Tài liệu Chính sách kinh tế mới của Lê - Nin và vận dụng nó vào Việt Nam: A : PHẦN MỞ ĐẦU
Trong những năm trở lại đây nền kinh tế Việt nam đã có nhiều thay đổi và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Là một đất nước nhỏ, điểm xuất phát về kinh tế thấp lại chịu hậu quả của chiến tranh, muốn khắc phục yếu kém, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân và để có được cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn không còn con đường nào khác là phải xác định cho được một cơ chế kinh tế hợp lý tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
Thực t... Ebook Chính sách kinh tế mới của Lê - Nin và vận dụng nó vào Việt Nam
55 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1679 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chính sách kinh tế mới của Lê - Nin và vận dụng nó vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iễn lịch sử đã chỉ ra rằng để thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu, khai thác tối ưu các nguồn lực và lợi thế, đảm bảo cho nhịp độ tăng trưởng nhanh và ổn định,giải quyết các vấn đề cơ bản về kinh tế xã hội bức bách, mỗi quốc gia phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý,trang thiết bị kỹ thuật hiện đại và ứng dụng rộng rãi các phương thức sản xuất tiên tiến.
Trong lịch sử ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới, chính sách kinh tế kinh tế mới (NEP) của Lê-nin xuất hiện vào những năm đầu tiên, ở nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới. Từ đó, mỗi khi quá trình cách mạng gặp khó khăn, hay khi một nước giành được chính quyền, bước vào chặng đường đầu thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, thì những người cách mạng lại nhớ tới chính sách kinh tế mới của Lê-nin.
Suốt nhiều thập kỷ qua, cũng là thời gian các nước chủ nghĩa xã hội tiếp cận NEP của Lê-nin ở các trình độ phát triển khác nhau trong nững hoàn cảnh khác nhau.Từ thực tiễn cách mạng xã hội chủ nghĩa đã nảy sinh nhu cầu nhận thức sâu sắc NEP của Lê-nin không những như là một chiến lược tình thế mà còn là chiến lược lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ thực hiện NEP ở Liên Xô xa cách chúng ta về mặt thời gian, nhưng nhiều vấn đề kinh tế -xã hội mà NEP đã giải quyết thành công lúc bấy giờ lại rất gần gũi với những vấn đề hiện chúng ta đang tập chung sự suy nghĩ giải quyết ở nước ta.Cố nhiên trong điều kiện lịch sử cụ thể của Liên Xô lúc đó, cũng như tình hình quốc tế thời kỳ đó không giống với điều kiện nước ta và hoàn cảnh hiện đại thời nay. Tính đến sự khác nhau ấy trong việc vận dụng NEP vào nước ta là rất quan trọng và cần thiết.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay cho thấy rõ, chính sách kinh tế mới của Lê-nin là mẫu mực về một giải pháp tình thế, và còn là một đường lối mang tính chiến lược, là cái đem lại cho chúng cơ sở lý luận về con đường gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm thực hiện chính sách kinh tế mới ở nước Nga đầu những năm 20 vẫn còn là bài học bổ ích cho đất nước chúng ta trong bối cảch hiện nay.(1)
Đất nước đang trong công cuộc xây dựng và đổi mới từng ngày theo nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những tư tưỏng cơ bản trong chính sách kinh tế mới của Lê -nin về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước; thi hành chính sách chế độ hợp tác xã, cho phép tự do buôn bán tự do trao đổi hàng hoá, kinh doanh tư nhân trên cơ sở điều tiết của nhà nước vẫn có giá trị và có ý nghĩa lớn lao trong nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Để nghiên cứu các vấn đề trên nên em chọn đề tài là: "Chính sách kinh tế mới của Lê - nin và vận dụng nó vào Việt Nam ". Em hi vọng rằng sau bài viết này em sẽ hiểu biết sâu sắc hơn về chính sách kinh tế mới (NEP) và quá trình vận dụng nó vào Việt Nam, sau này huy vọng đóng góp một phần sức lực nhỏ bé của mình vào sự phát triển của đất nước.
B: PHẦN NỘI DUNG
ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI VỚI CƠ SỞ LÝ LUẬN
ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI
Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga chuyển sang thời kỳ kiến thiết trong hoà bình. Do đó, chính sách "Kinh tế cộng sản thời chiến" đã làm xong vai trò lịch sử bất đắc dĩ của nó, giờ đây không cho phép nó đi xa hơn nữa, vì nông dân nhiều nơi đã tỏ ra bất mãn với chính sách kinh tế cộng sản thời chiến (thể hiện rõ ở cuộc bạo loạn Cron-Xtat gần Lêningát); khối liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ. Cho nên phải cần thiết phải trở lại thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội do Lênin đề ra năm 1918, phải trở lại những quan hệ kinh tế khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. Do những yêu cầu đó, đại hội X của Đảng cộng sản Bôn sêvich Nga (họp từ 8 đến 16-3-1921) đã chủ trương thay chính sách "Kinh tế cộng sản thời chiến" bằng chính sách "Kinh tế mới" - NEP (2)
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA MỘT CHÍNH SÁCH MỚI.
Trong qúa trình chiến đấu và chiến thắng của nhà nước Xô -viết suốt bảy thập kỷ qua, mùa xuân năm 1921 đã đi vào lịch sử Liên Xô và lịch sử chủ nghĩa xã hội thế giới như một bước ngoặt: Đảng cộng sản và Nhà nước Xô- viết trẻ tuổi ban hành chính sách "Kinh tế mới".
Cuối năm 1920 tình hình kinh tế bị chi phối bởi một mạng lưới dày đặc các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa. Quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa chủ yếu tồn tại trong nông thôn (dân số nông thôn chiếm 82,4% dân số, kinh tế nông nghiệp chiếm 51,4% thu nhập quốc dân) đặc điểm này được Lê-nin rất chú ýphân tích khi Người vạch ra chiến lược tình thế giải quyết cuộc khủng hoảng và chiến lược lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặt đúng vị trí của vấn đề nông dân và nông nghiệp trong chiến lược và sách lược của Đảng có ý nghĩa quyết định đến bảo vệ những thành quả của cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trước đây, chính quyền Xô -viết đứng vững được trong nội chiến và sự can thiệp của nước ngoài là nhờ tinh thần hy sinh của nhân dân, trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Nhiệt tình cách mạng của quần chúng là động lực duy nhất trong chiến đấu và chiến thắng.
Sau chiến tranh, giai cấp nông dân vẫn là người chủ yếu nuôi sống đất nước, đời sống của họ lại đang thiếu thốn, khó khăn. Nếu Đảng giữ được nhiệt tình cách mạng và lòng tin của họ thì bảo vệ được cách mạng. Ngược lại nếu làm mất lòng tin của họ thì sự nghiệp cách mạng sẽ hết sức nguy hiểm. Giữ được lòng tin lúc này có nghĩa là phải tìm ra động lực của thời kỳ xây dựng. Xuất phát từ sự phân tích đó, Lê- nin đã chỉ ra rằng: Phải bắt đầu từ nông dân và nông nghiệp, phải cải thiện đời sống của người lao động trên cơ sở xây dựng quan hệ kinh tế bình thường giữa nông nghiệp và công nghiệp, củng cố liên minh công nông trên cơ sở kinh tế nhằm lôi cuốn những người sản xuất nhỏ vào việc xây dựng đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có một chính sách như vậy mới tạo được tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Lê-nin đã đóng vai trò quyết định trong việc đưa lý luận mác-xít về thời kỳ quá độ vào thực tiễn cuộc sống và làm phong phú thêm lý luận đó. Nhờ tư tưởng ấy mà Đảng đã sửa chữa được những sai lầm trong thời kỳ đó.
Sau chiến tranh, khi những hy vọng trông chờ vào việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần không không được đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất mãn bắt đầu tăng lên. Đó là điều kiện để bọn phản cách mạng lừa dối quần chúng, tập hợp lực lượng hòng tấn công vào chính quyền Xô-viết non trẻ
Những sai lầm chủ quan của người cộng sản cũng là một thực tế phải giải quyết đồng thời với việc giải quết mâu thuẫn khách quan. Trong những năm tháng cần thiết phải áp dụng "chính sách cộng sản thời chiến " đã hình thành về quan niệm khả năng quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Những chủ trương chính sách sai lầm bắt nguồn từ quan niệm nôn nóng muốn chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, đã làm cho thành phần kinh tế chủ nghĩa xã hội sa sút. Lực lượng sản xuất hiện có không thể sử dụng và mất mát, hao mòn. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chỉ là hình thức bề ngoài, xơ cứng và khô héo dần. Nhiều chủ trương biện pháp quá đáng ra đời từ quan niệm này là một trong những nguy cơ làm tăng khủng hoảng.
BIẾN CHUYỂN VỀ KINH TẾ VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA NEP
SỰ THAY ĐỔI VỀ KINH TẾ TRƯỚC VÀ SAU KHI BAN HÀNH NEP
Trong thời gian thực hiện những chủ trương biện pháp quá đáng (trước khi thực hiện ), do không đếm xỉa đến đặc điểm và điều kiện lịch sử - cụ thể của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, do sự chi phối quan niệm chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội nên tình trạng khủng hoảng ngày càng trở nên nghiêm trọng, sản xuất sa sút hơn, nhất là nông nghiệp. Dân số ăn theo chế độ cung cấp của nhà nước theo tăng nhanh hơn trong khi mức lương cung cấp ngày càng ít, thấp hơn nhiều so với mức sống cần thiết. Các chỉ tiêu thu mua trưng thu cứ tăng lên, nhưng kết quả cứ giảm xuống, nhu cầu tiền mặt càng tăng, càng phải in và phát hành thêm thì sức mua của đồng tiền ngày càng giảm. Số lượng của giai cấp công nhân đã giảm hơn 1/2, trong đó một bộ phận chuyển về nông thôn. Nông dân ngày càng không bằng lòng với chính sách của Đảng. Sai lầm trong lĩnh vực hoạt động kinh tế gây ra hậu quả chính trị nặng nề: Liên minh trong giai cấp công nông đứng trước nguy cơ tan rã, chuyên chính vô sản không được củng cố, vaỉ trò lãnh đạo của Đảng yếu đi.Tình trạng an ninh chính trị an toàn xã hội ngày càng xấu.
Trái ngược với tình trạng trên đây, tình hình kinh tế và chính trị được cải thiện nhanh chóng sau khi ban hành NEP vào tháng 3-1921. Ngay sau đó, vụ thuế lương thực đầu tiên đạt 96%(mặc dù tỷ suất thuế đã hạ thấp và năm 1921 là năm bị hạn hán ghê gớm và nạn đói kinh khủng). Thắng lợi đầu tiên ấy chứng tỏ NEP là còn đuờng đi đúng đắn. Còn sau đó, giữa năm 1922 đến năm 1925, nông nghiệp phát triển mạnh, trong đó sản xuất lương thực từ 56,3 triệu tấn tăng lên 74,7 triệu tấn. Nông thôn hoạt động sôi nổi. Nông nghiệp được khôi phục và phát triển kéo theo sự khôi phục công nghiệp và thương nghiệp. Đời sống nhân dân lao động được ổn định trở lại sau một năm thi hành chính sách kinh tế mới. Lê-nin nói:"Nông dân ấy làm hài lòng với tình hình của họ hiện nay. Chúng tôi có thể mạnh dạn khẳng định như thế ". Sau khi thi hành NEP, nước Nga Xô -viết không chỉ khắc phục được hậu quả của chiến tranh và nạn đói, mà sản xuất còn vượt mức trước chiến tranh .
Tính chất đúng đắn của NEP đã được lịch sử chứng minh. Ngày nay, muốn vận dụng NEP có kết quả cần phải đi sâu vào nội dung cơ bản của NEP.
NỘI DUNG CƠ BẢN, CHỦ YẾU CỦA NEP.
Theo quan điểm của Lê- nin, khủng hoảng là một quá trình tích tụ và làm gay gắt thêm những mâu thuẫn trên tất cả những lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Sự phân tích sâu sắc của Lê nin và chiến lược giải quyết một cách thắng lợi cuộc khủng hoảng năm 1921 chính là ở chỗ vạch ra và làm sáng tỏ mối quan hệ qua lại các lĩnh vực quan trọng nhất: Chính trị - xã hội- kinh tế . Vì vậy tiếp cận nội dung của NEP trước hết phải theo quan điểm hệ thống , cho phép nhìn rõ được tất cả những mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau. Tách riêng từng nội dung, vấn đề trong hệ thống các biện pháp đó thì không nhận thức đầy đủ thậm chí hiểu sai NEP.
Trong những nhân tố thúc đẩy cuộc khủng hoảng, thì nhân tố đầu tiên là chính sách chủ trương vi phạm lợi ích kinh tế của nguời lao động trước hết là nông dân trong điều kiện họ đã mệt mỏi do chiến tranh, bị kiệt sức vì nạn đói,thiếu công việc làm và thiếu điều kiện bình thường về trật tự an toàn xã hội.
Một nhân tố quan trọng khác thúc đẩy cuộc khủng hoảng, được Lê-Nin chỉ ra là "những quá lạm quan liêu của bộ máy chúng ta", xuất hiên sự thoái hoá trong bộ máy nhà nước. Hiện tượng một bộ phận cán bộ, nhân viên, kể cả một số người lãnh đạo xa rời quần chúng, thiếu tôn trọng lợi ích quần chúng càng phát triển thì càng gây thêm mất lòng tin và bất mãn trong quần chúng.
Xem xét toàn diện các nhân tố gây ra cuộc khủng hoảng Lê-nin đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu cuộc khủng hoảng là nguyên nhân bên trong - những sai lầm về lãnh đạo quản lý, trước hết là chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế.Vì vậy, những nội dung chủ yếu của NEP về thực chất không phải là một số biện pháp hay tổng thể một số biên pháp, mà là một cơ chế kinh tế. Mục tiêu trước mắt và cấp bách mà cơ chế kinh tế trong NEP thể hiện là ổn định và cải thiện đời sống những người lao động(kể cả biện pháp cấp bách xuất 10 triệu rúp vàng để nhập lương thực và hàng tiêu dùng) và các biện pháp nhằm bảo vệ và củng cố chính quyền Xô - viết được coi là mục tiêu hàng đầu.
Các nội dung của NEP là một hệ thống gồm nhiều mắt khâu liên hoàn liên hoàn, có mối liên hệ bên trong như một dây chuyền, không thể thiếu khâu nào.Tất cả các khâu tạo thành cơ chế kinh tế cho phép nhà nước tháo gỡ khó khăn, điều hành sự vận động kinh tế - xã hội.
THUẾ LƯƠNG THỰC.
Có thể coi đây là khâu đầu, là bước quá độ từ trạng thái hỗn loạn sang cơ chế kinh tế mới.
Vì trong điều kiện nước Nga lúc ấy, giai cấp nông dân và nông nghiệp là nguồn nuôi sống xã hội. Sản xuất và đời sống xã hội phải phụ thuộc vào nông nghiệp. Khó khăn rất lớn mà nhà nước vấp phải là thiếu lương thực. Nạn đói nam 1921càng làm tăng khó khăn đó. Vì vậy, mục đích trục tiếp của thuế lương thực là một trong những "biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ". Thực hiện thuế luơng thực, xoá bỏ chế độ trung thu lưong thực thừa có nghĩa là chuyển từ biện pháp thuần tuý sang biện pháp kinh tế, thuế lương thực có vai trò của buớc quá độ đó.
Nhà nước vô sản trước hết lại cải thiện đời sống của người nông dân chứ không phải là của công nhân. Vì muốn cải thiện đời sống của công nhân thì phải có bánh mì và nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta mà nói thì hiện nay, "trở ngại" lớn nhất là ở đó, thế mà chúng ta chỉ có thể tăng thêm sản xuất và thu hoạch lúa mì, tăng thêm dụ trữ và vận tải nhiên liệu bằng cách cải thiện đòi sống của nông dân, bằng cách nâng cao lực lượng sản xuất của họ. Phải bắt đầu từ nông dân. Người nào không hiểu điều đó , người nào có ý coi vấn đề nông dân lên hàng đầu như thế là một sự "từ bỏ" chuyên chính vô sản hoặc tương tự như vậy, thì " chẳng qua chỉ là người đó không chịu suy nghĩ kỹ càn g về vấn đề đó và bị lời nói trống rỗng chi phối … Người vô sản nào hoặc người đại diện nào của giai cấp vô sản muốn cải thiện đời sốn của công dân bằng những con đưòng khác thì thực tế chỉ là những kẻ trợ lực cho kẻ bách vệ và bọn tư bản mà thôi.Vì đi theo một con đường khác có nghĩa là đặt lợi ích phường hội của công nhân lên trên lợi ích giai cấp của họ".
Để cải thiện đời sống nông dân thì mức thuế lương thực phải thấp và tác dụng kích thích của thuế lương thực đối với nông dân sản xuất và có điều kiện cải thiện đời sống của mình là ở mức thuế thấp. Mức thuế lương thực đã được giảm thấp hơn mức trưng thu gần 1/2, thủ tục thu thuế được đơn giản hoá từ tháng 5 năm 1923 thực hiện thống nhất thuế hình thức hỗn hợp bằng tiền tệ hoặc hiện vật tuỳ theo sự lựa chọn của nông dân, còn từ năm 1924, hình thức tiền tệ là chủ yếu. Mức thuế có phân biệt với các bộ phận của nông dân : đối với bần nông thì thu thuế bằng 1,2 % thu nhập , trung nông thu 3,5% thu nhập, còn phú nông thu 5,6% .Như vậy nhà nước làm thế nào để đủ số luơng thực cần thiết.
Do mức thuế thấp nên năm 1921 nhà nước thu được 240 triệu pút so với 423 triệu pút trưng thu trước đây. Nhưng để bù lại, do nông dân hăng hái sản xuất, mở rộng diện tích nên tổng sản lượng lương thực của xã hội và các nông sản khác tăng lên . Nhà nuớc qua con đường trao đổi có được khối lượng lương thực nhiều hơn. Ngoài ra, do mức thuế ổn định, người nông dân nào cũng biết đuợc số thuế phải nộp và cố gắng sản xuất để vượt qua mức đó. Nhà nước thu thuế rõ ràng, thuận lợi .
Thuế lương thực là đòn mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luật đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế, bởi vì :" thuế luơng thực sẽ giúp vào việc cải thiện nền kinh tế nông dân. Bấy giờ, nông dân sẽ bắt tay vào việc một cách yên tâm, và đó chính là điều chủ yếu .
KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG HOÁ TRONG NÔNG NGHIỆP THÔNG QUA TRAO ĐỔI SẢN PHẨM GIỮA NÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG NGHIỆP.
Muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền nông nghiệp gia trưởng mang tính chất tự cung tự cấp mà chỉ có thể dựa vào nền nông nghiệp hàng hoá. Trong thời kỳ áp dụng " chính sách cộng sản thời chiến " xu hướng hiện vật hoá nền nông nghiệp được duy trì và tăng lên, xu hưóng kinh tế hàng hoá bị kìm hãm. ý nghĩa và tác dụng cần có thuế lương thực không phát huy được trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp, vì số nông sản thừa tăng lên ở mức độ nào đó nếu không có trao đổi thì nó mất tác dụng kích thích. Do đó " thuế lưong thực là một bước quá độ từ chế độ cộng sản thời chiến đến chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường về sản phẩm "
Như vậy quan điểm cơ bản của Lê-nin "bắt đầu từ nông dân " đuợc cụ thể hoá trong hai chính sách liên hệ, gắn bó không thể tách rời nhau là: thuế lương thực và trao đổi hàng hoá.
Chính sách thuế lương thực của Lê -nin còn bao hàm ý tưởng chuyển sang kinh doanh lương thực, được coi như đòn bẩy quan trọng cho sự phát triển sản xuất lương thực và sản xuất nông nghiệp nói chung. Theo hướng đó, nhà nước đã đem lại sự giúp đỡ to lớn về tài chính và kỹ thuật cho nông dân.
Nhờ có quán triệt đầy đủ quan điểm Lê- nin trong chính sách lương thực, nên đến năm 1925 sản xuất nông nghiệp nước Nga đã đạt đến truóc chiến tranh (1913), trong khi các nước tư bản chủ nghĩa tham gia chiến tranh thế giới lần thứ nhất phải trải qua 10 năm, kể từ hiệp ước Véc - xây, mới khôi phục xong sản xuất nông nghiệp.
Phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp trong cơ chế NEP đã cho thấy được thực tiễn là lấy hàng công nghiệp ở đâu và xu hướng tư bản chủ nghĩa. Nhưng Lê- nin đã cho thấy sự phát triển của trao đổi tư nhân, của chủ nghĩa tư bản là một sự phát triển không tránh được khi có hàng triệu người sản xuất nhỏ, khi cần khôi phục kinh tế nông nghiệp, công nghiệp. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển đó là có hại cho cách mạng."Chính sách ấy là một sự dại dột và tự sát đối với đảng nào muốn áp dụng nó. Dại dột, vì về phương diện kinh tế, chính sách ấy là không thể nào thực hiện được: tự sát vì những đảng nào định thi hành một chính sách như thế, nhất định sẽ bị phá sản. Nhưng không đựợc coi thường buông lỏng sự kiểm tra, kiểm soát sự phát triển ấy của xu hướng tư bản chủ nghĩa, nhất là đấu tranh chống nạn đầu cơ. Muốn vậy phải sử dụng hình thức kinh tế "chủ nghĩa tư bản nhà nước ", Lê nin nói : " chủ nghĩa tư bản nhà nước không đáng sợ, mà đáng mong đợi . Học tập chủ nghĩa tư bản nhà nước "
Vì lợi ích chủ nghĩa xã hội phải phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước và tự do buôn bán để phát triển lực lượng sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và chống tệ nạn quan liêu. Nhưng tất cả đều ở mức độ và với những điều kiện nhất định. Mức độ đó ở đâu thì thực tiễn và kinh nghiệm sẽ chúng tỏ, còn điều kiện thì là hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, là sự củng cố khu vục nhà nước có hiệu quả.
KHÔI PHỤC VÀ TỔ CHỨC LẠI NỀN SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP PHÙ HỢP VỚI YÊU CẦU CỦA NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG DÂN.
Một trong những điều kiện để thực hiện trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng công nghiệp có cơ cấu phù hợp với yêu cầu nông thôn. Nhưng trong lúc này, sản xuất công nghiệp đang sa sút vì thiếu lương thực và nguyên liệu.Vì vậy phải xem xét một cách thiết thực yêu cầu và khả năng khôi phục công nghiệp .
Theo tư tưởng của Lê- Nin, khôi phục sản xuất công nghiệp có hai yêu cầu quan trọng: một là, có đủ hàng hoá trao đổi với nông dân để kích thích nông nghiệp. Hai là, tập hợp lại giai cấp công nhân đang bị phân tán và thiếu việc làm, củng cố kỷ luật lao động, duy trì mức năng suất lao động cần thiết, để phát huy được vai trò của công nghiệp và giai cấp công nhân.
Do vậy cần tìm tòi những khả năng thực tế ; một là phải sắp xếp lại, lựa chọn những nghành công nghiệp phục vụ trực tiếp nông nghiệp, đặc biệt chú ý đến phát triển tiểu thủ công nghiệp là thứ công nghiệp không đòi hỏi đầu tư lớn, dễ tìm nguyên liệu. Hai là nhà nước phải để dành một số vốn đầu tư nhất định.
Trong điều kiện khó khăn lúc bấy giờ, khôi phục sản xuất sản xuất công nghiệp trên cơ sở trang bị kỹ thuật cũ là một tất yếu về hai phương diện kinh tế và xã hội. Bởi vì nhà nước có rất ít vốn để đầu tư cho công nghiệp và thu hút được cán bộ, công nhân trở về xí nghiệp cũ, tạo thêm công việc làm, nhờ đó củng cố kỷ luật lao động, tập hợp lại gia cấp công nhân, nhanh chóng ổn định sản xuất. Không những thế phạm vi phạm vi khôi phục sản xuất nông nghiệp cân đối với nguồn tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu. Đến cuối năm 1922, nhà nước chỉ sử dụng được 1/3 trong tổng số xí nghiệp đã quốc hữu hoá trước kia, số xí nghiệp còn lại thì đóng cửa, tạm ngừng hay cho thuê, tô nhượng. Nhờ thực hiện sự cân đối như vậy, nên đã đẩy nhanh việc khôi phục các xí nghiệp tiên tiến, nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao năng suất lao động. Kết quả là trong thời gian 1921-1924, tổng sản phẩm công nghiệp quốc doanh đã tăng hơn 2 lần, sớm phát huy vai trò của nó trong nền kinh tế. Do khôi phục công nghiệp dựa trên khả năng cân đối thực tế, nên nhà nước thực hiện được sự tập trung sản xuất trong công nghiệp. Đây không phải là sự tập trung hoá tạo ra tạo ra xí nghiệp lớn mới , mà là sự tập trung trên cơ sở đã đảm bảo được nguyên liệu, dự trữ vật chất và tài chính. Đó là những xí nghiệp trong kế hoạch nhà nước được cung ứng toàn bộ hay một phần các điều kiện sản xuất. Tập trung sản xuất như vậy cho phép tạo ra sản phẩm thặng dư, dù chỉ là một bộ phận công nghiệp và tạo điều kiện cho hoạch toán kinh tế.
Theo quyết định ngày 12 - 8 - 1921 của hội đồng lao động quốc phòng, các xí nghiệp lớn được trang bị kỹ thuật tốt, được đảm bảo nguyên liệu,vật tư, lực lượng lao động thì liên hợp lại thành các tơ- rớt nhằm tạo ra tích luỹ cho nhà nước. Các tơ - rớt được quyền vạch kế hoạch phân phối các phương tiện, sắp xếp lại cán bộ, tổ chức các dịch vụ thưong nghiệp giữa các tơ- rớt trên thị trường tự do.
Xuất phát từ nhu cầu nông nghiệp và nông thôn, có tính đến khả năng tích luỹ ngay trong quá trình khôi phục, nền công nghiệp được khôi phục theo bước đi như sau: Trước hết là khôi phục công nghệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, là những nghành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.Tiếp đó là khôi phục công nghiệp than.
Các nghành công nghiệp nặng được khôi phục chậm hơn. Vốn đầu tư phần lớn đuợc nhà nước hướng vào phát triển cơ sở năng lượng. Công nghiệp dầu khí được khôi phục và cải tạo cơ bản, cùng với các cơ sở năng lưọng khác.
Sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp. Trong những năm đầu thục hiện NEP, nhà nước Xô - viết đã sử dụng có kết quả cơ cấu nhiều thành phần trong công nghiệp. Quan hệ tỷ lệ giữa công nghiệp quốc doanh và công nghiệp tư nhân đã diễn ra sự thay đổi. Một mặt kinh tế tư nhân trong công nghiệp được khôi phục, một phần là do nhà nước trả lại xí nghiệp cho chủ cũ, một phần các tư nhân thuê xí nghhiệp cuả nhà nuóc để kinh doanh. Các nhà nước tư nhân tư bản chủ nghĩa trong công nghiệp nhẹ có quy mô trung bình khoảng 50 công nhân và chiếm 1/3 tổng sản phẩm khu vực đó. Nhiều xí nghiệp còn sử dụng kỹ thuật thủ công như xay bột, công nghiệp bơ, công nghiệp bia. Trong công nghiệp nặng chỉ có một xí nghiệp tư nhân về luyện kim đen. Trong NEP còn có hình thức hợp đồng tô nhượng. Nhưng hình thức này không phát triển mấy.
Mặt khác nhà nuớc sử dụng cơ cấu công nghiệp nhiều thành phần có kết quả là vì công nghiệp quốc doanh được khôi phục và củng cố, giữ vai trò chủ đạo trong tái sản xuất. Vì vậy, tuy công nghiệp tư nhân tiếp tục phát triển và tăng khối luọng sản phẩm cho đến năm 1926, nhưng tỷ trọng của chúng trong tổng sản phẩm công nghiệp không ngừng giảm xuống. Bằng sức mạnh kinh tế là chủ yếu, công nghiệp xã hội chủ nghĩa ngày càng làm cho khu vực kinh tế tư nhân phụ thuộc vào mình. Đó là cơ sở bảo đảm cho nhà nuớc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có kết quả.
Hình thức kinh tế cơ bản trong việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là những hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước như hình thức tô nhưọng trong công nghiệp, hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ, hình thúc tư nhân làm đại lý cho nhà nước trong thương nghiệp, hình thức nhà nuớc cho tư nhân thuê xí nghiệp, vùng mỏ, khu rừng, khu đất … Thực chất của các hình thức đó là"những mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước chuyển từ chế độ gia trưởng, từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội ".
Chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hoạch toán kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong điều kiện thực hiện NEP, công nghiệp không thể tiếp tục sống dựa vào ngân sách nhà nước, không thể quản lý tập trung bằng mệnh lệnh như trước. Phương pháp quản lý bằng chỉ thị thẳng được thay bằng sự kết hợp tối ưu, phưong pháp hành chính với phương pháp kinh tế. Sự chuyển biến trong quản lý công nghiệp bao gồm mấy nội dung chủ yếu sau:
Quá độ sang hạch toán kinh tế ở xí nghiệp.
Theo chỉ thị Hội đồng dân uỷ, từ tháng 8- 1921 chuyển công nghiệp sang hạch toán kinh tế. Đơn vị hoạch toán đầu tiên trong công nghiệp Xô - viết là tơ - rớt. Các xí nghiệp hoạch toán kinh tế được quyền tổ chức cung ứng, quyền tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường. Từ tháng 9- 1921 bắt đầu chuyển từ chế độ bình quân bằng hiện vật của thời kỳ "cộng sản thời chiến " sang chế độ tiềng lương dựa vào số lượngvà chất lượng lao động của mỗi người, thực hiện chế độ trả lương khoán. Ngoài ra, còn thực hiện sự thay đổi chế độ tiền thưởng. Sắc lệnh của hội đồng dân uỷ ngày 7- 4-1921" về tặng thuởng bằng hiện vật cho công nhân" đã tiến hành làm tăng luỹ tiền trả bằng hiện vật cho lao động có năng suất cao. Thực hiện quyền tự chủ về sản xuất và tài chính phụ thuộc vào chính sách giá cả, mà vấn đề then chốt của chính sách này là quan hệ tỷ giá hàng công nghiệp và nông sản. Cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra vào mùa thu năm 1923 đã lộ ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng giữa các nghành công nghiệp với các ngành kinh tế quốc dân, nhất là nông nghiệp. Quan hệ tỷ giá giữa hàng công nghiệp với hàng nông sản bị xấu đi do việc hạ thấp giá thu mua các nông sản quan trọng nhất và do các tơ -rớt công nghiệp nâng giá bán ra. Trong tình hình lúc ấy, nhân tố quan trọng nhất để chiếm lĩnh thị trường nông thôn là chính sách điều tiết giá cả tích cực. Chính sách điều tiết giá cả theo hai hướng. Một là, các xí nghiệp thưong nghiệp quốc doanh và hợp tác xã giảm giá bán hàng cho nông thôn (do đó kéo theo sự giảm giá của kinh tế tư nhân),đồng thời nhà nước giảm giá mua đáng kể những nông sản quan trọng nhất. Hai là, thực hiện nhiều biện pháp để giảm giá bán hàng công nghiệp. Cuộc đấu tranh để giảm giá bán ra của công nghiệp gắn chặt khăng khít với nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động, bàng các cuộc vận động củng cố kỷ luật lao động, tiết kiệm nguyên liệu vật tư, chống lại cách làm ăn phi kinh tế. Kết quả là nhịp độ tăng năng suất lao động bắt đầu vuợt quá mức tăng tiền lương. Đó là một trong những nhân tố chủ yếu để phát triển hơn nữa các cơ sở hoạch toán kinh tế.
Trong quá trình phấn đấu để thiết lập quan hệ kinh tế và tỷ giá hợp lý giữa hai nghành là những biện pháp bảo đảm cho kinh tế hai ngành tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau trong sự phát triển, chứ không phải kìm hãm nhau. Tuỳ theo khâu yếu trong sự phát triển cân đối giữa nông nghiệp với công nghiệp mà xác định biện pháp chủ yếu từng thời gian. Nhờ các biện pháp tác động qua lại giữa hai nghành nên đã củng cố quan hệ kinh tế giữa công nghiệp quốc doanh với nông nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế hoạch hoá.
Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô trong công nghiệp.
Chế độ quản lý tập trung quá đáng ở cấp trung ương (thông qua các tổng cục) gây mâu thuẫn với hoạch toán kinh tế ở cơ sở. Khi các xí nghiệp quá độ sang hoạch toán kinh tế sử dụng ngày càng rộng rãi quan hệ hàng hoá - tiền tệ, sớm nhất là các nghành công nghiệp nhẹ, thì vấn đề đổi mới cơ chế vĩ mô đặt ra gay gắt. Cuộc thảo luận toàn diện về nguyên nhân của "khủng hoảng tiêu thụ " do các cơ quan kinh tế trung ương tiến hành, dưới sự lãnh đạo của trung ương Đảng, đã đi đến kết luận :" cuộc khủng hoảng mà chúng ta đang phải chịu đựng nêu bật sự cần thiết phải tăng cường công tác phối hợp các ngành kinh tế quốc dân độc lập, tăng cường cơ sở kế hoạch trong công tác của các cơ quan kinh tế nhà nước.Trong một mức độ rất lớn so với trước đây, Đảng phải học tập phối hợp các yếu tố kinh tế quốc doanh trong sự tác động qua lại giữa chúng với nhau, cũng như với thị trường".Trong quá trình thực hiện NEP, nhiều hình thức phong phú đã được phát hiện và vận dụng. Sự thay đổi trong các hình thức quản lý gắn liền với sự thay đổi trong nền kinh tế nhiều thành phần, với sự thay đổi về cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội . Chính là khuynh hướng hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng các nguyên tắc quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa, dựa trên quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ. Do đó, việc cải tiến quản lý công nghiệp đòi hỏi xoá bỏ hình thức quản lý tất cả xí nghiệp theo nghành sản xuất. Còn quản lý xí nghiệp kiểu tờ - rớt thì liên kết lại thành nhóm các xí nghiệp cùng loại theo lãnh thổ. Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô, về thực chất là tăng cường công tác phối hợp (phân công và hợp tác)giữa các nghành, các yếu tố của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt hiệu quả kinh tế tối ưu. Do đó vai trò của công tác kế hoạch hoá trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần được củng cố, chứ không phải là xoá bỏ. Lê- nin đã chỉ rõ :" Chính sách kinh tế mới không làm thay đổi kế hoạch kinh tế thống nhất của nhà nước và không vượt ra ngoài giới hạn của kế hoạch đó, nhưng thay đổi biện pháp thực hiện kế hoạch đó".
Dân chủ hóa quản lý kinh tế.
Một trong những đặc trưng cơ bản là cơ chế quản lý cũ và cơ chế quản lý thời kỳ NEP là sự tham gia của quần chúng vào hoạt động quản lý. Hình thành tư tưởng dân chủ hóa quản lý kinh tế là kết quả của sụ thay đổi tận gốc quan niệm về những vấn đề cơ bản của sự phát triển xã hội và kinh tế. Trong đó, bao gồm sự phê phán quan điểm chuyển trực tiếp sang phương pháp sản xuất và phân phối cộng sản chủ nghĩa trong một nước tiểu nông, phương pháp thuần tuý dùng pháp lệnh của bên trên dội xuống hòng cải biến kinh tế xã hội bao gồm sự khẳng định nguyên tắc kết hợp nhiệt tình cách mạng với quan tâm đến lợi ích vật chất, nguyên tắc kích thích về kinh tế, hướng người lao đọng vì lợi ích vật chất mà quan tâm đến kết quả lao động của mình, nguyên tắc phân phối thu nhập dựa vào khối lượng và chất lượng lao động trong quá trình thiết lập các quan hệ kinh tế và xã hội mới…Tất cả đều được thể hiện rõ ở các mặt. Tổ chức hội nghị sản xuất với sự tham gia của đại diện công đoàn và chính quyền để giải quyết các vấn đề cụ thể về cải tiến sản xuất và quản lý.
Thực hiện chế độ phân phối theo lao động, xoá bỏ dần tình trạng bình quân hoá trong thu nhập, đi đôi với củng cố kỷ luật lao động, phát triển phong trào thi đua…
Hình thức công khai và dân chủ trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo - quản lý. Lê - nin đòi hỏi " phả._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLTH037.doc