Tài liệu Chính sách đầu tư quốc tế của Hàn Quốc. Kinh nghiệm cho Việt Nam & quan hệ đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc: LỜI MỞ ĐẦU
Sau cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), Hàn Quốc là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Thu nhập đầu người của Hàn Quốc cuối những năm 50 thấp hơn rất nhiều so với các nước láng giềng. Giai đoạn 1953 đến 1961 là thời kỳ khôi phục kinh tế sau chiến tranh một cách chậm chạp, mặc dù đã có sự giúp đỡ to lớn của Mỹ. Tuy nhiên, tình hình đất nước chỉ thực sự thay đổi khi người dân Hàn bắt tay vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất vào năm 1962. Ngay sau đó, Hàn Quốc ... Ebook Chính sách đầu tư quốc tế của Hàn Quốc. Kinh nghiệm cho Việt Nam & quan hệ đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc
41 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2750 | Lượt tải: 5
Tóm tắt tài liệu Chính sách đầu tư quốc tế của Hàn Quốc. Kinh nghiệm cho Việt Nam & quan hệ đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã bứt lên bậc thang phát triển một cách thần tốc. Đến năm 1971, Hàn Quốc trở thành nước mới công nghiệp hóa (NIC); đến năm 1995, tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người (GNP) của Hàn Quốc vượt 10.000 đô la Mỹ, xuất khẩu đạt 100 tỷ đô la Mỹ. Hàn Quốc trở thành quốc gia đang phát triển lớn thứ ba sau Trung Quốc, Braxin nếu tính theo quy mô kinh tế GDP. Hàn Quốc còn là nước sản xuất ô tô lớn thứ năm thế giới, nước xuất khẩu hàng dệt may đứng thứ ba sau Đức và Italia. Họ cũng là nước có ngành công nghiệp đóng tàu lớn thứ hai thế giới sau Nhật Bản. Đặc biệt Hàn Quốc được đánh giá là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới từ năm 1980.
Để có được một “kỳ tích sông Hàn ” như ngày nay, Hàn Quốc đã phải trải qua cả một quá trình tìm tòi và thực hiện các chính sách kinh tế trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, khoa học công nghệ… Đó là những bài học quý giá, là những kinh nghiệm của nước đi trước cho các nước đi sau như Việt Nam tham khảo và vận dụng một cách hợp lý với hoàn cảnh đất nước mình. Bài tiểu luận chỉ xin trình bày về chính sách đầu tư quốc tế - một bộ phận cấu thành quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế Hàn Quốc, những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và thực tiễn quan hệ đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc.
A.GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HÀN QUỐC
1.Vị trí địa lý:
Hàn Quốc nằm ở phần phía nam bán đảo Triều Tiên, một bán đảo trải dài 1.000 km từ bắc tới Nam, ở phần Đông Bắc của lục địa châu Á, nơi hải phận của bán đảo tiếp giáp với phần cực Tây của Thái Bình Dương. Phía Bắc bán đảo tiếp giáp với Trung Quốc và Nga. Phía đông của bán đảo là Biển Đông, xa hơn nữa là nước láng giềng Nhật Bản. Ngoài bán đảo chính còn có hơn 3200 đảo nhỏ.
Địa hình Hàn Quốc phân hóa thành hai vùng rõ rệt: vùng rừng núi chiếm khoảng 70% diện tích nằm ở phía Đông; vùng đồng bằng duyên hải ở phía Tây và Nam.
Tổng diện tích của bán đảo Triều Tiên là 222.154 km2 gần bằng diện tích nước Anh. Không kể diện tích đất khai hoang, diện tích đất canh tác là 99.617 km2, chiếm 45% tổng diện tích.
Thành phố lớn nhất của Hàn Quốc là thủ đô Seoul, nằm ở phía Tây Bắc. Các thành phố lớn khác là Incheon ở phía tây Seoul, Daejeon ở miền Trung, Kwangju ở phía Tây Nam, Daegu và Busan ở phía Đông Nam.
2.Tình hình kinh tế:
Hàn Quốc là một đất nước nghèo tài nguyên, trước thập niên 60 của thế kỷ 20 vẫn là một đất nước chậm phát triển. Nhưng bắt đầu từ sau những năm 1960, kinh tế Hàn Quốc bắt đầu phát triển với tốc độ nhanh, đến giữa thập niên 80 đã trở thành nước công nghiệp phát triển mới ( NIC) với một nền kinh tế hỗn hợp : kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Ngày nay, Hàn Quốc đã trở thành một đất nước giàu có, là nền kinh tế đứng thứ 8 thế giới. Sau chiến tranh Triều Tiên, kinh tế Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng từ một trong những nước nghèo nhất thế giới trở thành một trong những nước giàu nhất. Cuối thế kỷ 20, Hàn Quốc là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc nhảy vọt từ 100 USD năm 1963 lên 10,000 USD năm 1995 và 25,000 USD vào năm 2007. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là 5% mỗi năm.
Trong những năm 1970 đến 1980, kinh tế Hàn Quốc tập trung phát triển ngành công nghiệp nặng và sản xuất ô tô và đã thu được những thành công đáng kinh ngạc: Hiện Hàn Quốc có Posco là công ty sản xuất thép lớn thứ 3 trên thế giới và ngành sản xuất ô tô cũng phát triển nhanh chóng điển hình là Hyundai Kia Automotive Group góp phần đưa Hàn Quốc trỏ thành cường quốc đứng thứ 5 trên thế giới về ngành này.
Năm 1996, Hàn Quốc trở thành thành viên của OECD, một mốc quan trọng trong lịch sử phát trỉên kinh tế của họ. Ngành dịch vụ phát trỉên nhanh, chiếm khoảng 70% GDP. Bên cạnh đó, chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên nhanh chóng thậm chí còn cao hơn các quốc gia phát triển khác ở châu Âu và Bắc Mỹ.
Hiện nay, thu nhập và tài sản của Hàn Quốc đang tăng một phần là do sự đầu tư và xuất khẩu công nghệ cao sang các nước đang phát triển như Trung Quốc, Việt Nam và Indonesia. Đặc biệt gần đây chính phủ Hàn Quốc đang tăng cường xuất khẩu thiết bị bán dẫn và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu kinh tế tự do.Việc hình thành các khu kinh tế tự do (KKTTD), không những thu hút vốn FDI mà còn tạo thuận lợi cho việc chuyển giao công nghệ và chuyển giao các bí quyết sản xuất, nhằm làm tăng năng lực cạnh tranh và phát triển các ngành sản xuất mới. Ngày 25/4/2008 Hàn Quốc vừa ra quyết định thành lập 3 khu kinh tế tự do (FEZs), một phần trong nỗ lực nhằm thu hút thêm đầu tư nước ngoài và thức đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước. Hiện nay Hàn Quốc đang là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam với 1655 dự án đang hoạt động cùng tổng vốn đăng ký xấp xỉ 12,7 tỉ USD( năm 2007).
Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hàn Quốc đầu năm 2008 tăng vọt ( tăng 69.8% trong quý I so với cùng kỳ năm ngoái) do có nhiều dự án đầu tư quy mô lớn. Trong đó đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ đạt 94,9% lên 1.93 tỉ USD với số vốn thực hiện đạt 24.4% lên 725 triệu USD. Các thương hiệu mới đầu tư vào Hàn Quốc tăng 58% hàng năm lên 1.73 tỉ USD. FDI của Hàn Quốc chủ yếu từ Mỹ, liên minh Châu Âu (EU) và Nhật Bản.
Tuy nhiên, nền kinh tế Hàn Quốc trong quý I năm 2008 chỉ đạt mức tăng trưởng thấp nhất trong vòng 3 năm qua, do người dân giảm tiêu dùng và các công ty hạn chế đầu tư (GDP của Hàn Quốc trong quý I chỉ tăng 0.7% so với quý trước là 1.6%.)
Có thể thấy rằng những bước phát triển của Hàn Quốc hoàn toàn xứng đáng với cái tên” Kỳ tích Sông Hàn”: Từ một đất nước nghèo đói, chậm phát triển, lại nghèo t ài nguyên thiên nhiên, cộng với những hậu quả của cuộc chiến tranh dân tộc để lại họ đã vươn lên trở thành một con Rồng của Châu Á chỉ sau có hơn 20 năm phát triển.. Đây quả là thành công mà nhiều nước mong đợi và luôn tìm được cho mình những bài học kinh nghiệm trong công cuộc làm giàu cho đất nước mình.
B. CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CỦA HÀN QUỐC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
I. Chính sách đầu tư quốc tế của Hàn Quốc
Chính sách đầu tư quốc tế của Hàn Quốc được chia làm nhiều giai đoạn. Ứng với mỗi giai đoạn, Hàn Quốc thực hiện các mô hình chiến lược khác nhau phù hợp với điều kiện từng thời kỳ. Ta có thể chia làm 2 giai đoạn chính như sau:
1. Giai đoạn 1960-1990:
Mô hình chính sách trong giai đoạn này là Hàn Quốc thực hiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tăng cường nguồn vốn để phát triển các công ty và nền sản xuất trong nước. Và những chính sách này luôn có những biến đổi quan trọng nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển của mỗi thời kỳ khác nhau. Cụ thể:
1.1.Thời kỳ 1960-1980 Hàn Quốc thực hiện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính phủ.
Năm 1960, chính phủ Hàn Quốc ban hành luật khuyến khích đầu tư nước ngoài và đến tháng 7 năm 1962 luật đặc biệt khuyến khích vốn đầu tư dài hạn bắt đầu có hiệu lực. Tuy nhiên Hàn quốc mới chỉ khuyến khích đầu tư nước ngoài vào một số ngành, lĩnh vực nhất định như: công nghiệp đóng tàu, hoá dầu, ô tô,… và hạn chế đầu tư nước ngoài vào vào các nhiều lĩnh vực trong đó chủ yếu là dịch vụ như: viễn thông, ngân hàng tài chính, truyền hình,… Ngoài ra chính phủ cũng chỉ cho phép các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đựơc góp vốn dưới 50% trong các công ty liên doanh.
Vào đầu những năm 1970, chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Hàn Quốc nhằm có được những kỹ thuật tiên tiến phục vụ sự chuyển đổi cơ cấu công nghiệp từ các ngành sử dụng nhiều lao động sang các ngành tập trung vốn và công nghệ. Trong những chính sách đó không thể bỏ qua vai trò của các tập đoàn lớn được gọi là các Cheabol. Được chính phủ Hàn quốc dành cho sự ưu tiên ưu đãi đặc biệt với hi vọng các tập đoàn này sẽ trở thành nhưng người khổng lồ có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế và tạo ra sức mạnh cho sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế đất nước, các Cheabol này có ảnh hưởng rất lớn đến không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả phi kinh tế. 30 Cheabol lớn nhất Hàn Quốc chiếm đến 90% tổng GDP, trong đó riêng 4 Cheabol lớn nhất là Huyndai, Samsung, LG, Daiwoo chiếm 84% tổng GDP, 60% tổng giá trị xuất khẩu và nắm hầu hết công nghệ tiên tiến nhất Hàn Quốc. Bên cạnh đó, chính phủ còn thực hiện sửa đổi một số điểm trong luật khuyến khích đầu tư nước ngoài nhằm đáp ứng những đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hoá vào đầu những năm 1980. Từ đó, FDI vào Hàn Quốc tăng rất nhanh.
Việc thu hút FDI của Hàn Quốc trong thời kỳ này chủ yếu dựa vào nguồn lao động rẻ do tài nguyên thiên nhiên khan hiếm. Chính vì thế khi giá nhân công tăng vọt vào cuối những năm 1980 thì một số ngành công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không tăng, thậm chí giảm. Đứng trước tình hình đó, chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện các chính sách kiểm soát giá lương thực, giá điện, giá hàng tiêu dùng với mục tiêu duy trì mức giá nhân công thấp nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào các ngành sản xuất hàng xuất khẩu. Ngoài ra, để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn và tạo điều kiện cho các công ty phát triển được, có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế, chính phủ đã áp dụng chính sách miễn giảm thuế đầu vào nhập khẩu cho các công ty sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các công ty hoạt động trong các ngành đòi hỏi trình độ công nghệ cao. Còn việc cấp giấy phép đầu tư thì do chính phủ phê duyệt theo nguyên tắc chỉ đạo.
1.2.Thời kỳ 1981-1990:
Đứng trước thực tế là FDI vào Hàn Quốc đang giảm và nhu cầu tăng cường thu hút vốn đầu tư phục vụ cho nhu cầu phát triển thì trong thời kỳ này chính phủ Hàn Quốc đã từng bước thực hiện tự do hoá đầu tư nước ngoài với các biện pháp cơ bản như sau:
Đầu năm 1982, quy định nhà đầu tư Hàn quốc phải nắm giữ hơn 50% trong tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp liên doanh được huỷ bỏ. Đồng thời mở rộng danh mục các ngành và lĩnh vực các nhà đầu tư nước ngoài được phép tham gia, mà trước hết là kinh doanh thương mại và dịch vụ viễn thông.
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư chuyển đổi tiền tệ và thực hiện các hợp đồng thanh toán, chính phủ đã thực hiện tự do hoá thị trường ngoại hối bằng cách giảm các biện pháp hạn chế giao dịch ngoại hối và đơn giản hóa thị trường tài chính. Ngoài ra còn cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư qua thị trường chứng khoán, trước hết đối với các loại trái phiếu lãi suất không cố định và trái phiếu không đảm bảo do các công ty vừa và nhỏ phát hành
Để tạo một môi trường hấp dẫn lâu dài đối với các nhà đầu tư nước ngoài, Hàn Quốc đã tiến hành đầu tư xây dựng và mở rộng các khu công nghiệp giành riêng cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài với hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ và hiện đại, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm hệ thống đường xá, cầu cống, bến bãi, nhà máy,…
Bên cạnh đó chính phủ cũng tiến hành kiện toàn hệ thống các đạo luật nhằm cải thiện môi trường đầu tư như áp dụng hình thức cấp giấy phép nhanh cho nhà đầu tư nước ngoài đối với các dự án đầu tư trong đó đặc biệt ưu tiên đầu tư công nghệ cao. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể được phép thành lập các xí nghiệp trong vòng 45 ngày kể từ ngày nộp đơn xin đầu tư so với thời gian tối thiểu chờ phê chuẩn trước kia là 200 ngày.
Những biện pháp trên của Hàn Quốc được thể hiện cụ thể qua các chính sách cải cách cuối năm 1980 liên quan đến đầu tư được thực hiện từ 1981 như: thay đổi tỷ giá hối đoái, đìêu tiết các Chaebol; tự do hoá giá cả rộng rãi, giảm hỗ trợ ngành, tổ chức lại đầu tư ngành công nghiệp nặng và hóa chất, tư nhân hoá các ngân hàng thương mại,…
Kết thúc giai đoạn này, Hàn quốc đã thu hút được một khối lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt vào các ngành quan trọng tạo động lực cho quá trình phát triển kinh tế trong giai đoạn tiếp theo.
2. Giai đoạn 1991 đến nay:
Mô hình chính sách trong giai đoạn này là thực hiện tự do hóa đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Hàn quốc đầu tư ra nước ngoài bên cạnh việc tiếp tục tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào trong nước.
2.1.các chính sách thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn này được thể hiện qua một số mốc thời gian sau:
Tháng 5 năm 1992 Hàn Quốc công bố kế hoạch tăng cường đầu tư nước ngoài và du nhập kỹ thuật mới. Đến tháng 7 năm 1993 chính phủ tiếp tục thực hiện một loạt các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài như: mở rộng các nguồn trợ giúp tài chính, giảm thuế kinh doanh, tạo điều kiện để các nhà đầu tư nước ngoài dễ dàng hơn khi tìm vị trí và địa bàn đầu tư. Tháng 6 năm 1994 chính phủ xem xét lại kế hoạch để bước đầu mở rộng đầu tư trong 54 lĩnh vực bao gồm lĩnh vực ngân hàng tài chính, y tế, giáo dục cả đào tạo ngoại ngữ, hướng dẫn khách du lịch…Trong đó đặc biệt khuyến khích đầu tư vào giáo dục đào tạo.
Ngày 15-2-1995 Hàn quốc đã cho phép người nước ngoài được phép tham gia vào các hoạt động kinh doanh thương mại và chỉ cần báo cáo các hoạt động đầu tư của họ cho các nhà chức trách thay vì phải nhận đựơc sự phê chuẩn của chính phủ như trước kia.
Nhằm khôi phục lại nền kinh tế sau khủng hoảng 1997,chính phủ tiến hành tự do hóa cơ bản đầu tư nước ngoài thông qua đạo luật thúc đẩy đầu tư nước ngoài mới năm 1998. Cho đến tháng 5 năm 2000 thì chỉ còn 4 trong số 1148 ngành nghề ở Hàn quốc không được phép thu hút FDI.
Nhưng năm đầu thế kỷ 21, Hàn quốc vẫn tiếp tục áp dụng các biện pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể năm 1993, Hàn quốc sẽ từng bước giảm thuế doanh thu đối với doanh nghiệp, đồng thời đặt ra các biện pháp giải quyết tình trạng bất công giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực hạ tầng, miễn thuế cho các hoạt động nghiên cứu phát triển; giảm thuế thu nhập tối đa cho các thành viên điều hành và nhân viên tới 18%; đồng thời cải thiện điều kiện sống cho công nhân lao động nước ngoài.
2.2.các chính sách thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài:
Nhìn lại chặng đường đầu tư ra nước ngoài trước kia của Hàn quốc, trước 1975 vốn đầu tư ra nước ngoài của Hàn quốc chưa có tầm quan trọng, chỉ khoảng 6 triệu USD trong khi điều luật về đầu tư ra nước ngoài đã được ban hành từ tháng 12 năm 1968. Tuy tiên đầu tư ra nước ngoài của Hàn quốc bước sang một giai đoạn mới từ 1975 khi phần lớn các cơ chế liên quan đến đầu tư ra nước ngoài do Thống đốc Ngân hàng Hàn quốc đảm nhận thay vì phải xin phê duyệt của chính phủ như trước. Từ 1980, chính phủ nới lỏng, bãi bỏ các đạo luật, điều lệ gây hạn chế đầu tư ra nước ngoài trước đây khiến đầu tư ra nước ngoài của Hàn Quốc tăng nhanh.
Từ 1991 đến nay, chính phủ đã mở rộng vai trò hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư nhằm hỗ trợ tích cực hơn cho các công ty Hàn quốc đầu tư ra nước ngoài thông qua việc cung cấp thông tin về thị trường đầu tư, đặc biệt với những nước mà Hàn quốc chưa có quan hệ ngoại giao. Trong việc cải cách hành chính, để tạo sự thuận lợi, nhanh chóng, tránh làm lỡ mất các cơ hội đầu tư của các công ty chính phủ đã uỷ quyền phê chuẩn cấp giấy phép đầu tư cho ngân hàng Hàn quốc đối với những dự án có quy mô vốn từ 100.000 USD trở xuống, còn những dự án trên mức đó thì vẫn do chính phủ xem xét và phê duyệt. Để đưa ra được những chính sách thích hợp với nhu cầu thực tế của các công ty, chính phủ Hàn quốc đã thành lập các uỷ ban hợp tác đầu tư song phương và hiệp hội các nhà đầu tư Hàn Quốc nhằm hỗ trợ tích cực hơn cho các công ty Hàn quốc đầu tư ra nước ngoài bằng cách hàng năm tổ chức các diễn đàn gặp mặt giữa uỷ ban, hiệp hội, các nhà đầu tư, nhằm đánh giá và nắm bắt những vướng mắc, khó khăn của các nhà đầu tư ở thị trường nước ngoài để có các biện pháp khắc phục, giải quyết kịp thời.
Từ năm 2005, để giảm bớt áp lực lên hoạt động xuất khẩu do sự tăng giá của đồng won, Hàn quốc đang có nhiều động thái để khuyến khích các doanh nghiệp nước này tăng cường đầu tư ra nước ngoài. Cụ thể là chính phủ sẽ miễn thuế 3 năm cho các nhà đầu tư địa phương khi thực hiện đầu tư ra nước ngoài; cho phép gia tăng mức đầu tư vào bất động sản; đồng thời nới lỏng mức hạn chế trong việc thành lập các chi nhánh nước ngoài của các doanh nghiệp tài chính trong nước.
II. Đánh giá những thành công và hạn chế trong chính sách đầu tư của Hàn quốc.
1. Thành công
Nhờ những chính sách thích hợp, luôn biến đổi một cách uyển chuyển, linh hoạt và vẫn duy trì mạnh mẽ và định hướng dứt khoát mục tiêu ban đầu của chính phủ Hàn Quốc, tình hình đầu tư của nước ngoài vào Hàn quốc cũng như đầu tư ra nước ngoài đã đạt đựơc những thành tựu vô cùng to lớn.
1.1Trước hết đối với đầu tư nước ngoài vào Hàn quốc:
Ngay từ khi chính sách thu hút đầu tư nước ngoài bắt đầu được coi trọng từ 1960 thì nguồn vố FDI vào Hàn quốc không ngừng tăng đựơc thể hiện qua bảng số liệu sau:
Đầu tư nước ngoài vào Hàn quốc (1962-2005)
Năm
Số dự án đầu tư
Tổng số vốn (1000 USD)
1962
2
3.575
1965
10
21.824
1970
140
75.892
1975
99
207.317
1980
109
143.136
1985
218
532.197
1990
504
802.635
1995
906
1.947.637
2000
4.275
15.249.609
2001
3.421
11.286.223
2002
2.442
9.092.581
2003
2.599
6.469.055
2004
3.110
12.792.042
2005
3.707
11.563.518
Đầu những năm 1960, FDI chỉ chiếm chưa đầy 15% nguồn vốn đổ vào Hàn quốc nhưng chiếm một vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế đất nước. Theo bảng trên ta thấy trong những năm 1970-1980 vốn FDI tăng tương đối ổn định. Nhưng vào đầu năm 1990 giá lương thực tăng nhanh, giá đất tăng mạnh, lãi suất tăng cộng thêm sức ép làm phát đã khiên FDI giảm mạnh. Cụ thể năm 1991 là 1,396 tỉ USD, năm 1992 chỉ có 894,4 triệu USD. Tuy nhiên nhờ những cải cách năm 1993 như đã phân tích thì FDI đã tăng trở lại và năm 1995 đã đạt 1,947 tỉ USD. Cũng theo bảng trên từ 1995 đến 2000 FDI tăng đột biến, đó là do năm 1996 Hàn quốc gia nhập OECD và thực hiện tự do hoá kinh tế.
Xét theo phân ngành, ngành chế tạo thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất, chiếm 80% năm 1970 và giảm xuống còn 61,3% những năm 1990 trong tổng vốn FDI vào Hàn quốc. Trong đó ngành hóa học, điện, điện tử và thiết bị giao thông vận tải chiếm tỉ trọng lớn nhất. Ngoài ra vốn đầu tư nước ngoài vào ngành dịch vụ năm 1960 chỉ chiếm 1% thì đến những năm 1990 đã trở thành ngành hấp dẫn đầu tư chiếm 37,4% (1994) và đến năm 1999 đã vượt ngành chế tạo với số vốn 8 tỉ USD.
Xét theo khu vực, năm 1980, tỉ lệ đầu tư của châu Á vào Hàn quốc là cao nhất chiếm 53,5%, tiếp đó là Bắc Mĩ (32,9%), châu Âu (10,8%), Mỹ Latinh (1,3%), Trung Đông (0,2%), Nam Thái Bình Dương (0,3%), các khu vực khác (0,9%). Nhưng đến năm 1994 cơ cấu đã thay đổi: châu Á vẫn dẫn đầu trong việc đầu tư vào Hàn quốc (43,2%), tiếp theo là Bắc Mĩ (23,7%), Châu Âu (30,9%), Trung Đông (0,1%), các khu vực khác (2,1%). Trong đó Nhật bản và Mĩ là 2 nhà đầu tư quan trọng nhất. Giai đoan 1962-1994 Nhật bản chiếm 39,1% Mĩ chiếm 28,5% tổng FDI vào Hàn quốc.
1.2. đối với đầu tư của Hàn quốc ra nước ngoài:
Giai đoạn 1976-1979 là thời kỳ xuất phát về vốn đầu tư ra nước ngoài của Hàn quốc, đầu tư vào thương mại, xây dựng phát triển nhanh do quy mô buôn bán được mở rộng ra toàn cầu. Năm 1977 là lần đầu tiên Hàn quốc dư thừa tài khoản hiện hành với tổng vốn đầu tư nước ngoài là 77 triệu USD.
Năm 1986 Hàn quốc rơi vào tình trạng dư thừa ngoại tệ, giá nhân công trong nước tăng vọt là cho chi phí sản xuất trong nước tăng theo. Trước tình hình đó các công ty Hàn quốc đựơc khuyến khích đầu tư ra nước ngoài mạnh mẽ. Tất cả các ràng buộc về vốn đầu tư, các quyết định khác đối với các công ty đầu tư ra nước ngoài đều đựơc dỡ bỏ.
Chính sách đối ngoại đa dạng hoá, đa phương hoá, hợp tác khu vực và tiến tới toàn cầu hoá đã là động lực thúc đẩy nguồn vốn đầu tư ở Hàn Quốc ngày càng tăng. Giữa những năm 1980 đầu tư ra nước ngoài tăng đột ngột: 1,2 tỉ USD (1988) năm 1995 đạt xấp xỉ 2,9 tỉ USD.
Xét về cơ cấu khu vực đầu tư, Hàn Quốc đầu tư vào Mĩ nhiều nhất, sau đó đến Nhật bản, EU, Trung Quốc và ASEAN. Còn về cơ cấu ngành và lĩnh vực đầu tư thì Hàn quốc đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất, sau đó đến bán buôn bán lẻ và dịch vụ.
Tuy nhiên từ năm 1997, các công ty Hàn quốc bận rộn cải tổ lại cơ cấu kinh tế trong nước sau khủng hoảng nên đầu tư ra nước ngoài có giảm đôi chút.
Trong những năm đầu của thế kỷ 21, đầu tư của Hàn quốc ra nước ngoài lại tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ. Năm 2005 đã đạt 40,3 tỉ USD tăng hơn 10 tỉ USD so với năm 2002, năm 2006 đã vượt ngưỡng 100 tỉ USD và dự đoán con số này trong những năm tới còn mạnh mẽ hơn nữa. Trong đó có đến 2/3 là đầu tư của các tập đoàn lớn, tiếp sau đó là các công ty vừa và nhỏ.
Bên cạnh những thành công to lớn, chính sách đầu tư của Hàn quốc cũng có nhiều điểm hạn chế. Và chính những hạn chế này đã phần nào là nguyên nhân của một loạt các khủng hoảng của Hàn quốc trong thời gian gần đây, đặc biệt trong hệ thống các công ty trong nước.
2. Hạn chế
Đặc trưng của nền kinh tế Hàn quốc hiện đại đó là sự thống trị của các Chaebol. Không ai có thể phủ nhận những đóng góp to lớn của các Cheabol này cho nền kinh tế Hàn quốc vì đó là bộ xương sống của nền kinh tế, tiếp thu công nghệ tiên tiến từ các quốc gia phát triển và có sức cạnh tranh quốc tế trong một số ngành công nghiệp đặc biệt là công nghiêp chế tạo, điện tử; các Cheabol này không chỉ gây ảnh hưởng trong nước mà còn trên phạm vi toàn cầu với hàng trăm chi nhánh nước ngoài và số tài sản vài chục tỉ USD. Tuy nhiên những Cheabol này lại là con dao hai lưỡi vì một mặt nó là động lực cho phát triển kinh tế, mặt khác nó lại gây những ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh và môi trường xã hội Hàn quốc. Điều đó thể hiện ở chỗ chính phủ Hàn quốc đã hầu như mất khả năng khiểm soát mối quan hệ kinh tế trong các Cheabol. Ngay từ đầu, chính phủ đã tập trung cao độ vốn và công nghệ vào những công ty cỡ lớn này nên gây ra tình trạng khan hiếm vốn và các nguồn lực cho các công ty khác dẫn đến sự phá sản của một loạt các công ty vừa và nhỏ. Cụ thể: năm 1994 Hàn quốc có 5414 SMCs bị phá sản, 1676 SMCs khác phải ngừng hoạt động so với 3818 SMCs mới được thành lập. Sang năm 1995 thì đã có những 13.992 SMCs phải đóng cửa mặc dù nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng 9%. Do đó môi trường đầu tư trong nước của Hàn quốc đã là thiếu lành mạnh, thiếu công bằng. Tuy nhiên chính việc ưu đãi quá mức nguồn tín dụng cho các Chaebol đã dẫn đến tình trạng nợ nghiêm trọng. Măt khác trên thực tế, phương thức sản xuất của các công ty này là kết hợp công nghệ nước ngoài với lao động rẻ, cần cù; đầu tư R&D vào khu vực chế tạo tăng nhanh nhưng vẫn thấp hơn các nước phát triển. Ngoài ra các Chaebol này không có hệ thống các công ty vệ tinh nên thường dễ bị tấn công hơn trên thị trường quốc tế vì mức độ chuyên môn hóa không sâu, thiếu công nghệ cao để cạnh tranh với các nước lớn. Do đó năm 1997-1998 việc Hàn quốc lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trầm trọng đã dẫn tới sự phá sản hàng loạt các Chaebol này. Về mặt xã hội, do cơ cấu kinh doanh đa dạng và đặc thù gia đình nên các công ty này chỉ mưu cầu lợi ích kinh tế mà bất chấp trách nhiệm xã hội : ngành công nghiệp nhẹ bị bỏ rơi, lạm phát tăng vọt, giá cả độc quyền, buôn lậu, trốn thuế xảy ra ở bất cứ lĩnh vực nào sinh lời…
Chính sách đối với các Chaebol bộc lộ nhìêu hạn chế lớn nhất và rõ ràng nhất. Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện các chính sách khác, Hàn quốc cũng vấp phải không ít sai lầm nhưng sau đó đã nhanh chóng nhận thức lại để điều chỉnh, sửa sai.
III. Bài học kinh nghiệm của Hàn Quốc
Các biện pháp, chính sách trong lĩnh vực đầu tư mà Hàn quốc đã sử dụng có thể trở thành những tư liệu quý giá cho các nước đang phát triển trong việc hoạch định chính sách đầu tư nhằm mục tiêu phát triển đất nước trên cơ sở tiếp thu những ưu điểm một cách có chọn lọc và tránh những khiếm khuyết mà Hàn quốc đã vấp phải. Đối với Việt Nam ta có thể đưa ra những nhóm bài học lớn đó là:
1. Vai trò của Chính phủ
Theo lý thuyết của trường phái Tân cổ điển, sự can thiệp của Chính phủ không góp phần đẩy nhanh và dẫn đến thành công của công nghiệp hoá và phát triển kinh tế vì xu hướng kìm hãm sự năng động của khu vực tư nhân. Tuy nhiên, đối với trường hợp của Hàn Quốc khó có thể phủ định rằng chính phủ Hàn Quốc đã góp phần tích cực trong sự phát triển nền kinh tế đất nước. Có thể giải thích cho mâu thuẫn này như sau: Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng một hệ thống các biện pháp hỗn hợp thông qua sự can thiệp vào thị trường. Các hoạt động thích hợp của Chính phủ chủ yếu thể hiện qua việc tổ chức, sắp xếp lại các biện pháp để cải thiện tình hình kinh tế. Kết quả là đã tạo ra những cải cách chính sách kinh tế, định hướng thị trưòng và được Chính phủ tiếp sau đó kế tục. Những cải cách này nhằm củng cố sự năng động và tiến tới tự do hoá nền kinh tế.
Có được sự hiệu quả trong quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế cần đến những nhân tố hỗ trợ cho cuộc cải cách chính sách là:
Thứ nhất là sự duy trì mạnh mẽ và định hướng dứt khoát các mục tiêu, nhờ đó Chính phủ có thể hoạch định các chính sách, các nhà kinh doanh có thể trù tính các kế hoạch đầu tư dài hạn.
Thứ hai là sự uyển chuyển và thích nghi trong việc hoạch định chính sách, việc không chần chừ nhận sai giúp cho chính phủ bắt tay ngay vào việc sửa chữa, nhờ thế mà Hàn Quốc có thể vượt qua các cuộc khủng hoảng dầu mỏ, khủng hoảng tài chính châu Á 1997,… một cách thành công.
Thứ ba là mức độ hợp tác cao giữa Chính phủ và giới kinh doanh, coi giới kinh doanh là người cộng tác quan trọng và tham khảo các ý kiến của họ hầu như về tất cả các chính sách quan trọng của Hàn Quốc.
Cuối cùng là việc lựa chọn những cán bộ lãnh đạo có tri thức và tận tâm với công việc.
Trên cơ sở đó, Việt Nam có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho mình trong việc hoạch định chính sách kinh tế nói chung và chính sách đầu tư nói riêng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang ra sức thu hút đầu tư nước ngoài vào trong nước nhằm huy động nguồn vốn tối đa cho quá trình phát triển thì những bài học trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Hàn Quốc là vô cùng quý báu. Cụ thể như: tích cực, mạnh dạn thu hút vốn đầu tư nước ngoài, duy trì mức đầu tư cao, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao; xác lập sự tin cậy trong quan hệ vay nợ, thông qua nhiều nguồn, nhiều chủ thể để tranh thủ vốn nước ngoài; tăng cường kinh doanh và quản lý tiền vốn nhập ngoại; và tạo môi trường tốt đẹp về chính trị, pháp chế và kinh tế cho việc đầu tư, cũng như việc kiện toàn hệ thống luật đầu tư với những quy định ưu đãi để thu hút người nước ngoài đầu tư nhiều hơn, thời hạn dài hơn.
2. Về việc xác định quy mô doanh nghiệp của nền kinh tế có ảnh hưởng đến chính sách đầu tư.
Chính phủ Hàn Quốc khuyến khích, hỗ trợ cho việc hình thành và phát triển các Chaebol, ủng hộ sự thống trị của các Chaebol này trong nền kinh tế, coi đó như một đặc thù của nền kinh tế Hàn Quốc. Những tập đoàn quy mô lớn này đã có những đóng góp không nhỏ trong quá trình phát triển thần kỳ của nền kinh tế Hàn Quốc. Tuy nhiên những mặt trái của chúng như đã phân tích trong nhưng phần trên đã tạo ra quá nhiều ảnh hưởng tiêu cực đối với đất nước khiến cho Chính phủ Hàn quốc hiện nay phải áp dụng nhiều biện pháp để điều tiết Chaebol
Vì vậy, Chính phủ Việt Nam cần cân nhắc và xem xét giữa chính sách hỗ trợ hình thành và phát triển các doanh nghiệp lớn nhằm phát huy những thế mạnh đồng thời hạn chế mặt trái của nó, đưa các doanh nghiệp này trở thành trụ cột cho nền kinh tế với sự phát triển của đa ngành nghề trong sản xuất công nghiệp, kinh doanh thương mại và dịch vụ, đồng thời là nơi thu hút dầu tư của nước ngoài vào trong nước hay giống như Đài loan chú trọng phát triển các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ với mục tiêu tạo ra sự phát triển kinh tế một cách cân đối và đồng đều.
3. Về chính sách phát triển nguồn nhân lực
Một trong những nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của chính sách đầu tư Hàn Quốc đó là nguồn nhân lực không chỉ dồi dào về số lượng mà còn có chất lượng cao, có khả năng tiếp thu, ứng dụng được các công nghệ và kỹ thuật hiện đại. Đó chính là kết quả của một nền giáo dục phát triển được hết sức coi trọng. Cùng với quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá nền kinh tế, Hàn Quốc đã thực hiện mở rộng hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, không chỉ hợp tác mở các cơ sở đào tạo mà còn đưa sinh viên, lao động, cán bộ kỹ thuật ra nước ngoài học hỏi, tiếp thu công nghệ mới. Trong khi đó, bản thân các cơ sở đào tạo trong nước, đặc biệt là đào tạo đại học đã không ngừng cải cách chất lượng giáo dục để cạnh tranh được với nước ngoài. Sau khi đưa Hàn quốc từ một trong những nước nghèo nhất Châu Á trở thành nền kinh tế đứng thứ 11 thế giới, các nhà lãnh đạo nước này lại đang có kế hoạch biến Hàn quốc trở thành “thủ đô” giáo dục đại học ở khu vực Đông Á. Năm 2007 Hàn quốc dành 2,6% GDP cho giáo dục đại học, mức đầu tư này chỉ đứng sau Mỹ và gấp đôi mức trung bình ở các nước châu Âu.
Nhìn lại Việt Nam, đầu tư cho giáo dục đào tạo trong thời gian qua còn thiếu hiệu quả và chưa tương xứng với nhu cầu phát triển. Vì thế ta cần quan tâm đúng mức hơn đến nền giáo dục nước nhà, tăng cường hợp tác đào tạo quốc tế, cải tổ giáo dục trong nước, bên cạnh đó cũng cần có những biện pháp đãi ngộ nhân tài, hạn chế tình trạng chảy máu chất xám đang diễn ra một cách nghiêm trọng đặc biệt trong điều kiện đất nước tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế
C.THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ HÀN QUỐC VÀO VIỆT NAM
I.Thực trạng đầu tư Hàn Quốc vào Việt Nam.
Việt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1992 nhưng từ năm 1988 các nhà đầu tư Hàn Quốc đã có mặt tại Việt Nam và chính thức tiến hành các hoạt động đầu tư vào năm 1991. Từ đó cho tới nay đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam đã có những bước phát triển lớn.
1. Tổng quan về tình hình đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam.
Đơn vị:Triệu đô la
Nhìn vào biều đồ trên ta có thể thấy đầu tư Hàn Quốc vào Việt Nam kể từ năm 1992 có xu hướng tăng nhanh và mạnh nhất là vào giai đoạn từ 1993 đến 1996. Trong những năm này Hàn Quốc luôn nằm trong tốp 10 nước và vùng lãnh thổ đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Cụ thể năm 1991 mới chỉ có 6 dự án với tổng số vốn 45.4 triệu đô la thì đến năm 1992 thì con số này là 9 và 140.6 triệu đô la. Năm 1993, Hàn Quốc vươn lên đứng thứ 3 với 30 dự án và 508,5 triệu đô la tăng gần gấp 4 lần năm 1992 ( chỉ sau Đài Loan và Hồng Kông về số dự án). Năm 1995, Hàn Quốc._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11249.doc