Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động xuất khẩu lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Lời mở đầu Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một nguồn tài nguyên, một nguồn lực của sự phát triển. Bởi vậy, việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Mặt khác,nước ta là một nước nông nghiệp, đại bộ phận nhân dân sống ở nông thôn và làm nông nghiệp, đất ít người đông, tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm cao. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải sắp xếp lại sản xuất dẫn đến nhi

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động xuất khẩu lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều lao động dôi dư có nhu cầu bố trí việc làm mới là điều tất yếu, vì vậy sức ép việc làm là rất gay gắt. Để giải quyết được vấn đề này, chúng ta đã xác định cùng với giải quyết việc làm ở trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng trước mắt và lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời gian tới. Nghị định 07/CP ngày 20/1/1995 đã nêu rõ: “ Xuất khẩu lao động không những góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa Việt Nam với nước ngoài theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của nhau”. Muốn thực hiện tốt chủ trương trên thì vấn đề đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho xuất khẩu lao động là rất cần thiết, nó có vai trò quan trọng, định hướng sự phát triển nguồn nhân lực trong phạm vi toàn quốc, vùng miền, ngành nghề và trong những khoảng thời gian xác định của sự phát triển kinh tế. Nhận thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề nên em đã chọn đề tài “Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động xuất khẩu lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế” để nghiên cứu. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo Trần Xuân Cầu đã giúp em hoàn thành đề án này. Hà Nội, tháng 12 năm 2003 Phần I: Lý luận chung Chính sách phát triển nguồn nhân lực được hình thành trên cơ sở chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược phát triển khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo không chỉ khuôn vào phạm vi quốc gia mà chịu tác động của xu thế toàn cầu. Do vậy, chúng ta cần phải xem xét một số khái niệm cốt lõi liên quan đến tới chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho xuất khẩu lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. * Nguồn nhân lực. 1. Các khái niệm. 1.1. Nguồn nhân lực Là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Song theo thuật ngữ được sử dụng phổ biến trên thế giới thì Nguồn nhân lực( Human Resources) chỉ những người đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động xã hội đa dạng và phong phú, bao gồm các thế hệ đang học tập văn hoá và nghề nghiệp để tham gia vào lao động xã hội. Để đưa Việt Nam đạt được mục tiêu phát triển theo Nghị quyết Đại hội VIII Đảng cộng sản Việt Nam thì chúng ta cần khai thác và sử dụng nhiều nguồn lực khác nhau trong đó nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đặc biệt, nhất là khi nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất của ta còn hạn hẹp. Vốn nhân lực là nguồn lực về con người song không phải bất cứ con người nào cũng có thể trở thành vốn nhân lực. Bởi lẽ, cũng giống như các nguồn khác thì yếu tố con người muốn trở thành vốn nhân lực thì cần phải có giá trị, đó chính là giá trị sức lao động. Do đó cần phải đào tạo để phát triển nguồn nhân lực. 1.2. Phát triển nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực (Human Resource Development – HRD) là những hoạt động nhằm hỗ trợ, giúp cho các thành viên, các bộ phận và toàn bộ tổ chức hoạt động hiệu quả hơn. đồng thời phát triển nguồn nhân lực cho phép tổ chức đáp ứng kịp thời những thay đổi của con người, công việc và môi trường. Phát triển nguồn nhân lực tựu trung là gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho người lao động có những năng lực và phẩm chất mới cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế xã hội. Mục đích của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chính là tạo ra một lực lượng lao động có trí tuệ cao có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học, công nghệ hiện đại. 2. Vai trò và sự cần thiết của đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiềm năng kinh tế của một đất nược phụ thuộc vào trình độ khoa học và công nghệ của đất nước đó. Trình độ khoa học và công nghệ lại phụ thuộc vào điều kiện giáo dục. Đã có nhiều thất bại khi một nước sử dụng công nghệ ngoại nhập tiên tiến trong khi tiềm lực khoa học công nghệ trong nước còn non yếu. Sự yếu kém thể hiện ở chỗ thiếu các chuyên gia giỏi về khoa học công nghệ và quản lý, do đó không có sự lựa chọn nào khác hoặc là đào tạo các nguồn nhân lực quý giá cho đất nước để phát triển hoặc là phải chịu tụt hậu so với các nước khác. Mặt khác khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường, hàng hoá của một nước muốn chiếm lĩnh được thị trường nội địa cũng như thị trường trên thế giới thì đòi hỏi nó phải được đảm bảo về mặt chất lượng và giá cả. Cái quyết định nhất đến chất lượng của hàng hoá chính là chất lượng nguồn nhân lực. Do vậy, nguồn nhân lực là yếu tố được đặt lên hàng đầu, là một nguồn tài nguyên quý cho phát triển chứ không phải máy móc hay là tài nguyên thiên nhiên đơn thuần. Nhưng làm thế nào để nó thực sự trở thành một nguồn tài nguyên - đây là một vấn đề rất khó. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố đảm bảo chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư vào con người là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển bền vững. Đối với Việt Nam, cả hai nguồn lực tài chính và tài nguyên thiên nhiên đều rất hạn chế nên nguồn lực con người đương nhiên sẽ đóng vai trò quyết định đối với phất triển kinh tế xã hội. Hơn nữa, so với các nước láng giềng ta lại có lợi thế đông dân hơn. Tuy nhiên, nếu không được qua đào tạo thì dân đông sẽ là gánh nặng về nguồn nhân lực đối với phát triển, còn nếu được đào tạo chu đáo sẽ trở thành nguồn nhân lực lành nghề tác động trực tiếp lên tốc độ tăng trưởng của quốc gia. Một đội ngũ nhân lực lành nghề và đồng đều cũng tạo lên sức hấp dẫn to lớn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, cũng như nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động xuất khẩu Việt nam trên thị trường lao động quốc tế. Đó chính là tính tất yếu khách quan phải đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện hiện nay. 3. Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến hoạt động xuất khẩu lao động. 3.1. Khái niệm và nội dung của chính sách đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Khái niệm: Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực được hiểu như là những quyết sách của Nhà nước, trong đó thể hiện rõ quan điểm, chủ trương, cơ chế, phạm vi, đối tượng… nhằm đạt được những mục tiêu đã đề ra về phát triển nguồn nhân lực, đồng thời để phát huy các thế mạnh sẵn có và có những giải pháp tích cực hạn chế những mặt yếu kém của nguồn nhân lực nước nhà. Nội dung: Chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam theo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã chỉ rõ: “ coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” (tạp chí giáo dục số11/2001). Bởi vì giáo dục và đào tạo thực hiện nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo nhân lực một cách toàn diện cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực chất của việc đào tạo gồm các nội dung sau: + Đào tạo kiến thức phổ thông (giáo dục phổ thông) + Đào tạo kiến thức chuyên nghiệp (giáo dục chuyên nghiệp) Việc trang bị kiến thức đào tạo lại được chia ra: Đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo nâng cao tình độ lành nghề. Thực chất của phát triển nguồn nhân lực chính là việc tạo cho nguồn nhân lực có những phẩm chất, năng lực, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có trình độ văn hoá và kỹ thuật công nghệ, tay nghề cao, có tác phong công nghiệp và đạo đức, lối sống lành mạnh. 3.2. ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu lao động. Nếu lao động xuất khẩu của chúng ta có tay nghề vững vàng, có ý thức và kỷ luật lao động,có ngôn ngữ và cuộc sống lành mạnh… thì chắc chắn họ sẽ hoàn thành tốt nhiệm vụ do chủ sử dụng lao đông quốc tế yêu cầu và chính họ chứ không phải ai khác sẽ quyết định năng lực cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế. Như vậy,xuất khẩu lao động và chuyên gia phải đảm bảo sức cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật, nâng cao dần tỷ trọng lao động xuất khẩu có chất lượng cao trong tổng số lao động xuất khẩu; Nếu không như thế thì khi xuất khẩu lao động của nước ta tiếp cận với các thị trường mới trong khi phải cạnh tranh quyết liệt với các quốc gia khác trong khu vực, có ưu thế về khả năng, kinh nghiệm xuất khẩu lao động của chúng ta chắc chắn sẽ bị tụt hậu và bị đào thải ra khỏi thị trường lao động quốc tế. Thực tế trong thời gian qua số lượng lao động của Việt nam xuất khẩu sang thị trường thế giới không ngừng gia tăng. Song những con số phải quay về nước cũng không phải là nhỏ. Nguyên nhân chính ở đây là gì? Đó chính là vấn đề người lao động Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu của chủ sử dụng lao động quốc tế, không những về chuyên môn nghiệp vụ, về trình độ lành nghề, và còn cả về ý thức kỷ luật lao động. Do vậy, vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho xuất khẩu lao động trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nó vừa là nguồn thu nhập lớn cho ngân sách Nhà nước nhưng đồng thời nó cũng là uy tín của quốc gia trên thị trường lao động thế giới. 4. Nội dung của hoạt động xuất khẩu lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 4.1. Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 4.1.1. Cơ cấu kinh tế: *Khái niệm: Trong các tài liệu kinh tế, có những cách tiếp cận khác về khái niệm cơ cấu kinh tế, các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm “cơ cấu”. Là một phạm trù triết học, khái niệm “cơ cấu” được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành một hệ thống. Cơ cấu được biểu hiện như là một tập hợp những mối quan hệ, liên kết hữu cơ, các yếu tố khác của một yếu tố nhất định do đó khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống: “ Đứng trên quan điểm hệ thống: cơ cấu là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân giữa chúng có mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng lẫn chất lượng trong những không gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định”. *Phân loại: cơ cấu kinh tế bao gồm: + Cơ cấu ngành kinh tế: là tổng hợp các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ giữa các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển lực lượng sản xuất- thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Cơ cấu ngành bao gồm ba nhóm ngành chính: Nhóm ngành nông nghiệp; nhóm ngành công nghiệp và xây dựng cơ bản; nhóm ngành dịch vụ. + Cơ cấu lãnh thổ:được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ thực chất là hai mặt của tổng thể thống nhất và đều là biểu hiện của phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong vùng kinh tế. Xu hướng phát triển kinh tế lãnh thổ thường là phát triển nhiều mặt, tổng hợp, có ưu tiên một vài ngành và gắn liền với sự phân bổ dân cư và phù hợp với các điều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ. + Cơ cấu thành phần kinh tế: Nếu như phân công lao động xã hội là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ thì chế độ sở hữu lại là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên hệ thổng tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội… Ba bộ phận hợp thành cơ cấu kinh tế là: cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế đều có mối quan hệ chặt chẽ đến nhau. Trong đó, cơ cấu ngành kinh tế là quan trọng nhất, cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Mặt khác, việc phân bố không gian lãnh thổ hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển ngành và thành phần kinh tế trên cả nước. 4.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Về thực chất: là sự điều chỉnh cơ cấu trên 3 mặt biểu hiện của cơ cấu như đã trình bày nhằm hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế theo các mục tiêu kinh tế xã hội đã xác định cho từng thời kỳ phát triển. - Nguyên nhân: có hai nguyên nhân cơ bản sau: + Cơ cấu kinh tế luôn thay đổi vì các yếu tố hợp thành không cố định. + Sự thay đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác được gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Nội dung chuyển dịch: Cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện, bổ sung cho cơ cấu cũ nhằm biến đổi cơ cấu cũ thành một cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. 4.1.3. Đặc điểm của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Chúng ta vẫn ở trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, tuy rằng thời gian qua chúng ta đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Nền kinh tế Việt Nam đã bước sang một giai đoạn mới, giai đoạn đòi hỏi nền kinh tế và từng nhóm ngành phải chuyển hướng sang phát triển chiều sâu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta theo hướng hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, diễn ra trong bối cảnh của giai đoạn chuyển đổi cơ cấu quản lý. Trong quá trình chuyển dịch vẫn còn thiếu những nguồn lực cơ bản cho sự phát triển. Việt Nam đi vào thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trùng với thời điểm thế giới đang diễn ra thay đổi lớn về chính trị. 4.1.4. Các nhân tố ảnh tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. + Sự phát triển của các loại thị trường trong nước và quốc tế ( thị trường vốn, thị trường hàng hoá dịch vụ, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ…) + Các nguồn lực và lợi thế so sánh là cơ sở hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững và có hiệu quả. + Sự ổn định của thể chế chính trị và đường lối đối ngoại rõ ràng và đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ. + Tiến bộ khoa học công nghệ cũng tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế vì nó tác động đến lực lượng sản xuất, quá trình lao động của con người làm lực lượng sản xuất phát triển nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Chính những nhân tố này đã đặt ra cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế những yêu cầu lớn như: Phải chuyển dịch theo hướng khai thác triệt để lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của nước ta; chuyển dịch phải tính đến yêu cầu phát triển bền vững và nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội. 4.2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 4.2.1. Sự cần thiết của việc xuất khẩu lao động. Hơn 10 năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế xã hội. Từ một nước cái gì cũng thiếu nay đã đủ một số mặt và thậm chí có mặt còn dư thừa. Từ chỗ lạc hậu về cơ sở hạ tầng nay đã từng bước xây dựng hiện đại, đường xá, cầu cống, bến cảng, sân bay…việc phát triển kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi để nước ta giải quyết tốt hơn những vấn đề xã hội. Tuy nhiên, để thu hẹp khoảng cách giữa Việt Nam và các nước phát triển thì chúng ta còn phải giải quyết nhiều vấn đề mà trong đó lao động và việc làm đang là một sức ép lớn. Và xuất khẩu lao động chính là một giải pháp làm giảm sức ép đó. Xuất khẩu lao động hàng năm chuyển về nước một lượng ngoại tệ lớn (hơn 1tỷ USD) giúp cải thiện đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo và giảm tệ nạn xã hội. Hơn nữa, người lao động xuất khẩu sau khi hết hạn hợp đồng trở về nước, hành trang của họ sẽ là những kinh nghiệm quý báu, tác phong công nghiệp hiện đại trình độ chuyên môn ngày càng được nâng cao. Đây là một nguồn vốn rất quý báu cho đất nước ta phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, tạo đà cho nền kinh tế xã hội phát triển ngày càng đi lên. Ngoài ra nó còn góp phần tăng cường quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới. Riêng đối với bản thân người lao động: xuất khẩu lao động tạo ra việc làm và thu nhập lớn cho họ. Khoản thu nhập đó không chỉ thoả mãn nhu cầu của bản thân họ mà còn giúp họ sau một thời gian có thê đầu tư xây dựng vào các ngành nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xí nghiệp vừa và nhỏ… Nhằm xoá đói giảm nghèo và tạo ra công ăn việc làm cho những người khác. Qua đây càng củng cố niềm tin của họ vào cơ chế chính sách mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. 4.2.2.Nội dung của hoạt động xuất khẩu lao động trong quá tình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế như đã trình bày ở trên thực chất là sự điều chỉnh cơ cấu kinh tế trên ba mặt đó là cơ cấu ngành, lãnh thổ và cơ cấu thành phần kinh tế. Mục tiêu của sự chuyển dịch là nhằm làm cho cơ cấu của nền kinh tế lành mạnh hơn, phù hợp hơn. Điều đó chắc chắn sẽ dẫn tới việc giảm dần tỷ trọng của các ngành nông- lâm- ngư nghiệp làm cho cơ cấu kinh tế ngành đang từ nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ chuyển thành công nghiệp- nông nghiệp- dịch vụ. Đặc biệt đối với Việt Nam, một nước có thế mạnh về nông nghiệp, lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn, mặt khác còn có tình trạng ở nông thôn dư thừa lao động giản đơn, nhưng rất thiếu lao động có tay nghề, lao động có hiểu biết về khoa học kỹ thuật, hiểu biết về kinh doanh thị trường. Do đó, qua trình chuyển dịch cơ cấu tất yếu sẽ đẩy họ vào vòng xoay của nạn thất nghiệp, thiếu việc làm. Như chúng ta đã biết, mối quan hệ giữa trình độ lao động khoa học kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu kinh tế là khá chặt chẽ.Chuyển dịch cơ cấu tạo việc làm thúc đẩy kinh tế tăng trưởng là điều kiện để nâng cao chất lượng độingũ lao động. Chất lượng lao động được cải thiện, năng suất lao động tăng, thu nhập tăng là cơ sở để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Rõ ràng lao động là nguồn nội lực quan trọng nhất, chất lượng lao động là tiền đề cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Như vậy, nội dung của xuất khẩu lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chính là đào tạo trình độ lành nghề và trình độ cao cho người lao động xuất khẩu. - Trình độ lành nghề: Tức là trang bị kiến thức và kỹ năng nghề diện rộng hoặc chuyên sâu, có khả năng đảm nhiệm những công việc phức tạp. - Trình độ cao: Tức là trang bị kỹ năng nghề thành thạovà kiến thức chuyên môn kỹ thuật cần thiết, có khả năng vận hành các thiết bị hiện đại và xử lý các tình huống phức tạp, đa dạng trong các dây chuyền sản xuất tự động, công nghệ hiện đại. Tóm lại hoạt động xuất khẩu lao động trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải chú ý đến xuất khẩu những lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, không nên chú trọng xuất khẩu lao động giản đơn, lao động không qua đào tạo. Cân đối lực lượng lao động giữa các ngành kinh tế trong nền kinh tế quốc dân, qua đó đào tạo một phần lao động dư thừa từ ngành nông nghiệp sang làm việc, phục vụ tại các ngành khác, các khu vực khác trong nền kinh tế. Bởi lẽ, chỉ có lao động trong các ngành công nghiệp hiện đại có trình độ kỹ thuật cao và thực sự đem lại hiệu quả kinh tế cao. Phần II: Thực trạng * Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam. 1. Quy mô và cơ cấu. 1.1. Về quy mô: Có thể nói nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay đã tăng một cách đáng kể. Điều đó trước hết là do sự gia tăng dân số, theo báo Thanh niên số ra ngày 29-12-2000 dân số nước ta là 77.658.500 người, tăng 1.089.000 người so với năm1999. Tốc độ tăng dân số bình quân thực tế qua các năm từ 1985 đến 1997dao động trong khoảng 2,3% đến 2,8%, do vậy, nguồn bổ sung vào đội ngũ lao động là rất lớn. Lực lượng lao động tăng bình quân 3% /năm. Song trên thực tế thì quy mô nguồn lao động còn lớn hơn mức gia tăng của lực lượng lao động, bởi số người đã ra khỏi độ tuổi lao động hàng năm ít tăng và phần lớn vẫn có nhu cầu làm việc, trong khi đó mỗi năm có từ 1,3 đến 1,5 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Biểu 1. Năm Lực lượng LĐ cả nước (người) Tốc độ tăng lực lượng LĐ (%) 1/7/2000 38.643.089 2,7 1/7/2001 39.489.000 2,19 1/7/2002 40.694.360 2,99 (Nguồn tổng hợp) Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá- hiện đại hoá trong khi quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn diễn ra khá chậm. Cơ cấu kinh tế nông thôn về cơ bản là nền kinh tế thuần nông ( 70% lao động nông nghiệp, 24% lao động phi nông nghiệp vào năm 2000) mà đất canh tác bình quân lại thấp ( 0,1ha/ 1lao động), do vậy, hệ số sử dụng quỹ thời gian lao động bình quân cho một lao động rất thấp (72,35%), số người có việc làm không phải là nhiều, sức ép lớn đối với nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá với quy mô dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, đó là sức mạnh, là yếu tố cơ bản để chúng ta đẩy nhanh tốc độ phát triển. Song, với một nước chậm phát triển như nước ta cộng thêm vào đó là những hạn chế về nguồn vốn, trang thiết bị, nguyên vật liệu, cơ sở hạ tầng… thì sức ép trên lại càng tăng lên gấp bội. 1.2. Về cơ cấu: Theo số liệu của tổng cục thống kê năm 1997: cơ cấu dân cư và lao động nước ta là: Nam chiếm 49,2%, nữ là 50,8% dân cư. Năm 1999 số lao động trong các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng dịch vụ là 27%; trong nông- lâm – ngư nghiệp là 73%. Số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp là 52%. Cơ cấu dân cư và lao động đã cho thấy trình độ thấp kém của một nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu. Cơ cấu lao động được đào tạo giữa các ngành, các vùng còn rất bất hợp lý. Nông thôn chiếm gần 80% dân số và lao động, nhưng chỉ chiếm 47,38% lực lượng lao động được đào tạo của cả nước. Đây là một vấn đề gây khó khăn đến sự phát triển của nền kinh tế, với cơ cấu này nó sẽ là, một trở ngại lớn khi chúng ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Về chất lượng nguồn nhân lực. Một trong những biểu hiện của chất lượng nguồn nhân lực là trình độ văn hoá của người lao động Việt Nam ngày càng được nâng cao. Năm 1997, điều tra 36,3 triệu lao động thấy 5% số lao động chưa biết chữ; 2% chưa tốt nghiệp cấp 1; 28% đã tốt nghiệp cấp 1; 32% đã tốt nghiệp cấp 2; 15% đã tốt nghiệp cấp 3 (1) Theo tạp chí kinh tế phát triển số 4 tháng 12/2000. . Giờ đây, số người chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp cấp 1 ngày càng giảm. Lớp học bình quân qua điều tra 37,78 triệu lao động năm 1999 là lớp 7,4/12, cao hơn nhiều so với lớp học bình quân là 3,3/12 năm 1997. Về trí lực của nguồn nhân lực nước ta: có thể nói, nhìn chung người Việt Nam được đánh giá là có tư chất thông minh, sáng tạo, có khả năng vận dụng và thích ứng nhanh. Đây là ưu thế nổi trội của nguồn nhân lực nước ta. Với phẩm chất này, năng lực trí tuệ của người Việt Nam ta có thể theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ hiện đại, một khi được đào tạo và sử dụng hợp lý, người lao động nước ta có khả năng nắm bắt và sử dụng thành thạo các loại công nghệ phức tạp và hiện đại. Người lao động nước ta được đánh giá là có khả năng nắm bắt và nhanh nhạy hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Hiện nay chúng ta có khoảng 1,76 triệu công nhân làm việc trong khu vực kinh tế Nhà nước và khoảng trên 3,64 triệu công nhân làm việc ở trong các khu vực kinh tế khác, trong đó có khoảng 2 triệu CNKT. Đây là lực lượng quan trọng, trực tiếp vận hành thiết bị máy móc, công nghệ hiện đại của các ngành kinh tế kỹ thuật trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiệnđại hoá đất nước. Tuy vậy, trong số công nhân ở khu vực kinh tế Nhà nước thì chỉ có khoảng 50% được đào tạo tại các trường dạy nghề, số còn lại được tuyển dụng bằng nhiều con đường khác nhau, không qua thử tay nghề. Đội ngũ tri thức với tư cách là lực lượng nòng cốt trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta, nhưng có thể nói là chưa nhiều. Báo nhân dân ngày 9/3/2002 cho biết: Hiện nay, đội ngũ cán bộ nước ta có khoảng 800 giáo sư, 3000 phó giáo sư, 11.127 tiến sỹ, hơn một triệu cán bộ tốt nghiệp đại học, hơn 2 triệu cán bộ tốt nghiệp trung học và gần 3 triệu công nhân được đào tạo nghề. Có hàng nghìn nhà khoa học Việt Nam làm việc tại các trường đại học, các viện nghiên cứu, các trung tâm khoa học lớn trên thế giới. Nhìn chung, ở nươc ta hiện nay số chuyên gia đầu ngành về khoa học, kỹ thuật và công nghệ đạt trình độ quốc tế chưa phải là nhiều so với một số nước trong khu vực. * Nguyên nhân: Phần lớn công chức được đào tạo ở nước ta trong môi trường và điều kiện làm việc theo kiểu cũ. Số được đào tạo trong công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường còn ít do vậy tính năng động của nguồn nhân lực nước ta còn kém. So với các nước khác trong khu vực, ngân sách giành cho giáo dục Việt Nam còn rất thấp. Ngân sách của Xingapo, Hàn Quốc còn cao hơn cả ngân sách quốc phòng. Hơn nữa, việc phân bổ ngân sách giữa các bậc học không hợp lý, giữa các địa phương cũng không đều, tạo nên sự mất cân đổi trong giáo dục ở các vùng. 3. Tác động của chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực để hoạt động xuất khẩu lao động. Hiện nay, cơ chế và quy mô xuất khẩu lao động từng bước được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu của thị trường lao động quốc tế. Xuất khẩu lao động của nước ta tiếp cận với các thị trường mới trong khi phải cạnh tranh quyết liệt với các quốc gia trong khu vực, có ưu thế về khả năng và kinh nghiệm về xuất khẩu lao động. Do cầu của thị trường tiếp nhận giảm lao động phổ thông, tăng lao động kỹ thuật đòi hỏi người lao động phải tham gia các khoá đào tạo. Thời lượng chủ yếu của các khóa đào tạo giành cho việc bồi dưỡng tay nghề và ngôn ngữ của nước tiếp nhận ( lao động đi Nhật Bản thường tham gia các khoá học từ 3 đến 4 tháng, đi Hàn Quốc từ 1 đến 2 tháng, đi Đài Loan khoảng 2 tháng…). Ngoài ra, lao động còn được nghiên cứu về luật pháp của nước tiếp nhận, hiểu rõ về hợp đồng lao động, quan hệ lao động, cách ứng xử, phong tục tập quán, an toàn vệ sinh lao động. Các khoá đào tạo trên đã cung cấp cho người lao động những hiểu biết cần thiết để dễ dàng thích nghi với môi trường sống và làm việc mới. Nhờ đó chất lượng lao động được nâng cao và một số thị trường đã nhận lao động Việt Nam với quy mô lớn. 3.1. Những mặt đã làm được của xuất khẩu lao động và chuyên gia dưới tác động của chính sách đào tạo nguồn nhân lực. Biểu2. Năm Số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài. (người) 1991 1022 1992 810 1993 3960 1994 3330 1995 10050 1996 12661 1997 18469 1998 12238 1999 21810 2000 31468 2001 37000 2002 45000 6 tháng đầu năm2003 29400 Nguồn: Nghiên cứu quốc tế số 47/2003 Trong khuôn khổ hiệp định và nghị đinh thư đã được ký kết giữa nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, giai đoạn 1980-1990 ta đã đưa được gần 30 vạn lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài, bình quân mỗi năm đưa được khoảng 2,7 vạn lao động. Nhìn chung trong giai đoạn này đa số lao động trước khi đi không qua đào tạo, bồi dưỡng. Lao động được bố trí làm việc tại các nhà máy, xí nghiệp theo hình thức tập trung thành đoàn, đội, đơn vị, vùng và được đào tạo nghề theo hình thức kèm cặp tại các nhà máy, xí nghiệp của bạn. Về nghề nghiệp có 45% làm trong lĩnh vực công nghiệp, 26% làm trong lĩnh vực xây dựng, 20% nghề cơ khí, 6% trong lĩnh vực nông nghiệp và có khoảng 3% làm trong các ngành nghề khác. Từ năm 1991 đến nay, cơ chế đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quan hệ cung cầu và khả năng khai thác, mở rộng thị trường của các doanh nghiệp cung ứng lao động theo định hướng và quản lý của Nhà nước. Tính từ 1991 -1998 ta đưa được khoảng 68.202 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, trong đó có nghề chiếm 65%, một số thị trường như Nhật Bản, Libia lao động có nghề chiếm gần 100%. Riêng thị trường Hàn Quốc có nhu cầu sử dụng lao động phổ thông là chủ yếu, còn nhìn chung các thị trường khác đều có xu hướng tăng dần nhu cầu sử dụng lao động có nghề. Nhà nước, các công ty cung ứng nhân lực chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cung ứng, tăng năng lực cạnh tranh nhằm giữ vững ổn định và phát triển thị trường lao động, nên sau khi tuyển dụng nguồn nhân lực có sẵn từ các nhà máy, xí nghiệp, các tổ chức kinh tế, các cơ quan, trường học hoặc từ ngoài xã đều ít nhiều có đào tạo, bồi dưỡng nhân lực trước khi đi từ 2 đến 6 tháng. Tuy nhiên, do quỹ thời gian đào tạo ngắn, học lực của lao động có hạn nên cũng chỉ mới trang bị cho người lao động những kiến thức cần thiết trước khi đi. Dẫn đến việc lao động Việt Nam dù đã được quốc tế biết đến bởi các ưu điểm vốn có như cần cù trong lao động, say mê học tập, chịu khó, tiếp thu các tiến bộ khoa học công nghệ mới nhanh, dễ thích nghi với điều kiện của môi trường mới xong vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế như: kỹ năng nghề nghiệp, ngôn ngữ giao tiếp, khả năng ứng xử trong quan hệ lao động chủ thợ, tính cộng đồng và năng lực chuẩn hoá trong sinh hoạt…vì thế số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài còn hạn chế, khả năng mở rộng ngành nghề, lao động làm ở vị trí trọng yếu rất ít hoặc không có, là hàng rào cản trở việc mở rộng và nâng cao quy mô xuất khẩu lao động. Hiện nay thị trường lao động còn cần nhiều lao động kỹ thuật mà ta chưa đáp ứng được yêu cầu: Thị trường Đài Loan cần nhiều lao động các ngành nghề xây dựng, cơ khí, điện tử, chế biến thực phẩm. Thị trường Lào cần nhiều lao động xây dựng, các nước vùng Vịnh cần lao động may măc, dịch vụ và xây dựng, Trung Đông và Châu Phi cần thợ điều khiển thiết bị công nghiệp, lao động xây dựng, thợ hàn công nghiệp có chất lượng cao. Bởi vậy, vấn đề đào tạo cho người lao động đi xuất khẩu là một vấn đề rất cấp bách, bởi lẽ nó sẽ làm cho khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam trên thị trường quốc tế được nâng cao hơn qua đó người lao động xuất khẩu sẽ có thu nhập cao hơn để trang trải cho cuộc sống và gia đình họ, đồng thời nó cũng làm cho nguồn thu của ngân sách Nhà nước được tăng lên rõ rệt. Hiện nay, với khoảng trên 40 vạn lao động làm việc ở nước ngoài, ước tính số ngoại tệ chuyển về đạt trên 1,4 tỷ USD. Mặt khác, Nhà nước ta còn tiết kiệm được các khoản đầu tư cho tạo việc làm mới và hàng ngàn tỷ đồng khác liên quan đến dịch vụ cho người lao động. 3.2. Hạn chế và nguyên nhân. + Hạn chế: Bên cạnh những việc đã làm được của công cuộc giáo dục cho xuất khẩu lao động thì vẫn còn những tồn tại chúng ta cần phải giải quyết để từng bước đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động nước ngoài, đồng thời mở rộng thị trường, thâm nhập vào những thị trường còn mở ngỏ. Cụ thể là: - Địa bàn xuất khẩu lao động tuy đã được mở rộng nhưng chưa tập trung và ổn định. - Hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, còn thiếu một số chính sách, cơ chế cụ thể để điều chỉnh và quản lý xu._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35507.doc
Tài liệu liên quan