Lời nói đầu
Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đều phải tuân theo một guồng quay đó là quy luật kinh tế thị trường, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh,...
Vậy để một ngành kinh tế hay một doanh nghiệp tồn tại và phát triển được trong nền kinh tế thị trường và tạo được thế và lực cạnh tranh cho riêng mình thì các doanh nghiệp phải tìm ra cho mình những "liều thuốc" hữu hiệu để làm vũ khí cạnh tranh, mà liều thuốc hữu hiệu đó chính sác
36 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chính sách giá trong điều kiện nền Kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h giá là một yếu tố quan trọng, các doanh nghiệp làm thế nào để vừa có sức cạnh tranh về giá vừa đem lại được lợi nhuận tối đa trên một đồng vốn tối thiểu thì việc vận dụng hợp lý chính sách giá là một yếu tố quan trọng để đem lại thành công cho doanh nghiệp.
Khác với trong nền kinh tế bao cấp, kế hoạch. Trong nền kinh tế thị trường chính sách giá được định trên quy luật của thị trường.
Đối với Việt Nam chúng ta đây là một điều khá mới mẻ, các doanh nghiệp chưa thực sự ý thức được sự quan trọng của chính sách giá cho nên chưa đem lại thành công trong cạnh tranh. Điều này xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của quy luật thị trường, nhiều lý do khác như chi phí sản xuất kinh doanh, quan hệ cung cầu,... Để hiểu biết rõ tầm quan trọng của việc định giá trong nền kinh tế thị trường và sự cần thiết của nó trong việc cạnh tranh của doanh nghiệp. Chúng ta phải nghiên cứu và tìm tòi kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
Đối với bản thân em là một sinh viên năm thứ hai của trường Đại học Tài chính - Kế toán đã nhận thấy điều này là rất quan trọng và cần thiết cho mình trong công việc sau này và cho việc học các môn chuyên ngành. Vì vậy em chọn đề tài: "Chính sách giá trong điều kiện nền kinh tế thị trường". Với những gì em đã được học hỏi và sự hạn chế về kiến thức thực tế em chỉ trình bầy tóm tắt nhất, ngắn gọn nhất về vấn đề giá trong nền kinh tế thị trường.
Nội dung của đề tài bao gồm:
Chương I: Lý luận chung về chính sách giá trong điều kiện có sức mạnh thị trường.
Chương II: Chính sách giá trong điều kiện có sức mạnh thị trường ở nước ta.
Chương III: Phương hướng hoàn thiện và những kiến nghị.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn Kinh tế vi mô đã giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này.
Chương i
Lý luận chung về chính sách giá trong điều kiện có sức mạnh thị trường
i. Sức mạnh thị trường
1. Sức mạnh thị trường là gì: Sức mạnh thị trường có trong 2 hình thức là độc quyền bán và độc quyền mua
1.1. Sức mạnh thị trường.
Sức mạnh của độc quyền bán và độc quyền mua là 2 dạng của sức mạnh thị trường. Sức mạnh thị trường là khả năng của người bán hoặc người mua tác động vào giá của hàng hoá. Bởi vì mọi người mua và người bán ít nhiều có sức mạnh thị trường (trong các thị trường thực tế).
1.2. Độc quyền bán
Độc quyền bán là thị trường chỉ có người bán nhưng nhiều người mua. Khi người bán định giá cao hơn chi phí biên chúng ta nói họ có sức mạnh độc quyền bán.
Vì là người sản xuất sản phẩm duy nhất nhà độc quyền bán có vị trí đặc biệt. Nếu nhà độc quyền bán quyết định nâng giá bán sản phẩm, anh ta không phải lo về các đối thủ cạnh tranh sẽ đặt giá thấp hơn để chiếm thị trường lớn hơn làm thiệt cho nhà độc quyền. Nhà độc quyền là thị trường và có toàn quyền kiểm soát khối lượng độc quyền sẽ đưa ra bán. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là nhà độc quyền có thể đặt giá cao tuỳ ý, ít nhất khi tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu của nhà độc quyền.
1.3. Độc quyền mua
Độc quyền mua là một thị trường có rất nhiều người bán song chỉ có một người. Khi người mua có thể mua được với giá thấp hơn giá trị biên của hàng hoá chúng ta nói họ có sức mạnh của độc quyền mua và chúng ta xác định sức mạnh đó bằng mức mà giá trị biên vượt quá giá.
Về phía người mua chúng ta sẽ thấy nếu không có quá nhiều người mua họ cũng có sức mạnh thị trường và sử dụng nó một cách có lợi để tác động tới giá mà họ phải trả cho sản phẩm.
Với một hoặc chỉ vài người mua một số người tiêu dùng có thể có sức mạnh độc quyền mua-khả năng của người mua tác động tới giá hàng hoá. Sức mạnh độc quyền mua tạo cho người mua hàng hoá với giá thấp hơn với giá đáng lẽ xuất hiện trên thị trường cạnh tranh.
2. Cách xác định hay đo lường sức mạnh thị trường
2.1. Đo thế lực độc quyền bán
Điểm khác biệt quan trọng giữa các hãng cạnh tranh hoàn hảo và hãng có sức mạnh độc quyền. Đối với hãng cạnh tranh giá bằng chi phí biên, với hãng độc quyền giá lớn hơn chi phí biên. Do vậy cách hiển nhiên để đo sức mạnh độc quyền là xem xét mức độ chênh lệch giữa giá và chi phí biên so với giá như ta đã trình bày khi đưa ra quy tắc đơn giản để định giá. Thước đo sức mạnh độc quyền được nhà kinh tế Abba Lerner đưa ra vào năm 1934 và được gọi là độ Lerner của sức mạnh độc quyền.
L =
Chỉ số Lerner này luôn có giá trị giữa 0 và 1. Đối với hãng cạnh tranh hoàn hảo P=MC nên L=0 L càng lớn sức mạnh độc quyền càng lớn
Chỉ số sức mạnh độc quyền này có thể được thể hiện dưới dạng độ co dãn của cầu với hãng sử dụng công thức:
=
Chúng ta biết rằng: L =
Biết rằng Ed bây giờ là độ co giãn của đường cầu đối với hãng mà không phải của đường cầu thị trường. Lưu ý rằng sức mạnh độc quyền cao không nhất thiết kéo theo lợi nhuận cao. Lợi nhuận phụ thuộc vào chi phí bình quân so với giá hãng A có thể có sức mạnh độc quyền hơn so với hãng B nhưng có thể kiếm được lợi nhuận ít hơn vì nó có chi phí bình quân cao hơn
3. Nguồn gốc của sức mạnh thị trường
3.1. Nguồn gốc sức mạnh độc quyền bán
3.1.1. Độ co giãn của cầu thị trường
Nếu chỉ có một hãng-nhà độc quyền thuần tuý-đường cầu của nó là đường cầu thị trường. Do vậy mức độ sức mạnh độc quyền hoàn toàn phụ thuộc vào độ co dãn của cầu thị trường.
Thông thường có vài hãng cạnh tranh với nhau;do đó độ co dãn của cầu thị trường là giới hạn dưới của độ co dãn của cầu đối với từng hãng.
Cầu về dầu mỏ là tương đối không co dãn (ít nhất là trong giai đoạn ngắn) là điều mà tại sao OPEC có thể tăng giá dầu lên nhiều hơn chi phí sản xuất biên suốt những năm 70 và đầu những năm 80. Cầu về các hàng hoá tiêu dùng như cà phê, co ca, thuốc lá là rất co dãn. Chính vì vậy các cố gắng của các nhà sản xuất trong việc liên kết các thị trường đó và nâng giá đều bị thất bại. Trong mỗi trường hợp đó co dãn của cầu thị trường giới hạn sức mạnh độc quyền tiềm tàng của từng nha sản xuất.
3.1.2. Số lượng các hãng
Yếu tố thứ hai xác định đường cầu của hãng cũng chính là xác định sức mạnh độc quyền của hãng là số lượng hãng trên thị trường. Các điều kiện khác không đổi. Sức mạnh độc quyền của mỗi hãng sẽ giảm đi khi khối lượng các hãng tăng lên. Vì càng ngày càng có nhiều hãng cạnh tranh mỗi hãng sẽ càng khó khăn hơn khi nâng giá mà không bị giảm thị phần.
Tất nhiên không thuần tuý chỉ là tổng số lượng các hãng mà là số các hãng chính (tức là các hãng chiếm thị phần lớn trên thị trường) . Ví dụ nếu chỉ có hai hãng lớn chiếm 90% lượng bán ra trên thị trường và 20 hãng khác chiếm khoảng 10%thị phần còn lại thì hai hãng lớn có thể có sức mạnh độc quyền đáng kể. Khi chỉ có một số ít các hãng chiếm phần lớn hơn thị phần thị trường là tập trung cao.
Sự gia tăng số lượng các hãng chỉ có thể giảm sức mạnh độc quyền của mỗi hãng đang tồn tại. Một khía cạnh quan trọng của cạnh tranh là tìm được cách tạo hàng rào thâm nhập thị trường-các điều kiện cản trở thâm nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh mới.
Đôi khi có các cản trở tự nhiên đối với việc thâm nhập. Ví dụ một hãng có bản quyền phát minh về công nghệ cần thiết để sản xuất một loại sản phẩm nào đó. Điều đó làm cho các hàng khác không thể thâm nhập được vào thị trường ít nhất cho tới khi bản quyền phát minh hết hạn. Các quyền khác do pháp luật tạo ra cũng có tác dụng tương tự-luật bản quyền có thể hạn chế việc bán sách âm nhạc hay các chương trình máy tính cho mỗi công ty riêng lẻ, và sự cần thiết phải có giấy phép kinh doanh sẽ làm cản trở các hãng mới thâm nhập vào thị trường dịch vụ điện thoại, truyền hình hay xe vận tải liên các bang. Cuối cùng, tính kinh tế theo quy mô có thể tạo ra chi phí cao hơn nếu nhiều hãng cung ứng cho thị trường. Trong một vài trường hợp, tính kinh tế theo quy mô có thể lớn tới mức là hiệu quả nhất chỉ nêu có một hãng-độc quyền tự nhiên-cung ứng cho toàn bộ thị trường.
3.1.3. Sự tương tác giữa các hãng
Các hãng cạnh tranh tương tác với nhau như thế nào là một điều quan trọng và đôi khi là quan trọng nhất trong việc xác định sức mạnh độc quyền. Giả sử chỉ có 4 hãng trên thị trường. Chúng có thể cạnh tranh quyết liệt, thay nhau cắt giảm giá để chiếm được nhiều thị phần thị trường. Điều này có khả năng làm giá giảm xuống tới mức giá cạnh tranh. Mỗi hãng sẽ rất ngại tăng giá của mình vì sợ bị cắt giảm và mất thị phần của mình và do vậy có ít hoặc không có sức mạnh độc quyền.
Mặt khác các hãng có thể cạnh tranh không mạnh. Họ có thể liên kết (vi phạm luật chống độc quyền) nhất chí giảm sản lượng và tăng giá. Cùng nhau tăng giá, sẽ có lợi nếu từng hãng tăng riêng rẽ và do vậy sự cấu kết có thể tạo ra sức mạnh độc quyền cao. Với các điều kiện khác như nhau, sức mạnh độc quyền sẽ nhỏ hơn khi các hãng cạnh tranh quyết liệt và lớn hơn khi các hãng hợp tác.
Sức mạnh độc quyền của hãng thường thay đổi theo thời gian vì các điều kiện hoạt động của hãng (nhu cầu thị trường và chi phí) hành vi của hãng và hành vi của các đối thủ cạnh tranh thay đổi. Sức mạnh độc quyền cần phải được xem xét trong bối cảnh động. Ví dụ: đường cầu thị trường có thể ít co dãn trong ngắn hạn những có dãn hơn trongdài hạn. (đó là trường hợp dầu mỏ, điều mà tại sao OPEC có một sức mạnh độc quyền đáng kể trong ngắn hạn những kém hơn trong dài hạn) . Hơn nữa sức mạnh độc quyền trong thực tế hay tiềm tàng trong ngắn hạn có thể làm cho ngành cạnh tranh nhiều hơn trong dài hạn. Lợi nhuận cao trong ngắn hạn có thể hấp dẫn các hãng mới thâm nhập ngành như thế sẽ giảm sức mạnh độc quyền trong dài hạn.
3.2. Nguồn gốc của sức mạnh độc quyền mua
Điều gì sẽ quyết định sức mạnh độc quyền mua trên thị trường? Một lần nữa chúng ta có thể đưa ra sự giống nhau với độc quyền bán và sức mạnh độc quyền. Chúng ta thấy rằng sức mạnh độc quyền bán tuỳ thuộc vào ba yếu tố: độ co giãn cầu của thị trường, số lượng người bán trên thị trường và cách tác động lẫn nhau của những người bán hàng ấy. Sức mạnh độc quyền mua cũn tuỳ thuộc vào ba yếu tố tương tự độ co giãn cung trên thị trường, số lượng người mua trên thị trường và cách tác động lẫn nhau của những người mua ấy.
3.2.1. Độ co dãn cung của thị trường
Một người độc quyền mua được lợi bởi vì người đó đứng trước một đường cầu đang nghiêng lên phía trên khiến cho số chi tiêu lề cao hơn số chi tiêu trung bình. Đường cung càng co dãn ít hơn thì số chênh lệch giữa số chi tiêu lề và số chi tiêu trung bình càng lớn hơn và sức mạnh độc quyền mua mà người mua có được càng nhiều hơn nếu chi có một người mua trên thị trường -một người mua độc quyền mua thuần tuý-sức mạnh độc quyền mua của người đó được hoàn toàn quy định bởi độ co dãn cung của thị trường nếu cung co dãn cao sức mạnh độc quyền mua sẽ nhỏ và ít có lợi khi chỉ là một người mua duy nhất.
3.2.2. Số lượng người mua
Đây là yếu tố quan trọng quy định sức mạnh độc quyền mua khi số lượng người mua là rất lớn, không một người mua đơn lẻ nào có thể nhiều ảnh hưởng đối với giá cả. Vì vậy mỗi người mua đều dừng trước mọt đường cầu cực kì co dãnvà thị trường hầu như hoàn toàn có sức cạnh tranh tiềm năng của thế lực độc quyền mua tăng khi số lượng người mua bị hạn chế.
3.2.3. Tác động qua lại giữa những người mua với nhau
Giả sử có 3 hay 4 người mua trên thị trường. Nếu những người mua ấy cạnh tranh quyết liệt với nhau họ sẽ đẩy giá gần tới giá trị biên của sản phẩm họ mua và như vậy họ có sức mạnh độc quyền mua. Mặt khác nếu những người mua này cạnh tranh ít quyết liệt hơn hoặc là liên minh với nhau thì giá sẽ không tăng lên nhiều và mức độ độc quyền mua của người mua có thể cao như khi chỉ có một người mua trên thị trường.
Do vậy khi có sức mạnh thị trường khó có thể dự đoán mức độ sức mạnh độc quyền mua mà người mua có trên thị trường chúng ta có thể đếm được só lượng người mùa mà người tiêu dùng va chúng thường ước tính độ co dãn của cung nhưng điều đó là chưa đủ. Sức mạnh độc quyền mua còn phụ thuộc vào sự tương tác giữa những người mua mà điều này rất khó dự đoán.
ii. Chính sách giá của doanh nghiệp khi có sức mạnh thị trường
1. Nguyên tắc xác định giá khi có sức mạnh thị trường
1.1. Quy tắc định giá đơn giá
Để làm được điều này trước hết chúng ta phải viết lại biểu thức của doanh thu biên.
Để tối đa hoá lợi nhuận thì nhà độc quyền phải đặt chi phí lề bằng doanh thu lề do đó để vận dụng dễ dàng trong thực tiễn ta chuyển điều kiện MR = MC thành quy tắc về dấu hiệu:
MR = =
Do hãng đứng trước đường cầu nghiêng xuống dưới cho nên việc sản xuất và bán một đơn vị thêm có thể làm cho giá cả sụt xuống . Do đó làm giảm thu nhập từ tất cả những đơn vị đã bán đi cho nên:
MR = P + Q . = P + P . .
MR = P + P .
Vì mục tiêu trên của hãng la tối đa hoá lợi nhuận nên chúng ta đặt thu nhập lề bằng chi phí lề:
P + P . = MC ị =
Công thức trên cho thấy là dấu hiệu vượt quá chi phí lề trên tư cách là tỉ lệ phần trăm của giá cả. Quan hệ này nói rằng dấu hiệu ấy bằng số nghịch đảo âm của độ co dãn của cầu. Chúng ta có thể sắp xếp lại phương trình này để biểu thị giá cả một cách trực tiếp như thế nào là dấu hiệu vượt quá chi phí lề.
P =
P* - MC
P*
D
MR
MC
Q
P
Hình 1: Co giãn của cầu và phần cộng thêm vào giá
Nếu độ co giãn của cầu đối với hãng là lớn thì mức cộng thêm sẽ nhỏ và có thể nói rằng hãng có sức mạnh độc quyền nhỏ, dẫn đến càng ít có lợi cho nhà độc quyền.
P* - MC
P*
D
MR
MC
Q
P
Hình 2: Co giãn của cầu và phần cộng thêm vào giá
Nếu độ co giãn của cầu đối với hãng là nhỏ thì mức cộng thêm sẽ lớn và có thể nói rằng hãng có sức mạnh độc quyền đáng kể, nhà độc quyền càng có lợi.
1.2. Quyết giá trong lý thuyết
P1
D
MR
MC
Q
P
AC
P*
P2
Q1
Q*
Q2
Hình 3: Quyết định sản xuất của nhà độc quyền
Ta xét trong độc quyền bán: Đối với nhà độc quyền bán để tối đa hoá lợi nhuận một hãng phải đặt cho doanh thu biên bằng chi phí biên.
Doanh thu biên và chi phí biên bằng nhau tại điểm Q. Từ đó chúng ta ra mức giá P* ứng với sản lượng Q*. Nếu sản xuất mức sản lượng Q1tổng lợi nhuận nhà độc quyền bán sẽ nhỏ hơn mức cực đại 1 khoảng bằng phần gạch chéo dưới đường MR và trên đường MC giữa Q1 và Q2. Tương tự sản lượng lớn hơn Q2 chẳng hạn cũng không phải là sản lượng tối đa hoá lợi nhuận ở sản lượng Q2 này chi phí cận biên MC cao hơn doanh thu cận biên MR do đó nếu nhà độc quyền sản xuất ít đi một ít thì lợi nhuận thu được sẽ tăng thêm (MC-MR). Nhà độc quyền có thể làm cho lợi nhuận tăng thêm bằng việc giảm bớt phần sản lượng phía sau Q* phần lợi nhuận tăng thêm do sản xuất Q* chứ không phải Q2 là phần diện tích gạch chéo nằm dưới đường MC và trên đường MR giữa Q* và Q2.
2. Chính sách phân biệt giá
2.1. Phân biệt giá cấp một
Trong trường hợp lý tưởng một hãng có thể định các giá khác nhau cho mỗi khách hàng của minh. Nếu có thể hãng sẽ định cho mỗi khách hàng một mức giá cao nhất mà khách hàng đó sẵn sàng trả để mua mỗi đơn vị sản phẩm. Chúng ta gọi mức giá tối đa này là giá sẵn sàng trả của khách hàng. Việc định cho mỗi khách hàng một mức giá bằng giá sẵn sàng trả được gọi là phân biệt giá hoàn hảo cấp 1. Hãy xem xét điều này ảnh hưởng tới mức lợi nhuận của hãng như thế nào.
D
MR
MC
Q
P
P0
P*
Q0
Q*
Hình 4: Lợi nhuận tăng thêm khi có phân biệt giá cấp I
Thặng dư tiêu dùng quy định một giá duy nhất
Lợi nhuận quy định một giá duy nhất P*
Lợi nhuận tăng thêm khi phân biệt giá hoàn hảo
Bây giờ điều gì sẽ xảy ra nếu hãng có thể phân biệt giá một cách hoàn hảo?Vì mỗi khách hàng phải trả chính xác những gì họ sẵn sàng trả đường doanh thu biên không còn có ích cho quyết định sản lượng của hãng. Thay vào đó doanh thu tăng lên từ mỗi đơn vị hàng hoá bán thêm đơn giản là giá cả cho đơn vị đó và do đó được cho bởi đường cầu.
Vì phân biệt giá cả không ảnh hưởng đến cơ cấu chi phí của hãng, chi phí của mỗi đơn vị tăng thêm một lần nữa được cho trước bởi đường chi phí biên của hãng. Do đó lợi nhuận từ việc sản xuất và bán 1 đơn vị tăng thêm bây giờ là sự khác nhau giữa cầu và chi phí biên. Khi cần vượt quá chi phí biên hãng có thể tăng lợi nhuận của mình bằng cách mở rộng sản xuất và nó sẽ làm như vậy cho đến khi đạt mức tổng sản lượng Q*. Tại Q* cầu bằng chi phí biên và sản xuất thêm sẽ làm giảm lợi nhuận.
Tổng lợi nhuận bây giờ là vùng giữa đường cầu và đường chi phí biên. Hình 4 cho thấy tổng lợi nhuận tăng lên rất nhiều (lợi nhuận tăng thêm do phân biệt giá được biểu thị bởi diện tích có gạch chéo). Lưu ý rằng vì mỗi khách hàng trả một mức giá cao nhất mà họ sẵn sàng trả toàn bộ thặng dư tiêu dùng thuộc về hãng
2.2. Phân biệt gia cấp hai
P1
D
MR
MC
Q
P
AC
P2
P3
Q1
Q0
Q2
Hình 5: Giá cả phân biệt cấp II
P0
Khối 1
Khối 2
Khối 3
Q3
Trong một số thị trường mỗi người tiêu dùng có thể mua nhiều sản phẩm cùng loại trong một khoảng thời gian nào đó, và cầu của họ giảm xuống khi số lượng tăng. Chẳng hạn như nước, nhiên liệu sưởi ấm và điện mỗi người có thể mua vài trăm kw giờ điện một tháng, nhưng mức giá sẵn sàng trả giảm khi mức tiêu dùng tăng (một trăm kw giờ đầu tiên có thể rất giá trị đối với người tiêu dùng-chạy tủ lạnh và đảm bảo ánh sáng tối thiểu. Các đơn vị tăng thêm sau đó có thể có ý nghĩa hơn và có thể tiết kiệm nếu giá cao. Trong tình huống này hãng có thể phân biệt giá theo số lượng tiêu dùng. Cách này được gọi là phân biệt giá cấp hai, và được thực hiện bằng cách định giá khác nhau cho những khối lượng tiêu dùng khác nhau.
H5 minh hoạ sự phân biệt giá cả cấp hai đối với một hãng có chi phí biên và chi phí trung bình giảm dần. Nếu chỉ có 1 mức giá được ấn định nó sẽ là Povà sản lượng được sản xuất là Qo. Thay vào đó 3 mức giá khác nhau được đưa ra dựa trên khối lượng mua. Khối ban đầu được bán với giá P1, khối 2 với giáP2 khối 3 với giáP3
2.3. Phân biệt gía cấp 3.
Hình thức phân biệt giá cấp 3 này chia khách hàng ra thành hai hoặc nhiều nhóm với các đường cầu riêng biệt. Đây là hình thức phổ biến nhất của sự phân biệt giá với các ví dụ điển hình như phân biệt giá giữa giá vé máy bay thông thường với giá vé "đặc biệt" nhãn mác nổi tiếng với nhãn mác không nỏi tiếng của rượu thực phẩm đóng hộp là rau ướp lạnh: Giá hạ cho sinh viên và người già.
Nếu sự phân biệt giá cấp ba là khả thi, làm thế nào để công ty có quyết định giá bán cho mỗi nhóm người tiêu dùng? Hãy xem xét chiều này theo hai bước. Thứ nhất chúng ta biết rằng mặc dù nhiều sản phẩm được tạo ra, tổng sản lượng cần được phân chia giữa các nhóm khách hàng sao cho doanh thu biên đối với mỗi nhóm là như nhau. Nếu không hãng sẽ không thể tối đa hoá lợi nhuận.
Thứ hai chúng ta biết rằng tổng sản lượng phải ở mức sao cho doanh thu biên đối với mỗi nhóm khách hàng bằng chi phí sản xuất biên. Một lần nữa nếu điều đó không xảy ra hãng có thể tăng lợi nhuận của mình bằng cách tăng hoặc giảm sản lượng (và do đó giảm hoặc tăng giá với cả 2 nhóm)
Hãy xem xét bằng phương pháp đại số. Cho P1 là giá bán cho nhóm khách hàng thứ nhất P2 là giá cho nhóm thứ hai và C (Qt) là tổng chi phí để sản xuất sản lượng Qt=Q1+Q2 khi đó tổng lợi nhuận được xác định bởi:
p = P1.Q1 + P2.Q2 - C (QT)
Hãng cầu phải tăng doanh số bán ra cho mỗi nhóm khách hàng Q1 và Q2 cho đến khi lợi nhuận gia tăng từ đơn vị sản phẩm cuối cùng được bán bằng không. Trước hết chúng ta đặt lợi nhuận gia tăng từ việc bán hàng cho nhóm khách hàng thứ nhất bằng không:
= - = 0
ở đây là doanh thu gia tăng từ một đơn vị bán thêm cho nhóm khách hàng thứ nhất (MR1) hạng tử tiếp theo là số chi phí gia tăng thêm để sản xuất đơn vị sản phẩm đó tức là chi phí biên MC. Do vậy chúng ta có:
MR1 = MC.
Tương tự đối với nhóm khách hàng thứ hai chúng ta cũng có:
MR2=MC.
Từ đó chúng ta suy ra giá và sản lượng cần phải ấn định sao cho:
MR1 = MR2 = MC
Một lần nữa MR phải bằng nhau giữa các nhóm khách hàng và bằng chi phí biên.
Các nhà quản lý có thể thấy dễ dàng hơn khi xem xét dưới dạng giá tương đối mà mỗi nhóm khách hàng phải trả và liên kết giá này với độ co dãn của cầu. Hãy nhớ rằng chúng ta có thể viết lại doanh thu biên theo sự co dãn của cầu như sau:
MR =
Khi đó MR1 = và MR2 = trong đó E1 và E2 là độ co dãn của cầu đối với lượng bán ra của hãng ở thị trường và thị trường hai. Bây giờ cho MR1 bằng MR2 ta được mối quan hệ giữa các mức giá như sau:
= (1 + ) (1 + )
Ta có thể thấy sẽ bán với giá cao hơn cho khách hàng với độ co dãn của cầu thấp hơn:
D2
D1
MC
Q
P
P2
PT
Q2
QT
Hình 6: Phân biệt giá cấp III
Q1
P1
MRT
MR2
MR1
H6 minh hoạ sự phân biệt giá cấp ba biết rằng đường cầu D1 cho nhóm khách hàng thứ nhất là ít co dãn hơn đường cầu cho nhóm thứ 2 và do đó mức giá bán cho nhóm thứ nhất phải cao hơn tổng sản lượng sản xuất QT=Q1+Q2 được xác định bằng cách đầu tiên lấy tổng theo chiều ngang của các đường doanh thu biên MRT và MR2 để có được đường doanh thu biên MRT rồi sau đó tìm giao điểm của nó với đường chi phí biên vì MC phải bằng MR1 và bằng MR2 ta có thể vẽ đường thẳng nằm ngang xuất phát từ điểm cắt sang trái để tìm sản lượng Q1và Q2 .
2.4. Định giá hai phần
Định giá hai phần liên quan đến sự phân biệt giá ba cung cấp một công cụ để chiếm thặng dư tiêu dùng. Nó yêu cầu khách hàng phải trả một khoản lệ phí để có quyền mua sản phẩm. Sau đó khách hàng phải trả thêm một khoản lệ phí bổ sung cho mỗi đơn vị sản phẩm mà họ sử dụng
Định giá hai phần được áp dụng trong nhiều trường hợp các câu lạc bộ tennis và đánh golf (bạn phải trả hội phí viên cộng với số tiền mỗi lần chơi thuê một máy tính chủ lớn bạn phải trả tiền thuê bao hàng tháng và tiền cho mỗi đơn vị trong thời gian sử dụng) dịch vụ điện thoại (bạn phải trả tiền thuê bao hàng tháng cộng với tiền cho mỗi lần đàm thoại)
2.5. Đặt giá cao điểm:
Xảy ra khi cầu về hàng hoá dịch vụ tăng nhanh trong những khoảng thời gian nhất định trong ngày hoặc trong năm. Đặt giá P2 ở thời kì cao điểm là có lợi hơn cho doanh nghiệp so với việc chỉ đặt một giá trong suốt các thời kỳ. Đây là 1 việc làm hiệu quả vì MR cao hơn trong thời kỳ cao điểm.
D2
MR1
MC
Q
P
P1
Q
Hình 7: Đặt giá cao điểm
Q1
D1
MR2
3. Ưu và nhược điểm khi có chính sách phân biệt giá
3.1. Ưu điểm
Chính sách phân biệt giá của doanh nghiệp đã tạo ra cho mình những lượng khách hàng đông hơn bởi vì khách hàng có thể mua được hàng hoá mà mình ưa thích phù hợp với khả năng chi trả của mình
Tạo ra cho các doanh nghiệp sức cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến kĩ thuật, giảm chi phí biên từ đó có thể thu được lợi nhuận cao hơn
3.2. Nhược điểm
So với kết quả của sự cạnh tranh, độc quyền bao hàm một sự chuyển giao từ người tiêu dùng sang người cung cấp. Cũng có một sự mất hiệu quả ở chỗ một phần thặng dư của người tiêu dùng và ngoài ra độc quyền còn gây nên một sự mất hiệu quả do khối lượng sản xuất và trao đổi bị giảm
Thị trường độc quyền tao ra phúc lợi ít hơn một phần thặng dư tiêu dùng và thặng dư sản xuất do chỉ sản xuất ở 1 mức sản lượng nhất định. Phần phúc lợi bị mất gọi là mất không
II. Biện pháp điều tiết giá cả của Chính phủ
1. Giá trần
Giá trần làm cho người bán về mặt pháp lý không được phép đòi cao hơn một giá trị tối đa nhất định và thường được đưa ra khi nhiều hàng hoá để hạn chế không cho giá tăng lên một mức đáng kể. Các mức giá cao là công cụ để thị trường tự do hạn chế mua bán hàng hoá khi cung ở trạng thái khan hiếm. Mặc dầu các mức giá cao là một phương pháp đã giải quyết vấn đề phân bố đảm bảo một lượng cầu nhỏ về hàng hiếm nhưng chúng có thể đưa đến giải pháp mà xã hội cho làkhông công bằng là một ý kiến chuẩn tắc. Ví dụ giá lương thực và thực phẩm cao có thể dẫn đến tình trạng thiếu lương thực trong cả nước chính phủ có thể đặt ra trần giá đối với lương thực để người nghèo vẫn có thể mua được đủ một lượng lương thực.
Hình 8: Tác dụng của trần giá
D
Q
P
P1
Q0
Q1
D1
S
A
E
B
D
S
P0
H8 trình bày thị trường lương thực có thể chiến tranh đã làm gián đoạn việc nhập khẩu lương thực. Đường cung dịch về trần rất nhiều và giá cân bằng bằng Po của thị trường tự do rất cao. Chính phủ đặt trần giá P1 để thay cho giá cân bằng ở điểm E. Lương thực bán ra là Q1 và lượng dư cầu được biểu diễn bằng đoạn AB. Vì giữ giá thấp hơn giá cân bằng trần giá đã tạo ra một mức thiếu hụt về cung so với cầu trần giá P1 tạo điều kiện cho một số người nghèo có thể mua được lương thực nếu không họ không thể mua được
2. Giá sàn
Trong khi mục tiêu trên định trần giá là giảm giá cho người tiêu dùng thì mục tiêu đặt giá sàn là tăng giá tiền công tối thiểu tính theo giờ trong cả nước. Nó tăng tiền công cho người lao động. Hình 9 trình bày đường cung và đường cầu đối với lao động. ở nước. ở các mức tiền công cao những người thuê lao động (các hãng) cần ít lao động nhưng những người cung ứng lao động (các hệ gia đình) lại muốn bán nhiều lao động thị trường tự do cân bằng tại điểm E với tiền W0. Một mức tiền công tối thiểu thấp hơn W0 sẽ không thích hợp vì vậy có thể đạt được điều đó của thị trường tự do. Giả sử với 1 nỗ lực để giúp đỡ công nhân chính phủ áp đặt 1 tiền công tối thiểu W1. Các công ty chỉ có một mức cầu Q1và sẽ có lương dư cung AB những người công nhân may mắn được làm việc thì cảm thấy khá giả hơn nhưng một số công nhân có thể rơi vào tình trạng khó khăn hơn vì tổng số giờ làm việc đã giảm từ Q0 đến Q1 .
D
Q
W
W0
Q0
Hình 9: Tác dụng của mức tiền công tối thiểu
Q1
S
B
D
S
W1
E
A
3. Chính sách thuế
Đòn giáng của thuế do gánh nặng cuối cùng của thuế đè lên những người khác nhau sau khi chúng ta đã tính đến các tác động trực tiếp cũng như gián tiếp của thuế. Tác động cuối cùng của thuế có thể rất khác với tác động biểu kiến của nó. Do vậy để thực sự hiểu rõ mức độ mà thuế khoá làm thay đổi mức chi tiêu và phúc lợi của mọi người, chúng ta cần xem xét vấn đề đòn giáng của thuế một cách chi tiết hơn.
L
W
W
L
Hình 10: Chính sách thuế
L'
D1
SS
B
DD
SS'
W'
E
E'
W''
Lãng phí
Thuế
Thu nhập thuế
H12 cho thấy thị trường sức lao động D D là đường cầu về sức lao động mà chúng ta giả thiết là dốc lên. Do vậy mức lương cao hơn làm tăng việc cung ứng giờ làm việc. Khi chưa có thuế thu nhập thị trường lao động sẽ ở mức cân bằng tại điểm E. Bây giờ hãy giả sử chính phủ đặt ra thuế thu nhập. Nếu chúng ta đo tổng mức lương trên trục tung thì đường cầu D D là bất biến bởi vì chính sự so sánh tổng mức lương với sản phẩm giá trị biên của sức lao động quyết định lượng cầu về lao động của các hãng. ý thức hay thái độ của công nhân cũng không thay đổi nhưng chính mức lương chưa nộp thuế là thứ mà công nhân so sánh với giá trị biên của sự giải trí của họ khi quyết định cần cung ứng bao nhiêu sức lao động. Do vậy mặc dù so sánh tiếp tục cho thấy đường cung về sức lao động quy về mức lương sau khi nộp thuế chúng ta phải vẽ vào đó đường so sánh cao hơn để cho thấy mức cung ứng về lao động quy về tổng lương hay lương trước khi nộp thuế. Khoảng cách theo chiều dọc. So sánh và so sánh do lượng thuế phải nộp về khoản thu nhập kiếm được từ công việc của giờ cuối cùng. Vì bây giờ D D và so sánh cho thấy hành vi của các hãng và công nhân ở tổng một mức lương bất kì nào đó nên điểm đó các hãng yêu cầu một lượng giờ là L'. So sánh với mức lương cân bằng ban đầu là W việc đánh thuế vào lương sau khi nộp thuế xuống W". Việc này đã làm tăng mức lương mà các hãng phải trả nhưng làm giảm mức lương cầm về nhà của công nhân. Đòn giáng của thuế đã tác động lên cả các hãng lẫn công nhân.
Gánh nặng của một loại thuế không thể xác định được chỉ bằng cách nhìn xem ai thực tế trao tiền cho chính phủ thuế khoá thường làm thay đổi giá cân bằng và lương cân bằng và những tác động bất đắc dĩ này cũng phải được tính đến. Tuy nhiên chúng ta có thể rút ra một kết luận rất tổng quát. Đường cung càng kém co dãn và đường cầu càng co dãn thì đòn giáng cuối cùng của thuế cũng sẽ rơi lên đầu người bán sức lao động.
4. Trợ giá
Để những nhà sản xuất nhận được những thu nhập cao hơn một phương cách để làm việc đó là đề cho chính phủ ấn định một giá trợ cấp là Ps và rồi mua bất kỳ một đầu ra nào là cần thiết để giữ giá thị trường ở mức ấy.
ở giá Ps nhu cầu của người tiêu dùng giảm còn Q1 nhưng số cung tăng tới Q2. Để giữ giá ấy và tránh cho những người sản xuất khỏi phải tồn kho quá nhiều. Chính phủ phải mua một số lượng QG=Q2-Q1 thế là chính phủ bổ sung nhu cầu QG của mình vào nhu cầu của những người tiêu dùng và những người sản xuất có thể bán toàn bộ số họ muốn bán với giá PS. Những những người nào mua sản vật ấy phải trả giá Ps cao hơn thay vì giá P0 và do đó họ phải chịu một số mất trong thặng dư của người tiêu dùng số mất này được biểu thị bằng hình A. Những người tiêu dùng khác không mua sản vật ấy nữa hoặc mua ít đi và số mất trong thặng dư của họ được biểu thị bằng hình B.
Q
P
PS
Q2
Hình 11: Trợ giá
Q1
D
S
D+QS
P0
QS
A
B
D'
Q0
Tổng số mất của những người tiêu dùng trong trường hợp này là:
DCS = - A - B
Mặt khác những người sản xuất được, tổng thặng dư của người sản xuất tăng thêm:
DP.S = A + B + D
Nhưng ở đây cũng có các giá trị chính phủ phải trả giá cái giá mà chính phủ phải trả là (Q2-Q1) PS tức là số tiền mà chính phủ phải trả cho số đầu ra mà chính phủ mua. Trong hình trên là hình chữ nhật lớn chấm chấm.
Tổng giá phúc lợi phải trả vì chính sách ấy là tổng số thay đổi trong thặng dư của người tiêu dùng với số thay đổi trong thặng dư của người sản xuất rồi trừ đi cái giá mà chính phủ phải trả cái giá chính phủ trả:
DC.S + DP.S - Cái giá Chính phủ phải trả = D' - (Q2-Q1)P.S
Nhưng phần đáng tiếc nhất của chính sách này là việc có nhiều phương cách hữu hiệu hơn (tức kém tốn phí hơn cho xã hội) để làm cho các nhà sản xuất sung túc hơn. Nếu mục tiêu là làm cho các điền chủ có thu nhập thêm bằng A+B+C thì phương cách rất ít tốn kém cho xã hội là cho họ một số tiền ấy một cách trực tiếp thông qua trợ giá. Vì đằng nào thì những người sản xuất cũng mất A+B do trợ giá bằng cách trực tiếp cho các điền chủ số tiền ấy xã hội tiết kiệm được các hình chữ nhật lớn chấm trừ bớt hình D. Có lẽ bởi vì trợ cấp giá là một cách cho không lộ liễu bằng và do đó hấp dẫn hơn về mặt chính trị.
Qua đây ta thấy sức mạnh độc quyền bán và độc quyền mua là hai dạng của sức mạnh thị trường. Sức mạnh thị trường là khả năng tác động của người bán hoặc người mua vào giá của hàng hoá.
Sức mạnh độc quyền mua và độc quyền bán được xác định bằng chỉ số Lerner được nhà kinh tế Abba Lerner đưa ra:
L =
Khi xét về nguồn gốc của sức mạnh thị trường chúng ta xét sự ra đời của độc quyền bán và độc quyền mua. Đối với độc quyền bán thứ nhất là độ co dãn của cầu sức mạnh của nhà độc q._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0250.doc