Tài liệu Chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chính sách bảo hộ từ xưa tới nay luôn tồn tại như một chính sách thiết yếu và quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mọi quốc gia bởi tất cả các quốc gia dù mạnh hay yếu, dù phát triển hay đang phát triển đều muốn xây dựng và phát triển các ngành sản xuất trong nước đồng đều và bền vững. Bước sang thế kỉ XXI, khi mà tiến trình toàn cầu hoá và khu vực hoá cũng đã đi được một chặng đường khá dài với sự ra đời của các tổ chức kinh tế như WTO, EU,... Ebook Chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
89 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
AFTA, NAFTA… tạo ra một sân chơi chung và những quy tắc nhằm phát triển thương mại quốc tế, thì vấn đề bảo hộ lại được nâng lên một tầm cao mới đó là bảo hộ hợp lý để làm cơ sở cho hội nhập kinh tế toàn cầu.
Trong xu thế mạnh mẽ của toàn cầu hoá trên thế giới, Việt Nam cũng đang nỗ lực hết mình: gia nhập ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và gần đây nhất là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO (2006), chứng tỏ chúng ta đang cố gắng hết mình để có thể hội nhập kinh tế một cách toàn diện và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng với một nền kinh tế mà sức cạnh tranh còn kém thì nếu hội nhập, chúng ta cần thiết phải áp dụng một cơ chế chính sách bảo hộ hợp lý để không bị “tổn thương” trước nguy cơ cạnh tranh từ bên ngoài và làn sóng mạnh mẽ của toàn cầu hoá, để phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế an toàn và hiệu quả.
Chính vì thế, một trong những khía cạnh được quan tâm nhất của chính sách bảo hộ hiện nay với tất cả các quốc gia trên thế giới là làm thế nào để chính sách bảo hộ thực sự mang lại hiệu quả tích cực đối với nền kinh tế đất nước, đặc biệt là các nước đang phát triển với trình độ phát triển kinh tế chưa cao. Đối với các nước phát triển, những nước đã có một nền kinh tế hàng hoá phát triển cao thì việc áp dụng một chính sách bảo hộ hợp lý là hết sức có lợi. Nhưng còn đối với các nước đang phát triển, mặc dù có quyết tâm rất cao, nhưng để thực hiện và thu được lợi ích thực sự bảo hộ hợp lý không phải là đơn giản. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung đó. Đây chính là lý do tác giả chọn viết khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước của một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng của đề tài này là chính sách bảo hộ hợp lý theo quy định của WTO, thực tiễn áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc… và một số kinh nghiệm cho Việt Nam về bảo hộ hợp lý trong quá trình hội nhập. Do phạm vi đề tài khá rộng nên khoá luận không thể đi sâu, chi tiết vào từng biện pháp bảo hộ cụ thể áp dụng của từng quốc gia trong từng ngành nghề, mà chỉ phân tích những nét chung , những nét cơ bản nhất về chính sách bảo hộ hợp lý của các quốc gia này và rút ra một số kinh nghiệm áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thông qua việc nghiên cứu Chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước của một số quốc gia trên thế giới sẽ có ý nghĩa nhất định đối với một nước đang phát triển như Việt Nam. Những kinh nghiệm trong việc sử dụng các bịên pháp bảo hộ hơp lý của các quốc gia, đặc biệt là của những trụ cột kinh tế thế giới như Mỹ, EU, và Trung Quốc sẽ là cơ sở thực tiễn để Việt Nam tiến hành xây dựng, phát triển và hoàn thiện chính sách bảo hộ hợp lý tuân thủ theo những quy định của WTO, cũng như sẽ giúp Việt Nam có thêm kinh nghiệm để tiếp cận thị trường đầy tiềm năng của những nước này.
4. KẾT CẤU KHOÁ LUẬN
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận này bao gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề lý luận về Bảo hộ và Chính sách Bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước
Chương II: Thực tiễn áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý của một số quốc gia trên thế giới
Chương III: Một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khóa luận này kết hợp chặt chẽ các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp thông kê và xử lý thông tin
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu
Phương pháp so sánh
Phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn
Để hoàn thành bài khoá luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại Thương, những người đã truyền thụ cho em những kiến thức quý báu trong suốt hơn bốn năm học qua. Đặc biệt, em xin cảm ơn TS. Bùi Thị Lý, Bộ môn Quan hệ Kinh tế quốc tế, người đã trực tiếp hướng dẫn em viết bài khoá luận này. Mặc dù thời gian có hạn nhưng cô đã giành cho em những phút giây quý báu. Cô đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện khoá luận.
Cuối cùng, tự đáy lòng xin dành những tình cảm và lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã động viên, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành khoá luận
Do phạm vi lớn và phức tạp của đề tài, do những hạn chế về thời gian và năng lực nghiên cứu, nên dù đã rất cố gắng, bài khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những góp ý phê bình của thầy cô và các bạn để bài khoá luận được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2007
Sinh viên:
Ngô Thị Thanh Hà
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ VÀ CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC
I. KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH BẢO HỘ TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
1. Khái niệm về chính sách bảo hộ
Bảo hộ (Tiếng Anh là Protection) có nghĩa là che chở, bảo vệ để không gây ra tổn hại. Trên thế giới hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về Bảo hộ.
Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, “Chính sách bảo hộ là chính sách kinh tế hay học thuyết kinh tế của nhà nước áp dụng một loạt các biện pháp thuế quan hay hành chính để cấm hay hạn chế nhập khẩu một số mặt hàng của nước ngoài, nhằm kích thích phát triển nền kinh tế trong nước, không bị nước ngoài cạnh tranh và khuynh đảo” (1)
.
Theo Từ điển thương mại quốc tế (Walter Goode), “Bảo hộ là mức độ các nhà sản xuất nội địa và các sản phẩm của họ được bảo vệ khỏi sự cạnh tranh của thị trường quốc tế” (2) Walter Goode, Từ điển Chính sách thương mại quốc tế, NXB Lao động, Hà Nội 2003, tr. 28
. Biện pháp cơ bản để đạt được điều này là thuế quan, trợ cấp, các hạn chế xuất khẩu tự nguyện và các biện pháp phi thuế quan. Những trường hợp phức tạp hơn có thể bao hàm cả lĩnh vực văn hoá, môi trường và các mối quan tâm khác. Chính sách bảo hộ có thể cũng xuất hiện thông qua việc sử dụng những biện pháp bảo hộ có điều kiện.
Theo bách khoa toàn thư trực tuyến Wikipedia, “Bảo hộ mậu dịch là thuật ngữ trong kinh tế học quốc tế để chỉ việc áp dụng nâng cao một số tiêu chuẩn thuộc các lĩnh vực như chất lượng, vệ sinh, an toàn, lao động, môi trường, xuất xứ… hay việc áp đặt thuế suất nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu nào đó để bảo vệ ngành sản xuất các mặt hàng tương tự (hay dịch vụ) trong một quốc gia”(3) %BB%8Bch
Theo Từ điển tiếng Việt do giáo sư Hoàng Phê chủ biên “Bảo hộ mậu dịch là chính sách bảo vệ sản xuất trong nước chống lại sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài trên thị trường nước mình”(4) Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1994, trang 37
Tóm lại, Chính sách bảo hộ nói chung trong thương mại quốc tế (Protectionism) là việc chính phủ áp dụng các biện pháp rào cản thuế quan và phi thuế quan cùng những rào cản thương mại khác nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh việc sản xuất và xuất khẩu ra nước ngoài.
2. Những bước phát triển của chính sách bảo hộ.
Về mặt lịch sử, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch ra đời từ rất sớm, trước cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu, thế kỷ 17 - đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của Chủ nghĩa Tư bản. Với mục tiêu bảo hộ sản xuất, thúc đẩy xuất khẩu nhằm đạt thặng dư thương mại, chính sách này đã có tác động khá mạnh tới sự mở mang và phát triển sản xuất của các quốc gia Tây Âu thời bấy giờ.
Bước sang thế kỷ 18, Adam Smith – một đại diện tiêu biểu và xuất sắc của Kinh tế chính trị cổ điển Anh đã đề xướng tư tưởng kinh tế tự do. Nét nổi bật trong lý thuyết kinh tế của A.Smith là tin vào sự điều tiết của thị trường và phản đối sự can thiệp của nhà nước. Triết lý tự do kinh doanh của A.Smith, cũng như của David Ricardo đã được mọi giới chấp nhận và trở thành học thuyết kinh tế ngự trị trong suốt thời kỳ tự do cạnh tranh của Chủ nghĩa tư bản. Trong thời kỳ này, mặc dù sự kiểm soát của nhà nước có giảm đi, những trở ngại kinh tế dần được cắt giảm và bãi bỏ nhằm mục tiêu phát triển thương mại quốc tế, nhưng chính sách bảo hộ vẫn tồn tại, với mục đích nâng đỡ các ngành sản xuất non kém để chúng có đủ sức cạnh tranh trên thị trường nội địa và thị trường ngoài nước.
Thế kỷ 19 đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa độc quyền, nhất là giai đoạn cuối thế kỷ 19 , đầu thế kỷ 20 (1890 – 1910). Trong thời kỳ này, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tự do mậu dịch gây ra những khó khăn về vấn đề thị trường và cạnh tranh. Hầu hết các nước tư bản phát triển (trừ Anh và Hà Lan) đều áp dụng một chính sách bảo hộ rất cao, đánh thuế nhập khẩu rất cao đối với nhiều loại hàng và mở rộng danh mục mặt hàng chịu thuế. Theo thống kê, thuế nhập khẩu (chiếm tỷ lệ % giá cả hàng hoá) đánh vào hàng công nghệ năm 1925 tại Mỹ cao tới 35%-40%, tại Pháp và Ý là 25%-30%, tại Bỉ và Thụy Sỹ là 10%-15%, chỉ có Anh và Hà Lan là chưa tới 10%.
Có thể thấy rằng, trước thời kỳ độc quyền, chính sách bảo hộ mang tính ôn hoà, thường che chở cho những ngành sản xuất non trẻ không đủ sức cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài giúp những ngành này phát triển. Trong thời kỳ độc quyền chính sách bảo hộ lại như một lá chắn bảo vệ cho những ngành công nghiệp phát đạt nhất, có đủ sức cạnh tranh để giữ vững một giá độc quyền duy nhất thật cao trên thị trường nội địa và tránh được sự cạnh tranh của nước ngoài. Điểm nổi bật nhất của chính sách bảo hộ mới này là nó mang tính tấn công và xâm lược, trở thành công cụ quan trọng và hữu hiệu để tổ chức độc quyền độc chiếm không những thị trường trong nước mà còn thị trường nước ngoài.
Trong quá trình phát triển, bên cạnh những lợi ích mang lại cho nền sản xuất trong nước, chính sách bảo hộ - đặc biệt là của các quốc gia phát triển đã bộc lộ những nhược điểm lớn. Nó tạo ra những mâu thuẫn, cản trở việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia với nhau, không phát huy được những lợi ích to lớn mà tự do hoá thương mại mang lại. Sự ra đời của GATT (1947) và tiếp đó là Tổ chức thương mại thế giới WTO vào năm 1995 nhằm khắc phục những khuyết điểm của chính sách bảo hộ, tháo gỡ những rào cản thương mại và đầu tư trên phạm vi từng quốc gia, từng khu vực và toàn cầu, nhanh chóng đẩy mạnh tự do hoá thương mại. Nhưng trên thực tế, bảo hộ vẫn là vấn đề then chốt và nhạy cảm trong chính sách thương mại của từng quốc gia, cũng như của từng nhóm nước có trình độ phát triển khác nhau.
Ngày nay, trong điều kiện kinh tế – chính trị hiện đại của thế giới, với xu hướng quốc tế hoá nền sản xuất và thị trường thế giới, nhiều tổ chức kinh tế quốc tế, công ty xuyên quốc gia, cộng đồng kinh tế – thị trường thuế quan khu vực của các nước ra đời , các mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư trên phạm vi thế giới phát triển mạnh, học thuyết cũng như các chính sách đóng cửa và tự cung tự cấp không thể tồn tại. Do đó, chính sách bảo hộ mậu dịch không còn thịnh hành như trước. Tuy nhiên, trong công cuộc cạnh tranh giữa các nước công nghiệp phát triển, giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển, cũng như giữa các khối kinh tế, nhiều nước vẫn áp dụng chính sách bảo hộ vì những mục tiêu chính trị hay kinh tế nhất định để bảo vệ nền độc lập của đất nước và phát huy lợi thế trong cạnh tranh. Chính sách bảo hộ của các nước tư bản phát triển phục vụ lợi ích của các tổ chức độc quyền lớn nhất trong nước và các tổ chức độc quyền xuyên quốc gia với mục đích chủ yếu là chiếm đoạt, phân chia và phân chia lại các thị trường tiêu thụ hàng hoá và đầu tư. Với các nước đang phát triển, chủ nghĩa bảo hộ nhằm bảo vệ nền kinh tế của những nước này chống lại sự bành trướng kinh tế của các cường quốc đế quốc chủ nghĩa, góp phần củng cố nền kinh tế dân tộc độc lập.
3. Mục tiêu của chính sách bảo hộ
Chính sách bảo hộ được đặt ra nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước tránh được sự cạnh tranh từ bên ngoài, góp phần phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế nội địa. Việc đánh thuế nhập khẩu và việc áp dụng các hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch nhập khẩu đối với một số loại hàng hoá dịch vụ sẽ làm cho giá bán của những hàng hoá dịch vụ này tăng lên cao hơn so với hàng hoá được sản xuất trong nước. Do đó, thay vì tiêu dùng những hàng hóa dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng trong nước sẽ quay sang dùng những hàng hoá dịch vụ cùng loại được sản xuất trong nước với giá rẻ hơn. Khi nhu cầu tiêu dùng hàng hoá dịch vụ nhập khẩu giảm sút các nhà nhập khẩu sẽ hạn chế số lượng hàng hoá dịch vụ nhập khẩu và ngược lại, các nhà sản xuất trong nước chủ nhà sẽ có điều kiện mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của mình.
Chính sách bảo hộ còn góp phần tạo việc làm cho một bộ phận dân chúng nước chủ nhà. Nhờ các ưu đãi từ chính sách bảo hộ nên một số ngành sản xuất trong nước sẽ mở rộng quy mô sản xuất và kéo theo đó là nhu cầu về nguồn nhân lực sẽ tăng lên.
Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ hạn chế việc nhập khẩu và tiêu dùng một số loại hàng hoá dịch vụ không thực sự cần thiết hoặc không phù hợp với thuần phong mỹ tục của nước chủ nhà. Đồng thời, số lượng hàng hoá nhập khẩu hạn chế do áp dụng các chính sách bảo hộ sẽ làm giảm việc tiêu dùng ngoại tệ và góp phần cân đối cán cân thanh toán nước chủ nhà.
Chúng ta không phủ nhận rằng các chính sách bảo hộ đã mang lại lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế nước chủ nhà trong những giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách bảo hộ không phải lúc nào cũng đạt được kết quả như mong muốn. Vấn đề đặt ra là phải áp dụng một chính sách bảo hộ hợp lý để bảo hộ sản xuất trong nước một cách hữu hiệu nhất
II. CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ VỚI SẢN XUẤT TRONG NƯỚC.
1. Thế nào là Chính sách bảo hộ hợp lý?
Như đã đề cập ở trên, bảo hộ là những biện pháp của chính phủ nhằm hỗ trợ sản xuất trong nước và giảm tính cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài trên thị trường nội địa. Hầu hết các quốc gia đều áp dụng các chính sách bảo hộ và coi đó là một bộ phận không thể thiếu trong chính sách phát triển kinh tế đất nước bởi nó mang lại rất nhiều lợi ích như giúp bảo vệ các ngành sản xuất còn non kém trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên, không phải lúc nào chính sách bảo hộ cũng đưa lại những kết quả như ý muốn. Chính sách bảo hộ đơn phương gây ra những mất mát về kinh tế – xã hội và ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng và các ngành nghề khác trong nền kinh tế. Nếu chính phủ thực hiện một chế độ bảo hộ không hợp lý, bảo hộ tràn lan, tuỳ tiện, bảo hộ quá mức trong thời gian quá dài thì không những không đạt được mục đích mà còn gây ra các tác động tiêu cực. Các ngành sản xuất được bảo hộ sẽ không dần lớn mạnh lên mà trái lại, rất có thể rơi vào trạng thái trì trệ, giảm sức cạnh tranh, sản xuất không hiệu quả, làm sai lệch lợi thế so sánh cuả đối tác tham gia trên thị trường. Bảo hộ còn dẫn đến việc phân bổ sai nguồn lực, chi phí cơ hội lớn và làm thiệt hại cho giới tiêu dùng trong nước. Tương tự như thế, một chính sách bảo hộ thiên về tạo công ăn việc làm mà không tính toán đến các yếu tố khác sẽ làm cho tình trạng thất nghiệp của đất nước ngày một gia tăng.
Tuy nhiên, chúng ta có nên loại bỏ hoàn toàn chính sách bảo hộ? Câu trả lời là không hoàn toàn như vậy. Tất cả các nước trên thế giới, thậm chí những nước được coi là phát triển nhất như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc…vẫn áp dụng những chính sách bảo hộ nhất định đối với một số ngành hàng của mình. Mặt khác, các quy định của WTO vẫn chấp nhận việc các nước thành viên sử dụng các biện pháp phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu trong những trường hợp cần thiết để bảo đảm an ninh quốc gia, văn hoá truyền thống, môi trường và sức khoẻ con người…
Vậy điều mà các quốc gia cần làm để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước một cách hữu hiệu nhất là gì? Đó chính là xây dựng và thực hiện một chính sách bảo hộ hợp lý, tức là bảo hộ nhằm tăng tính cạnh tranh, thúc đẩy phát triển chứ không phải để “nuông chiều” các ngành sản xuất trong nước. Bảo hộ hợp lý không phải chỉ là tạo ra những rào cản ngăn chặn sự xâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào nước mình, hoặc trợ cấp dưới mọi hình thức cho sản xuất nội địa, mà quan trọng hơn là những biện pháp bảo hộ đó phải đạt được mục tiêu phân bổ nguồn lực hợp lý, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nội địa trên thị trường trong nước lẫn quốc tế. Điều này cũng có nghĩa là không nên bảo hộ những ngành sản xuất “ốm yếu”, không có tiền đồ phát triển và không có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tuy nhiên, với các ngành sản xuất “non trẻ”, khi mới bước vào thị trường, nhất là thị trường thế giới, thường gặp không ít những khó khăn và rất cần sự hỗ trợ của nhà nước dưới các hình thức khác nhau để nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của mình. Kinh nghiệm cho thấy không quốc gia nào trên thế giới tăng trưởng nhanh nhờ vào bảo hộ. Chính vì thế, bảo hộ phải tạo đà cho tự do hoá thương mại, là cơ sở để phát triển bền vững trong tự do hoá thương mại.
WTO hướng tới sự tự do hoá toàn cầu trên các lĩnh vực, từng bước xoá bỏ các rào cản đối với thương mại. Gia nhập WTO, các nước thành viên phải tuân theo những qui tắc cơ bản của tổ chức này, thực hiện những cam kết để hạn chế tối đa các rào cản thương mại, tiến tới hội nhập vào “ngôi nhà chung”, không phân biệt đối xử. Song, gia nhập WTO không có nghĩa là các nước phải hoàn toàn xoá bỏ sự giúp đỡ và bảo hộ đối với các ngành sản xuất trong nước, mà điều quan trọng là phải biết dựa theo quy tắc của WTO để xây dựng một chính sách bảo hộ hữu hiệu sao cho vừa thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, vừa không vi phạm nguyên tắc tự do hoá thương mại mà WTO đã đề ra.
Tóm lại, chính sách bảo hộ hợp lý theo quy định của WTO là chính sách bảo hộ mang lại lợi ích và hiệu quả kinh tế cho đất nước, đồng thời tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO cũng như các cam kết mà các quốc gia đã ký kết.
Dựa trên các chuẩn mực quốc tế, các quy định của WTO và thực tiễn bảo hộ của một số quốc gia trên thế giới và của Việt Nam trong những năm mở cửa thì chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất và mậu dịch cần phải quán triệt các quan điểm sau:
Bảo hộ phải tạo được lợi thế về năng lực cạnh tranh cho hàng hoá nội địa trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.
Các biện pháp bảo hộ phải được thực hiện một cách có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn.
Việc áp dụng chính sách bảo hộ phải được áp dụng thống nhất cho mọi thành phần kinh tế.
Các biện pháp bảo hộ phải tuân thủ các quy định của quốc tế, đặc biệt là của WTO.
Một hệ thống chính sách bảo hộ hợp lý, phù hợp với các hiệp định thương mại và các nguyên tắc thương mại quốc tế để bảo hộ sản xuất trong nước là vấn đề hết sức cần thiết, đặc biệt là trong điều kiện nhiều ngành sản xuất của các quốc gia đang phát triển và kém phát triển với thiết bị, kỹ thuật và công nghệ còn lạc hậu. Để các chính sách bảo hộ vừa phù hợp với các thông lệ quốc tế, vừa có tính hiệu quả cao, các nhà hoạch định chính sách có thể xem xét một số vấn đề cụ thể:
Thứ nhất: Lựa chọn các đối tượng bảo hộ.
Đây là một khâu hết sức quan trọng, có ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả của
các chính sách bảo hộ sau này. Những ngành sản xuất được bảo hộ phải là những ngành thực sự có lợi thế so sánh, đem lại hiệu quả kinh tế cao, có tiềm năng phát triển và có ảnh hưởng lan truyền tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Nếu các đối tượng được lựa chọn không có lợi thế cạnh tranh so với các ngành tương ứng trong khu vực hoặc trên thế giới thì sự ưu tiên, ưu đãi và các khoản đầu tư sẽ có thể bị lãng phí và trở nên phi hiệu quả. Vì vậy, cần xem xét, phân tích kỹ các số liệu thống kê, tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu kinh tế trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề để có được sự lựa chọn chính xác nhất.
Thứ hai: Quan điểm bảo hộ phải mang tính nhất quán và được đầu tư một cách thoả đáng.
Sau khi đã lựa chọn được đối tượng bảo hộ thì phải khẳng định và theo đuổi đến cùng mục tiêu bảo hộ của mình thông qua việc lập kế hoạch ưu tiên cho các ngành sản xuất được lựa chọn: Các ưu tiên đặc biệt về thuế, các chương trình đầu tư và vay vốn ngân sách nhà nước, ưu tiên sử dụng ngoại tệ để mua máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến hoặc cung cấp tín dụng với lãi suất thấp để nhập khẩu công nghệ tiên tiến… Việc áp dụng đồng bộ những giải pháp này trong thời gian nhất định sẽ thúc đẩy các đối tượng được bảo hộ phát triển mạnh mẽ, thu hút nhiều lao động và hạ giá thành sản phẩm. Nói cách khác, tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm sẽ được nâng lên. Bên cạnh đó, một lần nữa tầm quan trọng của việc lựa chọn đối tượng được bảo hộ lại được khẳng định vì những ngành nghề được bảo hộ nếu có tác dụng lan truyền tới nhiều lĩnh vực trong xã hội thì hiệu quả của các chính sách bảo hộ lúc này sẽ vô cùng to lớn. Tuy nhiên, nếu như những giải pháp trên làm tăng tính hiệu quả của việc bảo hộ thì đổi lại, sẽ gây ra sự mất công bằng đối với các ngành nghề khác trong toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề là phải chấp nhận đánh đổi tính công bằng trong một giai đoạn nhất định để theo đuổi mục tiêu bảo hộ của mình và khi các ngành sản xuất này đã thực sự phát triển, đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế đất nước bù đắp cho các lĩnh vực còn lại.
Thứ ba: Các doanh nghiệp được bảo hộ cần sự trợ giúp của chính phủ về nhiều mặt. Chính phủ phải cung cấp cho doanh nghiệp một cách đầy đủ các thông tin như giá cả, đặc điểm thị trường, các rào cản phi thuế… và chuyển dần các hình thức trợ cấp khu chế xuất sang hỗ trợ doanh nghiệp tìm hiểu, nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, Mặt khác, cũng có thể áp dụng các rào cản phi thuế quan như quy định về bán phá giá và thuế chống bán phá giá, trợ cấp và thuế đối kháng, các tiêu chuẩn kỹ thuật về lao động và môi trường… Đây chính là những rào cản mà Mỹ và một số quốc gia khác đã và đang áp dụng thành công để bảo hộ một số ngành hàng của mình mà ngành nuôi cá tra, cá basa là mội ví dụ.
Tóm lại, bảo hộ với những đặc điểm của nó đều đem lại những lợi ích to lớn không thể phủ nhận cho nền kinh tế của mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, bảo hộ cũng gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế mỗi quốc gia và toàn cầu, quan hệ thương mại giữa các nước… Nhận thức rõ ràng cả mặt tích cực lẫn tiêu cực của bảo hộ sẽ giúp mỗi quốc gia đưa ra chính sách bảo hộ hợp lý để có thể tranh thủ được mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực sao cho có lợi cho nền kinh tế.
Sự cần thiết của chính sách bảo hộ hợp lý trong quá trình hội nhập
2.1. Tác động tiêu cực của tự do hoá thương mại và hội nhập .
Trong thời điểm hiện nay, tự do hoá thương mại đang là một xu thế khách quan tất yếu mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài cuộc nếu không muốn để lỡ những cơ hội phát triển mà xu thế này có thể mang lại. Nhưng tất cả các quốc gia, dù phát triển hay đang phát triển, dù giàu hay nghèo, khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá đều phải chịu những tác động mặt trái của nó ở những mức độ và khía cạnh khác nhau. Trong xu thế này, các quốc gia đang phát triển phải chịu nhiều thiệt thòi nhất và dễ bị tổn thương nhất bởi tự do hoá thương mại đặt các quốc gia này trước những thách thức vô cùng to lớn về khả năng cạnh tranh quốc tế và làm trầm trọng thêm những vấn đề kinh tế – chính trị - xã hội.
Thứ nhất, về kinh tế: Tự do hoá thương mại làm tăng tính dễ bị tổn thương của các nền kinh tế đang phát triển.
Nền kinh tế trong thời đại tự do hoá có các cơ cấu tùy thuộc lẫn nhau và các thị trường tài chính hội nhập chặt chẽ hàm chứa những nguy cơ to lớn về khủng hoảng tài chính tiền tệ đối với các quốc gia đang phát triển. Trong điều kiện tự do hoá thương mại đang chịu sự chi phối của các nước tư bản phát triển thì sự phụ thuộc vào cơ cấu kinh tế - tài chính quốc tế tất yếu sẽ dẫn đến sự phụ thuộc của các nước đang phát triển vào các thế lực tư bản tài chính quốc tế và sự thu hẹp phạm vi và quyền lực của các chính quyền quốc gia với chính quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước mình. Các cuộc khủng hoảng kinh tế và tài chính ở châu Á và Mỹ Latinh đã phơi bày những nguy cơ có thể nảy sinh trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế , mà đặc biệt là toàn cầu hoá tài chính và đầu tư, cũng như những xu hướng thái quá mà quá trình này có thể đưa đến. Những cuộc khủng hoảng ở Mỹ Latinh vào thập kỷ 80, khủng hoảng ở Mehico năm 1994 và khủng hoảng Tài chính tiền tệ châu Á (1997-1999) đều là các cuộc khủng hoảng mang tính cơ cấu với sắc thái tài chính - tiền tệ rất đậm nét chứ không phải khủng hoảng chu kỳ hay sự đổ vỡ của một mô hình phát triển nào đó. Các cuộc khủng hoảng đó đều kèm theo suy thoái kinh tế mạnh diễn ra theo tính chất làn sóng như “Hiệu ứng Đôminô” và bắt đầu từ các “trung tâm nhạy cảm” của từng khu vực. Đó chính là những thông điệp - những lời cảnh báo chung đối với các nước đang phát triển về chính sách tài chính - tiền tệ và phát triển kinh tế trong kỷ nguyên tự do hoá thương mại.
Tự do hoá thương mại đặt các nước đang phát triển trước nguy cơ đối đầu với sự cạnh tranh khốc liệt và sân chơi không bình đẳng. Việc hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu thông qua tham gia vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực bắt buộc tất cả các nước phải chấp nhận luật chơi tự do cạnh tranh, nghĩa là phải mở cửa thị trường, dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá và dịch vụ nước ngoài, loại bỏ các hạn chế đầu tư. Tất nhiên, điều này theo lý thuyết đem lại nhiều lợi ích cho các nước đang phát triển. Tuy nhiên, trong điều kiện hầu hết các nền kinh tế đang phát triển còn đang ở một trình độ phát triển thấp và kém hiệu quả với những biểu hiện như: ít vốn, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, thiếu kinh nghiệm, trình độ quản lý yếu kém, thiếu kỹ năng tiếp thị, thiếu hiểu biết về môi trường kinh doanh quốc tế, sản phẩm làm ra có giá thành cao, chất lượng thấp, kiểu dáng mẫu mã không đáp ứng được yêu cầu của thị trường…thì chính luật tự do cạnh tranh này lại họ trước những thách thức vô cùng to lớn. Khi mở cửa thị trường cho các hàng hoá và dịch vụ nước ngoài thì nguy cơ các doanh nghiệp nội địa bị lấn sân thậm chí bị bóp nghẹt là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Các doanh nghiệp nước ngoài, các công ty xuyên quốc gia, với đầy đủ các thế mạnh về vốn, công nghệ và chất xám sẽ không gặp nhiều khó khăn để đánh bại các doanh nghiệp bản xứ ngay tại sân nhà của họ.
Bên cạnh đó, nếu chơi theo đúng luật "tự do cạnh tranh", "tự do thương mại" mà các nước phát triển vẫn kêu gọi thì hiện tại các nước đang phát triển vẫn còn có thể tận dụng được những lợi thế của mình trên thị trường thế giới. Nhưng nực cười thay, trong khi hô hào các nước đang phát triển mở cửa thị trường cho hàng hoá của mình thì chính họ, các nước phát triển giàu có lại tìm mọi cách để hạn chế hàng hoá của các nước đang phát triển tràn vào thị trường nước mình.
Tự do hoá thương mại còn góp phần làm gia tăng các khoản nợ của các nước nghèo. Để có thể tăng trưởng kinh tế trong thời kì hội nhập, các nước nghèo cần vốn để đầu tư cho các chương trình phục vụ mục tiêu này. Do đó, họ cần vay vốn thông qua các tổ chức tài chính tiền tệ (WB, IMF) hoặc vay trực tiếp của các nước phát triển. Theo lý thuyết, vốn được vay sẽ được sử dụng vào các chương trình nhằm tăng trưởng kinh tế và sẽ được hoàn trả trong tương lai. Và trên thực tế, đã có một số quốc gia thực hiện được lý thuyết này như các nước NICs. Tuy nhiên, con số các quốc gia mất khả năng trả nợ, trở thành con nợ dai dẳng của WB, IMF và các nước giàu thì lại lớn hơn nhiều. Họ không những không trả được nợ mà ngược lại gánh nặng nợ nần trên vai họ lại ngày càng chồng chất.
Tự do hoá thương mại làm tăng nguy cơ tụt hậu và phụ thuộc về mặt công nghệ của các nước đang phát triển. Không thể phủ nhận rằng khoa học công nghệ đóng một vai trò vô cùng quan trọng của đối với sự phát triển kinh tế- xã hội trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Sự phát triển của khoa học công nghệ chính là một trong những động lực của quá trình toàn cầu hoá. Nhiều ý kiến lạc quan cho rằng cuộc cách mạng khoa học công nghệ mang tới cho các nước đang phát triển những cơ hội để rút ngắn khoảng cách phát triển đối với các nước công nghiệp. Tuy nhiên, nếu xem xét sâu hơn một chút thì sẽ thấy ngay một sự thật rằng cụm từ “cuộc cách mạng công nghệ đang diễn ra như vũ bão” thực chất, chủ yếu chỉ xảy ra ở những nước công nghiệp phát triển, ở những tập đoàn khổng lồ. Còn ở những nước nghèo, người dân chỉ nghe về nó chứ ít có cơ hội được tham gia, chứ chưa nói đến được hưởng thành quả của nó. Thực trạng đáng buồn là quá trình toàn cầu hoá đã khiến cho khoa học công nghệ càng phát triển thì hố ngăn cách về công nghệ giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng sâu sắc hơn, giống như cái cách nó đã đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo.
Điều nguy hại hơn, và đáng buồn là lại khả phổ biến, là ngay cả khi đã tiếp nhận công nghệ từ bên ngoài, phần lớn các nước đang phát triển không làm chủ được công nghệ, không biến nó thành của mình được. Nguyên nhân chính là do họ không có nguồn nhân lực để sử dụng công nghệ, đặc biệt là những chuyên gia giỏi. Do đó, cùng với việc nhận viện trợ hoặc nhập khẩu công nghệ, họ phải thuê cả chuyên gia nước ngoài để vận hành, bảo dưỡng và sửa chữa. Chưa kể đến chi phí thuê chuyên gia đắt đỏ, điều này đã làm trầm trọng hơn tình trạng phụ thuộc công nghệ của các nước nghèo.
Thứ hai, về mặt xã hội, tự do hoá thương mại làm tăng khoảng cách giàu nghèo trên thế giới. Sự phân hoá giàu nghèo được coi là mặt trái mang tính tổng hợp nhất của quá trình tự do hoá thương mại và toàn cầu hoá hiện nay. Theo báo cáo phát triển con người của UNDP năm 1999 thì: “Trong vòng 50 năm qua, thu nhập bình quân đầu người đã tăng hơn gấp 3 lần do GDP toàn cầu tăng gấp 9 lần. Tỷ lệ những người được hưởng sự phát triển con người ở mức trung bình tăng từ 55% năm 1975 lên 66% năm 1997. Tỷ lệ được hưởng phát triển con người ở mức thấp giảm từ 20% xuống 10%”. Tự do hoá thương mại đang làm thế giới ngày một thịnh vượng hơn, đem lại những cơ hội để tăng thu nhập, thế nhưng cơ hội đó không phân chia đồng đều cho tất cả mọi người. Và điều đáng buồn hơn là hầu hết cơ hội đó lại chỉ rơi vào tay những người vốn đã giàu có, những người có khả năng tiếp cận và tận dụng được cơ hội. Những người nghèo khổ rất khó có khả năng tiếp cận với cơ hội này, do đó không thể tăng được thu nhập mà thậm chí còn nghèo đi bởi họ không thể tự bảo vệ mình trước những tác động tiêu cực của toàn cầu hoá. Bằng cách này, tự do hoá đã làm sâu sắc thêm tình trạng phân hoá giàu nghèo.
Bên ._.cạnh đó, cùng với quá trình tự do hoá thương mại diễn ra mạnh mẽ thì nguy cơ chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển và tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng.
Thứ ba, về mặt chính trị, tự do hoá thương mại đe doạ chủ quyền của các quốc gia nhỏ. Các quốc gia khi chấp nhận hội nhập kinh tế, tham gia vào các thể chế hoặc khu vực hoặc toàn cầu đều phải tuân thủ luật chơi chung, chấp nhận hạn chế thẩm quyền riêng biệt của mình trong nhiều lĩnh vực: kinh tế - xã hội và thậm chí là chính trị, mà kẻ đứng đằng sau thao túng mọi hoạt động của các tổ chức này lại là các nước tư bản phát triển mà đặc biệt là Mỹ. Để được trở thành thành viên của WTO, một quốc gia phải chấp nhận mở toang cửa nền kinh tế nước mình cho các công ty nước ngoài, không được bảo hộ cho những ngành công nghiệp non trẻ của mình. Các nước đang phát triển sẽ ngày càng phải đương đầu với áp lực của mâu thuẫn giữa yêu cầu hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá và yêu cầu duy trì an ninh quốc gia và độc lập chủ quyền của họ. Nếu chiều theo mọi đòi hỏi tham lam của các thế lực bên ngoài, họ sẽ mất chủ quyền quốc gia, ngày càng lệ thuộc vào bên ngoài, có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường trong tương lai.
2.2. Những tác động tích cực của chính sách bảo hộ mậu dịch hợp lý.
Tự do hoá thương mại và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu thông qua tham gia vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực bắt buộc tất cả các nước phải chấp nhận “luật chơi” tự do cạnh tranh, nghĩa là phải mở cửa thị trường, dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá và dịch vụ nước ngoài, loại bỏ các hạn chế đầu tư. Nhưng cạnh tranh luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt, nó là động lực thúc đẩy sản xuất trong nước vươn lên; mặt khác, nó có thể giết chết sản xuất trong nước nếu không đủ sức mạnh để tồn tại. Hơn nữa, trong bối cảnh mở cửa tự do, nền kinh tế luôn đứng trước nguy cơ chịu tác động của các cuộc khủng hoảng kinh tế từ bên ngoài, nguy cơ tụt hậu và phụ thuộc về mặt công nghệ của các nước đang phát triển, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo, tình trạng chảy máu chất xám và những mối đe doạ ô nhiễm môi trường sinh thái…
Đứng trước làn sóng mạnh mẽ của tự do hoá thương mại trên thế giới, một chính sách bảo hộ mậu dịch hợp lý có khả năng bảo vệ thị trường nội địa chống lại sự cạnh tranh, chèn ép của hàng hoá nước ngoài, từ đó tạo điều kiện cho các ngành sản xuất trong nước phát triển. Nền kinh tế được bảo hộ sẽ tránh được các cú sốc từ bên ngoài, có được môi trường tương đối ổn định để dần dần lớn mạnh. Chính sách bảo hộ hợp lý sẽ cải thiện đáng kể các ngành sản xuất nội địa. Bất cứ một quốc gia nào trên thế giới đều có những chiến lược phát triển kinh tế nhất định, trong đó luôn xác định những lĩnh vực ưu tiên đặc biệt. Nhưng để các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đạt được hiệu quả tối ưu và nâng cao khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế, Nhà nước cần phải có những ưu đãi đặc biệt.
Bảo hộ là công cụ phổ biến được chính phủ các nước sử dụng để nâng đỡ các doanh nghiệp gặp khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp có ảnh hưởng đến nền kinh tế nước chủ nhà hoặc các doanh nghiệp tập trung nguồn nhân lực và tài chính lớn, thông qua đó cải thiện ngành sản xuất nội địa. Ví dụ như Trung Quốc duy trì mức bảo hộ rất cao cho ngành công nghiệp ô tô, Nhật Bản duy trì mức bảo hộ cao với ngành sản xuất nông nghiệp, Hoa Kỳ dù là một nền kinh tế mạnh nhất thế giới, khởi xướng cho xu thế tự do hoá thương mại và có tầm ảnh hưởng lớn trong WTO, nhưng vẫn áp dụng những biện pháp bảo hộ hàng sản xuất trong nước như phim ảnh, sắt thép, ô tô, may mặc, nông sản…
Bên cạnh đó, đối với các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản và EU, mục tiêu chính trong chính sách bảo hộ là duy trì việc làm cho những tổ chức hay nhóm người nhất định, ổn định tương đối thu nhập và giảm bớt sức ép về chính trị của các tổ chức đoàn thể. Để bảo hộ ngành công nghiệp dệt may vốn là ngành công nghiệp thu hút khá nhiều lao động, EU đã đưa ra những thoả thuận về hạn ngạch xuất khẩu với các nước khác, đặc biệt là các nước có nguồn nguyên liệu phong phú và nguồn nhân công rẻ.
Với các nước đang phát triển và những nước có trình độ phát triển thấp, mục đích bảo hộ ngoài đảm bảo công ăn việc làm, nâng đỡ các nhà sản xuất non kém, còn là để duy trì cán cân thanh toán có lợi và cải thiện nguồn ngân sách. Trước tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán và hạn hẹp về ngân sách, phụ thuộc vào vay nợ nước ngoài, thì một chính sách bảo hộ hợp lý sẽ giúp các quốc gia này phát triển những ngành hàng thay thế nhập khẩu hoặc hướng về xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết hay xa xỉ từ đó hạn chế chi tiêu ngoại tệ và thu về nhiều hơn thông qua xuất khẩu.
3. Các biện pháp bảo hộ hợp lý nền sản xuất trong nước
Hầu hết các biện pháp được áp dụng để bảo hộ nền sản xuất trong nước đối với công nghiệp và nông nghiệp đều tương tự nhau xét về bản chất, chỉ khác nhau về mức độ, hình thức và tính phức tạp khi áp dụng. Hiện tại có rất nhiều các biện pháp được sử dụng để bảo hộ sản xuất trong nước, kiểm soát và hạn chế hàng nhập khẩu, nhưng những biện pháp bảo hộ phù hợp với những quy định của WTO và có mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước tiêu biểu có những biện pháp sau:
3.1. Hàng rào kỹ thuật thương mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ
3.1.1. Hàng rào kỹ thuật thương mại ( Technical Barriers to Trade)
Là các biện pháp đề cập đến các yêu cầu, tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối với hàng nhập khẩu vào nước mình. Các tiêu chuẩn này tạo thuận lợi cho thương mại quốc tế bằng cách giúp người mua nước ngoài đánh giá được quy cách, chất lượng sản phẩm và cũng gián tiếp trở thành rào cản thương mại trong trường hợp những tiêu chuẩn, quy định đặt ra quá khác biệt giữa các nước.
Các yêu cầu về nhãn mác, bao bì, đóng gói hàng hoá: tập trung chủ yếu vào chuẩn hoá quy cách của sản phẩm chế tạo, như nhãn mác, bao bì, đóng gói…
Các yêu cầu về quy trình và sản xuất, thu hoạch và chế biến
Các yêu cầu về vệ sinh kiểm dịch động thực vật (SPS): nhằm bảo vệ cuộc sống hoặc sức khoẻ con người và động thực vật thông qua việc bảo đảm an toàn thực phẩm và ngăn chặn sự xâm nhập của các dịch bệnh có nguồn gốc từ động thực vật.
Theo Hiệp định Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại (TBT) của WTO, các nước thành viên WTO phải tuân thủ các yêu cầu sau:
Các tiêu chuẩn hướng dẫn và khái niệm của các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế như ISO, CODEX, IEC... phải được dùng làm căn cứ để thực hiện ở các quốc gia trừ khi các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan hoặc một phần nào đó của các tiêu chuẩn này là các cách thức không có hiệu quả hoặc không phù hợp cho việc thực hiện các mục tiêu hợp pháp đang đeo đuổi, ví dụ như các yếu tố căn bản về khí hậu hoặc địa lý hoặc các vấn đề cơ bản về công nghệ.
Quá trình xây dựng và ban hành phải theo hình thức mà các tổ chức quốc tế đã hướng dẫn.
Các thành viên sẽ tích cực xem xét để chấp nhận các quy định kỹ thuật tương ứng của các thành viên khác nếu như các thành viên đó thấy rằng các quy định này đáp ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra các quy định của chính mình.
Việc xây dựng các quy định mới có khả năng cản trở thương mại phải được thông báo kịp thời cho các nước thành viên WTO.
Các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn cũng như thủ tục xác định sự phù hợp với các quy định kỹ thuật không được tạo ra các trở ngại vô lý đối với thương mại quốc tế, phải đảm bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử và đãi ngộ quốc gia, phải minh bạch và tiến tới hài hòa hoá.
3.1.2. Các biện pháp vệ sinh dịch tễ (Sanitary and Phytosanitary Measures)
Các nước thành viên WTO có quyền đưa ra các biện pháp về kiểm dịch động vật và thực vật cần thiết với điều kiện phải tuân theo các quy định của hiệp định SPS ( Agreement on Sanitary and Phytosanitary Measures)
Theo hiệp định SPS của WTO, các nước thành viên có quyền sử dụng các biện pháp kiểm dịch động - thực vật cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ của con người nhưng chỉ được áp dụng ở mức độ cần thiết để bảo vệ cuộc sống và sức khoẻ con người, động vật và thực vật, dựa trên các nguyên tắc khoa học không được duy trì thiếu căn cứ khoa học xác đáng và đặc biệt là không được áp dụng theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử không hợp lý và tuỳ tiện hay hạn chế một cách vô lý tới thương mại quốc tế.
3.2. Trợ cấp và chống trợ cấp trong thương mại quốc tế
Trong thương mại thế giới, buôn bán công bằng và ngay thẳng là điều kiện quan trọng để thúc đẩy tự do hoá thương mại, góp phần bảo đảm sự ổn định và minh bạch trong thương mại. Thoả thuận về trợ cấp và chống trợ cấp đã đạt được trong thời kỳ GATT, sau đó Hiệp định này đã tiếp tục được sửa đổi, hoàn thiện và cấu thành nên hệ thống pháp lý của WTO ngày nay. Không giống như Hiệp định tiền nhiệm, Hiệp định mới về trợ cấp của WTO chứa đựng định nghĩa về trợ cấp và đưa ra khái niệm về “trợ cấp đặc thù” hay còn gọi là “trợ cấp riêng”. Chỉ các trợ cấp đặc thù hay trợ cấp riêng mới chịu sự điều chỉnh bởi các nguyên tắc được quy định trong hiệp định này.
Những quy định về trợ cấp được làm rõ trong Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng SCM (Subsidies and Countervailing Measures) và Hiệp định Nông nghiệp AoA (Agreement on Agriculture).
3.2.1. Định nghĩa trợ cấp:
Trợ cấp xảy ra khi một số lợi ích được chuyển giao nhờ có sự hỗ trợ của chính phủ về giá hay thu nhập, hay có sự đóng góp tài chính của chính phủ cũng như các tổ chức công cộng, chẳng hạn như chuyển giao trực tiếp các khoản tiền hay bảo lãnh tín dụng; hoặc bỏ qua các khoản tiền lẽ ra phải thu cho ngân sách nhà nước, chẳng hạn như các ưu đãi về thuế (trừ thuế gián thu); hoặc chính phủ cung cấp hàng hoá và dịch vụ không thuộc nhóm cơ sở hạ tầng, hay thông qua việc mua hàng hoá.
(Trích điều 1-Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng).
Trợ cấp riêng là gì?
Trợ cấp riêng là loại trợ cấp chỉ dành cho một ngành hoặc một số ngành, một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp nhất định, và các cơ quan có thẩm quyền hay các văn bản pháp luật không chỉ ra một cách rõ ràng, công khai các tiêu chuẩn khách quan để đạt được trợ cấp.
Trợ cấp áp dụng giới hạn cho các doanh nghiệp nhất định nằm trong một vùng địa lý xác định thuộc phạm vi thẩm quyền của nhà chức trách cấp trợ cấp thì cũng được coi là trợ cấp riêng.
Việc xác định trợ cấp riêng phải được chứng minh rõ ràng trên cơ sở chứng cứ thực tế.
(Trích điều 2 - Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng)
3.2.2. Hiệp định của WTO về các loại trợ cấp và các biện pháp đối kháng áp dụng cho mỗi loại trợ cấp SCM (Subsidies and Countervailing Measures Agreement)
Hiệp định SCM đưa ra các quy định về việc sử dụng các biện pháp trợ cấp cũng như các quy định về những hành động một thành viên WTO có thể sử dụng để đối phó lại ảnh hưởng của các biện pháp trợ cấp. Theo Hiệp định, một thành viên WTO có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để yêu cầu một thành viên khác rút lại biện pháp trợ cấp mà họ đang áp dụng, hoặc có những phương thức khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của biện pháp trợ cấp đó. Thành viên bị ảnh hưởng cũng có thể thực hiện điều tra riêng của mình và có thể áp một mức thuế nhập khẩu bổ sung (được gọi là thuế chống trợ cấp) đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp mà theo kết quả điều tra gây tổn hại đến ngành sản xuất trong nước.
Một số quy định của Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp chống Trợ cấp cũng tương tự như các quy định của Hiệp định về chống bán phá giá. Thuế chống trợ cấp tương tự như thuế chống bán phá giá, chỉ có thể được áp dụng khi nước nhập khẩu đã tiến hành điều tra tỉ mỷ về hành động trợ cấp. Một giải pháp khác tránh cho việc áp dụng các biện pháp trợ cấp là người xuất khẩu được trợ cấp có thể đồng ý tăng giá xuất khẩu của họ.
Hiệp định SCM công nhận rằng trợ cấp có thể đóng một vai trò quan trọng ở các nước phát triển cũng như trong việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Các nước kém phát triển và các nước đang phát triển có thu nhập bình quân đầu người ít hơn 1.000 Đô la Mỹ/ năm được miễn áp dụng các quy định về trợ cấp xuất khẩu bị cấm. Các nước đang phát triển khác có thời hạn là năm 2003 để dỡ bỏ các khoản trợ cấp xuất khẩu của mình.
Có thể phân ra các loại trợ cấp sau:
Đối với các sản phẩm phi nông nghiệp, bao gồm 3 loại trợ cấp: trợ cấp bị cấm, trợ cấp có thể đối kháng, và trợ cấp không thể đối kháng.
Trợ cấp bị cấm
Trợ cấp có thể được sử dụng để hỗ trợ cho một ngành sản xuất non trẻ vươn lên chiếm lĩnh thị trường hoặc vì các mục đích khác. Tuy nhiên, có một số hình thức trợ cấp bị cấm trong WTO.
WTO đặc biệt cấm các thành viên không được sử dụng các biện pháp trợ cấp gắn với thành tích xuất khẩu (trợ cấp xuất khẩu) cũng như các trợ cấp gắn với việc ưu tiên sử dụng hàng nội địa hơn hàng nhập khẩu (tức là trợ cấp để sản xuất ra những sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu)
(Trích điều 3 - Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng)
Trợ cấp có thể đối kháng
Điều 5 - Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO quy định những trường hợp sau đây sẽ được coi là trợ cấp có thể đối kháng:
Trường hợp trợ cấp được xác định rõ là đã gây ra phương hại (tổn hại) cho nền công nghiệp nội địa của một nước hoặc vô hiệu hoá hoặc tước đi mất lợi ích mà thông thường nước đó vẫn thu nhận được, đặc biệt là lợi ích thu được do chế độ nhân nhượng lẫn nhau về thuế quan.
Trường hợp trợ cấp gây ra phương hại (tổn hại) nghiêm trọng tới lợi ích của nước thứ ba là thành viên của WTO. Quy định của WTO cũng chỉ ra rõ rằng, phương hại (tổn hại) nghiêm trọng trong trường hợp này có nghĩa là:
Tổng trợ cấp tính theo giá trị của một sản phẩm vượt quá 5% trị giá của nó.
Trợ cấp để bù cho sự thua lỗ kéo dài trong hoạt động kinh doanh của một ngành sản xuất.
Trợ cấp để bù cho các hoạt động kinh doanh thua lỗ của một doanh nghiệp, trừ khi đó là một biện pháp nhất thời mang tính chất một lần và không lặp lại với doanh nghiệp đó và được cấp chỉ thuần tuý để cho phép có thời gian tìm kiếm một giải pháp lâu dài và tránh phát sinh một vấn đề xã hội gay gắt.
Trực tiếp xoá nợ cho doanh nghiệp, ví dụ như xoá một khoản nợ Nhà nước hay cấp kinh phí để thanh toán nợ.
Các nước thành viên của WTO sẽ không được áp dụng một trong các loại trợ cấp đã nêu ở trên. Nếu một thành viên của WTO chứng minh được rằng một nước thành viên khác đang áp dụng hay duy trì một khoản trợ cấp dẫn đến thiệt hại, làm vô hiệu hoá, suy giảm hay gây phương hại nghiêm trọng một ngành sản xuất của mình thì thành viên này có quyền khiếu nại lên cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Nếu cơ quan này xác định điều khiếu nại trên là đúng thì thành viên đang thực hành hay duy trì trợ cấp phải rút bỏ ngay trợ cấp đó hoặc phải có những biện pháp thích hợp để loại bỏ tác động có hại từ việc trợ cấp đó gây ra cho các thành viên khác. Nếu không, cơ quan giải quyết tranh chấp cho phép Bên khiếu nại có quyền thực hiện biện pháp đối kháng. Thuế đối kháng phải được đánh với mức thuế phù hợp với từng trường hợp và trên cơ sở không phân biệt đối xử.
(Trích điều 19 - Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng)
Trợ cấp không thể đối kháng
Đây là loại trợ cấp không phải là trợ cấp riêng (quy định ở phần trên) hoặc cũng có thể là trợ cấp riêng nhưng liên quan tới các vấn đề sau:
Hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu như: chi phí nhân sự, chi phí công cụ, thiết bị, đất đai nhà cửa sử dụng cho hoạt động nghiên cứu; chi phí tư vấn và dịch vụ hoàn toàn cho hoạt động nghiên cứu; chi phí bổ sung phụ trội phát sinh trực tiếp từ hoạt động nghiên cứu; các chi phí điều hành khác phát sinh trực tiếp từ hoạt động nghiên cứu.
Trợ giúp cho các vùng khó khăn trên lãnh thổ của một nước thành viên. Vùng khó khăn đó phải được xác định ranh giới một cách rõ ràng về địa lý với những đặc điểm kinh tế và hành chính nhất định. Vùng đó được coi là vùng khó khăn trên cơ sở những tiêu thức vô tư và khách quan, nêu rõ ràng những khó khăn của vùng đó phát sinh từ những nhân tố không mang tính nhất thời; các tiêu thức đó phải được nêu rõ trong luật, quy chế hay những văn bản chính thức khác để có thể cho phép kiểm tra được.
Hỗ trợ nhằm xúc tiến nâng cấp những phương tiện hạ tầng hiện có cho phù hợp với yêu cầu mới về môi trường. Tuy nhiên, sự hỗ trợ đó chỉ là biện pháp nhất thời không kéo dài, có giới hạn không quá 20% chi phí nâng cấp, và không bao gồm chi phí thay thế hay vận hành những khoản đầu tư đã được hỗ trợ. Khoản hỗ trợ này cũng có thể được cấp cho mọi doanh nghiệp ứng dụng thiết bị mới hay quy trình sản xuất mới.
(Điều 8 - Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng)
Tuy nhiên, nếu một nước thành viên nào đó trong WTO có lý do để chứng minh được rằng, trợ cấp loại này đã dẫn tới những tác hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước của nước thành viên đó thì họ có thể khiếu nại lên Uỷ ban về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO. Nếu Uỷ ban này xác định điều khiếu nại trên là đúng thì có thể khuyến nghị với nước đang áp dụng trợ cấp điều chỉnh chương trình trợ cấp sao cho triệt tiêu được tác động xấu của nó tới các thành viên khác. Uỷ ban phải có kết luận trong vòng 120 ngày kể từ ngày vấn đề được đưa ra trước Uỷ ban. Trong trường hợp các khuyến nghị nói trên không được tuân thủ trong vòng 6 tháng, Uỷ ban sẽ cho phép bên khiếu nại được áp dụng những biện pháp đối kháng tương xứng với tính chất và mức độ của tác động đã được xác định.
(Trích điều 9 - Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng)
Với các sản phẩm nông nghiệp: các nước thành viên WTO đã cùng nhau ký kết hiệp định nông nghiệp AoA (Agreement on Agriculture) với mục đích đưa ra một chương trình cải cách trong thương mại nông nghiệp nhằm tạo nên tính hợp lý, công bằng theo định hướng thị trường, dựa trên một số lĩnh vực cần xem xét như: những vấn đề quan tâm không thuộc thương mại kể cả an toàn lương thực, bảo vệ môi trường, sự cần thiết phải áp dụng đối xử đặc biệt và có phân biệt đối xử với các nước đang phát triển, những tác động tiêu cực có thể có do thực hiện chương trình cải cách đối với các nước chậm phát triển và các nước thuần tuý phải nhập khẩu lương thực
3.3. Biện pháp chống bán phá giá (Anti-dumping Practices)
Đây là biện pháp có mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước nhưng được các tổ chức thương mại quốc tế thừa nhận và cho phép sử dụng trong những trường hợp nhất định. Các biện pháp chống bán phá giá (Anti-Dumping Practices) là các quy định về mức thuế nhập khẩu đặc biệt khi giá hàng hoá của các nước xuất khẩu bán phá giá vào nước nhập khẩu. Một sản phẩm bị coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu thấp hơn mức giá của sản phẩm tương tự tại nước xuất khẩu hoặc chi phí sản xuất của mặt hàng đó.
Việc một quốc gia áp dụng các biện pháp chống bán phá giá là nhằm ngăn ngừa việc nhà xuất khẩu bán phá giá hàng hoá sang nước mình, bảo vệ nền sản xuất trong nước. Nhưng để đảm bảo tự do trong thương mại, áp dụng chống bán phá giá không thể tuỳ tiện mà phải đảm bảo một số điều kiện nhất định. Chỉ khi cơ quan có thẩm quyền xác định có đủ ba yếu tố điều kiện là:
w Có hành động bán phá giá, nghĩa là hàng hoá xuất khẩu tới nước nhập khẩu đang bán ở mức giá thấp hơn giá trị thông thường của nó khi bán hàng hoá đó trên thị trường nước xuất khẩu.
w Có sự tổn thất vật chất do hành động bán phá giá gây ra hoặc đe doạ gây ra đối với ngành công nghiệp nước nhập khẩu sản xuất các hàng hoá tương tự với hàng hoá bán phá giá.
w Có quan hệ nhân quả giữa bán phá giá và các tổn thất vật chất (hoặc đe doạ gây tổn thất) do hành động bán phá giá gây ra.
thì cơ quan có thẩm quyền mới được phép ban hành các biện pháp chống bán phá giá đối với hành vi bán phá giá.
Các biện pháp chống bán phá giá gồm có:
Các biện pháp chống bán phá giá tạm thời.
Các biện pháp chống bán phá giá tạm thời có thể được áp dụng dưới hình thức thuế chống bán phá giá tạm thời hoặc dưới hình thức đảm bảo bằng tiền đặt cọc hoặc tiền bảo đảm, tương đương với mức thuế chống bán phá giá được dự tính tạm thời và không được cao hơn mức phá giá tạm dự tính tạm thời.
Các biện pháp chống bán phá giá tạm thời không được phép áp dụng sớm hơn 60 ngày kể từ ngày bắt đầu cuộc điều tra. Việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời được áp dụng trong thời gian càng ngắn càng tốt, và không vượt quá 4 tháng. Trong quá trình điều tra, nếu cơ quan có thẩm quyền cần thời gian để kiểm tra xem liệu mức thuế thấp hơn mức phá giá có thể bù đắp thiệt hại phát sinh hay không, khoảng thời gian nói trên có thể kéo dài thành 6 hoặc 9 tháng.
Cam kết về giá
Các thủ tục điều tra có thể được đình chỉ hoặc chấm dứt mà không áp dụng bất cứ biện pháp tạm thời hay thuế chống bán phá giá nào nếu như các nhà xuất khẩu có cam kết ở mức thoả đáng sẽ điều chỉnh giá của mình hoặc đình chỉ hành động bán phá giá vào khu vực đang điều tra để các cơ quan có thẩm quyền thấy rằng thiệt hại do việc bán phá giá gây ra đã được loại bỏ. Việc làm chấp nhận cam kết về giá của nhà xuất khẩu chỉ được phép thực hiện sau khi các cơ quan có thẩm quyền đã có quyết định sơ bộ khẳng định có việc bán phá giá và có thiệt hại do việc bán phá giá đó gây ra.
Thuế chống bán phá giá chính thức
Nếu kết quả điều tra chính thức đi đến quyết định cuối cùng cho thấy có tồn tại việc bán phá giá, và có thiệt hại do việc bán phá giá gây ra cho ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá tương tự ở trong nước, và mối quan hệ nhân quả giữa chúng thì phán quyết cuối cùng sẽ là qui định thu thuế chống bán phá giá chính thức. Mức thuế chống bán phá giá không được phép vượt qua biên độ bán phá giá đã được xác lập, nhưng nó có thể ít hơn biên độ đó nếu như mức thuế thấp hơn đó có thể loại trừ được thiệt hại cho ngành công nghiệp. Mức thuế đồng thời cũng phải tuân theo nguyên tắc giảm đi, nghĩa là nếu mức phá giá bằng 50%, mức thiệt hại bằng 40% thì mức thuế chống bán phá giá bằng 40%.
Thuế chống bán phá giá có hiệu lực trong vòng 5 năm kể từ khi được áp dụng. Sau thời hạn này, nếu có yêu cầu tiếp tục duy trì thuế chống bán phá giá của các bên có liên quan, cơ quan hữu quan có thể xem xét lại liệu việc tiếp tục áp dụng thuế chống bán phá giá có còn cần thiết nữa hay không, liệu các tác hại của việc bán phá giá có còn tiếp diễn hay lại xảy ra hay không nếu thuế chống bán phá giá được điều chỉnh hay loại bỏ hoàn toàn.
Thuế đối kháng
Hiệp định chống bán phá giá của WTO qui định trong trường hợp việc trợ cấp tài chính của một Chính phủ hoặc một công ty nước ngoài cho ngành công nghiệp sản xuất, vận chuyển và xuất khẩu hàng hoá trong nước đe doạ hoặc làm tổn hại cho ngành công nghiệp nội địa sản xuất các hàng hoá tương tự thì được phép tiến hành hành động đối kháng chống lại các hoạt động nhập khẩu liên quan dưới dạng áp đặt một loại thuế đặc biệt, gọi là ”thuế đối kháng”.
3.4. Tự vệ trong thương mại
Khi nhập khẩu một mặt hàng nào đó tăng lên đột biến gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho một ngành sản xuất, WTO cho phép các thành viên bị thiệt hại có thể sử dụng các biện pháp tự vệ tạm thời kể cả hạn chế định lượng để khắc phục thiệt hại do nhập khẩu gây ra.
(Trích Điều 2 - Hiệp định về các biện pháp tự vệ)
WTO quy định, một nước chỉ có thể áp dụng các biện pháp tự vệ sau khi đã có sự điều tra để xác định tổn hại nghiêm trọng của các nhà chức trách có thẩm quyền. Hiệp định về các Biện pháp Tự vệ cũng chỉ ra rõ:
“Tổn hại nghiêm trọng” được hiểu là sự suy giảm toàn diện đáng kể tới vị trí của ngành công nghiệp nội địa.
“Đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng” được hiểu là tổn hại nghiêm trọng rõ ràng sẽ xảy ra.
Trong quá trình điều tra, việc xác định liệu một hàng hoá nhập khẩu có gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng cho sản xuất nội địa phải dựa trên cơ sở thực tế (chứ không chỉ là sự phỏng đoán, viện dẫn hay khả năng xa).
(Trích Điều 3,4 - Hiệp định về các biện pháp tự vệ)
WTO cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp tự vệ chỉ ở mức độ cần thiết để ngăn chặn hoặc khắc phục những tổn hại nghiêm trọng và tạo điều kiện thuận lợi điều chỉnh ngành công nghiệp có liên quan. Nếu các nước thành viên sử dụng biện pháp hạn chế số lượng thì không được giảm khối lượng hàng nhập khẩu xuống thấp hơn mức nhập khẩu trung bình trong 3 năm gần đây trừ khi chứng minh được rõ ràng rằng mức hạn chế thấp hơn đó là cần thiết để ngăn cản hay khắc phục những thiệt hại rất nghiêm trọng đang diễn ra.
(Trích Điều 5 - Hiệp định về các biện pháp tự vệ)
Các thành viên sẽ chỉ áp dụng các biện pháp tự vệ trong khoảng thời gian cần thiết để ngăn chặn hay khắc phục những tổn hại nghiêm trọng và tạo điều kiện điều chỉnh. Thời gian này không được vượt quá 4 năm. Mặc dù vậy, WTO cũng nới rộng trong trường hợp đặc biệt cho phép thời hạn có thể kéo dài tới 8 năm tuỳ thuộc vào sự đánh giá của các nhà chức trách có thẩm quyền, nếu việc kéo dài là cần thiết nhằm tiếp tục bảo vệ hay điều chỉnh những tổn thất.
Tuy nhiên, trong những trường hợp nghiêm trọng mà sự chậm trễ có thể gây ra thiệt hại khó có thể khắc phục được, WTO cho phép một thành viên có thể áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời (chưa cần có sự điều tra của WTO) dựa trên xác định sơ bộ những chứng cứ rõ ràng chứng tỏ gia tăng nhập khẩu đã gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng. Biện pháp tạm thời được áp dụng dưới hình thức thuế quan, trong thời hạn dưới 200 ngày. Nếu như sau đó kết quả điều tra của WTO cho thấy hàng nhập khẩu này không gây ra hoặc đe dọa gây ra những tổn hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất nội địa thì nước áp dụng tự vệ phải hoàn lại lượng thuế đã thu thêm.
CHƯƠNG II
THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
I. CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA HOA KỲ
Hoa Kỳ là một cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới và là một trong những thành viên sáng lập của GATT, tiền thân của WTO. Là một cường quốc mạnh về kinh tế và thương mại với nền kinh tế thị trường tự do nhưng trong quan hệ kinh tế quốc tế Mỹ cũng phải đối mặt với cạnh tranh ngày càng gay gắt từ phía các nước thành viên trong WTO. Đứng trước những thách thức này, Mỹ đã áp dụng chính sách bảo hộ mạnh mẽ để bảo vệ nền sản xuất nội địa và trở thành đại diện khá điển hình cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch. Theo nhận định chung, các biện pháp bảo hộ sản xuất trong nước của Hoa Kỳ có xu hướng ngày càng gia tăng về số lượng cũng như sự tinh vi trong thực thi.
1. Các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ
Hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ của Hoa Kỳ được đánh giá là phức tạp nhất trong các hàng rào kỹ thuật cuả các nước trên thế giới. Tiêu chuẩn thương phẩm đối với hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ được quy định rất chi tiết và rõ ràng và đều do các cơ quan chức năng kiểm tra, kiểm dịch và giám định cẩn thận trước khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Với mục tiêu đảm bảo an toàn thực phẩm và ngăn chặn mọi sự xâm nhập của các dịch bệnh có nguồn gốc từ động thực vật, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng, Hoa Kỳ chỉ cho phép những hàng hoá nào đáp ứng được các tiêu chuẩn của hàng rào kỹ thuật do các cơ quan quản lý chuyên ngành đặt ra mới được phép nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Hiện nay, Hoa Kỳ có 4 cơ quan phụ trách về vệ sinh dịch tễ(5) Tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 12/2006
:
Cơ quan phụ trách thực phẩm và thuốc (FDA): là cơ quan thuộc Bộ Y tế Hoa Kỳ, chịu trách nhiệm đề ra và giám sát thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn tiêu dùng đối với thực phẩm, dược phẩm và dụng cụ y tế và mỹ phẩm sản xuất tại Hoa Kỳ và nhập khẩu từ các nước ngoài vào lãnh thổ Hoa Kỳ.
Cục kiểm định an toàn thực phẩm (Food Safety and Inspection Service – FSIS) của Bộ Nông nghiệp.
Cơ quan bảo vệ môi trường (Environmental Protection Agency – EPA). EPA có nhiệm vụ bảo vệ sức khoẻ con người, bảo vệ môi trường thông qua việc ngăn cản những tác động từ bên ngoài có ảnh hưởng tác hại đến môi trường.
Cục kiểm định y tế động thực vật (Animal and Plant Health Inspection Service – APHIS) thuộc Bộ Nông Nghiệp. APHIS đưa ra những quy định nhằm bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng và động vật khỏi những bệnh tật từ bên ngoài.
Tuỳ từng nhóm sản phẩm nhập khẩu mà các cơ quan vệ sinh dịch tễ sẽ có giấy phép cho phù hợp với nhóm hàng, chẳng hạn:
Đối với hàng tiêu dùng như tủ lạnh, điều hoà nhiệt độ, siêu đun nước…đều phải chịu sự điều chỉnh của Luật chính sách và tiết kiệm năng lượng. Theo đó, Cục quản lý hiệu quả sản phẩm tiêu dùng – Bộ năng lượng sẽ chịu trách nhiệm thử nghiệm và đưa ra tiêu chuẩn sử dụng năng lượng đối với các đồ gia dụng nhập khẩu.
Đối với hàng nông sản, thực phẩm: Tuỳ từng loại nông sản, thực phẩm mà sẽ phải tuân thủ các tiêu chuẩn kỹ thuật khác nhau do các cơ quan quản lý chuyên ngành ban hành, chẳng hạn:
Hải sản: chịu sự quản lý của Cơ quan ngư nghiệp quốc gia thuộc Cục quản lý đại dương và môi trường. Các sản phẩm này phải được phân tích để phát hiện các loại chất nguy hại có thể có (hoá chất hoặc sinh vật), xác định các vấn đề ô nhiễm tiềm tàng trong quá trình chế biến, xác lập cũng như ghi nhận các biện pháp phòng ngừa.
Động vật sống (kể cả gia cầm, gia súc) và các sản phẩm từ thịt: muốn nhập khẩu phải thoả mãn các quy định kiểm dịch của Cục Kiểm dịch sức khoẻ động thực vật và chỉ được phép nhập khẩu ở một số cảng nhất định có đặt các trạm kiểm dịch. Thịt do Bang nào kiểm dịch chỉ được bán ở Bang đó. Các loại thịt và sản phẩm gia cầm chỉ có thể được nhập vào Hoa Kỳ từ những nước và những nhà máy đã được Hoa Kỳ cho phép – những nước có các yêu cầu về an toàn thực phẩm tương đương với của Hoa Kỳ. Hiện nay, mới chỉ có 36 nước được phép xuất khẩu thịt sang Hoa Kỳ, chủ yếu là các nước phát triển (Châu Á chỉ có Hồng Kông và Nhật Bản).
Rau, quả, hạt: phải đáp ứng các yêu cầu về phẩm cấp, kích thước, chất lượng và độ chín theo quy định của Luật kiểm dịch thực vật, Luật hạt thực vật Liên bang, và do Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA) cùng phối hợp với Cục tiêu thụ nông sản – Bộ nông nghiệp quản lý.
Dược phẩm: Do FDA chịu trách nhiệm đề ra và giám sát thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn tiêu dùng đối với thực phẩm, dược phẩm, dụng cụ y tế và hoá mỹ phẩm sản xuất tại Hoa Kỳ và nhập khẩu từ nước ngoài vào lãnh thổ Hoa Kỳ. Hầu hết các sản phẩm này, đặc biệt là dược phẩm phải có giấy phép của FDA mới được nhập vào Hoa Kỳ, đồng thời phải qua giám định khi hàng tới cửa khẩu.
Hàng điện tử: Các sản phẩm điện tử gây bức xạ như: đèn tuýp, lò viba, thiết bị X-quang… phải tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn bức x._.số 280/BTM-TCHQ quy định về giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Thông tư này bao gồm những nguyên tắc chung về chế độ cấp và kiểm tra Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Ngoài ra, đối với từng chế độ ưu đãi cụ thể cũng có các quy định riêng về xuất xứ như Thông tư số 33/TC-TCT (năm 1996) quy định Danh mục hàng hoá và thuế suất nhập khẩu để thực hiện chương trình giảm thuế hàng nhập khẩu từ EU; Quy chế của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá đối với hàng xuất sang EU (mẫu A và B); Quyết định số 416/T M-ĐB năm 1996 của Bộ Thương Mại ban hành Quy chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN của Việt Nam (mẫu D) để hưởng các ưu đãi theo “ Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan hiệu lực chung (CEPT)” trong nông nghiệp và công nghiệp
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO HỘ HỢP LÝ CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
Xuất phát từ những quan điểm của Nhà nước ta về việc thực thi chính sách bảo hộ các ngành sản xuất trong nước cho thấy việc xây dựng hệ thống chính sách bảo hộ hợp lý phải quán triệt những nguyên tắc sau:
Những biện pháp bảo hộ phải phù hợp với thông lệ quốc tế đã được cụ thể hoá ở WTO; phù hợp với những quy định cụ thể của ASEAN và APEC.
Hệ thống các biện pháp bảo hộ phải đủ mạnh để bảo vệ nền sản xuất non trẻ trong nước, song phải tạo đà và thúc đẩy các doanh nghiệp tự đổi mới và tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường quốc tế.
Trong quá trình thực thi các chính sách bảo hộ với mục tiêu tạo thuận lợi cho thương mại là chính, cần phải có sự khuyến khích và kết hợp chặt chẽ, khéo léo giữa hệ thống hàng rào thuế quan với hệ thống các biện pháp phi thuế quan, giữa tự do hoá với việc bảo hộ trong nước, đặt quyền lợi quốc gia lên hàng đầu. Như vậy, hệ thống phi thuế quan cần đảm bảo nguyên tắc luôn tạo ra được một lối thoát nhất định khi nền thương mại trong nước bị đe doạ trước sự cạnh tranh quốc tế.
Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, việc sử dụng các NTM cổ điển như cấm nhập khẩu, hạn ngạch hay doanh nghiệp đầu mối để bảo hộ sản xuất trong nước sẽ ngày càng khó khăn. Vì vậy, nghiên cứu các NTM mới để có thể tiếp tục bảo hộ một số ngành sản xuất theo đúng những mục tiêu phát triển dài hạn của đất nước là rất cần thiết. Khi xây dựng và áp dụng các NTM, nguyên tắc chung là không trái với các quy định của WTO.
Từ thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo hộ hợp lý của các nước Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc để bảo vệ sản xuất trong nước cũng như theo các quy tắc của WTO , chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc thực thi chính sách bảo hộ hợp lý trong thời kỳ hội nhập.
1. Các biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch động thực vật
Theo các Hiệp định của WTO về các hàng rào kĩ thuật đối với thương mại (Agreement on Technical Barriers to Trade - TBT) về vệ sinh kiểm dịch động thực vật (Agreement on Sanitary and Phytosannitary Measures - SPS), các nước được phép sử dụng các quy định, tiêu chuẩn kĩ thuật, các biện pháp vệ sinh kiểm dịch thích hợp hoặc cần thiết để bảo vệ sức khoẻ, đời sống của con người, động thực vật, bảo vệ môi trường và quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, các biện pháp đó không được áp dụng nhằm tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hay hạn chế vô lý đối với thương mại quốc tế.
Trên thực tế, Việt Nam nên có chính sách đồng bộ hơn về tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như cần nâng cao hơn nữa khả năng vận dụng linh hoạt các quy định của Hiệp định TBT nhằm phục vụ tốt các mục tiêu phát triển nói chung và thương mại nói riêng. Cụ thể, Việt Nam có thể bảo vệ sản xuất trong nước thông qua hạn chế nhập khẩu nếu biết khéo léo vận dụng tiêu chí “thích hợp” hoặc “cần thiết” của Hiệp định TBT.
Tương tự việc sử dụng TBT, vận dụng tốt các biện pháp SPS trong thương mại cũng là một phương thức hợp pháp và hiệu quả để bảo vệ sản xuất nông nghiệp nói riêng cũng như sức khoẻ con người, động thực vật và môi trường nói chung. Muốn như vậy, Việt Nam cần xây dựng hợp lý danh mục chi tiết các mặt hàng phải kiểm tra SPS bắt buộc.
Bảo hộ thông qua hàng rào kỹ thuật còn được gọi là bảo hộ “vùng xám” . Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ thống các biện pháp bảo hộ kiểu này kết hợp với các biện pháp có thể biện hộ là phù hợp với thông lệ và quy định của WTO tiêu chuẩn môi trường, thủ tục nhập khẩu… Các biện pháp “bảo hộ vùng xám” có hiệu quả không khác các biện pháp bảo hộ thông thường, nhưng cách thức và biện pháp bảo hộ tinh xảo hơn, tận dụng chính những lỗ hổng trong hệ thống pháp lý của WTO. Bảo hộ được chuyển từ các biện pháp hạn chế định lượng sang các biện pháp tinh vi, mang tính kĩ thuật hơn và đang là xu thế chung của chính sách bảo hộ hợp lý. Các biện pháp vừa được WTO thừa nhận vừa giúp nước áp dụng đạt được mục tiêu bảo hộ tốt nhất. Kết hợp sử dụng bảo hộ vùng xám và các biện pháp khác để sử dụng trong trường hợp cần thiết như:
Xây dựng, hài hoà và hệ thống hoá các biện pháp kỹ thuật, môi trường, bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, hệ thống quản lý chất lượng, quy cách, tiêu chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm mục đích bảo hộ khi cần thiết cho các ngành thực hiện tự do hoá, tránh gây ra những biến động lớn đối với các ngành kinh tế.
Tăng cường đào tạo trình độ chuyên môn, kỹ thuật, luật pháp, kinh nghiệm cho các cán bộ thuộc các cơ quan chức năng liên quan đến việc áp dụng các biện pháp “vùng xám”.
Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác điều tra, kiểm tra hàng hoá nhằm thực thi nghiêm túc các quy định về tiêu chuẩn, quy cách hàng hoá của các cơ quan quản lý chức năng.
Đổi mới phương thức trợ cấp xuất khẩu hiện nay theo hướng tập trung có trọng điểm. Vì thế, trợ cấp xuất khẩu hướng vào những ngành kinh tế được bảo hộ có định hướng xuất khẩu (là mục tiêu của chính sách thương mại) chứ không chỉ đơn thuần dựa trên kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp như hiện nay.
Nâng cao việc phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với cơ quan thực hiện đàm phán quốc tế đảm bảo khả năng thực thi cơ chế bảo hộ vùng xám, tránh gây ra các tranh chấp có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường mại quốc tế.
2. Các biện pháp chống bán phá giá
Từ thực tiễn chống bán phá giá của các nước nêu trên cũng như đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá, chúng ta có thể rút ra bài học tổng quát cho Việt Nam sau đây:
@ Luật pháp và thực tiễn chống bán phá giá ở hầu hết các nước này đều tuân thủ theo những quy định của WTO, chỉ khác nhau những vấn đề mà trong quy định của WTO chưa quy định, không quy định rõ hoặc cho phép các Chính phủ được quyền quyết định. Có thể nói rằng những quy định về chống bán phá giá của WTO là cốt lõi, nền tảng để các quốc gia ban hành, sửa đổi cũng như áp dụng các quy định về chống bán phá giá của mình. Để tiến hành chống bán phá giá có kết quả, cần thiết phải ban hành Đạo luật chống bán phá giá. Nội dung của luật chống bán phá giá cần phải phù hợp với các quy định chung, cơ bản của Luật chống bán phá giá của WTO (GATT 1994). Trong đó có tính đến các quy định riêng biệt phù hợp với đặc thù từng nước.
@ Có cơ quan chuyên trách của Nhà nước phụ trách công tác chống bán phá giá. Cơ quan này sẽ đứng ra tiến hành điều tra bán phá giá, và đưa ra kết luận về hành vi bán phá giá cũng như quy định mức thuế chống bán phá giá nếu có hành động bán phá giá xảy ra.
@ Hành động chống bán phá giá nhằm mục đích chống lại bán phá giá (qua thuế chống bán phá giá), chống lại sự trợ cấp tài chính của nước ngoài (qua thuế đối kháng), hơn thế nữa mà còn là biện pháp trả đũa với những nước áp dụng các mức thuế mang tính kỳ thị áp đặt đối với hàng hoá của nước mình. Nếu Việt Nam bị nước ngoài áp thuế chống bán phá giá thì Việt Nam cũng có thể dùng biện pháp này để trả đũa.
@ Hiệp hội đóng vai trò quan trọng trong việc chống bán phá giá. Phát huy sức mạnh của hiệp hội và sự hợp tác của các doanh nghiệp cùng nhau đối phó với vấn đề bán phá giá là hết sức cần thiết, nhằm ngăn chặn hành vi bán phá giá trên thị trường nội địa một cách thành công.
Kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá ở thị trường nước ngoài
@ Cách làm có hiệu quả nhất là chủ động đứng lên kháng kiện, giành quyền lợi hợp pháp cho mình. Điều cốt yếu là tất cả đều ý thức được tính hệ trọng của vấn đề, cùng thống nhất có thái độ tích cực tiến hành kháng cáo. Thực tế chứng minh ở một số nước công nghiệp phát triển có hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện, chúng ta cần phải vận dụng vũ khí pháp luật, đấu tranh có lý, có tình sẽ bảo vệ được quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu của ta.
@ Phát huy vai trò, các hiệp hội ngành hàng xuất nhập khẩu. Tất cả đồng lòng hiệp lực tham gia kháng kiện. Các doanh nghiệp cần đoàn kết thành một khối thống nhất, nghiêm túc thực hiện các nghị quyết, biện pháp được hiệp hội thông qua để cùng hợp lực giành thế chủ động trong kháng kiện.
@ Mời luật sư có kinh nghiệm, có năng lực là điều kiện quan trọng bảo đảm giành thắng lợi trong vụ kiện.
@ Các doanh nghiệp liên quan đến vụ kiện cần sớm bắt tay vào hành động mới có thể chủ động. Hiệp hội sớm tập hợp tài liệu liên quan đến vụ kiện gửi cho các doanh nghiệp. Trong thời gian trước khi khởi kiện, hiệp hội mời luật sư có kinh nghiệm và các chuyên gia kinh tế đến các doanh nghiệp hướng dẫn cách thức điều tra trước, giúp các doanh nghiệp làm tốt công tác chuẩn bị theo yêu cầu của bên đi kiện đối với việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở đơn vị mình, tạo điều kiện tốt cho việc kiểm tra thuận lợi và lập luận kháng cáo sau này.
Bên cạnh đó, sự ủng hộ chi viện kịp thời của Bộ, Ngành là rất quan trọng. Có thể dẫn ra ví dụ của Trung Quốc trong vụ kiện nước táo đặc của nước này, Lãnh đạo Bộ hợp tác Kinh tế Mậu dịch và các Ngành hữu quan đã kịp can thiệp và chi viện có hiệu quả các doanh nghiệp trong thời điểm quyết định, góp phần to lớn làm cho vụ kiện tiến triển theo hướng khách quan, công bằng và có lợi cho Trung Quốc.
Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có một điều khoản rất chung chung trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nói về thuế đối kháng và thuế chống bán phá giá. Để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước những hàng nhập khẩu bán phá giá, chúng ta cần khẩn trương xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy về chống bán phá giá (có thể là Luật hoặc Pháp lệnh) với các mục tiêu sau:
Thứ nhất: Đảm bảo duy trì sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng trên thị trường.
Thứ hai: Ngăn chặn một công ty hoặc một ngành sản xuất nước ngoài dùng hành động bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường nước ta, nhằm bảo vệ cho các ngành sản xuất công nghiệp trong nước.
Thứ ba: Là công cụ để chống lại tình trạng Chính phủ hoặc các Hiệp hội nước ngoài trợ cấp cho hàng hóa xuất khẩu của họ, dẫn đến hành động bán phá giá gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa của Việt Nam.
Thứ tư: Là công cụ để áp dụng biện pháp trả đũa đối với những quốc gia, vùng, lãnh thổ nào áp dụng biện pháp bán phá giá mang tổ chức kỳ thị, phân biệt đối xử đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Việc ban hành Luật chống bán phá giá của Việt Nam nếu được ban hành phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời phải phù hợp với Hiệp định chống bán phá giá theo khuôn khổ của WTO. Trong quá trình xây dựng Luật, cần chú ý đến yếu tố nền kinh tế đang phát triển ở nước ta, việc xây dựng các quy định phải phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước.
3. Tự vệ
Mặc dù đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam, nhưng cho đến nay, những biện pháp tự vệ mà Việt Nam áp dụng vẫn chưa phát huy một cách có hiệu quả, trong khi hàng hoá của nhiều nước vẫn đang phá giá tại thị trường Việt Nam, hoặc đang đe doạ tới ngành công nghiệp nội địa, thậm chí cả những hàng hoá có ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, nhân cách… vẫn đang nhập lậu vào Việt Nam.
Biện pháp tự vệ là một công cụ được WTO thừa nhận để hạn chế định lượng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng. Đây là biện pháp có tầm quan trọng rất lớn bởi khả năng phát huy tác động nhanh chóng và mạnh mẽ của nó. Trong thời kỳ hội nhập, việc sử dụng biện pháp này là điều cần thiết nhưng chúng ta cần nhận rõ một nhược điểm không thể phủ nhận của biện pháp này là nó không thể duy trì được trong một thời gian dài và dễ gây ra các hành động trả đũa.
4. Trợ cấp
Một trong các công cụ được WTO cho phép các nước thành viên duy trì là các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích của các nước thành viên khác. Các hình thức trợ cấp trong Hiệp định SCM chủ yếu liên quan đến các sản phẩm công nghiệp.
Trợ cấp cho các ngành công nghiệp nội địa có thể dưới hình thức trợ cấp trực tiếp hoặc trợ cấp gián tiếp. Có thể kể đến các hình thức trợ cấp trực tiếp như trợ giúp tài chính, cho vay ưu đãi của Chính phủ.. Trợ cấp gián tiếp có thể thực hiện thông qua hỗ trợ các ngành cung cấp đầu vào hay đảm bảo đầu ra cho sản phẩm.
Mặc dù các quy định về trợ cấp tại Hiệp định SCM và Hiệp định Nông nghiệp của WTO khá chi tiết nhưng một số hình thức trợ cấp vẫn còn chưa chịu sự điều chỉnh cụ thể bởi các quy tắc quốc tế thống nhất. Có thể kể ra ở đây là các hình thức trợ cấp liên quan tới tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm xuất khẩu. Chính vì thế mà nhiều nước vẫn đang tiếp tục áp dụng những hình thức trợ cấp này nhằm tránh né các cam kết về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu.
Một điểm đáng lưu ý là WTO thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát triển hợp pháp và quan trọng của các thành viên đang phát triển. Dưới giác độ pháp lý, Việt Nam có thể được hưởng những đãi ngộ đặc biệt và khác biệt về trợ cấp dành cho nước đang phát triển khi trở thành thành viên của WTO.
Do đó, Việt Nam có thể nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác để sử dụng hiệu quả các biện pháp trợ cấp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước. Để đáp ứng yêu cầu của WTO, bên cạnh việc tiếp tục duy trì các hình thức trợ cấp không ảnh hưởng tới thương mại (như trợ cấp nghiên cứu giống mới trong nông nghiệp, phương pháp sản xuất mới, xóa đói giảm nghèo, khắc phục thiên tai,...) thì những hình thức hỗ trợ cho xuất khẩu (như trợ giá, hỗ trợ lãi suất, thưởng thức xuất khẩu, ...) cần phải từng bước loại bỏ, có thể thay vào đó là những hình thức trợ cấp khác phù hợp với các quy định của WTO. Trong vấn đề này, Việt Nam cần phải phát huy mạnh mẽ vai trò của các Hiệp hội ngành hàng, nhất là trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước cần cho phép và khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ hỗ trợ, Quỹ phòng ngừa rủi ro cho ngành hàng của mình, nhất là những ngành hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn (như gạo, cà phê, cao su, chè, thuỷ hải sản....) Những hỗ trợ từ các Quỹ của Hiệp hội cho các thành viên khi giá cả thị trường biến động thất thường mà nguồn thu của Quỹ là do các thành viên đóng góp tự nguyện, hoặc từ các khoản tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong ngoài nước theo đúng quy định của Nhà nước hay từ các khoản thu nhập chính đáng của Hiệp hội tạo ra thì không vi phạm các quy định của WTO.
Ngoài ra, các biện pháp trợ cấp mang tính phổ biến và ít bóp méo thương mại như hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, nâng cấp máy móc thiết bị đáp ứng tiêu chuẩn môi trường, hỗ trợ về hạ tầng nông nghiệp vv.. được WTO cho phép áp dụng mà không bị hành động đối kháng cần được tích cực vận dụng vì có thể có tác dụng gián tiếp hỗ trợ sản xuất nội địa, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh.
5. Thuế thời vụ
Thuế thời vụ là hình thức áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau cho cùng một sản phẩm tuỳ thuộc vào thời gian chịu thuế của sản phẩm. Ví dụ, ở Việt Nam, vụ mùa cam bắt đầu từ đầu tháng 8 đến cuối tháng 11. Vào chính mùa cam (tù tháng 8 đến tháng 11), cam thu hoạch trong nước nhiều, Việt Nam áp dụng mức thuế suất nhập khẩu cho cam là 20%. Ngoài thời gian này, nhu cầu tiêu thụ trong nước vẫn lớn trong khi sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu, Việt Nam quy định thuế xuất nhập khẩu với cam là 0%.
Theo Hiệp định nông nghiệp, phải thuế hoá tất cả các NTM cho sản phẩm nông nghiệp. Do đó, áp dụng thuế thời vụ vừa đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định vừa tăng tính linh hoạt cuả công cụ thuế cho mặt hàng chịu thuế thời vụ.
6. Các biện pháp liên quan đến môi trường
Vấn đề bảo vệ môi trường đang và sẽ là một chủ đề nổi bật liên quan
đến nhiều lĩnh vực của quan hệ quốc tế, trong đó có thương mại. Mỗi một quốc gia đều có chính sách riêng liên quan tới bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy việc sử dụng các biện pháp liên quan đến môi trường như một NTB sẽ là xu hướng mới trong thương mại quốc tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam nên nghiên cứu để có thể khai thác tốt NTB này khi cần bảo hộ sản xuất trong nước, đồng thời có thể đưa ra căn cứ xác đáng bác bỏ những biện pháp viện lý do để bảo vệ môi trường để hạn chế hàng nhập khẩu của Việt Nam.
Một thực tế không thể phủ nhận được là ngày càng có nhiều biện pháp phi thuế quan mới ra đời thì tính phức tạp của việc áp dụng và quản lý các biện pháp phi thuế quan ngày càng trở nên khó khăn hơn. Thực tế đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách Việt Nam là cần có một định hướng đúng đắn cho sự áp dụng và quản lý đó. Trên đây là một số định hướng cơ bản có tính tham khảo, góp phần vào việc quản lý nhà nước về thương mại quốc tế ngày càng có hiệu quả hơn.
7. Sử dụng đội ngũ cán bộ có trình độ trong việc quản lý thực thi các chính sách bảo hộ ở Việt Nam
Trước hết là đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách bảo hộ, bởi mỗi một quyết định đề ra sẽ có tác động to lớn tới các ngành sản xuất trong nước và theo chi phí cơ hội thì các biện pháp bảo hộ này sẽ gây thiệt hại và lãng phí cho xã hội. Bởi vậy, nếu một chính sách bảo hộ đề ra là sai lầm thì thiệt hại sẽ còn được nhân lên nhiều lần. Ngoài ra, để thực thi được chính sách bảo hộ hợp lý, phù hợp với quy định và thông lệ quốc tế đòi hỏi người hoạch định chính sách phải có kinh nghiệm và sự am hiểu rộng, nếu không sẽ rất khó khăn cho Việt Nam trong giai đoạn muốn hội nhập vào các tổ chức kinh tế lớn như WTO, khi mà vị thế của chúng ta về kinh tế và chính trị còn thấp. Các cán bộ cấp cao này phải là người có kiến thức sâu rộng, có kĩ năng đàm phán, thuyết phục.
Với các cán bộ thực thi như cán bộ Hải quan, các Bộ ngành phụ trách về phân bổ hạn ngạch, trợ cấp thì phải được tiến hành đào tạo và nâng cao đạo đức, trách nhiệm và phải có kĩ năng xử lý trước mọi tình huống và đạo đức nghề nghiệp để phòng tránh tác động xấu của hạn chế nhập khẩu là buôn lậu, gian lận thương mại ...
Như vậy, theo kinh nghiệm của các nước đi trước, từ thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo hộ của các nước Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc, chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm cho Việt Nam sau đây:
@ Việc áp dụng các biện pháp bảo hộ của các quốc gia này đều tuân thủ theo những quy định của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO. Tuy nhiên cũng có thể thấy rằng đây là những quốc gia lớn, về vị thế lẫn tầm ảnh hưởng với thương mại quốc tế đều khác hẳn Việt Nam. Việt Nam cần phải học tập kinh nghiệm của những nước đi trước trong quá trình hội nhập nhưng phải áp dụng một cách linh hoạt, tránh rập khuôn.
@ Bảo hộ sản xuất trong nước dường như là nhu cầu không thể xóa bỏ với mọi quốc gia, ngay cả trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay. Tuy nhiên, khi tham gia vào các Tổ chức kinh tế thế giới và khu vực mà lớn nhất là WTO, các quốc gia buộc phải tuân thủ những quy định chung và áp dụng một biểu thuế quan thống nhất. Khi đó, các kinh nghiệm về áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan thích hợp trong giai đoạn mới sẽ giúp cho các quốc gia này vừa đạt được mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước vừa đạt được một số mục tiêu xã hội khác (an toàn sức khỏe, bảo vệ môi trường...) lai tránh được sự cạnh tranh không lành mạnh. (Kinh nghiêm của Mỹ, EU)
@ Bảo hộ được chuyển từ các biện pháp hạn chế định lượng sang các biện pháp tinh vi, mang tính kĩ thuật hơn. Ví dụ như bảo hộ thông qua sử dụng hàng rào kĩ thuật; quy định về vệ sinh dịch tễ; sử dụng luật chống bán phá giá; quy định về đóng gói, nhãn mác xuất xứ của hàng hoá... đang là xu hướng thế chung của việc áp dụng các biện pháp bảo hộ. Các biện pháp này vừa được WTO thừa nhận vừa giúp nước áp dụng đạt được mục tiêu bảo hộ tốt nhất.
KẾT LUẬN
Hội nhập là một xu thế tất yếu mà Việt Nam đã lựa chọn để đưa kinh tế đất nước phát triển. Trong đó, gia nhập WTO được xem là cột mốc quan trọng nhất trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, gia nhập vào tổ chức này có nghĩa là các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt của hàng hoá từ bên ngoài. Vấn đề này đòi hỏi Nhà nước cần nghiên cứu một chính sách bảo hộ hợp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và có hiệu quả trong áp dụng để có sự điều chỉnh thích hợp trong thời gian sắp tới và cả trong tương lai xa hơn.
Qua việc nghiên cứu tiến trình áp dụng các biện pháp bảo hộ của một số quốc gia trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng và những quy định chung về các biện pháp này của WTO có sự so sánh và đối chiếu những điểm chưa phù hợp. Đề tài này đã cố gắng đề xuất những giải pháp thích hợp trong giai đoạn mới - giai đoạn nền kinh tế Việt Nam hướng tới hội nhập toàn diện với nền kinh tế thế giới, những giải pháp này được xây dựng dựa trên việc rút ra từ kinh nghiệm áp dụng chính sách bảo hộ hợp lý của một số quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc.
Ngoài ra, đề tài cũng đã khẳng định sự cần thiết phải xây dựng và duy trì các biện pháp bảo hộ để bảo vệ sản xuất hàng hoá ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế thương mại quốc tế. Trên thực tế không một nước nào lại từ bỏ các biện pháp bảo hộ trong những lĩnh vực sản xuất nhất định nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội của mình.
Nhưng gia nhập WTO có nghĩa là Việt nam sẽ mất đi đáng kể sự linh hoạt trong việc áp dụng các biện pháp bảo hộ này. Vấn đề vừa mang tính khoa học vừa mang tính thực tiễn cao là phải xác định được lĩnh vực nào cần được bảo hộ, bảo hộ trong thời gian bao lâu và sử dụng những biện pháp nào để bảo hộ. Tuy nhiên, do hạn chế của bản thân người viết nên đề tài này chưa thể giải quyết được vấn đề đó mà chỉ dừng lại ở mức nêu ra một số cơ sở khoa học định hướng cho việc xây dựng và áp dụng các biện pháp nhằm bảo hộ sản xuất trong quá trình hội nhập quốc tế. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và bè bạn để khoá luận được hoàn chỉnh hơn.
MỤC LỤC
CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI 31
I. CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA HOA KỲ 31
1. Các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ 31
2. Quy định về xuất xứ và ký mã hiệu hàng hoá 34
3. Các biện pháp thương mại tạm thời 36
3.1. Tự vệ 36
3.2. Luật thuế đối kháng (Countervailing Duty Law - CVD) 37
3.3. Luật thuế chống bán phá giá (Antidumping Law) 38
II. KINH NGHIỆM ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA EU 41
1. Hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật 41
2. Giấy chứng nhận kiểm dịch động thực vật 43
3. Các biện pháp thương mại tạm thời 44
3.1. Biện pháp chống bán phá giá và thuế đối kháng 44
3.2. Biện pháp tự vệ 45
4. Trợ cấp 46
4.1. Trợ cấp xuất khẩu 46
4.2. Hỗ trợ trong nước 46
III. CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA TRUNG QUỐC. 48
1. Các biện pháp kiểm định và kiểm dịch hàng hoá nhập khẩu 49
2. Thực tiễn áp dụng chính sách chống bán phá giá của Trung Quốc 50
2.1. Luật chống bán phá giá của Trung Quốc 50
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp chống bán phá giá của Trung Quốc 52
3. Trợ cấp 54
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG VIỆC ÁP DỤNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ HỢP LÝ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC 55
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG CHÍNH SÁCH BẢO HỘ CỦA VIỆT NAM TRONGTHỜI GIAN VỪA QUA. 55
1. Những thành công 55
2. Những hạn chế: 56
II. CỤ THỂ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN MỘT SỐ BIỆN PHÁP BẢO HỘ HỢP LÝ CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 57
1. Hàng rào kỹ thuật 57
1.1.Các quy định kỹ thuật, tiêu chuẩn 57
1.2. Vấn đề vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động vật và thực vật 57
1.3. Yêu cầu về ghi nhãn hàng hoá 58
2. Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời 59
2.1. Chống bán phá giá 59
2.2. Các biện pháp tự vệ 60
3. Trợ cấp 61
4. Quy tắc xuất xứ 63
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO HỘ HỢP LÝ CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP 64
1. Các biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch động thực vật 65
2. Các biện pháp chống bán phá giá 67
3. Tự vệ 69
4. Trợ cấp 70
5. Thuế thời vụ 72
6. Các biện pháp liên quan đến môi trường 72
7. Sử dụng đội ngũ cán bộ có trình độ trong việc quản lý thực thi các chính sách bảo hộ ở Việt Nam 73
KẾT LUẬN 75
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DÙNG TRONG KHOÁ LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Điều tra thuế đối kháng, Hoa Kỳ, 1980-04
Bảng 2: Điều tra chống bán phá giá, Hoa Kỳ, 1980-04
Bảng 3: Tổng hợp các biện pháp thương mại tạm thời của EU, 2000-2006
Bảng 4: Giá trị trợ cấp xuất khẩu của EU 1995-2001 (đơn vị: USD)
Bảng 5: Tiêu chuẩn quốc gia của Trung Quốc , 2000- 04
Biểu đồ 1: Tổng hợp 10 quốc gia trong các vụ thuế chống bán phá giá vào
Hoa Kỳ 1980 - 2005
Biểu đồ 2: Tổng hợp 10 quốc gia trong các vụ thuế đối kháng vào
Hoa Kỳ 1980 - 2005
Biểu đồ 3: Tổng hợp các vụ chống bán phá giá, 1/1/2002- 31/12/2004
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
ADP
(Agreement on) Anti-Dumping Practices
Hiệp định về chống bán phá giá
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Hiệp định thương mại tự do Châu Á
APEC
Asia-Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
ASEAN
Association of South-East Asian Nation
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
ASEM
Asia Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á - Âu
CVD
Countervailing Duty Law
Luật thuế đối kháng
FDA
Food and Drug Administration
Cơ quan phụ trách thực phẩm và thuốc Hoa Kỳ
GSP
Generalized System of Preferences
Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập
GATT
General Agreement on Tariffs and Trade
Hiệp định chung về Thuế quan và mậu dịch
MFN
Most Favored Nation
Tối huệ quốc
NAFTA
North American Free Trade Area
Khu vực Tự do Bắc Mỹ
NTM
Non-tariff Measures
Các biện pháp phi thuế quan
NTR
Normal Trade Relations
Quy chế thương mại bình thường
SCM
Subsidies and Countervailing Measures Agreement
Hiệp định về các khoản trợ cấp và các biện pháp đối kháng
SPS
Agreement on Sanitary and Phytosanitary Mesures
Hiệp định về các biện pháp vệ sinh dịch tễ
TBT
Agreement on Technical Barriers to Trade
Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
USTR
The United States Trade Representative
Cơ quan Đại diện thương mại Hoa Kỳ
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
TÀI LIỆU THAM KHẢO
NHÓM TIẾNG VIỆT
1. Walter Goode, Từ điển Chính sách thương mại quốc tế, NXB Lao động, Hà Nội 2003, tr. 28.
2. Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1994, trang 37.
3. Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Bộ Thương mại (2002), Hà Nội
4. Tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 12/2006
5. G.S., T.S. Bùi Xuân Lưu (chủ biên), Bảo hộ hợp lý nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội, 2004
6. TS. Nguyễn Hữu Khải, Hàng rào Phi thuế quan trong chính sách thương mại quốc tế, NXB Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2005
7. PGS. TS. Hoàng Thọ Xuân, TS. Từ Thanh Thuỷ, Bộ Thương Mại,
Một số quan điểm hoàn thiện chính sách thương mại quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế
8. Hoàng Xuân Hoà, Một số vấn đề về chính sách thương mại và hàng rào thương mại của Liên minh châu Âu, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 3/2003
9. Nghị định số 90/2005/NĐ - CP ngày 11/7/2005 (quy định chi tiết một số điều của pháp lệnh chống bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam)
10. Nghị định 04/2006/NĐ - CP ngày 9/1/2006 (thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ)
11. Thông tư số 106/2005/TT – BTC ngày 5/2/2005 (hướng dẫn thu thu, nộp, hoàn trả thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp)
12. Nghị định số 89/2006/NĐ-CP ngày 30/8/2006 (quy định nội dung, cách ghi và quản lý nhà nước về nhãn đối với hàng hoá lưu thông tại Việt Nam, hàng hoá xuất nhập khẩu)
NHÓM TIẾNG ANH
1. WTO Committees on Anti-Dumping Practices, Subsidies and Countervailing Measures and Safeguards.
2. WT/TPR/S/177/Rev.1, European Communities
3. Robert Carpenter, Director of Investigations, Antidumping and Countervailing Duty Handbook Twelfth Edition, United States International Trade CommissionWashington, DC 20436, Publication 3916April 2007.
4. WTO (6/2006). Trade Policy Review – European Union
5. WTO (3/2006). Trade Policy Review – China
6. WTO (3/2006). Trade Policy Review – United States.
CÁC TRANG WEB
1. Tổ chức Thương mại Thế giới: www.wto.org
2. Ngân hàng Thế giới: www.worldbank.org
3. Liên minh Châu Âu: www.europa.eu.int
4. Bộ Nông nghiệp Mỹ: www.usda.gov
5. Bộ Thương mại Việt Nam: www.mot.gov.vn
6. Bộ Tài chính Việt Nam: www.mof.gov.vn
7. Tóm lược toàn văn các cam kết trong WTO của Việt Nam, 2006
www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/Duong-vaoWTO/2006/11/3B9F0224
8. Bộ Công Thương Việt Nam
www.moi.gov.vn/BForum/detail.asp?Cat=14&id=910
9. Thương vụ Việt Nam tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
www.vietnam-ustrade.org
10. Bách khoa Toàn thư trực tuyến Việt Nam www.dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=143AaWQ9MzIxNTYmZ3JvdXBpZD04JmtpbmQ9JmtleXdvcmQ9&page=3
11. Antidumping and Countervailing Duty Handbook
www.prototype.usitc.gov/trade_remedy/731_ad_701_cvd/index.htm
12. WTO Secretariat Estimation
www.wto.org/english/tratop_e/tpr_e/tp_rep_e.htm#bycountry
13. Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng Việt Nam www.tcvn.gov.vn/web_pub_pri/magazine/index.php?p=show_page&cid=5&parent=171&sid=182&iid=4390
14. Trung tâm Xúc tiến Thương mại ITPC Tp. Hồ Chí Minh
www.itpc.hochiminhcity.gov.vn
15. Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
www.vienkinhte.hochiminhcity.gov.vn
16. Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế Xã hội quốc gia
www.ncseif.gov.vn/Default.aspx?mod=News&cat=24&nid=5208
17. Cổng thông tin Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
www.kinhte24h.com/index.php?page=news&id=12267&page_no=16
18. Chuyên trang Việt Nam trên đường hội nhập
www.vndgforcus.vietnamgateway.org
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVKT064.doc