội nhập tiểu khu vực, khu vực, châu lục, liên châu lục và toàn cầu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên cơ sở giá thành hạ, chất lượng cao thì mới có khả năng mở rộng, giữ vững và phát triển thị trường. 3.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa. Mỗi doanh nghiệp cần đặt lên hàng đầu mục tiêu nâng cao chất lượng hàng hóa của mình, từ đó nâng sức cạnh tranh của hàng hóa. Cùng với việc nâng cao chất lượng là việc giảm giá thành, đa dạng hóa mẫu mã, cải tiến bao bì ... sao cho phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ. Các doanh nghiệp không thể đổ lỗi cho thiếu vốn hay thiết bị lạc hậu để biện hộ cho khả năng cạnh tranh yếu kém của hàng hóa của mình bởi vì còn rất nhiều yếu tố khác cũng tác động vào sức cạnh tranh của sản phẩm như các yếu tố vĩ mô (tỷ giá hối đoái, lãi suất, thuế khóa) và các yếu tố vi mô (quy trình sản xuất, kinh nghiệm quản lý của từng doanh nghiệp). Vì vậy trong tình hình hiện nay, do các nguồn vốn còn hạn hẹp, các doanh nghiệp cần chủ động vạch ra chiến lược cạnh tranh dài hạn cho hàng hóa của mình bằng cách tạo ra nét độc đáo cho sản phẩm dựa trên khả năng cắt giảm chi phí bình quân trong ngành cũng như hợp lý hóa quy trình sản xuất. Trong điều kiện quốc tế hoá hiện nay, nền sản xuất nhỏ như ở Việt Nam có những điểm lợi thế tương đối là giá nhân công rẻ và có thể đầu tư thêm công nghệ để dần nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng cũng phải thấy rằng chỉ có thể làm thuê gia công và làm vệ tinh cho các công ty lớn mà thôi. Muốn vươn lên tự chủ cần phải tính đến quy mô sản xuất hợp lý, cần có vốn, nhân lực, công nghệ và thị trường là những yếu tố quan trọng nhất. 3.3. Chủ động thực hiện tốt công tác thị trường, thông tin, tiếp thị. Các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các thông tin, trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua Hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt được nhu cầu của thị trường, bám sát và tiếp cận được tiến bộ của thế giới trong sản xuất kinh doanh, chủ động tìm bạn hàng, thị trường, ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ giá, trợ cấp. Các doanh nghiệp có thể chủ động nắm bắt thông tin qua Thương vụ Việt Nam tại nước sở tại hoặc Cục Xúc tiến thương mại thuộc Bộ Thương mại hoặc nối mạng Internet để từ đó có thể tìm được những bạn hàng tin cậy, nắm bắt được tương đối chính xác nhu cầu thị trường đối với hàng hóa của mình cũng như khả năng cung cấp của thị trường đó, giá cả, chất lượng cho những mặt hàng mà doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu nhập khẩu để phục vụ sản xuất và kinh doanh trong nước. Trước khi ra quyết định xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, một bước quan trọng không thể bỏ qua là phải nghiên cứu kỹ thị trường và đánh giá nghiêm túc thực lực của doanh nghiệp, sức cạnh tranh của sản phẩm, khả năng tiếp thị và tiềm lực tài chính. Việc lựa chọn đúng hình thức xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng có chỗ đứng trên thị trường đầy tiềm năng này. Để vào được thị trường Mỹ các doanh nghiệp có thể xuất khẩu gián tiếp qua đại lý. Khi đã quyết định xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, phương án tối ưu là phải vạch ra được chiến lược để thực hiện xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp sẽ giúp cho doanh nghiệp kiểm soát được toàn bộ quá trình xuất khẩu, thiết lập được quan hệ trực tiếp với mạng lưới tiêu thụ và người tiêu dùng. Tổng kết kinh nghiệm của các công ty nước ngoài cho thấy, con đường tiến tới chinh phục thị trường Mỹ là phải biết sử dụng các đại diện bán hàng, đại lý, nhà phân phối và nhà bán lẻ. Đây là một nhu cầu bức xúc nhưng rất khó khăn đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải làm dần, từng bước tìm hiểu. Mặt khác, bản thân các nhà nhập khẩu, nhà phân phối cũng sẽ tìm đến các doanh nghiệp Việt Nam để đặt hàng. Họ sẽ đưa ra các yêu cầu (thường là chất lượng, khối lượng hàng và thời gian giao hàng…) còn phương thức tiếp cận thị trường không đáng lo lắm vì tiềm lực tài chính của họ khá dồi dào. Các doanh nghiệp cùng ngành hàng ở Việt Nam nên liên kết với nhau để có thể đáp ứng được những đơn hàng quy mô lớn, thời gian giao hàng nhanh. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thận trọng khi quyết định bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng bởi tại Mỹ việc bán hàng trực tiếp này kèm theo trách nhiệm rất lớn đối với người tiêu dùng. 3.4. Nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ của các doanh nghiệp Việt Nam. Qua thực tế thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế Việt Nam, có thể thấy rõ năng lực quản lý cũng như trình độ chuyên môn của các cán bộ, người lao động tại các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc. Nội dung hợp tác với Mỹ bao gồm các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư và nhiều lĩnh vực khác về kinh tế cũng như khoa học công nghệ khá đa dạng. Trong khi đó trình độ cán bộ của ta còn hạn chế cả về kiến thức, kinh nghiệm và ngoại ngữ. Để đáp ứng được nhu cầu phục vụ cho mục tiêu trên, cần quan tâm thích đáng đến công tác đào tạo cán bộ, cụ thể là tập trung vào 4 lĩnh vực sau: - Đào tạo nâng cao trình độ cán bộ có đủ năng lực hoạch định và thực hiện chính sách. - Đào tạo cán bộ có trình độ đàm phán quốc tế. - Đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn cán bộ nắm bắt được kịp thời các Hiệp ước quốc tế, các kết quả đàm phán trên bàn hội nghị, hiểu và vận dụng được những Hiệp ước và kết quả đàm phán đó vào thực tiễn sản xuất và kinh doanh quốc tế. Để kinh doanh được với Mỹ, các doanh nghiệp cần hiểu và vận dụng được các luật lệ, chính sách thương mại của Mỹ. - Đào tạo về ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh để cán bộ có đủ trình độ giao dịch quốc tế. Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải thường xuyên đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề để có thể sử dụng công nghệ hiện đại, sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, giá cả cạnh tranh trên thị trường Mỹ. Tóm lại, để thực hiện tốt Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, các doanh nghiệp cần xúc tiến nghiên cứu để thâm nhập thị trường Mỹ, tìm hiểu đối tác, nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng, cơ chế chính sách và luật pháp quốc tế; cần chủ động để đổi mới công nghệ, mẫu mã nâng cao chất lượng hàng hoá, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt, cần xúc tiến khẩn trương việc đào tạo, bồi dưỡng trình độ tay nghề cho công nhân, cán bộ quản lý, kể cả giám đốc để nâng cao trình độ tiếp nhận công nghệ mới, nâng cao năng lực quản lý hiểu biết các chuẩn mực thông lệ quốc tế, chính sách thương mại thế giới và chính sách thương mại Mỹ trong cuộc làm ăn mới trên một thị trường mới. Sự chuẩn bị kỹ càng là điều kiện tốt để các doanh nghiệp nước ta chủ động hội nhập đón nhận những cơ hội và thách thức mới khi ký kết làm ăn với Mỹ. 3.5. Vận dụng mô hình quản lý sản xuất kinh doanh tiến bộ để giảm chi phí sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Từ những năm đầu đổi mới đến nay, mô hình quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều thay đổi phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Tuy nhiên, để giảm chi phí trong sản xuất kinh doanh và thực sự chuyển hướng sang thúc đẩy xuất khẩu cần phải áp dụng các mô hình tiến bộ hơn. Đối với một số doanh nghiệp chủ chốt của nền kinh tế nên từng bước chuyển sang mô hình quản lý kinh doanh công ty mẹ- con. Cùng với đổi mới mô hình sự phân quyền quản lý sản xuất kinh doanh cũng nên thay đổi theo hướng giao nhiều quyền lợi cho các đơn vị trực tiếp sản xuất kinh doanh, cấp quản lý càng cao quyền quyết định càng giảm. 3.6. Củng cố các mối quan hệ với các bạn hàng. Xây dựng các mối quan hệ làm ăn lâu dài với bạn hàng là sống còn đối với doanh nghiệp. Duy trì các mối quan hệ truyền thống. Thiết lập các mối quan hệ với bạn hàng mới. Quan hệ với bạn hàng phải trên cơ sở hiểu biết, chấp nhận lâu dài vì lợi ích của cả hai bên. Khắc phục tình trạng làm theo từng hợp đồng, từng thương vụ như lâu nay các doanh nghiệp vẫn làm. 3.7. Đa dạng hoá các phương thức giao dịch kinh doanh xuất khẩu. Trước hết, các loại sản phẩm nông nghiệp là nguyên liệu của ngành công nghiệp chế biến như cao su, cà phê nên tham gia các thị trường đấu giá khu vực, EU và Mỹ để đẩy mạnh xuất khẩu. Các doanh nghiệp nên cố gắng tham gia các cuộc đấu thầu cung ứng gạo. Tham gia đấu thầu để cung ứng các loại hàng hoá, xây lắp các công trình, hoặc thực hiện các hoạt động thầu phụ công nghiệp cũng góp phần mở rộng khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Nên đẩy mạnh phương thức thương mại đối lưu (Counter Trade) với các doanh nghiệp Mỹ cũng như ở những nước có nhu cầu sản phẩm Việt Nam để nhập khẩu được nguyên liệu cho sản xuất trong nước với giá cả hợp lý. Cần chú trọng đến phương thức hàng đổi hàng đúng theo phương thức cân bằng để tránh các hiện tượng gian lận thương mại. Những mặt hàng gia công quốc tế hiệu quả thấp và đóng góp không nhiều cho tăng trưởng kinh tế như dệt may, da giầy thì từng bước chuyển sang xuất khẩu trực tiếp khi có điều kiện. Để có thị trường tiêu thụ sản phẩm ổn định và nhập khẩu được thiết bị công nghệ cho sản xuất nội địa, phương thức mua đối ứng cần phải được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng triệt để trong những trường hợp có thể. Để mở rộng thị trường tiêu thụ và tăng thêm các bạn hàng cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam làm quen với những phương thức kinh doanh mới, cần sớm thành lập các sở giao dịch hàng hoá ở Việt Nam để mua bán một số hàng hoá đang cần thị trường tiêu thụ và tìm kiếm khách hàng. 3.8. Cần quan tâm đến việc đăng ký sở hữu công nghiệp tại Mỹ. Mỹ quy định về sở hữu công nghiệp, bản quyền tác giả rất phức tạp. Tại Mỹ cũng có những công ty làm ăn không đứng đắn đánh cắp thương hiệu để thu lợi cá nhân. Hoặc họ thấy thương hiệu đang ăn khách ở Việt Nam hoặc các nước khác nhưng chưa đăng ký tại Mỹ liền đứng ra đăng ký sở hữu tại Mỹ với mục đích buộc các doanh nghiệp có nhãn hiệu đó phải mua lại nếu muốn xuất khẩu vào Mỹ. 3.9. Các doanh nghiệp nên chú trọng thích đáng đến công nghệ thông tin. Bất kỳ một doanh nghiệp nào ngày nay cũng đều sử dụng máy tính. Nhưng không phải tất cả đều sử dụng internet, email, và ứng dụng thương mại điện tử. Truyền file, truyền dữ liệu, đàm thoại trực tiếp bằng hình ảnh qua mạng hiệu quả gần như gặp mặt trực tiếp, giúp có nhận biết sâu hơn về đối tác so với chỉ nghe giọng nói qua điện thoại. Qua mạng, doanh nghiệp có đầy đủ điều kiện để tiếp cận nghiên cứu thị trường qua việc xử lý nhiều nguồn thông tin khác nhau, giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận chuyển và giảm phí giao dịch, dần dần hướng tới thương mại điện tử, bán hàng qua mạng ... KẾT LUẬN Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là một trong các điểm mốc căn bản trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam. Hiệp định sẽ đem lại cho Việt Nam thêm 1% tăng trưởng GDP/năm. Đây là điều có ý nghĩa trong điều kiện kinh tế thế giới đang chững lại. Hiệp định có hiệu lực đã mở ra triển vọng lớn cho kinh tế Việt Nam, nhưng thực hiện nó không phải là con đường thông suốt. Giai đoạn đầu thực hiện Hiệp định là cầu nối quan trọng giữa Việt Nam và thế giới. Lúc này Việt Nam đang ở trong thời kỳ củng cố và mở rộng các thị trường ở khu vực Đông Nam A, phải cạnh tranh ráo riết với Trung quốc khi nước này vừa ra nhập WTO, nên việc hướng vào Hoa kỳ rất có ý nghĩa. Để thực hiện tốt Hiệp định, Việt Nam phải mở rộng mặt hàng xuất khẩu sang Mỹ, thu hút mạnh đầu tư và công nghệ từ thị trường này. Đối với Việt Nam, trong số những lĩnh vực được lợi nhiều nhất nhờ những điều kiện thương mại dễ dàng hơn, có công nghiệp dệt may, giày dép, chế biến thực phẩm… là những ngành mà trước đó vẫn phải chịu mức thuế cao tới 60% khi xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Đây là những ngành vốn chịu thiệt thòi so với nhiều nước láng giềng của Việt Nam mặc dù có chất lượng sản phẩm cao. Ngành Công nghiệp dầu khí và khai thác thuỷ, hải sản là những ngành quan trọng đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho đất nước, sẽ có cơ hội mở rộng nhanh thị trường của mình ở Hoa Kỳ. Có thể hoàn toàn tin tưởng rằng với những thành tựu đã đạt được của hơn một thập kỷ đổi mới, với nền kinh tế đang có dấu hiệu phát triển tốt, với những quyết tâm cao độ và đường lối đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt của Đảng và Chính phủ Việt Nam, chúng ta sẽ vận dụng đầy đủ các cơ hội mà Hiệp định thương mại Việt- Mỹ mang lại nhằm thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước theo như chiến lược đã đề ra. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8048.doc