lời mở ĐầU
Sẽ là trái với tự nhiên nếu cho rằng chính sách kinh tế mới là "sự thay đổi tình thế " đột ngột. Những sự tìm kiếm một chính sách mới là lâu dài. Chính sách kinh tế mới không phải được hình thành ngay lập tức , mà nó được cụ thể hoá dần dần. Nếu như thoạt tiên, trước hết nói về toàn bộ những biện pháp chống khủng hoảng khẩn cấp, thì chỉ sau này mọi người mới hiết sâu sắc chính sách kinh tế mới như là chiến lược tối ưu của bước chuyển sang chủ nghĩa xã hội.Cách mạng Tháng Mười đã mở r
23 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chính sách kinh tế mới (NEP) của LêNin và sự vận dụng nó vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a thời đại mới cho nhân loại và LêNin không những đã trao cho dân tộc lạc hậu "Cẩm nang thần kì " để giải phóng dân tộc (Luận cương về các vấn đề dân tộc thuộc địa) mà còn cả "Cẩm nang thần kỳ"để xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát kinh tế lạc hậu(chính sách kinh tế mới). LêNin không những đặt nền móng lí luận mà còn nêu ra mẫu mực về chiến lược và sách lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa từ điểm xuất phát khác nhau. Phản ánh đúng đắn những đòi hỏi của quy luật ra đời và phát triển chủ nghĩa xã hội. Ai sẽ nhanh chóng nắm được tiềm năng cách mạng trong nước và thời đại . Điều đó trước hết tuỳ thuộc vào mức độ lãnh hội thấu đáo học thuyết kinh tế của Lê-Nin và vận dụng sáng tạo vào điều kiện riêng của đất nước. Gốc có vững thì cây mới xanh tươi, nhiều quả ngọt.
Chính sách kinh tế mới không chỉ có ý nghĩa lớn lao với nước Nga. Nó còn có ý nghĩa quốc tế và trong bối cảnh của công cuộc cải tổ, đổi mới chủ nghĩa xã hội hiện nay, nó vẫn là cái cần thiết, mang tính thời sự. Những tư tưởng cơ bản của V.I.Lênin về chính sách kinh tế mới vẫn là những chỉ dẫn lý luận cần thiết, kinh nghiệm thực hiện chính sách kinh tế mới ở nước Nga vẫn là bài học kinh nghiệm bổ ích cho các nước đang trong giai đoạn thực hiện quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có nước ta.
Đề án này gồm 4 chương:
ChươngI: Điều kiện ra đời chính sách kinh tế mới của Lênin.
ChươngII: Nội dung chính sách kinh tế mới của Lênin.
Chương III: Vận dụng chính sách kinh tế mới vào Việt Nam.
Chương IV: Một số giải pháp cơ bản trong việc áp dụng chính sách kinh tế mới với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
nội dung
chương I: điều kiện ra đời chính sách kinh tế mới của Lênin
Cuối năm 1920 đất nước Xô viết ra khỏi chiến tranh vì chuyển sang giai đoạn xây dựng trong hoà bình từ những điều kiện cực kì khó khăn. Sự tàn phá về kinh tế đạt đến mức độ chưa từng có trước đó. Những hậu quả nặng nề của 7 năm chiến tranh đế quốc và nội chiến đã làm cho tình hình kinh tế và xã hội trở nên nóng bỏng.
Về công nghiêp : Nền công nghiệp bị tổn thất lớn nhất, số người làm việc giảm. Do đó tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế năm 1920 là 25%. Hầu như tất cả các ngành đều sa sút. So sản lượng năm 1920 vơi 1918 thì khai thác than đá giảm từ 731 triệu pút xuống 476 triệu put.Nguyên liệu, vật liệu dự trữ đã dùng hết. So với năm 1913 sản xuất đại công nghiệp giảm xuống với 12,8%, còn công nghiệp giảm xuống tới 44,1%. Do đó tương quan đã thay đổi nghiêng về tiểu công nghiệp.
Về nông nghiệp : Tình hình trong lĩnh vực này tiếp tục xấu đi. Diện tích gieo, trồng, sản lượng ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi đều giảm. Tổng sản lượng nông nghiệp năm 1921chỉ bằng 60% năm 1913. Với dân số lúc ấy là 137 triệu thì bình quân ngũ cốc đầu người năm 1920 là 246 kg.Còn trước chiến tranh là 405 kg.
Về giao thông vận tải : Bị tàn phá nghiêm trọng. So với trước chiến tranh, khối lượng vận chuyển năm 1920 chỉ còn 20%
Về tài chinh- tín dụng : Lâm vào tình trạng rối loạn. Năm 1918 bội chi ngân sách 31 tỷ rup, năm 1921 con số bội chi lên tới 21.937tỉ rup. Mức dự trữ vàng của ngân hàng giảm xút nghiêm trọng. Khối lượng tiền tệ tăng nhanh trong khi khối lượng hàng hoá giảm mạnh đã đưa đến sự tăng vọt của giá cả. Mức giá trung bình toàn quốc năm 1923 tăng hơn 21 triệu lần so với năm 1913. Do đồng rúp mất giá nhanh, nên các địa phương tự tạo ra vật ngang giá khác nhau. Đồng thời , xu hướng hiện vật hoá trong nền kinh tế tăng dần lên.
Do sản xuẩt và lưu thông sa sút, nên đời sống nhân dân lao động càng thêm khó khăn so với hồi chiến tranh. Tiền lương thực tế của công nhân công nghiệp trước chiến tranh là 22 rup đã giảm xuống 8,3 rup năm 1920. Do thiếu ăn thường xuyên, thiếu thuốc men chữa bệnh, nên tỷ lệ công nhân mắc bệnh và tử vong tăng lên. Trong lúc đó, vì thiếu điều kiện sản xuất nên nhiều nhà máy đóng cửa,
số người không có việc làm tăng lên, do đó tình trạng biến chất giai cấp của giai cấp công nhân tiếp tục diễn ra.
Trong thời kỳ nội chiến, "chính sách cộng sản thời chiến" gây thiệt hại cho lợi ích nông dân, tuy vậy, sự thiếu thốn, khó khăn trong đời sống của nông dân và công nhân trong thời kỳ ấy không gây ra sự mệt mỏi về tinh thần vì quần chúng lao động sẵn sàng lao động quên mình để góp phần vào việc tiêu diệt bọn phản cách mạng, thiết lập và giữ vững chính quyền nhân dân. Nhưng sau chiến tranh, khi những hy vọng trông chờ vào việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần không được đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất mãn bắt đầu tăng lên. Đó là điều kiện để bọn phản cách mạng lợi dụng lừa dối quần chúng tập hợp lực lượng hòng tấn công vào chính quyền Xô- viết non trẻ. Khi đó chính sách kinh tế mới được V.I. Lênin đề xướng để đáp ứng yêu cầu nhằm tiếp tục kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn mới .
chươngII: nội dung chính sách
kinh tế mới của Lênin
Theo quan điểm của Lênin, khủng hoảng là một quá trình tích tụ và làm gay gắt thêm những mâu thuẫn trên tất cả các lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Sự phân tích sâu sắc của Lênin và chiến lược giải quyết một cách thắng lợi cuộc khủng hoảng năm 1921 chính là ở chỗ vạch ra và làm sáng tỏ mối quan hệ qua lại giữa các lĩnh vực quan trọng nhất : chính trị - xã hội - kinh tế. Vì vậy tiếp cận nội dung của NEP trước hết phải theo quan điểm hệ thống, cho phép nhìn rõ được các mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau. Tách riêng từng nội dung, từng vấn đề trong hệ thống các biện pháp đó thì không nhận thức đầy đủ, thậm trí hiểu sai NEP.
Trong những nhân tố thúc đây cuộc khủng hoảng, thì nhân tố đầu tiên là các chính sách chủ trương vi phạm lợi ích kinh tế của người lao động, trước hết là nông dân, trong điều kiện họ đã mệt mỉ do chiến tranh, bị kiệt sức vì nạn đói, thiếu công việc làm và thiếu điều kiện bình thường về trật tự, an toàn xã hội.
Một nhân tố quan trọng khác thúc đẩy cuộc khủng hoảng, được Lênin chỉ ra là "những quá lạm quan liêu của bộ máy chúng ta ", xuất hiện sự thái hoá trong bộ máy nhà nước. Hiện tượng một bộ phận cán bộ, nhân viên, kể cả một số người lãnh đạo xa rời quần chúng, thiếu tôn trong giữa lợi ích quần chúng càng phát triển thì càng gây thêm mất lòng tin và bất mãn trong quần chúng.
Xét toàn diện các nhân tố gây ra cuộc khủng hoảng, Lê-nin đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của cuộc khủng hoảng là nguyên nhân bên trong - những sai lầm về lãnh đạo quản lý, trước hết và chủ yếu là trên lĩnh vực kinh tế. Vì vậy những nội dung chủ yếu của NEP về thực chất không phải là một số biện pháp hay tổng thể các biện pháp, mà là một cơ chế kinh tế. Mục tiêu trước mắt và cấp bách là cơ chế kinh tế trong NEP thể hiện là ổn định và cải thiện đời sống những người lao độngvà các biện pháp nhằm bảo vệ và củng cố chính quyền Xô- viết được coi là mục tiêu hàng đầu.
Các nội dung của NEP là một hệ thống gồm nhiều mắt khâu liên hoàn, có mối liên hệ bên trong như một dây chuyền, không thể thiếu khâu nào. Tất cả các khâu tạo thành cơ chế kinh tế cho phép nhà nước tháo gỡ khó khăn, điều hành sự vận động kinh tế - xã hội.
Cơ chế kinh tế của NEP gồm các khâu chủ yếu sau đây:
Khâu thứ nhất: Thuế lương thực.
Trong điều kiện nước Nga lúc ấy, giai cấp nông dân và nông nghiệp là nguồn nuôi sống xã hội. Sản xuất và đời sống xã hội phụ thuộc vào nông nghiệp. Khó khăn rất lớn mà nhà nước vấp phải là thiếu lương thực. Nạn đói năm 1921 càng làm tăng khó khăn đó.Vì vậy, mục đích trực tiếp của thuế lương thực là một trong những " biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất dể cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ". Thực hiện thuế lương thực, xoá bỏ chế độ chưng thu lương thực thừa có nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính thuần tuý sang biện pháp kinh tế, thuế lương thực có vai trò của bước quá độ đó.
Để hiểu chính sách thuế lương thực cần giải đáp hai câu hỏi:
Câu hỏi thứ nhất: Tại sao nhà nước vô sản trước hết lại cải thiện đời sống của nông dân chứ không phải của công nhân?
Đặt vấn đề cải thiện đời sống nông dân là một vấn đề cấp bách. Lênin đã chỉ rõ lập trường chính trị của thuế lương thực như sau:"Tại sao lại chính là của nông dân chứ không phải của công nhân?.
Vì muốn cải thiện đời sống của công nhân thì phải có bánh mỳ và nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta mà nói thì hiện nay "trở ngại "lớn nhất là ở đó, thế mà chúng ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mỳ, tăng thêm dự trữ và vận tải nhiên liệu bằng cách nâng cao lực lượng sản xuất của họ.
Câu hỏi thứ hai: Để cải thiện đời sống nông dân thì mức thuế lương thực phải thấp, như vậy nhà nước làm thế nào có đủ số lương thực cần thiết?
Tác dụng kích thích của thuế lương thực đối với nông dân sản xuất và có điều như vậy nhà nước làm thế nào có đủ số lương thực cần thiết?
Tác dụng kích thích của thuế lương thực đối với nông dân sản xuất và có điều kiện cải thiện đời sống của mình là ở mức thuế thấp. Mức thuế lương thực đã được giảm xuống thấp hơn mức trưng thu gần 1/2 thủ tục thu thuế được đơn giản hoá. Từ tháng 5-1923 thực hiện thuế thống nhất với hình thức hỗn hợp bằng tiền tệ - hoặc hiện vật tuỳ theo sự lựa chọn của nông dân, còn từ năm 1924, hình thức tiền tệ của thuế là chủ yếu. Mức thuế có phân biệt đối với các bộ phận nông dân: đối với bần nông thì thu thuế bằng 1,2% thu nhập, trung nông thu 3,5% thu nhập, còn phú nông thu 5,6%.
Do mức thuế thấp nên năm 1921, nhà nước chỉ thu được 240 triệu put lúa mì so với 423 triệu pút trưng thu trước đây. Nhưng để bù lại, do nông dân hăng hái sản xuất, mở rộng diện tích nên tổng sản lượng lương thực của xã hội và các nông sản khác tăng lên. Nhà nước qua con đường trao đổi có được khối lượng lương thực nhiều hơn. Ngoài ra, do mức thuế ổn định, người nông dân nào cũng biết trước số thuế phải nộp và cố gắng sản xuất để vượt quá mức đó. Nhà nước thu thuế dễ dàng, thuận lợi.
Thuế lương thực là đòn xeo mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiền tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luật đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế, bởi vì: " Thuế lương thực sẽ giúp vào việc cải thiện nền kinh tế nông dân. Bây giờ, nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm và hăng hái hơn và đó chính là điều chủ yếu".
Khâu thứ hai của cơ chế NEP : khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp.
Muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền nông nghiệp gia trưởng mang tính chất tự cung tự cấp mà chỉ có thể dựa vào một nền nông nghiệp hàng hoá. Trong thời kỳ áp dụng "chính sách cộng sản thời chiến " xu hướng hiện vật hoá nền nông nghiệp được duy trì và răng lên, xu hướng kinh tế hàng hoá bị kìm hãm. ý nghĩa và tác dụng cần có của thuế lương thực không thể phát huy được trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp, vì số nông sản thừa tăng lên một mức độ nào đó nếu không có trao đổi thì nó mất tác dụng kích thích. Do dó "thuế lương thực là một bước quá độ từ chế độ cộng sản thời chiến đến chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường về sản phẩm". Cơ chế kinh tế hàng hoá cho phép đạt được các mục tiêu sau đây:
a) Đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng của nông dân và xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá, thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp khuyến khích sản xuất nông nghiệp vừa đi vào chuyên canh vừa phát triển kinh doanh tổng hợp, nhờ đó các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp được khôi phục và phát triển.
b) Đó là con đường nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một cách vững chắc. Sản xuất lương thực ngày càng mang tính chất hàng hoá thì nông dân có lợi hơn, nên vừa mở rộng diện tích canh tác, vừa thâm canh nhờ đầu tư thêm vốn và lao động. Kết quả là tổng số lương thực của xã hội tăng lên, khối lượng lương thực vào tay nhà nước qua con đường trao đổi và thu thuế cũng ngày càng tăng. Thực tế cho thấy riêng tổng số thuế năm 1923 thu được tăng gần gấp hai lần năm 1921.
c) Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp làm sống động lại các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thị và nông thôn.
Như vậy quan điểm cơ bản của Lênin bắt đầu từ nông dân được cụ thể hoá trong hai chính sách liên hệ gắn bó không thể tách rời nhau làm thuế lương thực và trao đổi hàng hoá. Vì vậy " nhiệm vụ của ngươì làm công tác lương thực trở thành phức tạp hơn. Một mặt, đó là một nhiệm vụ về thuế vụ. Thu thuế nhanh chừng nào, hợp lý chừng nào hay chừng ấy. Mặt khác đó là một nhiệm vụ kinh tế chung. Cần cố gắng hướng dẫn hợp tác xã, giúp đỡ tiểu công nghiệp phát huy tính chủ động và tính sáng tạo ở cơ sở để tăng cường và củng cố sự trao đổi giữa nông nghiệp và công nghiệp. Chúng ta không nên sợ thú nhận rằng ở đây chúng ta có thể và phải học tập nhiều hơn nữa ở bọn tư bản"
Xuất phát từ ý nghĩa kinh tế và chính trị của trao đổi hàng hoá, Lênin đã nêu lên sự so sánh sau đây: Từ trước đến nay, người làm công tác lương thực chỉ biết có một chỉ thị chủ yếu: thu đủ 100% mức lương thực trưng thu. Ngày nay, chỉ thị đã khác, phải thu đủ 100% thuế lương thực trong thời gian ngắn nhất, rồi thu 100% nữa bằng cách đổi các sản phẩm của đại và tiểu công nghiệp.
Nhờ quán triệt đầy đủ quan điểm Lênin trong chính sách lương thực, nên đến năm 1925 sản xuất nông nghiệp nước Nga đã đạt mức trước chiến tranh, trong khi các nước tư bản chủ nghĩa tham gia chiến tranh thế giới lần thứ nhất phải trải qua 10 năm, kể từ sau hiệp ước Vec -xây, mới khôi phục xong sản xuất nông nghiệp.
Để thực hiện khâu thứ hai trong cơ chế NEP phải giải quyết hai vấn đề:
Một là : Lấy hàng công nghiệp ở đâu để trao đổi với nông dân? đây là khâu thứ ba của cơ chế NEP trong lô -gích phát triển mội tại của nó. Thực hiện khâu thứ ba sẽ giải quyết vấn đề này.
Hai là: Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá bên trong nông nghiệp mới thực hiện được NEP nhưng sẽ kéo theo sự khôi phục và kích thích xu hướng tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó giải quyết thế nào?
Quan điểm của Lênin về vấn đề này như sau:
--Sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản là một sự phát triển không tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ, khi cần khôi phục kinh tế công nghiệp, nông nghiệp.
--Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển đó là có hại cho cách mạng."Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được; tự sát, vì những Đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản".
Nhưng không được coi thường, buông lỏng sự kiển tra, kiểm soát sự phát triển ấy của xu hướng tư bản chủ nghĩa, nhất là đấu tranh chống nạn đầu cơ. Muốn vậy phải sử dụng hình thức kinh tế "chủ nghĩa tư bản nhà nước", Lênin nói:"chủ nghĩa tư bản nhà nước không đáng sợ, mà đáng mong đợi. Học tập chủ nghĩa tư bản nhà nước".
--Vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội phải phát triển chủ nghĩa tư bản Nhà nước và tự do buôn bán để phát triển lực lượng sản xuất nông nghiệp, cong và để chống tệ quan liêu. Nhưng "tất cả đều có mức độ và với những điều kiện nhất định .Mức độ đó là gì ? Kinh nghiệm sẽ chứng tỏ ".Điều kiện đó là gì ? Là hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước,là sự củng cố khu vực kinh tế nhà nước có hiệu quả.
Quan điểm của LêNin như vậy thật rõ ràng, biện chứng và có tính nguyên tắc. Hiện nay trên vấn đề này, đã xuất hiện thái độ giải thích tuỳ tiện, phiến diện theo quan điểm riêng cả một số người. Nhưng lại có ít sự thảo luận, đấu tranh để làm sáng tỏ tính khoa học và tính thực tiễn quan điểm của LêNin.
Khâu thứ ba của cơ chế NEP :Khôi phục và tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và nông dân.
Một trong những điều kiện để thực hiện trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng công nghiệp có cơ cấu phù hợp với yêu cầu nông thôn. Nhưng trong lúc này, sản xuất công nghiệp đang sa sút vì thiếu lương thực và nguyên liệu. Vì vậy, phải xem xét một cách thiết thực yêu cầu và khả năng khôi phục công nghiệp .
Theo tư tưởng của Lê Nin, khôi phục sản xuất công nghiệp có hai yêu cầu quan trọng: một là, có đủ hàng hoá trao đổi với nông dân để kích thích nông nghiệp. Hai là, tập hợp lại giai cấp công nhân đang bị phân tán vì đói và thiếu việc làm, củng cố kỷ luật lao động, duy trì mức năng suất lao động cần thiết, để phát huy vai trò của công nghiệp và giai cấp công nhân.
Để thực hiện hai yêu cầu đó cần tìm tòi khả năng thực tế : một là, phải sắp xếp lại, lựa chọn những ngành công nghiệp phục vụ trực tiếp nông nghiệp, công nghiệp không đòi hỏi đầu tư lớn, dễ tìm nguyên liệu. Hai là, nhà nước phải dành một số vốn đầu tư nhất định.
Nhìn một cách tổng quát, quá trình khôi phục sản xuất công nghiệp có những đặc điểm và tính quy luật sau đây:
Một là, khôi phục công nghiệp trên cơ sở kỹ thuật cũ.
Trong điều kiện khó khăn lúc bấy giờ, khôi phục sản xuất công nghiệp trên cơ sở trang bị kỹ thuật cũ là một tất yếu về hai phương tiện kinh tế và xã hội.
- Nhà nước có rất ít vốn để đầu tư cho công nghiệp. Năm 1992, nhà nước trợ giúp cho công nghiệp không đáng kể. Còn từ 1923 - 1926 tổng số vốn đầu tư cho công nghiệp là 1,5 tỷ rúp.
- Thu hút được cán bộ, công nhân trở về xí nghiệp cũ, tạo thêm công việc làm, nhờ đó củng cố kỷ luật lao động, tập hợp lại giai cấp công nhân, nhanh chóng ổn định sản xuất.
Hai là, phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cân đối với nguồn tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu.
Đến cuối năm 1922, nhà nước chỉ sử dụng được 1/3 trong tổng số xí nghiệp đã được quốc hữu hoá trước kia, số xí nghiệp còn lại thì đóng cửa tạm ngừng hay cho thuê, tô nhượng. Nhờ thực hiện sự cân đối như vậy, nên đã đẩy nhanh việc khôi phục các xí nghiệp tiên tiến, nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao năng suất lao động. Kết quả là trong thời gian 1921-1924, tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh đã tăng hơn một lần, sớm phát huy vai trò của nó trong nền kinh tế. Do khôi phục công nghiệp dựa trên khả năng cân đối thực tế, nên nhà nước thực hiện được sự tập trung sản xuất trong công nghiệp. Đây không phải sự tập trung hoá tạo xí nghiệp lớn mới, mà là tập trung những cơ sở đã bảo đảm được nguyên liệu, dự trữ vật chất và tài chính. Đó là những xí nghiệp trong kế hoạch nhà nước được cung ứng toàn bộ hay một phần các điều kiện sản xuất.
Tập trung sản xuất như vậy cho phép tạo ra sản phẩm thặng dư, dù chỉ của một bộ phận công nghiệp và tạo điều kiện cho hạch toán kinh tế.
Lúc bấy giờ tập trung sản xuất theo các hình thức liên hiệp các hình thức liên hiệp sản xuất - Các tơ - rớt, xanh - đi - ca, còn hình thức (( tổng công ty )) không phù hợp với những yêu cầu tự chủ về kinh tế và tính linh hoạt trong kinh doanh, với việc sử dụng hàng hoá - tiền tệ. Theo quyết định ngày 12- 8-1921 của Hội đồng lao động quốc phòng, các xí nghiệp lớn, được trang bị kỹ thuật tốt, được bảo đảm nguyên liệu, vật tư, lực lượng lao động là liên hợp lại thành Các tơ - rớt nhằm tạo ra tích luỹ cho nhà nước. Các tơ - rớt được quyền vạch kế hoạch phân phối các phương tiện, sắp xếp cán bộ, tổ chức các dịch vụ thương nghiệp giữa Các tơ-rớt trên thị trường tự do. Trong số các xí nghiệp được nhà nước sử dụng (không kể các xí nghiệp cho thuê hay đóng cửa ) đã có đến 90% đơn vị gia nhập Các- tơ - rớt. Nhờ tập trung trong sản hợp lý nên có điều kiện tích luỹ mở rộng sản xuất, vì vậy số công nhân, cán bộ có việc làm tăng nhanh. Từ 1923 đến 1925, mức tăng số công nhân công nghiệp lớn hàng năm là 23,4%, 14,8%, 24,4%.
Ba là, bước đi của quá trình khôi phục công nghiệp.
Xuất phát từ nhu cầu nông nghiệp và nông thôn, có tính đến khả năng tích luỹ ngay trong quá trình khôi phục, nền công nghiệp được khôi phục theo bước đi như sau:
Trước hết là khôi phục công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm là những nghành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
Tiếp đó khôi phục công nghiệp than ( năm 1927 đạt mức khai thác chiến tranh).
Các nghành công nghiệp nặng được khôi phục chậm hơn. Vốn đầu tư phần lớn được nhà nước hướng vào phát triển cơ sở năng lượng. Công nghiệp dầu khí được khôi phục và cải tạo cơ bản, cùng với các cơ sở năng lượng khác. Chương trình tối thiểu của kế hoạch điện khí hoá năm 1927-1928 đã hoàn thành. Khó khăn hơn cả là khôi phục công nghiệp luyện kim đen. Năm 1921 mới hoạt động được 17 lò cao trong tổng số 126 lò cao và 22 lò theo Mác - tanh trong tổng số 204 lò có trước chiến tranh. Khôi phục công nghiệp luyện kim phụ thuộc hoàn toàn vào việc cơ cấu hạ tầng của nó, vì thế đến đầu kế hoạch 5 năm lần thữ nhất mới hồi sinh toàn bộ công nghiệp này.
Do tập trung sản xuất hợp lý và cân đối nên sớm tạo nguồn tích luỹ.Vì vậy, trong trong thời kỳ khôi phục kinh tế, công nghiệp ô tô và máy kéo Xô viết lần đầu tiên xuất hiện.
Nhờ lao động anh hùng của giai cấp công nhân và những kết quả ngày càng lớn của khôi phục nông nghiệp, nên sản xuất công nghiệp đạt được nhịp độ cao chưa từng có, mức tăng sản phẩm hàng năm là 11%, đến 1926, công nghiệp lớn đã vượt mức trước chiến tranh.
Bốn là, sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp.
Trong những năm đầu thực hiện NEP, nhà nước Xô - viết đã sử dụng có kết quả cơ cấu nhiều thành phần trong công nghiệp. Quan hệ tỷ lệ giữa công nghiệp quốc doanh và công nghiệp tư nhân đã diễn ra sự thay đổi sau đây:
Một mặt, kinh tế tư nhân trong công nghiệp được phục hồi, một phần do nhà nước trả lại xí nghiệp cho chủ cũ, một phần các tư nhân thuê xí nghiệp của nhà nước để kinh doanh. Các xí nghiệp tư nhân tư bản chủ nghĩa trong công nghiệp nhẹ có quy mô trung bình khoảng 50 công nhân và chiếm 12 tổng sản phẩm khu vực đó. Nhiều xí nghiệp còn sử dụng kỹ thuật thủ công như xay bột, công nghiệp bơ, công nghiệp bia. Trong công nghiệp nặng chỉ có một tư nhân về luyện kim đen. Trong NEP còn có hình thức thức hợp đồng tô nhượng. Nhưng hình thức này không phát triển mấy. Đến năm 1925-1926 mới có năm hai xí nghiệp tô nhượng, với số lượng công nhân 15.700 người. Sản phẩm của chúng chiếm: 0,4 giá trị tổng sản phẩm công nghiệp lớn của Liên Xô. Trong việc sử dụng cơ cấu nhiều thành phần đã nảy sinh một hình thức mới có kết quả là công ty liên doanh, được Lê - nin đánh giá cao.
Mặt khác, sở dĩ nhà nước sử dụng cơ cấu công nghiệp nhiều thành phần có kết quả là vì công nghiệp quốc doanh được khôi phục và củng cố, giữ vai trò chủ đạo trong tái sản xuất. Vì vậy, tuy công nghiệp tư nhân tiếp tục phát triển và tăng khối lượng sản phẩm cho đến 1925, nhưng tỷ trọng của chúng trong tổng sản phẩm công nghiệp không ngừng giảm xuống.
Vào năm 1923-1924, tỷ trọng công nghiệp xã hội chủ nghĩa - công nghiệp quốc doanh tập thể - đã chiếm 76,3%, chất lượng sản phẩm cao hơn, giá rẻ hơn nên xí nghiệp tư nhân khó cạnh tranh. Bằng sức mạnh kinh tế là chủ yếu, công nghiệp xã hội chủ nghĩa ngày càng làm cho khu vực kinh tế tư nhân phụ thuộc vào mình. Đó là cơ sở bảo đảm cho nhà nước sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần kết quả.
Hình thức kinh tế cơ bản trong việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là những hình thức chủ nghĩa - tư bản nhà nước, như hình thức tô nhượng trong công nghiệp, hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ, hình thức tư nhân làm đại lý cho nhà nước trong thương nghiệp, hình thức nhà nước cho tư nhân thuê xí nghiệp, vùng mỏ, khu rưng, khu đất...Thực chất của hình thức đó là "những mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước chuyển từ chế độ gia trưởng, từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội ".
Năm là, chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hạch toán kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong điều kiện thực hiện NEP, công nghiệp không thể tiếp tục sống dựa vào ngân sách nhà nước, không thể quản lý tập trung bằng mệnh lệnh như trước. Phương pháp quản lý bằng chỉ thị thẳng được thay bằng sự kết hợp tối ưu, phương pháp hành chính với phương pháp kinh tế. Sự chuyển biến trong quản lý công nghiệp bao gồm mấy nội dung chủ yếu:
a) Quá độ sang hạch toán kinh tế ở xí nghiệp. Theo chỉ thị Hội đồng dân uỷ,từ tháng 8-1921 chuyển công nghiệp Xô - Viết là tơ - rớt. Các xí nghiệp hạch toán kinh tế được quyền tổ chức cung ứng, quyền tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường.
Thực hiện quyền tự chủ về sản xuất và tài chính phụ thuộc vào chính sách giá cả, mà vấn đề then chốt của chính sách là quan hệ tỷ giá hàng công nghiệp với nông sản. Cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra vào mùa thu năm 1923 đã lộ ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa công nghiệp với các nghành kinh tế quốc dân, nhất là nông nghiệp. Quan hệ tỷ giá giữa hàng công nghiệp với nông sản bị xấu đi do việc hạ thấp giá thu mua các nông sản quan trọng nhất và do Các-tơ -rơ công nghiệp nâng giá bản. Trong giá cạnh kéo đó thể hiện rõ những thiếu sót trong quản lý xí nghiệp quốc doanh, hoạt động công nghiệp đã xa rời một mức phương hướng liên minh công nông về kinh tế - Đảng đã chỉ rõ tính chất của những thiếu xót đó ((công thương nghiệp của chúng ta không biết tạo ra con đường đi đến thị trường nông dân rộng rãi )).
Trong tình trạng lúc ấy, nhân tố quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị trường nông thôn là chính sách điều tiết giá cả tích cực. Chính sách điều tiết giá cả theo hai hướng:
Một là, các xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã giảm giá bán hàng cho nông thôn, đồng thời nhà nước tăng giá mua đáng kể những nông sản quan trọng nhất.
Hai là, thực hiện nhiều biện pháp để giảm giá bán hàng công nghiệp. Cuộc đấu tranh để giảm giá bán ra của cônh nghiệp gắn chặt khăng khít với nhiệm vụ nâng cao năng xuất lao động, bằng các cuộc vận động củng cố kỷ luật lao động, tiết kiệm nguyên liệu vật tư, chống lại cách làm ăn phi kinh tế. Nhờ chính sách giá cả tích cực, nhà nước giành được thị trường nông thôn. Trong năm 1924, đã thiết lập được tương quan giá trị giữa hai nghành công nghiệp và nông nghiệp, bảo đảm cho hai nghành phát triển ổn định, với nhịp độ khá cao.
b) Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô trong công nghiệp.
Trong quá trình thực hiện NEP, nhiều hình thức quản lý phong phú đã được thực hiện và vận dụng. Sự thay đổi trong các hình thức quản lý gắn liền với sự thay đổi trong nền kinh tế nhiều thành phần, với sự thay đổi về cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội. Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô, về thực chất là tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành, các yếu tố của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt hiệu quả kinh tế tối ưu. Do đó vai trò của công tác kế hoạch hoá trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần được củng cố, chứ không phải là xoá bỏ. Lênin đã chỉ rõ: " Chính sách kinh tế mới không thay đổi kế hoạch kinh tế thống nhất của nhà nước và không vượt ra ngoài giới hạn của kế hoạch đó, những thay đổi biện pháp kế hoạch đó".
c) Dân chủ hoá quản lý kinh tế.
Trong giai đoạn thực hiện NEP, dân chủ hoá trong quản lý kinh tế được thực hiện có kết quả trên mấy mặt sau:
- Tổ chức hội nghị sản xuất với sự tham gia của đại diện công đoàn và chính quyền để giải quyết các vấn đề cụ thể về cải tiến sản xuất và quản lý. Hình thức này có tác dụng lớn đối với sản xuất, sự trưởng thành của giai cấp công nhân về vai trò của mình và năng lực quản lý kinh tế.
-Thực hiện chế độ phân phối theo lao động, xoá bỏ dần tinh trạng bình quân hoá trong thu nhập, đi đôi với củng cố kĩ luật lao động, phát triển phong trào thi đua.
-Hình thức công khai và dân chủ trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo-quản lý. Trong việc lựa chọn cán bộ quản lý các cấp, Lênin quan tâm đặc biệt đến những người có tài , trung thực, không phân biệt là đảng viên hay ngoài đảng và đặt vấn đề" duy trì sự kiểm soát và lãnh đạo của những người cộng sản.
-Thực hiện nguyên tắc và sự kiểm soát của công nhân trong quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế.
Khâu thứ tư của cơ chế NEP: Tổ chức quá trình lưu thông theo quan điểm NEP.
Lênin đã nêu lên những chức năng mới của nhà nước vô sản trong lĩnh vực kinh tế như:
-Điều tiết việc mua bán và lưu thông tiền giấy.
-Tổ chức thương nghiệp nhà nước bán buôn và bán lẻ.
-ổn định các quan hệ hàng hoá - tiền tệ giữa các cơ quan kinh tế nhà nước.
-Sử dụng hợp tác xã để củng cố quan hệ thương mại giữa thành thị và nông thôn.
-Phát triển các quan hệ tín dụng.
Quan điểm mới của NEP đối với lĩnh vực này phù hợp với yêu cầu chuyển nền kinh tế từ trạng thái hỗn loạn sang quỹ đạo tái sản xuất bình thường, từ phân phối trực tiếp và bao cấp sang kinh tế hàng hoá. Do đó nội thương trở thành cái mắt xích đặc biệt cần nắm vững trong dây truyền quản lý, điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Lênin đã chỉ cho toàn Đảng thấy rằng: "Thương nghiệp đó là cái mắt xích những sự kiện lịch sử, trong những hình thức quá độ của công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của chúng ta".
Vấn đề đặt ra là tại sao thương nghiệp trở thành mắt xích trong triển khai NEP?
Mục đích cao nhất của NEP ở bước ngoặt cách mạng là thiết lập liên minh kinh tế giữa hai giai cấp công nhân và nông dân trong điều kiện nông nghiệp lạc hậu, phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất có thể có giữa hàng chục triệu tiểu nông với giai cấp vô sản, là điều kiện để cho nông nghiệp và công nghiệp có thể tái sản xuất được. Hơn nữa, không có hoạt động thương nghiệp thì không thể sử dụng các hình thức quá độ trong sản xuất và lưu thông. Một trong những vấn đề quan trọng nhất của NEP là phải chiếm các vị trí chỉ huy trong thương nghiệp khi triển khai quá trình lưu chuyển hàng hoá đồng thời hướng quá trình lưu thông đó đi thẳng tơí nhu cầu của nông thôn và thành thị. Để nắm chắc các vị trí chỉ huy thương nghiệp và làm chủ thị trường, nhà nước chú ý đặc biệt đến củng cố mối liên hệ chặt chẽ giữa công nghiệp quốc doanh với thương nghiệp quốc doanh, giữa tiểu thủ công nghiệp với thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp tập thể, để nắm quỹ hàng hoá công nghiệp dùng làm phương tiện điều tiết thị trường.
Trong quá trình tổ chức lưu thông hàng hoá theo tình thần NEP. Nhà nước Xô-viết đã nắm vững tính quy luật liên kết giữa thương nghiệp với tài chính và ngân hàng như một chỉnh thể. Lô-gic của sự vật khách quan là, việc đẩy mạnh chủ quyền nội thương làm cho nhu cầu tiền mặt tăng lên là điều kiện có lợi cho việc củng cố đồng rup. Sự phát triển của thương nghiệp đã kích thích mọi lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra nguồn thu cho ngân sách. Theo Lênin, việc xây dựng nền tài chính quốc gia, thiết lập sự cân đối ngân sách phụ thuộc nhiều vào việc giải quyết nhiệm vụ thương nghiệp và tí._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35082.doc