Chính sách kinh tế mới (NEP) với việc xây dựng CNXH ở Việt Nam

Mục lục Trang Lời mở đầu 1 Chương I- NEP – chính sách của Đảng cộng sản ở bước ngoặt lịch sử của cách mạng 2 I- Bước chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, hoàn cảnh ra đời của NEP 2 II- Những mâu thuẫn về kinh tế và chính trị, sự phân tích Lêninít những mâu thuẫn ấy 3 III- Nội dung chủ yếu của NEP 4 Chương II- NEP – Chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm lạc hậu 8 I- Xác định quan điểm phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế lạc hậu 8 II- chiến lược

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1518 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách kinh tế mới (NEP) với việc xây dựng CNXH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
liên minh công –nông về mặt kinh tế 9 III- Con đường từ nền kinh tế nhiều thanh phần đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa 11 Chương III- ý nghĩa thời sự vào NEP và mấy vấn đề vận dụng vào thực tiễn nước ta 17 I- Bài học lịch sử 17 II- ý nghĩa thời sự của NEP và những suy nghĩ về sự vận dụng vào điều kiện nước ta 18 III- Những thành tựu bước đầu của công cuộc cải cách dưới ánh sáng của tư duy kinh tế mới 21 Kết luận 23 Tài liệu tham khảo 24 Lời mở đầu Hiện nay chúng ta đang trong quá trình giải quyết những khó khăn to lớn về kinh tế và xã hội, phấn đấu cho những chặng đường đầu của công cuộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.Thực tiễn ở nước ta cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới là không thể giải quyết những vấn đề có tính thời sự bằng các chủ trương dựa trên tư duy cũ, mang tính chất bị động và đối phó với tình hình.Hoàn cảnh đặc thù ở nước ta đòi hỏi phải có những chiến lược và sách lược tình thế, vừa đáp ứng được nhu cầu trước mắt vừa tạo nền móng cho sự phát triển lâu dài.Chiến lược đó phải dựa trên những cơ sở lí lụân vững chắc và cơ sở lí luận đầy đủ, có tính đến kinh ngiệm thời kì đã qua của nước ta và kinh ngiệm của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới.Trong bối cảnh đó chúng ta lại nhớ đến chính sacchs kinh tế mới của Lênin,đó là một mẫu mực về chiến lược tình thế, đồng thời xây dựng chiến lược lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm lạc hậu.Thực tiễn ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội trong hơn tám thập kỉ qua càng làm tăng giá trị quốc tế của chính sách kinh tế mới của Lênin. ở nước ta nhiều người đã nói tới chính sách kinh tế mới của Lênin từ nhiều năm trước. Nhưng hiện nay thực tiễn cách mạng nước ta đặt ra nhiều vấn đề, với mức độ khó khăn và cụ thể hơn, như vấn đề sử dụng nhiều thành phần kinh tế với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, vận dụng quan hệ hàng hoá- tiền tệ, quy luật giá trị với vai trò kế hoạch hoá, vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc phát huy mạnh mẽ tính chủ động, sáng tạo của cơ sở và địa phương...Sẽ không có một chủ trương, chính sách nào thành công nếu không nhận thức đúng đắn và giải quyết có hiệu quả những vấn đề lí luận cơ bản đó. Trong mấy năm qua,việc tìm tòi xây dựng cơ chế quản lí mới chúng ta đã đạt được những kết quả nhất định, thể hiện sự vận dụng sáng tạo tinh thần của chính sách kinh tế mới vào nông nghiệp,củng cố khối liên minh công nông về kinh tế, khẳng định vai trò của thương nghiệp trong sự thiết lập các quan hệ kinh tế mới...Nếu chúng ta tổng kết một cách ngiêm khắc những sai lầm khuyết điểm trong những năm vừa qua đồng thời nhận thức đầy đủ hơn tư tưởng của Lênin thì sẽ hoàn thiện được cơ chế quản lí mới trên qui mô nền kinh tế quốc dân, từ đó đặt nền móng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời kì quá độ. Bài viết này mong sẽ đóng góp một phần nhỏ vào hướng suy nghĩ đó. Chương I NEP - Chính sách của Đảng cộng sản ở bước ngoặt lịch sử của cách mạng NEP- từ gọi tắt " Chính sách kinh tế mới " được Lênin dùng lần đầu tiên vào năm 1922, mãi vang lên trong tâm trí biết bao thế hệ những người cộng sản các nước, khi họ bắt tay vào giải quyết những vấn đề phức tạp của chặng đường đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ những xuất phát điểm khác nhau. I. Bước chuyển từ chiến tranh sang hoà bình, hoàn cảnh ra đời của NEP. Cuối năm 1920, phần nước Nga Xô Viết được giải phóng khỏi bọn bạch vệ và can thiệp, chuyển sang giai đoạn kiến thiết đất nước trong hoà bình từ những điều kiện cực kì khó khăn.Sự tàn phá về kinh tế đạt đến mức đọ chưa từng có.Những hậu quả nặng nề của những năm chiến tranh đế quốc và nội chiến đã làm cho tình hình kinh tế và xã hội trở nên nóng bỏng. Về công nghiệp: Tổng sản lượng công nghiệp( triệu rúp) năm 1920 so với năm 1917 giảm đi hơn 4 lần, số nhân công giảm đi gần 1/2.Do đó tỉ trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế năm 1920 giảm xuống còn 25%.Hầu hết các ngành đều sa sút.So với năm 1913, sản lượng đại công nghiệp giảm xuống tới 12,8%.Vì vậy tương quan đã thay đổi ngiêng về tiểu công nghiệp ( từ 22,4% tăng lên 52,3%). Về nông nghiệp: Tình hình trong lĩnh vực này tiếp tục xấu đi.Diện tích gieo trồng, sản lượng ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi đều giảm.Tổng sản lượng nông nghiệp năm 1921 chỉ bằng 60% năm 1913.Bình quân ngũ cốc trên đầu người năm 1920 là 246 kg so với 405 kg mức trước chiến tranh. Về giao thông -vận tải: Bị tàn phá nghiêm trọng, 61% số đầu máy , 28% số toa xe , 4000 cây cầu và nhiều kho tàng, bến bãi bị phá huỷ.Khối lượng vận chuyển năm 1920 chỉ bằng 20% mức trước chiến tranh. Về tài chính- tín dụng: Lâm vào tình trạng rối loạn.Năm 1918 bội chi ngân sách là 30 tỉ rúp, năm 1921 bội chi lên đến mức kỉ lục là 21937 tỉ rúp.Mức dự trữ vàng sụt giảm ngiêm trọng.Nếu năm 1914 mức vàng đảm bảo cho khối lượng tiền tệ trong lưu thông là 98,2% thì đến năm 1917 chỉ còn 6,8%.Khối lượng tiền tệ trong lưu thông tăng nhanh trong khi khối lượng hàng hoá giảm mạnh đưa đến sự tăng vọt của giá cả hàng hoá, trung bình năm 1921 tăng hơn 20 lần so với năm 1913 Về xã hội: Do sản xuất và lưu thông sa sút nên đời sống của nhân dân lao động càng thêm khó khăn. Tiền lương thực tế giảm xuống gần 3 lần so với mức trước chiến tranh.Do thiếu ăn thường xuyên cộng với điều kiện sống xuống cấp, nên tỉ lệ công nhân mắc bệnh và tỉ vong tăng lên.Trong khi đó, vì thiếu điều kiện sản xuất nên nhiều nhà máy phải đóng cửa, số người thất nghiệp tăng lên, tình trạng biến chất của giai cấp công nhân tiếp tục diễn ra. II. Những mâu thuẫn về kinh tế và chính trị, sự phân tích Lêninít những mâu thuẫn ấy. Cuộc khủng hoảng đã xuất hiện ngay khi vừa ngừng tiếng súng.Nguy cơ đó tiếp tục tăng lên đòi hỏi những người cộng sản nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn những vấn đề lí luận và thực tiễn của thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thực sự sẽ không dễ dàng tìm ra nhanh chóng câu trả lời cho những vấn đề phức tạp.Bởi vì trước khi cách mạng tháng 10 thành công và thiết lập nên chuyên chính vô sản đầu tiên trên trái đất, thì tư tưởng Macxít chỉ xem xét những vấn đề của thời kì quá độ về mặt lí luận.Nhưng lúc này những người cộng sản phải bắt tay vào giải quyết những vấn đề thực tiễn của thời kì quá độ, trong đó vừa phải giải quyết những mâu thuẫn khách quan do lịch sử để lại, vừa phải giải quyết những sai lầm chủ quan trong lãnh đạo- quản lí. Thứ nhất: Đặc điểm của nước Nga là sự lạc hậu tương đối về kinh tế, là sự quyện chặt giữa một bên là tư bản độc quyền với các tàn tích phong kiến.Trước đây, chính quyền Xô Viết đứng vững trong nội chiến và sự can thiệp của nước ngoài là nhừ tinh thần hi sinh của nhân dân, trước hết là sự hi sinh của giai cấp công nhân và nông dân.Lòng yêu nước và nhiệt tình cách mạng của quần chúng là động lực duy nhất để chiến đấu và chiến thắng. Sau chiến tranh giai cấp công nhân vẫn là lực lượng chủ yếu nuôi sống đất nước, song đời sống của đại bộ phận vẫn đang thiếu thốn và khó khăn.Nếu Đảng giữ được nhiệt tình cách mạng và lòng tin của họ thì bảo vệ được cách mạng, ngược lại thì sự nghiệp cách mạng sẽ hết sức nguy hiểm.Xuất phát từ sự phân tích đó Lênin đã chỉ ra rằng :" Phải bắt đầu từ nông dân và trong nông nghiệp", phải nhanh chóng cải thiện đời sống của nhân dân lao động trên cơ sở xây dựng quan hệ kinh tế bình thường giữa nông nghiệp với công nghiệp, củng cố liên minh công- nông trên cơ sở kinh tế nhằm lôi kéo những người sản xuất nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Thứ hai: Những sai lầm chủ quan của những người cộng sản cũng là một thực tế cần giải quyết đồng thời với việc giải quyết những mâu thuẫn khách quan.Trong những năm tháng áp dụng chính sách " Cộng sản thời chiến", đã xuất hiện những tư tưởng về khả năng quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội.Nhiều chủ trương, biện pháp nóng vội đã ra đời từ quan điểm này là một trong những nguy cơ làm tăng khủng hoảng.Quan niệm về khả năng quá độ trực tiếp tiếp lên chủ nghĩa xã hội cho rằng có thể chỉ dựa vào nhiệt tình cách mạng của quần chúng để giải quyết những nhiệm vụ to lớn và phức tạp như đã từng giải quyết thành công những nhiệm vụ quân sự trước đây.Quan niệm hình thành trong điều kiện cực kì khó khăn lúc đó của nước Nga và đã đi đến quyết định:" chuyển ngay sang việc sản xuất và phân phối cộng sản chủ nghĩa".Quan niệm này không chỉ là sản phẩm duy ý chí của người quản lí, mà trong đó còn phản ánh nguyện vọng muốn nhanh chóng thoát khỏi cảnh đói nghèo của đông đảo quần chúng nhân dân lao động.Dù đây là quan điểm mang tính chất lãng mạn và ảo tưởng nhưng nó đã lặp đi lặp lại ở các nước kinh tế kém phát triển ở chặng đường đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. III. Nội dung chủ yếu của NEP Theo quan điểm của Lênin, khủng hoảng là tích tụ và làm gay gắt thêm những mâu thuẫn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.Sự phân tích sâu sắc của Lênin đã vạch ra và làm sáng tỏ mối quan hệ qua lại giữa các lĩnh vực quan trọng nhất: chính trị- xã hội- kinh tế.Vì vậy khi tiếp cận nội dung của NEP phải theo quan điểm hệ thống, nhận thức rõ các mối quan hệ có ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Trong các nhân tố thúc đẩy cuoocj khủng hoảng thì đầu tiên là các chủ trương vi phạm vi phạm quyền lợi của người lao động, mà nghiêm trọng nhất là người nông dân: mệt mỏi vì chiến tranh, kiệt sức vì nạn đói, thiếu công ăn việc làm... Một nhân tố khác thúc đẩy khủng hoảng, được Lênin chỉ ra là " những quá lạm quan liêu của bộ máy chúng ta", xuất hiện sự thoái hoá trong bộ máy nhà nước, một số bộ phận cán bộ nhân viên, kể cả những cán bộ lãnh đạo cao cấp đã có những biểu hịên xa rời quần chúng, thiếu tôn trọng lợi ích của quần chúng càng gây mất lòng tin và sự bất mãn của quần chúng. Xem xét toàn diện các nhân tố gây ra khủng hoảng, Lênin đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng là nguyên nhân bên trong- những sai lầm về lãnh đạo và quản lí, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế.Mục tiêu trước mắt và cấp bách mà NEP thể hiện là ổn định và cải thiện đời sống của người lao động cùng với các biện pháp nhằm bảo vệ và củng cố chính quyền Xô Viết được coi là mục tiêu hàng đầu.Các nội dung của NEP là một hệ thống gồm nhiều mắt khâu liên hoàn, có mối quan hệ khăng khít.Tất cả các khâu tạo thành một cơ chế cho phép nhà nước tháo gỡ khó khăn, điều hành sự vận động của kinh tế- xã hội. Khâu thứ nhất: Thuế lương thực Có thể nói đây là khâu đầu, là bước quá độ từ trạng thái hỗn độn sang cơ chế mới.Trong điều kiện nước Nga lúc ấy, giai cấp nông dân và nông nghiệp là nguồn chính nuôi sống xã hội.Sản xuất và đời sống xã hội phụ thuộc vào nông nghiệp.Khó khăn lớn nhất mà nhà nước vấp phải là thiếu lương thực, vì vậy mục đích trực tiếp của thuế lương thực là:" biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao năng lực sản xuất của họ".Thực hiện thu thuế lương thực, xoá bỏ chế độ trưng thu lương thực cũng có nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính thuần tuý sang biện pháp kinh tế, thuế lương thực đóng vai trò của bước quá độ đó. Nó chính là công cụ hữu hiệu để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến tranh, biểu hiện cụ thể của quá trình khôi phục kinh tế, bởi vì:" Thuế lương thực sẽ giúp vào việc cải thiện nền kinh tế nông dân.Bây giờ nông dân sẽ bắt tay vào làm việc một cach yên tâm và hăng hái hơn và đó mới là điều chủ yếu". Khâu thứ hai: Khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa công nghiệp và nông nghiệp. Muốn cải thiện đới sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền nông nghiệp gia trưởng mang tính chất tự cấp tự túc mà chỉ có thể dựa vào một nền nông nghiệp hàng hoá.ý nghĩa và tác dụng cần có của thuế lương thực không thể phát huy được trong nền nông nghiệp tự cấp tự túc, vì khi nông sản thừa tăng lên một mức nào đó nếu không ddem trao đổi thì sẽ mất tác dụng kích thích.Do vậy " thuế lương thực là một bước quá độ từ chính sách cộng sản thời chiến đến chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa về sản phẩm.".Như vậy quan điểm cơ bản của Lênin " bắt đầu từ nông dân" được cụ thể trong chính sách: thuế lương thực và trao đổi hàng hoá.Vì vậy nhiệm vụ của người làm công tác lương thực trở nên phức tạp hơn. Một mặt là nhiệm thu thuế, thu nhanh chừng nào hay chừng ấy.Mặt khác đó là nhiệm vụ kinh tế chung, hướng dẫn hợp tác xã, giúp đỡ tiểu công nghiệp phát huy tính chủ động, sáng tạo ở cơ sở để tăng cường và củng cố sự trao giữa công nghiệp và nông nghiệp.Nhờ quán triệt đầy đủ quan điểm của Lênin trong chính sách lương thực, nên đến năm 1925, sản xuất nông nghiệp của nước Nga đã đạt mức trước chiến tranh(1913), trong khi các nước tư bản phương Tây tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất, kể từ sau hội nghị Vecxai, mới khôi phục xong sản xuất nông nghiệp. Khâu thứ ba: Khôi phục và tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với nhu cầu của nông nghiệp và nông dân. Một trong những yêu cầu của trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông thôn.Nhưng trong lúc này sản xuất công nghiệp đang sa sút vì thiếu lương thực và nguyên liệu.Vì vậy phải xem xét một cách thực tế yêu cầu và khả năng hôi phục công nghiệp. Nhìn một cách tổng quát, quá trình khôi phục sản xuất công nghiệp có những đặc điểm và tính quy luật sau: Một là: Khôi phục công nghiệp trên cơ sở kĩ thuật cũ. Hai là: Phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cân đối với nguồn tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu. Ba là: Những bước đi cụ thể của quá trình khôi phục công nghiệp. Xuất phát từ nhu cầu nông nghiệp và nông thôn, có tính đến khả năng tích luỹ ngay trong quá trình khôi phục, nền nông nghiệp được khôi phục theo những bước sau: Trước hết là khôi phục công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, đây là những nghành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.Tiếp đó khôi phục công nghiệp than( năm 1927 đạt mức sản lượng trước chiến tranh). Các ngành công nghiệp nặng được khôi phục chậm hơn. Vốn đầu tư phần lớn được nhà nước hướng vào phát triển cơ sở năng lượng. Công nghiệp dầu khí được khôi phục và cải tạo cơ bản. Chương trình tối thiểu của kế hoạch điện khí hoá năm 1927- 1928 đã hoàn thành. Khó khăn hơn cả là công tác khôi phục công nghiệp luyện kim đen.Năm 1921 mới đưa vào hoạt động được17 trong tổng số 136 lò cao và 22 trong tổng số 204 lò Máctanh có trước chiến tranh. Bốn là: Sử dụng cơ cấu nhniều thành phần trong khôi phục nông nghiệp Năm là: Chuyển từ cơ chế quản lí tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hạch toán kinh tế theo nguyên tắc dân chủ. Khâu thứ tư: Tổ chức quá trình lưu thông theo quan điểm NEP. Vào mùa thu năm 1921, trong các báo cáo tại Đại hội II các cơ quan giáo dục chính trị toàn Nga, tại Hội nghị Đảng bộ tỉnh Matcơva lần thứ VII...Lênin đã nêu lên những chức năng mới của nhà nước vô sản trong lĩnh vực kinh tế như: Điều tiết việc mua bán và lưu thông tiền giấy. Tổ chức thương nghiệp và bán buôn bán lẻ. ổn định các quan hệ hàng hoá- tiền tệ giữa các cơ quan kinh tế nhà nước. Sử dụng hợp tác xã để củng cố quan hệ thương mại giữa thành thị và nông thôn. Phát triển các quan hệ tín dụng. Mục đích cao nhất của NEP ở bước ngoặt cách mạng là thiết lập liên minh kinh tế giữa hai giai cấp công nhân và nông dân trong điều kiện nông nghiệp lạc hậu, phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất giữa hàng chục triệu tiểu nông với giai cấp vô sản, là điều kiện để công nghiệp và nông nghiệp tái sản xuất được.Trong quá trình tổ chức lưu thông hàng hoá theo tinh thần NEP, Nhà nước Xô Viết đã nắm vững tính quy luật liên kết giữa thương nghiệp với tài chính và ngân hàng như một chỉnh thể.Logíc của sự vật khach quan, sự đẩy mạnh chu chuyển nội thương làm cho nhu cầu về tiền mạt tăng lên là điều kiện có lợi cho việc cunge cố đòng rúp. Sự phát triển của thương nghiệp đã kích thích mọi lực lượng sản xuất phát triển, tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách. Khâu thứ năm: ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô Viết. Khôi phục kinh tế theo quan điểm NEP đã tạo điều kiện kinh tế thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề tài chính- tiền tệ.Các xí nghiệp đi vào hạch toán kinh tế không đòi hỏi kinh phí từ ngân sách Nhà nước, đồng thời lại nộp một phần lợi nhuận vào ngân sách nhà nước.Hoạt động ngoại thương phục hồi bắt đầu bổ sung dự trữ vàng cho nhà nước.Tuy nhiên, các hoạt động sản xuất và lưu thông càng mở rộng, kinh tế hàng hoá càng phục hồi và phát triển thì càng đòi hỏi cấp bách phải giải quyết những vấn đề tài chính- tiền tệ.Việc ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô viết được đặt trong bối cảnh đặc biệt: nước Nga trước cách mạng đã đạt đến trình độ phát triển kinh tế hàng cao, nhưng trải qua mấy năm thi hành chính sách cộng sản thời chiến và những hậu quả của chiến tranh đã làm cho nền kinh tế bị tàn phá, xáo trộn, xu hướng hiện vật hoá xuất ngày càng nhiều trong lưu thông.Bước vào khôi phục kinh tế trong điều kiện lạm phát nặng nề, bội chi ngân sách ngày càng lớn, đồng rúp mất giá từng ngày.Nhà nước đứngtrước hai vấn đề cực kì khó khăn: chấn chỉnh công tác tài chính và ổn định đồng tiền.Lịch sử đã ghi nhận, cơ chế NEP đã vượt qua thử thách đó, dành thắng lợi cuối cùng cho toàn bộ các chính scáh của nhà nước Xô Viết. Lênin nói rằng: " Có thể khẳng định được rằng bây giờ chúng tôi có thể hài lòng là đã hiểu được điều chủ yếu: hiểu được những điều điện chủ yêú để ổn định đồng rúp".Từ đó ngân sách tiếp tục bội thu.Công tác phát hành trở thành nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế, chứ không phải để trải cho bội chi ngân sách.Tài sản nhà nước không ngừng tăng lên( từ10-1923 đến 10-1925 đã tăng lên 5 lần), các khoản tiền gửi vào ngân hàng tăng 6,7 lần, nghiệp vụ cho vay tăng 4,7 lần.Thắng lợi vững chắc của công cuộc cải cách tiền tệ đã góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của NEP, tạo tiền đề cần thiết cho sự phát triển sau này. Chương II Nep - chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm lạc hậu Lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội ngày càng chứng minh tầm quan trọng của sự kết hợp những tính quy luật chung với những đặc điểm lịch sử cụ thể của từng nước, từng giai đoạn. Chính sách kinh tế mới của Lênin là kiểu mẫu hoàn thiện nhất của sự kết hợp như thế. Chỉ trong một thời gian ngắn, Đảng cộng sản Liên Xô, dưới sự lãnh đạo của Lênin đã xác định kế hoạch thật sự khoa học về xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội lần đầu tiên trên thế giới, đã giải quyết thành công toàn bộ những vấn đề cơ bản nhất trong thực tiễn sinh động của thời kì quá độ, đã nêu một thái độ ngiêm túc và phương pháp mẫu mực trong việc vận dụng học thuyết Mác- Enghen vào cuộc sống. Chủ nghĩa xã hội từ lí luận đến hiện thực là cả một bước ngoặt, ở đó diễn ra cuộc sát hạch của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản. Nắm vững NEP, với tư cách là chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội, là bảo đảm vững chắc cho sự thắng lợi của giai cấp công nhân và Đảng của nó trong cuộc sát hạch ấy.Điều đó càng có tầm quan trọng quyết định đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền nông nghiệp lạc hậu, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, khi ngày càng có nhiều dân tộc, với những điều kiện xuất phát khác nhau, lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa, thì việc ngiên cứu NEP với ý nghĩa là chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội càng có ý nghĩa thời sự và tầm quan trọng đặc biệt. I. Xác định quan điểm phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện kinh tế lạc hậu Cho đến tận bây giờ, trong số các nước đã và đang xây chủ nghĩa xã hội ở các giai đoạn khác nhau, chưa có nước nào mà xuất phát điểm về kinh tế, văn hoá của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đạt đến trình độ phù hợp. Phần lớn trong số các nước đó lại từ điểm xuất phát nông nghiệp lạc hậu, thậm chí sản xuất nhỏ còn là hình thức phổ biến. Vì vậy, tính ưu việtcủa chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản không được phát huy đầy đủ từ đầu, mà chỉ phát huy dần dần trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng tiến trình đó diễn ra như thế nào là còn do quan điểm phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa. Sau khi giành được chính quyền và lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì vấn đề đầu tiên đặt ra trước giai cấp công nhân và Đảng của nó là xác định quan điểm phát triển như thế nào: có thể chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội hay phải trải qua những bước đi trung gian, những biện pháp quá độ đặc biệt. Kinh ngiệm lịch sử cho thấy rằng, quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội thuận lợi hay khó khăn phụ thuộc trước hết vào quan điểm phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhiều người cách mạng đã thuộc lòng lời dặn của C.Mác rằng: " một xã hội, ngay sau khi xác định đúng con đường tiến lên rồi, cũng không thể nào nhảy qua các con đường phát triển tự nhiên, hay dùng các sắc lệnh để xoá bỏ nó nhưng có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ". Tuy vậy bài học sai lầm do nôn nóng, chủ quan, hay muốn tìm những con đường mới ngoài quy luật chung đã được khái quát hoá trong học thuyết của Mác- Lênin vẫn còn đang lặp lại. Hiện tượng đó không chỉ do thái độ và tâm lí, mà còn do trình độ tiếp nhận chủ nghĩa xã hội khoa học và tiếp thu những bài học lịch sử. Quan niệm chuyển thẳng, trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, bỏ các chặng đường của thời kì quá độ thường gắn liền với các quan niệm không tưởng về chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện đã gính được chính quyền, những người mang quan điểm xã hội chủ nghĩa không tưởng thường muốn áp đặt những kế hoạch vĩ đại với nguyện vọng tốt lành và đơn thuần dựa vào tuyên truyền, kêu gọi, thuyết phục. Lênin đã từng chỉ rõ sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học là ở chỗ: Chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể hiểu được vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, không thể hiểu được tầm quan trọng của phong trào quần chúng nông dân, không đánh giá đúng vai trò của đấu tranh chính trị. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể vạch ra con đường đi tới chủ nghĩa xã hội về mặt lí luận, và liên tiếp thất bại trong hoạt động thực tiễn. Lênin đã luận chứng và khẳng định về quan niệm phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa một cách đúng đắn trong điều kiện kinh tế lạc hậu, thông qua thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô rằng: " Không nghi ngờ gì nữa, trong đó những người sản xuất- tiểu nông chiếm đa số dân cư- chỉ có thể thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa bằng một loạt những biện pháp quá độ đặc biệt hoàn toàn không cần thiết ở các nước tư bản phát triển". Tư tưởng của Lênin về con đường đặc biệt quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước kinh tế và văn hoá lạc hậu, bắt nguồn từ quan điểm duy vật lịch sử, coi quá trình chuyển từ xã hội còn sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hộ cũng là quá trình lịch sử tự nhiên. Lênin đã căn dặn những người cộng sản rằng: " Mác không tưởng tượng ra, không nghĩ ra một xã hội " mới" nào cả. Không, Mác chỉ nghiên cứu sự phát sinh xã hội mới từ xã hội cũ, nghiên cứu những hình thức quá độ từ xã hội này sang xã hội khác, coi đó là một quá trình lịch sử tự nhiên vậy". Tư tưởng của Lênin về con đường quá độ đặc biệt lên chủ nghĩa xã hội đã trở thành cơ sở lí luận xuất phát và phương pháp luận của đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở những ở những lạc hậu trong đó có nước ta. Tư tưởng đó của Lênin soi sáng sự phân tích nguyên nhân của những sai lầm, nôn nóng, chủ quan duy ý chí và việc tìm kiếm những giải pháp khắc phục sai lầm, mà trước hết phải vận dụng quan điểm quan điểm duy vật lịch sử, nhìn thẳng vào sự thật của những mâu thuẫn trong việc đánh giá thực trạng kinh tế- xã hội cũng như phát hiện những khả năng đi lên, những lực luợng xây dựng xã hội mới, từ trong sự vận động của các mâu thuẫn đó. II. Chiến lược liên minh công - nông về mặt kinh tế Tính tất yếu phải lựa chọn con đường quá độ đặc biệt lên chủ nghĩa xã hội, xét một cách khái quát là do giai cấp công nhân chưa phát triển, hay chưa phát triển đầy đủ. Do đó chưa có đủ tiền đề về kinh tế và xã hội, chưa có chỗ dựa về chính trị cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và cho phép nhà nước thực hiện các chức năng của mình một cách có hiệu quả. Vậy phải làm như thế nào, để trong hoàn cảnh đó phát huy được vai trò và sức mạnh của giai cấp công nhân? Nói như Lênin, " là chỗ dựa về mặt xã hội, kinh tế và chính trị " cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội. Phát triển những tư tưởng của C.Mác và P.Enghen về khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, trong điều kiện mới của lịch sử thế giới, Lênin đã chỉ ra những điều kiện cho sự phát triển thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế lạc hậu, cho việc phát huy vai trò và sức mạnh của giai cấp công nhân. Người viết : " trong một nước như vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi với hai điều kiện. Điều kiện thứ nhất là có sự ủng hộ kịp thời của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước hay một số nước tiên tiến...Điều kiện thứ hai là sự thoả thuận giữa giai cấp vô sản đang thực hiện sự chuyên chính hoặc đang nắm chính quyền nhà nước với đại đa số nông dân". Thực chất hai điều kiện đó, như thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước cho thấy là hình thành khối liên minh bằng hai sức mạnh: bên trong là liên minh giữa hai giai cấp công nhân và nông dân, bên ngoài là sự liên minh quốc tế xã hội chủ nghĩa. Sức đẩy của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong một nước kinh tế lạc hậu là sức đẩy tổng hợp gồm hai sức mạnh được hình thành như một chỉnh thể. Thiếu một không thể được. Thiếu cả hai thì cách mạng nhất định thất bại. Bằng sức mạnh tổng hợp đó thì giai cấp công nhân trẻ tuổi trong nước mới thực sự là chỗ dựa cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tầm quan trọng quyết định của liên minh về kinh tế giữa hai giai cấp công nhân và nông dân thể hiện ở các mặt sau đây: a) Xây dựng động lực cách mạng trong giai đoạn mới, biến công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành sự nghiệp của quần chúng, Lênin dạy rằng: " Những người cộng sản và giai cấp công nhân phải lôi cuốn tất cả quần chúng lao động, trong đó đại đa số là nông dân, đều thật sự tham gia sự nghiệp nàythì mới bảo đảm thắng lợi của cách mạng. Theo tư tưởng của Lênin, liên minh là dựa vào sự thoả thuận. Và " thoả thuận là một khái niệm rất rộng, nó bao hàm một loạt các biện pháp và bước quá độ". Trong quá trình dẫn dắt nông dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, Lênin khẳng định rằng, nếu liên minh được với nông dân thì " sự nghiệp chúng ta là hoàn toàn vô địch". Lúc đầu phải trải qua những bước quá độ nhưng " sẽ có lúc phong trào ấy tiến nhanh đến mức mà hiện giờ chưa có thể mơ tưởng đến được" Điều kiện đầu tiên để khởi động phong trào quần chúng là phải ổn định, cải thiện ít nhiều đời sống quần chúng vốn rất thấp và đã chị thiếu thốn nhiều năm trong chiến tranh. Đây là bài học cơ bản về mặt chính trị của thời kì sau chiến tranh, được Lênin gọi là " quy luật chính trị chủ yếu". Một trong những quan điểm chiến lược của NEP là đặt mục tiêu đó lên hàng đầu, vừa tạo động lực trong thời kì mới, vừa góp phần củng cố nhà nước. Vì vậy, quá trình thực hiện NEP là quá trình bằng mọi cách cải thiện đời sống nông dân, công nhân và lôi cuốn các nhà trí thức tham gia xây dựng kinh tế. b) Thực hiện liên minh công nông về mặt kinh tế là con đường thực tế xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế và văn hoá còn thấp. Sự liên minh ấy phù hợp với đòi hỏi chuyển nông nghiệp sang kinh tế hàng hoá và tập thể hoá, với yêu cầu kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, chuyển nền kinh tế sang cơ cấu tái sản xuất mở rộng- cơ sở bảo đảm đời sống và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Để liên minh công nông về mặt kinh tế đáp ứng được yêu cầu xây dựng cơ sởkinh tế bước đầu của chủ nghĩa xã hội và để tạo được động lực cho quá trình ấy thì phải bắt đầu từ nông nghiệp và nông dân. Đây là tính quy luật kinh tế- chính trị đòi hỏi phải vận dụng dù trong điều kiện bình thường hay trong khủng hoảng kinh tế, xã hội. Đường lối kinh tế của Đảng ta đã xác định vị trí hàng đầu của nông nghiệp, gắn với ba chương trình mục tiêu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Các nghị quyết của Trung Ương đều đặt vấn đề giả quyết đúng đắn mối quab hệ giữa nhà nước và nông dân. Để đảm bảo thực hiện thắng lợi đường lối và nghị quyết của Đảng ta thì việc quán triệt tư tưởng chiến lược liên minh công nông về kinh tế của Lênin là vấn đề có ý nghĩa quyết định. III. Con đường từ nền kinh tế nhiều thành phần đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Đặc điểm kinh tế chủ yếu trong thời kì quá độ là tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế, " có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội". Trong chặng đường đầu thời kì quá độ, nói chung nền kinh tế còn tồn tại đồng thời các thành phần kinh tế sau: Kinh tế nông dân mang tính tự nhiên. Sản xuất hàng hoá nhỏ. Kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế xã hội chủ nghĩa. Kinh tế tư bản nhà nước. Điều quan trọng cần chú ýkhông phải là có bao nhiêu thành phần, mà là mối quan hệ giữa các thành phần đó như thế nào? Thành phần kinh tế nào chiếm ưu thế? Không phải là chỉ thừa nhận tính chất nhiều thành phần của nền kinh tế, mà chủ yếu là tìm con đường chuyển biến nền kinh tế nhiều thành phần thành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Khi phân tích nền kinh tế nhiều thành phần, Lênin đòi hỏi một thái độ ngiêm túc có tính nguyên tắc đối với các vấn đề cơ bản như: cuộc đấu tranh trong nền kinh tế ấy đang diễn ra giữa ai với ai? Nguy cơ của tính tự phát tiểu sản xuất và tư sản, và vai trò của hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thái độ khoa học đối với các vấn đề ấy là cơ sở của sự tìm tòi những con đường từ nền kinh tế nhiều thành phần sang nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những thập kỉ qua, đã chứng minh những khả năng và tính tất yếucủa con đường này ở các nước kinh tếlạc hậu đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đúng như những luận điểm mà Lênin đã vạch ra trong NEP nói rộng ra, trong kế hoạch xây chủ nghĩa xã hội của Người. Chỉ trong một thời gian ngắn của mấy năm đầu thập niên 20 trong nền kinh tế Xô Viết đã diễn ra hai quá trình chuyển biến kinh tế cơ bản: Quá trình thứ nhất: Chuyển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa sang quỹ đạo NEP. Như chúng ta đã biết, những chủ trương, chính sách sai lầm bắt ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35042.doc
Tài liệu liên quan