Tài liệu Chính sách Bảo hiểm tiền gửi của một số nước và bài học kinh nghiệm cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam: LỜI MỞ ĐẦU
Việt nam là quốc gia thuộc nhóm các nước đang phát triển, trong quá trình hội nhập quốc tế. Nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng cũng đứng trước những thời cơ và thách thức. Cũng như các quốc gia trên Thế giới, trong quá trình thực hiện mở cửa và hội nhập quốc tế, lĩnh vực tài chính ngân hàng thường đi trước một bước vì thế mà những hạn chế của lĩnh vực này cũng bộc lộ sớm nhất. Việt nam cũng không nằm ngoài quy luật này. Hơn nữa, điểm yếu nhất của hệ thống ngân hàng... Ebook Chính sách Bảo hiểm tiền gửi của một số nước và bài học kinh nghiệm cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
106 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1665 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chính sách Bảo hiểm tiền gửi của một số nước và bài học kinh nghiệm cho Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt nam là quy mô vốn nhỏ, năng lực và khả năng cạnh tranh còn hạn chế, trong khi hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải đối mặt với những cạnh tranh khốc liệt, thị trường mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Đứng trước thách thức trên Chính phủ đã tăng cường các biện pháp phòng ngừa rủi ro cho hệ thống ngân hàng, một trong những biện pháp đó là Chính sách về Bảo hiểm tiền gửi. Hầu hết các nền kinh tế trên Thế giới, đặc biệt là những nền kinh tế phát triển cao như Mỹ, Canada, Đức…và một số nền kinh tế điển hình của Châu á như Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc… đều xây dựng cho mình một tổ chức Bảo hiểm tiền gửi hoạt động có hiệu quả. Việt nam thời gian qua, chính sách Bảo hiểm tiền gửi đã bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như về cơ sở pháp lý điều chỉnh; sức ỳ, độ nhờn trong các công cụ của chính sách, tính hiệu quả của các công cụ…
Nếu các vấn đề trên không được khắc phục, chỉnh sửa, bổ sung kịp thời, chính sách Bảo hiểm tiền gửi không thể tiếp tục đi vào cuộc sống, khi đó sẽ thành lực cản đối với nền kinh tế và đặc biệt là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng, Bảo hiểm tiền gửi. Vì vậy vấn đề đặt ra cho hướng lựa chọn đề tài là nghiên cứu chính sách Bảo hiểm tiền gửi của một số nước và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
Khóa luận vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học khác như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… dựa trên các tài liệu thu thập được để một mặt phân tích thực trạng hoạt động Bảo hiểm tiền gửi của Việt nam, mặt khác cũng tìm hiểu một số vấn đề trong quá trình hoạt động của các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ở Mỹ và Đài Loan. Đây là hai tổ chức Bảo hiểm tiền gửi tiêu biểu trên Thế giới và của khu vực Châu á mà có nhiều kinh nghiệm để Việt nam có thể học hỏi, áp dụng vào quá trình hoàn thiện chính sách Bảo hiểm tiền gửi của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận bao gồm ba chương cơ bản:
Chương 1: Tổng quan về Bảo hiểm tiền gửi
Chương 2: Thực trạng hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam và một số nước trên thế giới, bài học kinh nghiệm
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn ThS. Hồ Hồng Hải và các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài khóa luận này.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1. Sự ra đời, khái niệm, đặc điểm bảo hiểm tiền gửi
1.1. Sự ra đời
Vào những năm cuối thế kỷ 20, sự không ổn định của hệ thống ngân hàng đã nổi lên như một vấn đề khó khăn đối với các quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển và phát triển. Để đối phó với tình trạng này, Chính phủ nhiều quốc gia đã thực hiện những biện pháp để đưa hệ thống ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động lành mạnh, phát triển ổn định. Một trong những biện pháp đó là Luật Bảo hiểm tiền gửi hay còn gọi là Chính sách Bảo hiểm tiền gửi của Quốc gia.
1.2.Khái niệm Bảo hiểm tiền gửi
“ Thị trường đối phó với rủi ro bằng cách phân tán rủi ro. Đó là quá trình mang rủi ro vốn rất lớn đối với một người rồi phân tán nó cho nhiều người sao cho nó chỉ còn là rủi ro nhỏ đối với số đông. Hình thức phân tán rủi ro chính là bảo hiểm” (Fredic S.Mishkin (2001)- Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà nội, tái bản lần thứ 3).
John Black định nghĩa bảo hiểm tiền gửi trong từ điển kinh tế Oxford phát hành năm 1997, New York như sau: “ Bảo hiểm tiền gửi là dịch vụ bảo hiểm rủi ro các ngân hàng hoặc các trung gian tài chính bị phá sản cho người có tiền gửi tại các ngân hàng hoặc trung gian tài chính đó”. Định nghĩa này đã phản ánh tương đối rõ ràng nội dung của bảo hiểm tiền gửi. Thực tế bảo hiểm tiền gửi là bảo hiểm trách nhiệm dân sự của tổ chức huy động tiền gửi đối với người gửi tiền.
Rủi ro trong bảo hiểm tiền gửi là trường hợp các ngân hàng hoặc tổ chức huy động tiền gửi khác bị phá sản. Thông thường trong các trường hợp như vậy mức đền bù cho người có tiền gửi tại tổ chức bị phá sản phụ thuộc vào giá trị tài sản còn lại và người gửi tiền có thể mất trắng số tiền gửi của mình. Tuy nhiên khi tồn tại cơ chế bảo hiểm tiền gửi thì tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ thực hiện cam kết bảo hiểm đó là thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền gốc và lãi của các khoản tiền gửi cho người gửi tiền. Người hưởng lợi từ dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là những người có tiền gửi tại các ngân hàng và tổ chức huy động tham gia Bảo hiểm tiền gửi.
Theo tài liệu “Xây dựng hệ thống Bảo hiểm tiền gửi hiệu quả” của Diễn đàn ổn định tài chính (Financial Stability Forum) tháng 9 năm 2001, “Bảo hiểm tiền gửi được hiểu là một sự đảm bảo rằng số dư gốc và lãi cộng dồn của các tài khoản tiền gửi nhất định sẽ được thanh toán đến một giới hạn nhất định”. Định nghĩa này của Diễn đàn ổn định tài chính có thể được hiểu rằng có một giới hạn nhất định trong việc chi trả tiền bồi thường và chỉ những khoản tiền gửi nhất định mới được bảo hiểm. Điều này cho thấy sự khác biệt cơ bản giữa bảo hiểm tiền gửi và cơ chế bảo lãnh trọn gói. Trong cơ chế bảo lãnh trọn gói, khi tổ chức huy động tiền gửi bị phá sản, Chính phủ đứng ra thanh toán toàn bộ số tiền gửi cho người nhận tiền gửi.
Để hiểu rõ thêm, chúng ta có thể tham khảo quy chế bảo hiểm của Công ty bảo hiểm tiền gửi Canada, trong đó quy định: “Bảo hiểm tiền gửi bảo vệ những khoản tiền gửi quy định tại các tổ chức thành viên của hệ thống bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp tổ chức thành viên bị phá sản. Nếu một tổ chức thành viên bị phá sản, công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra bồi thường cho những người gửi tiền tại tổ chức đó.”
Như vậy có thể hiểu rằng: Bảo hiểm tiền gửi là việc Nhà nước đưa ra lời đảm bảo tới một giới hạn đối với tiền gửi nhất định nhằm bảo vệ tiền gửi thông qua các quy định về bảo hiểm tiền gửi đối với người gửi tiền hay tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm tại tổ chức nhận tiền gửi.
1.3. Đặc diểm của Bảo hiểm tiền gửi
Nói chung bảo hiểm tiền gửi tại tất cả các nước đều có chung một số đặc điểm như sau:
- Chỉ bảo hiểm các khoản tiền gửi. Nhiều quốc gia loại trừ không bảo hiểm các khoản tiền đầu tư, tiền gửi liên ngân hàng và các khoản tiền gửi của ban lãnh đạo, các cổ đông lớn của tổ chức huy động tiền gửi. Lý do loại trừ đó là các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh ngân hàng là những người nắm vững quy luật thị trường, do vậy trước khi đầu tư họ đã cân nhắc mức độ rủi ro, ban lãnh đạo và các cổ đông lớn của các tổ chức huy động tiền gửi là những người nắm vững và chịu trách nhiệm về tình hình tài chính của tổ chức này, do vậy họ có thể bảo vệ quyền lợi của mình mà không phải dựa vào bảo hiểm tiền gửi.
- Người mua bảo hiểm là các ngân hàng, các tổ chức huy động tiền gửi khác. Người hưởng lợi từ bảo hiểm tiền gửi là những người gửi tiền tại tổ chức được bảo hiểm
Người gửi tiền không phải làm thủ tục đăng kí mua bảo hiểm tiền gửi. Bằng việc tham gia hệ thống Bảo hiểm tiền gửi của tổ chức nhận tiền gửi, tất cả các khoản tiền gửi trong giới hạn và phạm vi bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đều tự động được bảo hiểm.
- Bảo hiểm tiền gửi là loại dịch vụ (hàng hoá) mang tính xã hội cao, xuất phát từ một trong các mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là góp phần đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ là toàn xã hội. Theo cách phân loại của nhà kinh tế học Stiglitz, bảo hiểm tiền gửi là hàng hoá công cộng (hàng hoá công) không thuần tuý.
Xuất phát từ mục đích của chính sách bảo hiểm tiền gửi mà dịch vụ Bảo hiểm tiền gửi được coi là hàng hoá công. Tính chất công cộng của dịch vụ Bảo hiểm tiền gửi là ở chỗ Bảo hiểm tiền gửi đáp ứng nhu cầu chung của toàn xã hội, tức là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng và bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng. Ai cũng có quyền bình đẳng được tiếp cận đến loại hàng hoá dịch vụ này, và việc người này sử dụng không ảnh hưởng nhiều đến người khác sử dụng chúng.
Dù muốn hay không, ta cũng không thể loại trừ sự thụ hưởng dịch vụ Bảo hiểm tiền gửi một cách tuyệt đối. Mặc dù người hưởng lợi trực tiếp từ Bảo hiểm tiền gửi là người gửi tiền và các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi thì những đối tác khác vẫn được hưởng lợi một cách gián tiếp.
Người gửi tiền có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm được hưởng lợi trực tiếp khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Khi có rủi ro ngân hàng, tổ chức nhận tiền gửi mất khả năng thanh toán, bị đóng cửa, người gửi tiền sẽ được tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thanh toán tiền bảo hiểm. Đây chính là số tiền mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cam kết với tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi khi thực hiện bảo hiểm.
Các tổ chức huy động tiền gửi cũng được hưởng lợi. Hơn ai hết, người sản xuất thường biết rõ hơn người tiêu dùng về sản phẩm mà họ bán. Các chủ ngân hàng và giám đốc ngân hàng biết rõ về tình hình tài chính của họ hơn là khách hàng. Do thiếu khả năng tiếp cận thông tin nên trong điều kiện vốn nhàn rỗi có hạn, khách hàng đắn đo khi quyết định đem tiền gửi vào tổ chức huy động tiền gửi hay lựa chọn một kênh đầu tư sinh lời khác và cũng đắn đo khi quyết định lựa chọn ngân hàng để gửi tiền. Khi tiền gửi được bảo hiểm, khách hàng an tâm hơn khi lựa chọn tổ chức nhận tiền gửi. Các tổ chức huy động tiền gửi, nhờ vậy sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng và huy động được nhiều tiền gửi hơn.
Trên thực tế khi ngân hàng được bảo hiểm đã góp phần làm cho kinh tế ít biến động, ổn định hơn, rủi ro sẽ giảm bớt đối với các doanh nghiệp. Mặt khác các đối tượng vay tiền sẽ sử dụng tiền vay an toàn và hiệu quả hơn, các dự án đầu tư cũng hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho phát triển các ngành nghề kinh tế khác. Xã hội bình ổn, các ngành nghề kinh tế phát triển, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm thất nghiệp,…đời sống nhân dân được nâng cao.
Như vậy trực tiếp hay gián tiếp, chúng ta đều dược hưởng lợi từ Bảo hiểm tiền gửi, và thật sự là không thể loại trừ sự thụ hưởng một cách tuyệt đối một cá nhân, hoặc một tổ chức trong xã hội, hoặc việc loại trừ này rất khó khăn và tốn kém. Chính vì đặc tính này mà Bảo hiểm tiền gửi được xếp vào loại hàng hoá công không thuần tuý.
- Bằng chứng của hoạt động Bảo hiểm tiền gửi là giấy chứng nhận Bảo hiểm tiền gửi do tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cấp cho tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi.
- Tất cả các tổ chức bảo hiểm đều quy định phạm vi và giới hạn bảo hiểm một cách áp đặt. Người gửi tiền không thể mua thêm bảo hiểm cho các khoản tiền gửi của mình để được các tổ chức bảo hiểm chi trả nhiều hơn giới hạn bảo hiểm. Các khoản tiền gửi ngoài giới hạn bảo hiểm sẽ không được các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thanh toán mà được xử lý như các món nợ khác của tổ chức tài chính bị phá sản. Giới hạn bảo hiểm này bao gồm cả tiền gửi gốc và lãi cộng dồn từ ngày gửi tiền đến thời điểm tổ chức tham gia bảo hiểm bị phá sản. Tuy nhiên các khoản tiền gửi có tính chất khác nhau có thể được bảo hiểm khác nhau.
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có quyền chủ nợ thế quyền đối với các khoản tiền gửi được bảo hiểm đã chi trả. Nói chung tất cả các quốc gia đều không chi trả cho các khoản tiền gửi được chi trả ở nước ngoài do không kiểm soát được mức độ rủi ro cho các khoản tiền gửi đó.
2. Mục tiêu, đối tượng của chính sách Bảo hiểm tiền gửi
2.1. Mục tiêu
Chính sách Bảo hiểm ở mỗi quốc gia khác nhau là khác nhau: phi lợi nhuận hay vì lợi nhuận. Nhưng dù là có mục tiêu nào thì cũng hướng tới một số nội dung cơ bản như sau:
- Bảo vệ quyền lợi người gửi tiền: thể hiện ở việc hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất và có một cơ chế bồi thường nhanh chóng.
- Bảo vệ các trung gian thanh toán có hoạt động ngân hàng: phòng ngừa nguy cơ đổ vỡ, hiệu ứng dây chuyền.
- Bảo vệ tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, góp phần làm minh bạch thị trường tiền tệ, đảm bảo an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Chính sách Bảo hiểm tiền gửi có vai trò vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách của Nhà nước, nó biểu hiện không chỉ trong lĩnh vực tài chính tiền tệ mà cả trong lĩnh vực đảm bảo an ninh chính trị và xã hội, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Khi có một ngân hàng bị đổ vỡ sẽ dẫn đến sự mất lòng tin của người gửi tiền vào hệ thống ngân hàng. Đặc biệt khi có khủng hoảng ngân hàng, người gửi tiền sẽ đổ xô cùng lúc để rút tiền gốc bỏ qua cả lãi. Và có thể sẽ ảnh hưởng đến chính trị an ninh xã hội. Ví dụ: khủng hoảng ngân hàng tại Anbani năm 1987 làm sụp đổ hệ thống quỹ tiết kiệm, dẫn đến nội chiến gây sụp đổ chính phủ và hệ thống chính trị.
2.2. Đối tượng
Bao gồm: tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi (gọi tắt là tổ chức tham gia), tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, người gửi tiền, loại tiền gửi được bảo hiểm
2.2.1.Tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi
Là các ngân hàng, trung gian tài chính được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật có nhận tiền gửi. Tuỳ mục tiêu và chính sách của mỗi quốc gia mà cơ chế tham gia được quy định cho phù hợp, nhưng nhìn chung là một trong hai hình thức: tự nguyện hoặc bắt buộc.
Hình thức tự nguyện: tổ chức có nhận tiền gửi có quyền lựa chọn có tham gia hay không.
Hình thức bắt buộc: các tổ chức có nhận tiền gửi phải tham gia bắt buộc. Bảo hiểm bắt buộc là hình thức bảo hiểm mà bên được bảo hiểm và bên bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện đúng đắn các quy định không được tự ý thay đổi.
Mỗi hình thức đều có những hạn chế nhưng hiện nay hình thức bảo hiểm bắt buộc có ít hạn chế hơn, đang được hầu hết các hệ thống Bảo hiểm tiền gửi trên Thế giới áp dụng.
2.2.2.Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Là tổ chức được nhà nước cho phép nhận đóng góp tiền gửi từ phía tổ chức tham gia và thực hiện trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia, khi tổ chức đó mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và bị phá sản, phải chi trả tiền bảo hiểm.
Các loại hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi:
+ Theo mục tiêu hoạt động: Mục tiêu vì lợi nhuận là các tổ chức thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi, mục tiêu lấy thu bù chi sao có lợi nhuận để tồn tại và phát triển. Mục tiêu phi lợi nhuận là các tổ chức hoạt động chính là bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí.
+ Theo quy mô chức năng: gồm loại hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi đa chức năng- là các tổ chức với chức năng thực hiện các nội dung hoạt động theo hầu hết các công cụ của chính sách Bảo hiểm tiền gửi. Và loại hình đơn năng- là những tổ chức chỉ thực hiện một hoặc một số ít chức năng với nội dung vận hành một số công cụ của chính sách Bảo hiểm tiền gửi, cũng có khi chỉ như một bộ phận quản lý tiền quỹ bảo hiểm. + Theo loại hình doanh nghiệp: gồm loại hình đa hình thức sở hữu, hoạt động được điều chỉnh theo Luật Doanh nghiệp; và loại hình tổ chức tài chính Nhà nước chỉ thuộc sở hữu Nhà nước, hoạt động theo sự điều chỉnh của pháp luật về lĩnh vực Bảo hiểm tiền gửi.
2.2.3.Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm
Là đối tượng có các loại tiền gửi được bảo hiểm (chỉ nội tệ hay cả ngoại tệ) gửi tại tổ chức tham gia. Tuỳ theo mục tiêu, chính sách của quốc gia mà đối tượng được bảo hiểm là cá nhân hay tổ chức.
Người gửi tiền được bảo hiểm nhưng không phải nộp phí.
Người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm, nhận tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm tại tổ chức tham gia đến một hạn mức chi trả nhất định hoặc nhận toàn bộ số tiền được bảo hiểm mà họ đã gửi các tổ chức tham gia khi các tổ chức đó bị đổ vỡ. Số tiền bảo hiểm tuỳ thuộc chính sách Bảo hiểm tiền gửi ở mỗi quốc gia quy định.
2.2.4.Các loại tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm
Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi được pháp luật bảo vệ và chịu sự điều chỉnh của chính sách Bảo hiểm tiền gửi, ngược lại là loại tiền gửi không được bảo hiểm. Trong nhiều hệ thống Bảo hiểm tiền gửi đang quy định một số hay toàn bộ các loại tiền gửi sau không thuộc diện bảo hiểm: tiền gửi ở nước ngoài của các ngân hàng trong nước, tiền gửi bằng bản tệ của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tiền gửi là ngoại tệ, tiền gửi liên ngân hàng.Các khoản tiền gửi trên thường là các khoản lớn, nên với cơ chế Bảo hiểm tiền gửi có hạn chế, các loại tiền gửi trên có thuộc diện được bảo hiểm hay không cũng không có khác biệt đáng kể. Một số nước không bảo hiểm cho các khoản tiền gửi của người làm trong ngân hàng (lãnh đạo ngân hàng), điển hình là hệ thống tiền gửi của Pháp.
3. Các công cụ của Bảo hiểm tiền gửi
3.1.Cấp vốn, hỗ trợ tài chính cho hệ thống Bảo hiểm tiền gửi
3.1.1.Cấp vốn hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia
Vấn đề duy trì tỷ lệ vốn tự có của mỗi thành viên và nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn của mỗi thành viên cũng như các tổ chức tham gia luôn là mục tiêu phải đạt tới của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Đây luôn là những vấn đề khó khăn đối với hoạt động bảo hiểm tiền gửi các quốc gia, đặc biệt trong thời điểm hệ thống ngân hàng gặp khó khăn hoặc nền kinh tế trong nước cũng như trên thế giới đang đứng trước nguy cơ bùng nổ cuộc khủng hoảng.
Vốn tự có của các ngân hàng luôn là mối quan tâm hàng đầu của cả hệ thống Bảo hiểm tiền gửi. Vì khi hoạt động của ngân hàng có biểu hiện bất ổn sẽ làm nảy sinh tâm lý nghi ngờ và tâm lý này sẽ được lan truyền trong những người có tiền gửi ở ngân hàng. Vì vậy việc tăng cường năng lực tài chính của tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi luôn được mỗi hệ thống Bảo hiểm tiền gửi quan tâm, đưa ra những cảnh báo cho tổ chức chưa duy trì đủ tỷ lệ này.
3.1.2.Cấp vốn và hỗ trợ tài chính cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Một số cơ sở xác định vốn và nguồn vốn cần thiết cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi:
+ Dựa vào tỷ lệ vốn và quỹ dự trữ của tổng tổ chức tham gia trên tiền gửi được bảo hiểm hoặc tổng tiền gửi tại tổ chức đó nhằm xác định số tiền cần có trong quỹ bảo hiểm một cách tương đối phù hợp cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Vấn đề đặt ra là xác định số tiền (vốn cấp) phải là bao nhiêu cho phù hợp. Đây thật sự là một vấn đề khó khăn bởi rất khó ước tính, dự toán số lượng, quy mô của các tổ chức tham gia đổ vỡ trong một kỳ nhất định hay khả năng vỡ nợ của các ngân hàng. Ban đầu khi mới thành lập tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thì vốn cấp cũng là vốn huy động. Sau một thời gian thì tổ chức Bảo hiểm tiền gửi mới có thêm thu nhập từ đóng góp tài chính của tổ chức tham gia và từ nguồn khác. Khi đó vốn cấp không đồng nhất với vốn hoạt động. Như vậy tỷ lệ vốn hoạt động cần xác định và duy trì phụ thuộc vào hai yếu tố: Sự gia tăng vốn hoạt động từ đầu tư, phát triển vốn cấp và các quỹ; sự gia tăng của tiền gửi được bảo hiểm hay tổng tiền gửi làm tăng thu nhập từ đóng góp tài chính.
Để giúp tổ chức Bảo hiểm tiền gửi thực hiện tốt vai trò, chức năng của mình, mỗi quốc gia phải xây dựng chính sách Bảo hiểm tiền gửi giải quyết được hai vấn đề quan trọng đặt ra là : Xử lý các khoản tổn thất về tiền gửi; hỗ trợ cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp những khoản tổn thất có tính thảm hoạ vượt quá năng lực tài chính của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho hệ thống Bảo hiểm tiền gửi.
Khi xảy ra tổn thất có tính thảm họa đòi hỏi chính phủ phải có vai trò hậu thuẫn quan trọng, trong đó có hỗ trợ tài chính cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Hình thức hỗ trợ có thể là:
+ Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi được vay từ Ngân hàng Trung ương hoặc Chính phủ để đảm bảo lòng tin của người gửi tiền và đẩy tỷ lệ vốn hoạt động trở lại biên độ bình thường. Ví dụ: ngày 27 tháng 2 năm 1991, Quốc hội Mỹ thông qua đạo luật củng cố FDIC( Federal Deposit Insurance Corporation) cho phép FDIC được vay từ kho bạc Mỹ tối đa 30 tỷ USD, hoàn trả trong 15 năm; hoặc được Chính phủ bảo lãnh phát hành một lượng trái phiếu hợp lý.
+ Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể vay các trung gian tín dụng để thực hiện nghĩa vụ của mình. Biện pháp này ít được khuyến khích, đặc biệt khi tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có vai trò, chức năng giám sát đối với tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi.
3.2.Phí Bảo hiểm tiền gửi
Phí bảo hiểm tiền gửi là một trong những công cụ quan trọng và có tính nhạy cảm của chính sách Bảo hiểm tiền gửi đối với hệ thống Bảo hiểm tiền gửi ở mỗi quốc gia. Tùy theo mục tiêu thiết lập hệ thống Bảo hiểm tiền gửi là hoạt động vì lợi nhuận hay phi lợi nhuận ở mỗi nước mà định ra một chính sách phí là cao hơn, thấp hơn hay ở điểm cân bằng giữa các khoản thu nhập so với tổn thất mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi phải chi ra, nói cách khác nó chi phối việc định ra mức phí bảo hiểm công bằng và phù hợp ở mỗi quốc gia.
3.2.1.Phương pháp định phí bảo hiểm
Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi ở các nước trên Thế giới rất cần hình thành những phương pháp tính phí bảo hiểm có tính nguyên lý và chung nhất, nhằm xây dựng một cơ chế Bảo hiểm tiền gửi có hiệu quả. Để đáp ứng những nhu cầu bức thiết này của các hệ thống Bảo hiểm tiền trên Thế giới một số phương pháp định phí đã ra đời. Một số hệ thống Bảo hiểm tiền gửi mà tiêu biểu là ở các quốc gia như: Hoa Kỳ, Canada, Đài Loan, Philippin…đã vận dụng thành công một trong các phương pháp định phí này vào quốc gia mình. Các phương pháp đó là: định phí dựa trên cơ sở thông tin thị trường và định phí dựa trên cơ sở thông tin kế toán. Mỗi phương pháp định phí được xây dựng trên một mô hình khác nhau, đã có nhiều mô hình được xây dựng, cải biến, bổ sung nhằm khắc phục hạn chế của các mô hình trước đó, nhưng tóm lại có hai mô hình chủ yếu: mô hình quyền lựa chọn- còn gọi là “mô hình quyền chọn của Merton”, và mô hình “tổn thất dự kiến”.
+ Phương pháp định phí dựa trên cơ sở thông tin thị trường theo mô hình “quyền chọn của Merton”. Phương pháp này xây dựng năm 1977. Theo mô hình này phí bảo hiểm được coi như một quyền chọn bán dựa trên tài sản của ngâm hàng tham gia bảo hiểm tiền gửi. Thực chất đây là một hợp đồng quyền lựa chọn. Người mua hợp đồng quyền lựa chọn không thể loại bỏ rủi ro mà chỉ làm giảm thiểu rủi ro hoặc hạn chế rủi ro tới một mức độ nhất định vì người ta phải trả phí khi thực hiện hợp đồng quyền lựa chọn. Người mua loại hợp đồng này coi hợp đồng là một công cụ để hạn chế rủi ro. Người bán chấp nhận rủi ro và đổi lại họ được hưởng một khoản phí và coi đó như một công cụ tạo thu nhập từ rủi ro.
Nội dung của mô hình là thiết lập mối liên hệ trực tiếp giữa giá trị của hợp đồng bảo hiểm với giá trị tài sản của ngân hàng, trong đó giá trị tài sản của ngân hàng được xác định dựa trên cơ sở đánh giá của thị trường về vốn và tài sản của ngân hàng chứ không dựa trên cơ sở giá trị kế toán.
Mô hình quyền chọn của Merton đã chứng minh được việc trả tiền với sự bảo lãnh đáng tin cậy của bên thứ ba trong việc thanh toán nợ cho các trái chủ của khách hàng mà không chắc chắn có xảy ra và được thực hiện hay không, tương tự như một quyền chọn bán.
Mô hình “quyền chọn của Merton” đã giúp một số hệ thống Bảo hiểm tiền gửi có điều kiện áp dụng có thể vận dụng phương pháp này định phí cho các tổ chức tham gia được công bằng. Tuy nhiên mô hình cũng bộc lộ một số hạn chế. Đó là hạn chế về tính thực tiễn và việc bỏ qua mức độ giới hạn về nguồn vốn huy động tiền gửi theo tỷ lệ tối thiểu cho phép. Phương pháp này chỉ áp dụng khi thông tin về giá trị tài sản của ngân hàng có sẵn trên thị trường, còn tổ chức chưa niêm yết trên thị trường thì không áp dụng được.
Từ những hạn chế trên đòi hỏi cần có phương pháp định phí khác và phương pháp định phí dựa trên cơ sở thông tin kế toán theo mô hình “tổn thất dự kiến” đã khắc phục được hạn chế trên. Phương pháp này ra đời năm 1995, ưu điểm là có thể áp dụng cho mọi loại hình ngân hàng chứ không chỉ các ngân hàng đã niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Tính chất của phương pháp là đi xác định “tổn thất dự kiến” thông qua ước lượng giá trị tài sản ròng của một ngân hàng dựa trên các bản báo cáo dòng tiền chu chuyển để định phí bảo hiểm cho ngân hàng. Mô hình được xác định:
Tổn thất dự kiến = Xác suất chi trả bảo hiểm dự kiến * Tiền gửi bảo hiểm* Tỷ lệ chi trả bảo hiểm thực tế
Trong đó:
- Tổn thất dự kiến: là mức độ tổn thất đối với tổ chức Bảo hiểm tiền gửi (nhà Bảo hiểm) được xác định theo tỷ lệ của tiền gửi bảo hiểm, từ đó đo lường được chi phí bảo hiểm để đảm bảo bù đắp được khoản chi phí bảo hiểm để đảm bảo bù đắp được khoản chi phí của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi đã bỏ ra.
- Xác suất chi trả bảo hiểm dự kiến hay xác suất vỡ nợ dự kiến của ngân hàng có thể được xác định bằng cách sử dụng các phân tích cơ bản, phân tích thị trường.
- Tiền gửi bảo hiểm: có thể là tiền gửi được bảo hiểm, có thể là tổng tiền gửi.
- Tỷ lệ chi trả bảo hiểm thực tế: được xây dựng theo tỷ lệ giữa các khoản tiền gửi đã được chi trả bảo hiểm trong thực tế so với tiền gửi bảo hiểm.
Nếu thị trường là hiệu quả, thì giá cả thị trường phải phản ánh giá trị thật về tài sản của ngân hàng. Điều kiện để một thị trường hoạt động hiệu quả là việc cung cấp thông tin phải luôn sẵn sàng, dễ khai thác, đáng tin cậy. Vì thế ở các nước có thị trường vốn (đặc biệt là thị trường chứng khoán) phát triển, phương pháp định phí dựa trên dựa trên cơ sở thông tin thị trường thích hợp hơn phương pháp định phí bảo hiểm trên cơ sở thông tin kế toán. Tuy nhiên phương pháp thứ hai lại đơn giản hơn, áp dụng được cho mọi hình thức tổ chức tham gia. Trong thực tế không có một phương pháp nào là hoàn toàn phù hợp cho mỗi quốc gia mà cần sự điều chỉnh, kết hợp hài hoà ưu điểm của các phương pháp định phí vào đặc thù của mỗi quốc gia.
Để đánh giá phí bảo hiểm thường lựa chọn một trong các cơ sở sau: tiền gửi bảo hiểm, tổng tiền gửi, tỷ lệ nợ ròng khó đòi.
Sử dụng tiền gửi bảo hiểm làm cơ sở định giá phí bảo hiểm công bằng hơn vì cơ sở đánh giá cân bằng với trị giá bảo vệ dành cho người gửi tiền. Dựa vào tổng tiền gửi không công bằng vì trong nhiều trường hợp cơ sở đánh giá có thể vượt quá giá trị bảo vệ, dẫn đến việc đối xử không công bằng giữa các ngân hàng, vì một số ngân hàng có tỷ lệ tiền gửi được bảo hiểm trên tổng tiền gửi lớn hơn so với các ngân hàng khác và có thể nhận được sự bảo vệ lớn hơn tương quan với cơ sở đánh giá của họ. Tuy nhiên phương pháp này vẫn được sử dụng bởi các ngân hàng dễ dàng biết tổng tiền gửi của họ, còn để xác định khối lượng tiền gửi được bảo hiểm sẽ khó khăn và tốn kém vì các ngân hàng phải kết các tài khoản của người gửi tiền riêng lẻ có từ hai tài khoản trở lên tại ngân hàng. Tuy nhiên hệ thống Bảo hiểm tiền gửi không nên lựa chọn tổng tiền gửi làm cơ sở đánh giá duy nhất.
3.2.2.Các hình thức đóng phí
+ Buộc các tổ chức tham gia gánh chịu các khoản tổn thất sau khi xảy ra đổ vỡ ngân hàng, hình thức này ít được áp dụng.
+ Thành lập quỹ bảo hiểm và yêu cầu tổ chức tham gia định kỳ nộp một khoản phí vào quỹ. Đây là hình thức đóng phí bảo hiểm trước- là hình thức tốt nhất và được áp dụng chủ yếu.
Ngoài ra có thể kết hợp cả hai hình thức trên.
Xây dựng quỹ bảo hiểm đủ mạnh có thuận lợi là sẽ giúp củng cố lòng tin của người gửi tiền vì đó là sự bảo đảm hữu hình mà người gửi tiền được bảo hiểm mong đợi. Một thuận lợi khác là dần dần quỹ bảo hiểm này phát triển, lớn lên đến một mức đủ mạnh sẽ có tác động quan trọng trong việc giảm dần các khoản đóng góp phí bảo hiểm của tổ chức tham gia.
3.2.3.Các loại phí
+ Phí bảo hiểm đồng hạng: Được hiểu là tỷ lệ phí bảo hiểm theo một mức chung, áp dụng cho mọi tổ chức tham gia hoạt động trong lãnh thổ một quốc gia. Phí bảo hiểm đồng hạng còn gọi là phí “cố định”. Hầu hết các hệ thống Bảo hiểm tiền gửi mới thành lập đều áp dụng loại phí này, vì dễ thực hiện, dễ áp dụng, chi phí vận hành hệ thống thấp.
+ Phí bảo hiểm điều chỉnh theo mức độ rủi ro được bảo hiểm: Được hiểu là tỷ lệ phí xác định trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro tương ứng với các mức phí trong biên độ phí bảo hiểm (có trần và sàn) của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi, còn gọi là phí “linh hoạt”. Loại phí này hiện nay đang được nhiều quốc gia nghiên cứu, áp dụng. Nó thể hiện tính thị trường và sự công bằng hơn. Tuy nhiên nó đòi hỏi về công nghệ và quản trị hệ thống, cơ chế cung cấp thông tin, chi phí cho hệ thống là tốn kém.
Chi trả tiền bảo hiểm là việc nhà bảo hiểm thực hiện trách nhiệm của mình theo các quy định của pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi cho đối tượng được bảo hiểm.
Chi trả tiền bảo hiểm chủ yếu gồm chi trả toàn bộ các khoản tiền gửi cho đối tượng được bảo hiểm gọi là hình thức chi trả không giới hạn, chi trả cho đối tượng được bảo hiểm đến giới hạn nhất định gọi là chi trả bảo hiểm có giới hạn, hay gọi là hạn mức chi trả.
Hạn mức chi trả là giới hạn chi trả bảo hiểm tối đa mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm chi trả cho người gửi tiền có các khoản tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức Bảo hiểm tiền gửi bị đóng cửa hay phá sản. Hạn mức chi trả luôn là vấn đề nhạy cảm đối với mọi hệ thống Bảo hiểm tiền gửi, nó được hình thành để đáp ứng mục tiêu giữa một bên là sự ổn dịnh của hệ thống tài chính, ngân hàng và điều tiết hành vi của người gửi tiền cũng như công chúng có liên quan trong xã hội với một bên là sự phát triển bền vững của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi. Cho nên việc xác định, điều chỉnh hạn mức chi trả cho đối tượng được bảo hiểm có ý nghĩa quan trọng trong chính sách Bảo hiểm tiền gửi. Nếu hạn mức chi trả quá cao sẽ làm nảy sinh tâm lý bất cẩn và rủi ro đạo đức, ngược lại quá thấp sẽ không bảo vệ được số đông người gửi tiền thuộc đối tượng được bảo hiểm và khuyến khích gia tăng tiền gửi. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc xác định hạn mức chi trả: mức phí bảo hiểm, GDP/ đầu người, lạm phát, đặc điểm hệ thống Bảo hiểm tiền gửi.
Hạn mức chi trả có xu hướng cao hơn ở các nước áp dụng loại phí điều chỉnh theo mức độ rủi ro, với cơ chế phức tạp trong tính toán, việc áp dụng loại phí này thường phổ biến ở các nước phát triển hơn so với các nước đang và chậm phát triển.
3.3.Giám sát tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi
Rủi ro trong quá trình hoạt động của tổ chức tham gia là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên có nhiều loại rủi ro tổn thất: rủi ro trong biến động vốn, rủi ro trong đầu tư vốn, rủi ro thanh toán và các rủi ro tổn thất khác như về đạo đức, thay đổi thể chế chính trị, bị khủng bố…
Đối với phí linh hoạt, để xác định được đúng đắn loại rủi ro và mức độ rủi ro, vấn đề đặt ra phải đảm bảo giữa một bên là yêu cầu phải có được những thông tin cần thiết và đủ để đánh giá mức độ rủi ro nhằm xếp hạn._.g, xếp loại tổ chức tham gia vào mức phí phù hợp, một bên là yêu cầu sao cho yêu cầu của hệ thống tính phí theo mức độ rủi ro không gây ra những vướng mắc, khó khăn quá mức cho tổ chức tham gia.
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể dựa vào một số mô hình như mô hình CAMELS để giám sát đánh giá và xếp hạng các tổ chức tham gia. Từ đó có những biện pháp, chính sách với từng tổ chức tham gia
3.4.Xử lý đổ vỡ hoạt động ngân hàng đối với tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi
Xử lý đổ vỡ hoạt đông ngân hàng trong cơ chế Bảo hiểm tiền gửi là quá trình giải quyết các mối quan hệ về lợi ích theo các quy định của pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi, khi một tổ chức tham gia bị mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và tổ chức đó bị giải thể bắt buộc hay bị phá sản phải chi trả tiền bảo hiểm.
Khi xây dựng hệ thống Bảo hiểm tiền gửi, các quốc gia đề ra các quy định trong luật Bảo hiểm tiền gửi hoặc những quy định của Chính phủ về những vấn đề liên quan tới các phương thức giải quyết, xử lý đổ vỡ hoạt động ngân hàng. Các quy định này cần đảm bảo rằng các phương thức được tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sử dụng phù hợp với đối tượng và hình thức của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi. Đây là một trong những chức năng quan trọng của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Thông thường tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể sử dụng một số biện pháp xử lý sau: thứ nhất là liệt kê phương thức xử lý cụ thể mà tổ chức có thể được sử dụng. Thứ hai là sử dụng khuôn khổ chung về mặt chính sách mà tổ chức phải sử dụng (chỉ rõ từng phương thức phù hợp với từng đối tượng và hình thức của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi). Biện pháp này có thể tốt hơn vì nó cho phép tổ chức Bảo hiểm tiền gửi được quyền linh hoạt trong xử lý đổ vỡ ngân hàng.
Trong nhiều hệ thống Bảo hiểm tiền gửi, sự cân nhắc duy nhất hoặc tập trung lớn nhất là lựa chọn biện pháp có chi phí thấp. Một vài biện pháp giải quyết đổ vỡ ngân hàng theo xu hướng có chi phí thấp hơn các biện pháp khác vì chúng theo hướng bảo tồn giá trị tài sản của ngân hàng đổ vỡ. Thay vì đưa những tài sản đó vào diện quản lý đặc biệt và sau đó được bán với giá “bán tháo” sẽ làm mất đi một phần đáng kể giá trị của chúng thì chúng được chuyển nhượng cho các ngân hàng khác dưới dạng giao dịch bán và đảm nhiệm hoặc sáp nhập, như vậy sẽ bảo tồn được phần lớn giá trị của chúng.Tuy nhiên trong một vài trường hợp việc giảm thiểu chi phí không phải là nhân tố quan trọng nhất, duy nhất được xem xét khi xử lý đổ vỡ ngân hàng. Đặc biệt nếu việc giảm thiểu chi phí có thể mâu thuẫn với mục tiêu của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi là bảo đảm sự ổn định của hệ thống ngân hàng hoặc mâu thuẫn với mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho những người gửi tiền và người vay khỏi sự đổ vỡ một cách tốt hơn. Kết quả là, do chức năng của hệ thống ngân hàng là phục vụ công chúng nên cho phép tổ chức Bảo hiểm tiền gửi tính tới sự tiện lợi và quyền lợi hợp pháp cho công chúng trong khi giải quyết.
Để tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể chủ động khi một tổ chức tham gia có dấu hiệu không lành mạnh thì ngoài quá trình kiểm soát việc gia nhập của các ngân hàng và tổ chức trung gian thanh toán vào hệ thống Bảo hiểm tiền gửi, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cần được giao quyền chấm dứt bảo hiểm tiền gửi đối với một tổ chức tham gia có những hoạt động vi phạm, những vi phạm gây tổn thất lớn cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể chấm dứt bảo hiểm tiền gửi nếu một tổ chức tham gia tiếp tục thực hiện các hoạt động ngân hàng không đảm bảo an toàn và lành mạnh sau khi nhận được cảnh báo của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi, thanh tra ngân hàng trung ương yêu cầu chấm dứt những hoạt động này, hoặc vi phạm nhiều lần luật Ngân hàng, luật Bảo hiểm tiền gửi và các quy chế phòng ngừa rủi ro. Quá trình xử lý đổ vỡ hoạt động ngân hàng thường tập trung vào một số các biện pháp chủ yếu sau:
+ Tiền gửi được bảo hiểm sẽ được thanh toán hết: Khi ngân hàng đổ vỡ, bị đóng cửa Bảo hiểm tiền gửi sẽ hoàn trả cho tất cả người gửi tiền được bảo hiểm đến một hạn mức nhất định. Những người gửi tiền không được bảo hiểm và các chủ nợ khác không nhận được bất kỳ một khoản thanh toán nào từ tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sau khi chi trả được quyền đòi bồi thường khi thanh lý ngân hàng.
+ Chuyển nhượng các giao dịch bán và giao dịch đảm nhiệm: Tương tự như trên nhưng có một số khác biệt. Với tiền gửi được bảo hiểm, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ dàn xếp việc chuyển tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của tổ chức tham gia bị đóng cửa sang một tổ chức khác hoạt động lành mạnh được đảm nhiệm chịu trách nhiệm thanh toán các khoản tiền gửi được bảo hiểm. Tổ chức chịu trách nhiệm sẽ nhận được khoản thanh toán tiền mặt theo thống nhất của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi từ quỹ bảo hiểm.
+ Hợp nhất với tổ chức tham gia lớn mạnh khác có sự hỗ trợ tài chính: Trong quá trình dàn xếp, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi và tổ chức nhận sáp nhập sẽ đàm phán các điều kiện của giao dịch này, bao gồm cả giá trị, hình thức thanh toán, điều kiện liên quan khác mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ phải thực hiện nhằm khuyến khích tổ chức nhận sáp nhập với một tổ chức bị đổ vỡ. Vấn đề chính là có thể không có một tổ chức nào hoàn toàn vững mạnh, đủ điều kiện để thực hiện đảm nhiệm. Thậm chí nếu có nhưng có thể họ sẽ không sẵn sàng thực hiện đảm nhiệm, ít nhất là với các điều kiện có thể chấp nhận đối với tổ chức Bảo hiểm tiền gửi. Hơn nữa tổ chức đảm nhiệm sẽ muốn đánh giá thận trọng tổ chức bị đổ vỡ.
+ Biện pháp này hay được sử dụng nhất khi người gửi tiền cần được bảo vệ nhằm đảm bảo lòng tin của công chúng. Trong khi biện pháp thứ hai và thứ ba vừa không khả thi lại vừa không được phép thực hiện theo chính sách Bảo hiểm tiền gửi cũng như các quy định có liên quan. Trợ giúp tài chính là biện pháp mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cung cấp có thể thực hiện dưới nhiều hình thức, tùy tình hình, mức độ cụ thể và tùy theo quy mô hoạt động của từng tổ chức.
Như vậy, Bảo hiểm tiền gửi là một chính sách, biện pháp hữu hiệu để Nhà nước ổn định lòng tin của người dân, tạo điều kiện thuận lợi giúp các tổ chức tín dụng thu hút thêm nguồn vốn nhàn rỗi trong dân. Hơn thế nữa, đây là một trong những chính sách để ổn định và phát triển kinh tế đất nước nhất là trong thời kỳ hội nhập, nền kinh tế phải đối mặt với nhiều rủi ro thách thức như hiện nay.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI, BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Thực trạng Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam
1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam
Vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, sự hình thành phát triển của thị trường tài chính tiền tệ, đặc biệt là hệ thống ngân hàng cũng được chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp. Bên cạnh những thay đổi nhanh chóng về cơ chế quản lý và vận hành nền kinh tế, những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường cũng phát huy tác dụng cả hai mặt tích cực và tiêu cực. Đặc biệt trong lĩnh vực về ngân hàng thể hiện rõ nhất, đó là cạnh tranh tụt hậu và một số tổ chức đi đến phá sản, những tổ chức tín dụng hoạt động yếu kém bị thị trường đào thải. Nhất là những năm 1988-1991, lạm phát gia tăng, tình trạng hoảng loạn hoạt động ngân hàng đã xảy ra trên địa bàn cả nước, hàng loạt các quỹ tín dụng sụp đổ: 8000 quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng bị đổ vỡ theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước. Trong bối cảnh này, những yêu cầu mới đặt ra là làm thế nào để bảo vệ người gửi tiền, hệ thống ngân hàng và các tổ chức phi ngân hàng trước mặt trái của quy luật thị trường. Vấn đề ở đây không chỉ là vấn đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị xã hội sâu sắc, làm khủng hoảng lòng tin của người gửi tiền, của công chúng và các chính sách của nhà nước, trong đó có chính sách ngân hàng. Nhận thức rõ vấn đề này, nhà nước đã thông qua hệ thống các Ngân hàng thương mại Quốc doanh đứng ra nhận trả thay các khoản tiền gửi của người gửi tiền tại một số tổ chức bị đổ vỡ này. Khoản tổn thất này của các Ngân hàng thương mại Quốc doanh được nhà nước khoanh nợ, xóa nợ… hoặc nhà nước dùng biện pháp khác để can thiệp nhằm giảm bớt hậu quả của tình trạng đổ vỡ quỹ tín dụng đối với ngân hàng được giao đứng ra nhận trả thay. Như vậy xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế nhà nước đứng ra chịu toàn bộ tổn thất này, nhưng bù lại đã giữ được lòng tin của người gửi tiền và công chúng. Tuy nhiên những biện pháp bảo vệ này không được công khai và đã nảy sinh các vấn đề pháp lý giải quyết các vấn đề xung đột về quyền lợi hợp pháp của công dân, của tổ chức trong các quan hệ pháp luật. Để giải quyết căn bản những tồn tại vướng mắc đó, đồng thời chia sẻ rủi ro, giảm thiểu hậu quả đổ vỡ ngân hàng, nhà nước ban hành cơ chế mới về “bảo vệ tiền gửi”. Đây chính là nền tảng để hình thành chính sách Bảo hiểm tiền gửi của nhà nước.
Chính sách Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam là sách lược và kế hoạch cụ thể của nhà nước về Bảo hiểm tiền gửi, để điều chỉnh các hoạt động Bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. Nó được ban hành dựa vào đặc thù của thị trường tiền tệ và đường lối chính sách chung của Việt Nam, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các đối tượng tham gia hoạt động bảo hiểm tiền gửi, góp phần giữ ổn định kinh tế chính trị trật tự xã hội. Bên cạnh đó Chính phủ cũng xem xét để xây dựng một mô hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi phù hợp với tình hình của Việt Nam.
2. Thực trạng hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam
*Những văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tiền gửi
- Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (1999), Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi.
- Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2005), Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 của về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghi định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi.
- Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (1999), Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
Trên đây là 3 văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam. Theo 3 văn bản trên thì chính sách Bảo hiểm tiền gửi Việt nam có một số đặc điểm như sau:
*Những nội dung cơ bản của chính sách Bảo hiểm tiền gửi
- Bảo vệ các đối tượng tham gia hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngoài cá nhân (như trong quy định của Nghị định 89/1999/NĐ-CP) thì đối tượng người gửi tiền được bảo hiểm đã mở rộng thêm gồm: Hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, và công ty hợp danh.
- Bảo vệ tiền gửi là đồng Việt Nam, trừ tiền gửi của cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần hay thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó. Đây là điểm mới của Nghị định 109/2005/NĐ-CP so với quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP. Việc không bảo hiểm tiền gửi cho những người trực tiếp tham gia vào việc quản trị, điều hành của tổ chức tín dụng mà mình gửi tiền là đúng mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền gửi. Những đối tượng này nắm giữ và quản lý hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và vì vậy có thể lạm dụng chính sách bảo hiểm tiền gửi, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào những quyết sách dẫn đến sự phá sản của ngân hàng. Chính phủ đã bổ sung quy định trên để đề phòng rủi ro đạo đức của tổ chức nhận tiền gửi. Tuy nhiên để phòng chống rủi ro này có hiệu quả cần thiết phải có sự kiểm tra về an toàn hoạt động ngân hàng của Bảo hiểm tiền gửi và của các cơ quan chức năng.
- Điều tiết chính sách phí đồng hạng bằng hình thức đóng góp trước, tích tụ tài chính từ số đông.
- Bảo hiểm tiền gửi chi trả bảo hiểm có giới hạn nhằm phân tán rủi ro. Tại Nghị định 89/1999/NĐ-CP quy định số tiền bảo hiểm được trả cho người gửi tiền: “Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tối đa là 30 triệu đồng Việt nam”. Tại nghị định số 109/2005/NĐ-CP quy định lại: “Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật) tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thuộc đối tượng quy định tại Điều 3 Nghị định này, tối đa là 50 triệu đồng”.
- Giám sát và điều tiết việc cung cấp phối hợp chia sẻ thông tin.
- Hỗ trợ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật. Tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 89 quy định Bảo hiểm tiền gửi Việt nam có thể hỗ trợ tài chính trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt. Nhưng tại Nghị định 109 chỉ quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi có thể hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh, mua lại nợ và các hình thức khác phù hợp với quy định của pháp luật. Như vậy từ khi có Nghị định 109, tổ chức nhận tiền gửi được tiếp cận một cách chủ động, thuận lợi và mở rộng hơn đối với nguồn hỗ trợ tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam vì việc xác định “nguy cơ mất khả năng chi trả” là rất phức tạp và hầu như không thể thực hiện được.
- Xử lý đổ vỡ ngân hàng khi tổ chức bị buộc giải thể hay phá sản. Các Nghị định cũng quy định: trong mọi trường hợp giải thể hay phá sản, tổ chức nhận tiền gửi đều phải có nghĩa vụ hoàn trả Bảo hiểm tiền gửi Việt nam số tiền hỗ trợ tài chính và số tiền bảo hiểm đã chi trả. Nghị định 109 đã quy định sẽ ưu tiên hoàn trả khoản nợ tài chính của Bảo hiểm tiền gửi việt nam trước tất cả các khoản nợ khác của tổ chức nhận tiền gửi là phù hợp với quy định tại điều 96 Luật các tổ chức tín dụng. Việc xác định Bảo hiểm tiền gửi Việt nam trở thành chủ nợ của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị giải thể, phá sản với số tiền bảo hiểm đã chi trả là quy định làm rõ hơn vị thế của chủ nợ của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
- Hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, Việt nam đã chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, vì thế chính sách bảo hiểm tiền gửi cũng phải phát triển cho phù hợp với xu thế của thế giới. Đây cũng là một nội dung quan trọng và cũng khá mới mẻ của chính sách.
- Điều chỉnh mọi hoạt động bảo hiểm tiền gửi trên lãnh thổ Việt nam: Ngoài các nội dung trên, Bảo hiểm tiền gửi Việt nam còn thực hiện giám sát, kiểm tra, phạt… đối với hoạt động của các công ty tham gia Bảo hiểm tiền gửi. Nghị định 89 quy định: Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm thời hạn nộp phí bảo hiểm quy định thì ngoài việc nộp đủ số phí còn thiếu, phải chịu phạt mỗi ngày nộp chậm bằng 0,1% số tiền chậm nộp. Điều 9: Nếu sau thời hạn nộp phí bảo hiểm tiền gửi 30 ngày, tổ chức tham gia bảo hiểm chưa nộp phí kể cả tiền phạt, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền: (i) yêu cầu Ngân hàng Nhà nước trích tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước để chuyển nộp phí bảo hiểm tiền gửi và tiền phạt nếu là các tổ chức tín dụng. (ii) yêu cầu các tổ chức tín dụng, kho bạc nơi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mở tài khoản, trích tài khoản để chuyển nộp phí bảo hiểm và tiền phạt nếu là tổ chức khác được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng. Điều 10: (i) Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không nộp phí bảo hiểm quá thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải nộp, tổ chức bảo hiểm quyết định chấm dứt bảo hiểm và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng; đồng thời yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải ra ngay quyết định ngừng huy động tiền gửi của những của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó. (ii) Tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm bảo hiểm đối với số tiền gửi đó được bảo hiểm của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trong vòng 06 tháng kể từ ngày có quyết định chấm dứt bảo hiểm tiền gửi.
*Chức năng cơ bản của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam: Chấp thuận bảo hiểm tiền gửi, cấp và thu hồi giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi, theo dõi việc tính phí và nộp phí bảo hiểm từ tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi, giám sát rủi ro trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi, chịu trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, tham gia giám sát và thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bị phá sản, ban hành các quy định mà chính sách Bảo hiểm tiền gửi cho phép.
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam là loại hình tổ chức tài chính Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận.
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam được lựa chọn một cách hài hòa giữa các thông lệ, chuẩn mực quốc tế với đặc thù nền kinh tế Việt nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý của Nhà nước.
*Nguồn tài chính chủ yếu của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam
- Vốn do Nhà nước cấp (vốn điều lệ).
- Tiền phí bảo hiểm do các tổ chức đóng góp.
- Các khoản thu nhập từ đầu tư phát triển vốn nhàn rỗi.
- Các khoản tài trợ, hỗ trợ của Chính phủ.
- Các khoản vay và tài trợ, hỗ trợ từ các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài.
- Các khoản thu nhập bất thường và khoản hỗ trợ khác.
*Một số các văn bản pháp luật có liên quan
- Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2000), Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày 28/06/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều lệ về tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
- Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam do Chính phủ phê chuẩn.
- Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2003), Nghị định số 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 về việc phát hành trái phiếu cổ phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương.
- Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997.
Như vậy, các văn bản điều chỉnh trực tiếp là khung pháp lý cao nhất đảm bảo cho hoạt động của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam và quy trình vận hành các công cụ của chính sách Bảo hiểm tiền gửi được trôi chảy. Tuy nhiên, các văn bản pháp lý này vẫn chỉ mới là các Nghị định, trong khi các lĩnh vực liên quan như ngân hàng, tổ chức tín dụng, người gửi tiền,…lại được điều chỉnh bởi các Luật. Như vậy sẽ tạo ra sự mất cân bằng về địa vị pháp lý của chính sách Bảo hiểm tiền gửi, gây khó khăn trong việc giải quyết các mâu thuẫn, vướng mắc phát sinh trong quá trình hoạt động.
Hơn nữa, giữa các văn bản pháp lý còn thiếu tính đồng bộ. Ví dụ: tính không rõ ràng của pháp luật về trật tự ưu tiên thanh toán khi tổ chức tín dụng tham gia bị giải thể. Theo như quy định của Nghị định 109/2005/NĐ-CP và Thông tư số 03/2006/TT-NHNN: “Khoản hỗ trợ tài chính của Bảo hiểm tiền gửi được ưu tiên trả trước tất cả khoản nợ khác của tổ chức tín dụng tham gia bảo hiểm tiền gửi”. Nhưng tại điều 36 Luật phá sản 2004 quy định “ Nếu doanh nghiệp đã được Nhà nước áp dụng biện pháp đặc biệt về tài sản để khôi phục hoạt động kinh doanh nhưng vẫn không khôi phục được mà phải áp dụng thủ tục thanh lý thì phải hoàn trả lại giá trị tài sản đã được áp dụng biện pháp cho Nhà nước trước khi thực hiện việc phân chia tài sản”. Điều 96 Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín dụng năm 2004 quy định: “Trong trường hợp cấp bách để đảm bảo khả năng chi trả tiền gửi của khách hàng, tổ chức tín dụng có thể được Ngân hàng Nhà nước hoặc các tổ chức tín dụng khác cho vay đặc biệt, khoản vay đặc biệt này sẽ được ưu tiên hoàn trả trước tất cả các khoản nợ khác của tổ chức tín dụng”. Như vậy nếu một tổ chức tín dụng có tất cả các khoản nợ trên thì chúng ta sẽ không biết khoản nào sẽ được coi là khoản ưu tiên trước nhất.
3.Thực trạng tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam
3.1.Điều kiện thành lập, địa vị pháp lý và những thành tựu đạt được
Về điều kiện thành lập
Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam được thành lập để hạn chế những nhược điểm của nền kinh tế chuyển đổi, đó là một nền kinh tế còn non yếu lại phải đối mặt với nhiều thách thức của cơ chế thị trường, lạm phát ở mức cao, vì thế năng lực tài chính của tổ chức còn yếu kém, các tổ chức tín dụng sẵn sàng tham gia và chấp nhận mức phí để giữ lòng tin của người gửi tiền, nhưng hoạt động của hệ thống này lại tiềm ẩn nhiều rủi ro, quy mô, năng lực tài chính còn nhỏ bé, dễ đổ vỡ do những biến động của thị trường. Vì vậy cái giá phải trả về những tổn thất của nhà bảo hiểm và mức phí bảo hiểm phải đóng góp của tổ chức được bảo hiểm chưa được xem xét một cách toàn diện. Vì thế, ngày càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, vướng mắc trong việc bảo vệ tiền gửi. Do ra đời trong hoàn cảnh khó khăn như thế, Bảo hiểm tiền gửi Việt nam phải cố gắng nhiều để đảm bảo được chức năng, nhiệm vụ của mình.
Về địa vị pháp lý
+ Địa vị pháp lý của chính sách Bảo hiểm tiền gửi chưa tương xứng (ngang bằng) với vai trò, chức năng trong việc phải điều chỉnh một lĩnh vực hoạt động rộng khắp, mang tính nhạy cảm cao, liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của hàng triệu lượt người gửi tiền và hàng nghìn tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi, đặc biệt khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra sẽ nảy sinh xung đột về quyền lợi mà vấn đề này lại có liên quan đến sự điều chỉnh của hầu hết các bộ luật hiến pháp. Vì vậy dẫn đến hạn chế tính hiệu quả, nảy sinh độ nhờn của chính sách mà biểu hiện rõ nhất là việc giải quyết mối quan hệ về lợi ích của các bên liên quan trong hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Trong khi việc giải quyết mối quan hệ về lợi ích trong hệ thống Bảo hiểm tiền gửi ở các nước trên Thế giới có mô hình hoạt động bảo hiểm tiền gửi tương tự như ở Việt nam thì địa vị pháp lý của chính sách Bảo hiểm tiền gửi hầu hết được xây dựng trên nền tảng của Luật (Luật Bảo hiểm tiền gửi), một số hệ thống Bảo hiểm tiền gửi còn đặt dưới sự điều chỉnh của Quốc hội. Hiện nay cơ sở pháp lý để ban hành chính sách Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam chỉ là Nghị định của Chính phủ.
+ Trong quá trình hội nhập, đòi hỏi hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ quốc tế, sự đồng bộ và minh bạch của các chính sách luôn là những điều kiện cần thiết, tiên quyết cho một nền kinh tế hội nhập quốc tế thành công.
+ Các chuẩn mực về hoạt động Bảo hiểm tiền gửi cũng chưa được hệ thống Bảo hiểm tiền gửi thực hiện đồng bộ theo thông lệ cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhận thức được hạn chế này, các cơ quan ban ngành có liên quan đang xúc tiến dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi với tốc độ khẩn trương và chất lượng tốt nhất để kịp trình Quốc hội thông qua vào năm 2008 và thi hành từ năm 2009. Như vậy sau đúng 10 năm thành lập, Bảo hiểm tiền gửi mới có nền tảng pháp lý vững chắc cho hoạt động Bảo hiểm tiền gửi, trong khi ở hầu hết các nước Luật thường ra đời trước khi có tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ít nhất 1 năm. Nói đến Bảo hiểm tiền gửi là nói đến tư cách của một định chế tài chính có vai trò rất rộng lớn, từ trách nhiệm bảo vệ những đồng tiền chắt chiu của người dân gửi tại các tổ chức tín dụng của cả nền kinh tế, tránh khủng hoảng tài chính. TS. Bùi Khắc Sơn (Tổng giám đốc Bảo hiểm tiền gửi Việt nam) cho rằng, khi nước ta chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường, hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới đồng nghĩa rủi ro sẽ nhiều hơn và việc xây dựng nền tảng pháp lý vững chắc để phòng chống rủi ro, bảo vệ quyền lợi của nền kinh tế cũng như quyền lợi của từng doanh nghiệp, từng người dân là vấn đề vô cùng cấp thiết. Các chuyên gia Bảo hiểm tiền gửi đã có những chuyến khảo sát, nghiên cứu ở rất nhiều nước, những bài học được rút ra từ cả những mô hình thành công và chưa thành công, để từ đó đề xuất những kinh nghiệm tốt nhất cho hệ thống Bảo hiểm tiền gửi của Việt nam. Bà Dương Thu Hương-nguyên Phó chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội nhận xét:” sự chuẩn bị chủ động và chu đáo của Bảo hiểm tiền gửi sẽ tạo tiền đề tốt cho việc xây dựng thành công Luật Bảo hiểm tiền gửi theo thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tế của Việt nam”. Có thể nói, mục tiêu cao nhất của Luật Bảo hiểm tiền gửi là tạo hành lang pháp lý cho hoạt động Bảo hiểm tiền gửi tích cực ở Việt nam, bảo vệ người gửi tiền- nhà đầu tư và đảm bảo an toàn của hệ thống ngân hàng- tài chính. Để luật hóa mục tiêu này, khi thảo luận ở Hội nghị triển khai dự án Luật Bảo hiểm tiền gửi phiên thứ hai được tổ chức mới đây, các chuyên gia kinh tế- thành viên Ban soạn thảo đã tập trung vào nội dung được xem là quan trọng nhất, đó là địa vị pháp lý của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi với tư cách là nhân vật trung tâm trong mối quan hệ ba bên: người gửi tiền- tổ chức Bảo hiểm tiền gửi- tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi cũng như mối quan hệ giữa tổ chức Bảo hiểm tiền gửi với các cơ quan giám sát khác như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước…
Theo khuyến nghị của Hiệp hội Bảo hiểm tiền quốc tế (IADI), để có một hệ thống Bảo hiểm tiền gửi hoạt động hiệu quả thì mô hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi giảm thiểu rủi ro được hầu hết các nước lựa chọn bởi tính ưu việt vượt trội của nó so với các mô hình chi trả và chi trả với quyền hạn mở rộng. Cụ thể: Với các chức năng được mở rộng và đa dạng hóa, mô hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi giảm thiểu rủi ro không những cho phép bảo vệ một cách tốt nhất người gửi tiền nhỏ thông qua việc cung cấp cơ chế bồi thường mà còn khuyến khích người gửi tiền ít hiểu biết về tài chính giám sát ngân hàng và thực hiện các nguyên tắc thị trường, giảm gánh nặng cho Chính phủ và yêu cầu các ngân hàng tốt đóng góp chi phí trong quá trình xử lý ngân hàng, thúc đẩy cạnh tranh trong khu vực tài chính và ổn định tài chính, tạo ra một cơ chế chính thức trong việc xử lý đổ vỡ ngân hàng, tránh khủng hoảng, khuyến khích tiết kiệm và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm thiểu tác động của suy thoái kinh tế…TS. Bùi Khắc Sơn cho rằng, thực chất Nghị định 89 và 109 về Bảo hiểm tiền gửi hiện hành đã tạo cơ sở pháp lý ban đầu cho việc xây dựng tổ chức Bảo hiểm tiền gửi giảm thiểu rủi ro Việt nam nhưng các quy định này còn mờ nhạt và chưa cụ thể. Đây chính là vấn đề Luật Bảo hiểm tiền gửi sẽ phải giải quyết và làm sáng tỏ.
Không phải ngẫu nhiên khi xem xét, đánh giá độ tín nhiệm và an toàn của thị trường tài chính ở một quốc gia, câu hỏi đầu tiên mà các tổ chức quốc tế đánh giá độc lập thường đưa ra là ở quốc gia đó đã có tổ chức Bảo hiểm tiền gửi hay chưa? Điều đó chứng tỏ vai trò quan trọng của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi trong mạng an toàn tài chính quốc gia. Chính vì vậy, việc sớm ban hành Luật Bảo hiểm tiền gửi sẽ là công cụ hữu hiệu, là tiền đề cho việc xây dựng một hệ thống Bảo hiểm tiền gửi tích cực ở Việt nam.
Quá trình vận hành chính sách Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam thời gian qua cho thấy, dù việc thiết kế, xây dựng chính sách chưa có đủ các yếu tố hội nhập quốc tế được lồng ghép một cách bài bản nhưng chính sách Bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam đã từng bước vận hành theo hướng hội nhập quốc tế. Một số biểu hiện rõ nét trong thời gian qua là:
- Tham gia Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế với tư cách là thành viên đầy đủ, nhằm từng bước nâng cao vị thế của hệ thống Bảo hiểm tiền gửi Việt nam trên trường quốc tế.
- Tăng cường các đoàn kiểm soát tới các quốc gia phát triển có nhiều nét tương đồng với Việt nam để học hỏi kinh nghiệm như mô hình của Mỹ, Đài Loan, Canada, Philippin, chủ động tổ chức nhiều cuộc hội thảo có các bên nước ngoài tham gia, bên cạnh đó cử các đoàn đi tham gia hội thảo về Bảo hiểm tiền gửi ngoài nước.
- Mời chuyên gia của các tổ chức quốc tế (WB, ADB, IMF) và của các nước phát triển có kinh nghiệm về bảo hiểm tiền gửi đến để tư vấn, tham vấn về chính sách Bảo hiểm tiền gửi.
Thành tựu của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi
Qua 7 năm thành lập và đi vào hoạt động, Bảo hiểm tiền gửi Việt nam đã đạt được một số tành tựu:
Thứ nhất, mở rộng mạng lưới hoạt động tới các khu vực, địa bàn kinh tế trọng điểm: Sáu năm qua, cùng với việc ổn định bộ máy tổ chức và triển khai đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ về bảo hiểm tiền gửi, Bảo hiểm tiền gửi Việt nam đã mở rộng mạng lưới hoạt động của mình tới các khu vực trong phạm vi cả nước, đó là thành lập sáu chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi khu vực gồm: Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh, Chi nhánh khu vực Hà nội, Chi nhánh khu vực đồng bằng sông Cửu long(tại Cần Thơ), chi nhánh khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên(tại Nha Trang), Chi nhánh khu vực Đông Bắc Bộ(tại Hải Phòng) và chi nhánh khu vực Bắc Trung Bộ (tại Nghệ An). Đây là những địa bàn kinh tế trọng điểm của đất nước, đồng thời là nơi tập trung hoạt động của nhiều tổ chức nhận tiền gửi trong nước và Quốc tế tại Việt nam.
Hai là, Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi: Sau một thời gian ngắn, Bảo hiểm tiền gửi Việt nam đã hoàn thành cơ bản việc cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi cho các tổ chức nhận tiền gửi hoạt động trên lãnh thổ Việt nam đủ điều kiện theo quy định của Luật tổ chức tín dụng (đến tháng 6 năm 2006, đã cấp cho 1114 tổ chức nhận tiền gửi). Tuy nhiên, do trong quá trình hoạt động một số tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng thanh toán và bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra văn bản chấm dứt hoạt động, Bảo hiểm tiền gửi đã chấm dứt bảo hiểm và thu hồi Chứng nhận bảo hiểm của 120 tổ chức nhận tiền gửi. Như vậy đến nay số lượng các tổ chức tham gia là 994 đơn vị, trong đó: 5 Ngân hàng thương mại Nhà nước, 34 Ngân hàng thương mại cổ phần, 25 ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh, 4 Công ty tài chính và 926 Qũy tín dụng nhân dân.
Ba là, kiểm tra giám sát hoạt động vủa các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi: Kiểm tra giám sát có thể coi là chức năng chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam trong thời gian qua. Bảo hiểm tiền gửi Việt nam đã chủ động, thường xuyên phối hợp chặt chẽ với Thanh tra Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm tra tại chỗ đối với các tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi. Việc kiểm tra các tổ chức tín dụng thực hiện các quy định của pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi và quy chế an toàn trong hoạt động ngân hàng, nhằm phát hiện sớm và có biện pháp ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm các quy định nói trên, đồng thời báo cáo Ngân hàng Nhà nước để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý vi phạm kịp thời. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện giám sát đối với các tổ chức tham gia theo phương thức giám sát từ xa. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đầy đủ tình hình hoạt động, mức độ tuân thủ các quy định pháp luật về Bảo hiểm tiền gửi, đồng thời tham khảo kết quả xếp hạng tài chính tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, nhằm xác định._.ngăn chặn rủi ro theo các tính chất và thông lệ quốc tế về lĩnh vực bảo hiểm tiền gửi:
- vận dụng mô hình giám sát rủi ro tiên tiến của Thế giới;
- áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong xây dựng và vận hành hoạt động giám sát kiểm tra đối với tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi Việt nam;
- tăng cường thực hiện biện pháp giám sát từ xa một cách thường xuyên và hiệu quả;
- tăng cường các biện pháp kiểm tra tại chỗ để đánh giá và đưa ra kết quả xếp loại về chất lượng hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, đặc biệt là các tổ chức có vấn đề, có nguy cơ lây lan sang cả hệ thống;
- kịp thời phát hiện các vi phạm trong việc thực hiện quy định về bảo hiểm tiền gửi và an toàn trong hoạt động ngân hàng đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
2.5.Đa dạng hóa biện pháp xử lý đổ vỡ ngân hàng
(i). Xử lý đổ vỡ ngân hàng bằng biện pháp hỗ trợ tài chính cho tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi gặp khó khăn về khả năng thanh toán nợ đến hạn để giúp tổ chức có đủ nguồn chi trả trong đó có chi trả tiền gửi được bảo hiểm nhằm thoát khỏi tình trạng đổ vỡ ngân hàng, khôi phục hoạt động bình thường. Tăng cường thêm biện pháp xử lý đổ vỡ ngân hàng đối với tổ chức tham gia gặp khó khăn trong thanh toán nợ đến hạn. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, những ngân hàng gặp rủi ro không phải chỉ do bị phá sản mà nhiều khi còn do cạnh tranh không lành mạnh, hoặc quyết định sai lầm của Ban lãnh đạo. Những rủi ro này cần được hỗ trợ để không xảy ra những sự đổ vỡ đáng tiếc.
(ii). Xử lý đổ vỡ ngân hàng bằng biện pháp chi trả tiền bảo hiểm.
Khi xử lý tổ chức tham gia bị đổ vỡ, Bảo hiểm tiền gửi Việt nam phải thông báo công khai trên các phương tiền thông tin đại chúng. Đây là việc làm đảm bảo sự minh bạch và mang tính tích cực để tránh bưng bít thông tin, tránh kẻ xấu lợi dụng để trục lợi.
Hạn mức chi trả và xử lý đổ vỡ ngân hàng luôn có mối quan hệ mật thiết, nếu có chính sách đúng đắn và quá trình xử lý hợp lý thì dù quy mô của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có lớn cũng không ảnh hưởng đến việc xử lý đổ vỡ ngân hàng và ngược lại sẽ gây hậu quả vô cùng to lớn, nhiều khi không lường hết được.
Trong chi trả tiền bảo hiểm, nên quy định thời gian bắt đầu chi trả bảo hiểm sớm nhất kể từ khi tiếp nhận xử lý để vừa bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, vừa duy trì lòng tin của người gửi tiền.Đơn giản hóa thủ tục tạo điều kiện cho người gửi tiền nhận tiền bảo hiểm.
(iii). Biện pháp mua lại cổ phàn chi phối tổ chức tham gia bị mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, hay can thiệp thông qua giàn xếp để thực hiện sáp nhập với tổ chức có quy mô lớn, hoạt động mạnh hơn nhằm duy trì sự toàn vẹn của tiền gửi được bảo hiểm.
Biện pháp này có nhiều lợi thế đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt nam trong xu thế hội nhập quốc tế là những vụ sáp nhập, thôn tính, mua lại một phần hay toàn bộ để nhanh chóng chiếm giữ thị phần hoạt động. Mặt khác các nhà đầu tư khi tham gia dự án cần có tư vấn về lĩnh vực đầu tư. Trong đó, Bảo hiểm tiền gửi là một trong những kênh quan trọng để giúp các nhà đầu tư.
(iv). Chia sẻ rủi ro giữa các chủ nợ trong xử lý đổ vỡ hoạt động ngân hàng.
Đa dạng hóa các hình thức chia sẻ rủi ro thông qua áp dụng nhiều biện pháp xử lý đổ vỡ ngân hàng.
Về trật tự và ưu tiên trong thanh toán đối với các chủ nợ khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị đổ vỡ cũng cần xử lý công bằng để tránh xảy ra tranh chấp, khiếu nại trong giải quyết phân chia lợi ích giữa các chủ nợ.
Tóm lại qua nghiên cứu em xin đưa ra 2 nhóm giải pháp cho thực trạng của Bảo hiểm tiền gửi như trên. Đó là nhóm giải pháp vĩ mô: hoàn thiện cơ sở luật pháp để nâng cao địa vị pháp lý cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi; và nhóm giải pháp vi mô (bao gồm các giải pháp còn lại). Các giải pháp này không mới nhưng theo em vẫn thực sự có ý nghĩa cho đến thời điểm này.
3.Kiến nghị
3.1. Kiến nghị đến Chính phủ
+ Chính phủ nên phối hợp, tạo điều kiện hơn nữa để Bảo hiểm tiền gửi Việt nam có thể đẩy nhanh quá trình nghiên cứu và đưa vào áp dụng Luật Bảo hiểm tiền gửi. Một bộ luật hoàn chỉnh sẽ giúp Bảo hiểm tiền gửi có địa vị pháp lý ngang bằng với các tổ chức khác trong khi giải quyết những vấn đề mâu thuẫn phát sinh, tránh kéo dài quá trình xử lý gây tốn kém và suy giảm lòng tin của người gửi tiền được bảo hiểm.
+ Phê duyêt và thực hiện đề án nâng mức vốn hoạt động lên 10000 tỷ VND vào năm 2010 như Bảo hiểm tiền gửi đã đề xuất.
3.2. Kiến nghị đến tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam
3.2.1. Phối kết hợp với các cơ quan, ban nghành sớm cho ra đời Luật Bảo hiểm tiền gửi. Cần xem xét nghiên cứu cả các Luật điều chỉnh các lĩnh vực liên quan như Luật các tổ chức tín dụng, Luật điều chỉnh ngân hàng…để tránh gây không đồng bộ, mâu thuẫn giữa các luật và phải phù hợp với thông lệ quốc tế vì nền kinh tế Việt nam đang trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế.
3.2.2. Với đặc thù của mình, hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam luôn gắn với công chúng (theo nghĩa rộng). “Có được tình cảm của công chúng là có tất cả”- đó câu nói nổi tiếng của Tổng thống Mỹ Abraham Lincon. Em xin đề xuất kiến nghị với tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam nên chú trọng hơn nữa vào hoạt động PR (Public Relationship- Quan hệ công chúng) để có thể tuyên truyền hoạt động, làm cho những người gửi tiền được bảo hiểm (đặc biệt là những người gửi tiền nhỏ, lẻ, ít có thông tin) nhận thức đúng đắn, đồng thời củng cố lòng tin của họ vào hệ thống ngân hàng, tránh nguy cơ rút tiền ồ ạt khi có sự cố ở một ngân hàng.
PR là một nghệ thuật và môn khoa học xã hội, phân tích những xu hướng, dự đoán những kết quả, tư vấn cho các nhà lãnh đạo của tổ chức, và thực hiện các chương trình hành động đã được lập kế hoạch để phục vụ cho quyền lợi của cả tổ chức và công chúng. Như vậy nội dung chính của PR là cung cấp kiến thức cho công chúng, trong đó bao hàm mục đích thay đổi nhận thức của họ (Theo Phá vỡ bí ẩn PR- Frank Jefkins).
Mô hình hoạch định PR đơn giản bao gồm 6 vấn đề như sau: Xác định tình hình, Đánh giá mục tiêu, Xác định nhóm công chúng, Lựa chọn phương tiện truyền thông, Hoạch định ngân sách, Đánh giá kết quả.
Hoạt động PR của Bảo hiểm tiền gửi cũng đang được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới, công tác PR của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam cần có những bước cải tiền như sau:
Thứ nhất: Nguyên tắc xây dựng hoạt động PR của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam
Để công tắc PR hiệu quả hơn, Bảo hiểm tiền gửi Việt nam cần phải dựa vào việc nghiên cứu các nguyên lý của hoạt động PR, tham khảo kinh nghiệm của một số nước và dựa vào điều kiện kinh tế, đặc điểm dân cư, đặc thù địa lý của Việt nam…để đưa ra những quyết sách phù hợp.
Thứ hai: Xác định mục tiêu PR của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam
Mục tiêu PR của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam nên được xây dựng theo hướng: mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài. Trên cơ sở mục tiêu đó, kế hoạch PR được thiết lập cụ thể cho từng thời kỳ để đạt được mục tiêu đề ra. Ví dụ: trong giai đoạn hiện nay mục tiêu PR trước mắt của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam là nâng cao nhận thức của công chúng nhằm hướng tới việc xây dựng luật về Bảo hiểm tiền gửi phù hợp với thông lệ quốc tế và tình hình cụ thể của Việt nam.
Thứ ba: Thực trạng PR của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam
Hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam luôn gắn liền với quyền lợi của công chúng nói chung, người gửi tiền nói riêng nhưng người dân chưa biết nhiều về chính sách Bảo hiểm tiền gửi. Việc tuyên truyền để dân hiểu về Bảo hiểm tiền gửi sẽ góp phần tác động đến việc thay đổi nhận thức của người dân đối với hệ thống ngân hàng và là cơ sở để thay đổi hành động. Chính điều đó sẽ tác động tích cực đến hoạt động tài chính ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh những kết quả đạt được hoạt động PR của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam còn thể hiện một số hạn chế như sau:
+ Chủ yếu tuyên truyền theo sự vụ, sự việc cụ thể, chưa có mục tiêu cụ thể cho việc PR trong từng giai đoạn.
+ Chưa xây dựng chiến lược PR.
+ Cách thức và nội dung PR còn hạn chế, chưa gắn kết với việc phân loại, phân nhóm công chúng.
+ Chưa xây dựng chương trình hành động của PR để quản trị khủng hoảng.
+ Chưa có kết quả đánh giá định lượng và định tính đối với các chương trình PR;…
Thứ tư: Đổi mới hoạt động PR của Bảo hiểm tiền gửi nên tập trung vào giải quyết một số vấn đề sau:
Thực hiện tốt hơn các bước trong mô hình hoạch định PR được đề cập ở phần trên như: nên đưa ra được kế hoạch trước mắt và dài hạn cho hoạt động PR; hoạt động PR nên được thực hiện theo chiến dịch truyền thông (có thể đặt trọng tâm tuyên truyền vào một vài thời điểm cụ thể trong năm gắn với nhiệm vụ trọng tâm của Bảo hiểm tiền gửi trong từng thời kỳ, tránh tình trạng tràn lan); nên mở rộng hơn nữa các phương tiền truyền thông như đường dây điện thoại miễn phí, xây dựng nội dung đào tạo đối với đội ngũ cán bộ ngân hàng và học sinh, sinh viên…; nội dung, hình thức của hoạt động PR nên dựa trên cơ sở sự phân nhóm đối tượng; nên có kế hoạch ngân sách để thực hiện PR tốt nhất trong phạm vi ngân sách được phê duyệt; nên có sự đánh giá kết quả theo từng thời kỳ, giai đoạn…
Bảo hiểm tiền gửi Việt nam là một tổ chức mới, nên công tác PR cần được chú trọng hơn. Không chỉ riêng với Bảo hiểm tiền gửi Việt nam, công tác nâng cao nhận thức công chúng là một trong những công tác trọng tâm của tất cả các hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Chính vì vậy, Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế (IADI) đang xây dựng hướng dẫn chung cho tất cả các quốc gia về vấn đề nâng cao nhận thức công cúng đối với hệ thống bảo hiểm tiền gửi.
3.2.3. Lựa chọn mô hình tổ chức cho Bảo hiểm tiền gửi Việt nam là mô hình tổng công ty giảm thiểu rủi ro
Gần như 100% các tổ chức bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đều hoạt động dưới hình thức tổng công ty, chỉ duy nhất ở Việt nam chưa xác định rõ mô hình của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam theo thông lệ quốc tế. Quy định thiếu rõ ràng này bao trùm và thể hiện trên tất cả các văn bản hiện hành về hoạt động bảo hiểm tiền gửi- Đây là nhận xét của luật sư Joseph Chertkow, chuyên gia cao cấp của công ty Aries Group tại cuộc hội thảo mới đây về “Luật bảo hiểm tiền gửi” do Bảo hiểm tiền gửi và Ngân hàng phát triển Châu á ADB phối hợp tổ chức.
Dẫu chưa được xác định một cách rõ ràng, song trong dự thảo Luật Bảo hiểm tiền gửi phiên bản I do Bảo hiểm tiền gửi Việt nam đề xuất với sự tư vấn của các chuyên gia quốc tế đã thể hiện khá rõ mô hình của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam so với các tiền thân của nó là Nghị định 89 và Nghị định 109. Dự thảo khẳng định địa vị pháp lý của tổ chức là tổng công ty thuộc Chính phủ với các nhiệm vụ và quyền hạn được mở rộng và tăng cường để thực hiện nhiệm vụ của tổ chức giảm thiểu rủi ro trong hệ thống an toàn tài chính quốc gia. Tổng công ty là mô hình gần như 100% các tổ chức Bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đều lựa chọn và đó cũng là xu hướng hình thành của các tổ chức tài chính hiện nay. Theo các nhà quan sát quốc tế, nếu được tổ chức dưới hình thức tổng công ty, tính minh bạch, quyền tự quyết cũng như hiệu quả điều hành trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi sẽ được nâng lên. Báo cáo của ngân hàng Thế giới (WB) về bảo hiểm tiền gửi “Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi xử lý ngân hàng bị đổ vỡ” (năm 2006) cho biết, nghiên cứu dựa trên kinh nghiệm và số liệu của 1700 ngân hàng ở 57 quốc gia cho thấy, ở những nước mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có quyền can thiệp và chấm dứt bảo hiểm tiền gửi thì các ngân hàng ổn định hơn và nguy cơ mất khả năng thanh toán thấp hơn. Tăng cường năng lực giám sát và thẩm quyền của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có thể tác động tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Tóm lại sự độc lập về mặt pháp lý và vật lý của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi là yếu tố quan trọng để có mạng lưới an toàn tài chính hiệu quả.
Nói tới tư cách tổng công ty là nói tới doanh nghiệp, tuy nhiên tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Việt nam không phải là doanh nghiệp kinh doanh thông thường, hoạt động không vì lợi nhuận mà thực hiện các mục tiêu chính sách công của Chính phủ. Luật quy định rõ Bảo hiểm tiền gửi Việt nam là một tổ chức giảm thiểu rủi ro, hoạt động trên nguyên tắc chi phí thấp nhất, chia sẻ thiệt hại công bằng và thực hiện các chức năng đặc thù về bảo hiểm tiền gửi. “Tổ chức giảm thiểu rủi ro” cũng chính là xu hướng tất yếu của quá trình tái cấu trúc Bảo hiểm tiền gửi Việt nam đang được tiền hành trong thực tế. Theo TS. Bùi Khắc Sơn- Tổng giám đốc Bảo hiểm tiền gửi Việt nam, việc lựa chọn mô hình giảm thiểu rủi ro không chỉ giúp Bảo hiểm tiền gửi Việt nam có thể bảo vệ tốt nhất người gửi tiền, thực hiện các nghiệp vụ giám sát đảm bảo ổn định hệ thống tài chính ngân hàng mà còn tạo điều kiện để tổ chức này chủ động tham gia vào quá trình tái thiết hệ thống tài chính ngân hàng quốc gia. Với việc lựa chọn mô hình này, Bảo hiểm tiền gửi Việt nam mong muốn đóng góp một cách tích cực và chủ động hơn vào sự phát triển ổn định của thị trường tài chính. Chính bản thân sự xuất hiện và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam đã là hiện thân của nguyên tắc kinh tế thị trường. Nếu như trước đây, các rủi ro liên quan đến sự đổ vỡ của các ngân hàng, tổ chức tín dụng thường được xử lý bằng tiền ngân sách, tiền thuế của dân thì bây giờ được lấy từ sự đóng góp của các tổ chức này. Hơn nữa, chính sự vận hành và phát triển của hệ thống tài chính và hệ thống giám sát tài chính cũng đòi hỏi Bảo hiểm tiền gửi Việt nam phải hoạt động tích cực hơn. Mô hình giảm thiểu rủi ro cũng là mô hình mà hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi Quốc tế khuyến nghị với lý do nơi nào có tổ chức Bảo hiểm tiền gửi theo mô hình giảm thiểu rủi ro thì vai trò của bảo hiểm tiền gửi sẽ tích cực hơn. Mặt khác, trên thực tế mặc dù chưa có Luật Bảo hiểm tiền gửi nhưng Nghị định 89 và 109 đã bước đầu cho phép Bảo hiểm tiền gửi Việt nam hoạt động với những chức năng cơ bản theo mô hình quản lý rủi ro. Bản thân Bảo hiểm tiền gửi Việt nam cũng thấy mình có đủ nguồn lực và quyết tâm theo đuổi mô hình này. Ông Joseph Chertkow cho rằng, hệ thống Bảo hiểm tiền gửi giảm thiểu rủi ro đồng nghĩa hệ thống ấy phải quản lý rủi ro một cách toàn diện, bao gồm cả các biện pháp can thiệp và giám sát trực tiếp đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và xử lý các tổ chức bị đổ vỡ. Tổ chức Bảo hiểm tiền gửi cần có vai trò lớn hơn đối với hệ thống tài chính nhằm tăng cường tính ổn định của hệ thống này.
Về vấn đề sở hữu trong tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Việt nam, hiện dự thảo Luật chưa đề cập cụ thể tổng công ty sẽ thuộc 100% vốn Nhà nước hay vốn Nhà nước chỉ chiếm một tỷ trọng nhất định (như Bảo hiểm tiền gửi Đài Loan), hoặc các ngân hàng thương mại đóng góp (Bảo hiểm tiền gửi Hoa Kỳ). Tuy nhiên dự thảo khẳng định việc tham gia bảo hiểm tiền gửi là bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng và các tổ chức không phải tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng.
Nước ta đang chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới kéo theo sự phat triển mạnh mẽ của thị trường tài chính- ngân hàng, nhưng cũng làm gia tăng rủi ro. Chính vì vậy, lành mạnh hóa thị trường tài chính- ngân hàng Việt nam theo hướng bền vững, bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư là mục tiêu hàng đầu của chính phủ. Để đáp ứng yêu cầu này, tiền tới mô hình giảm thiểu rủi ro được coi là xu hướng tất yếu đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
3.2.4.Xây dựng hệ thống thông tin
Kiến nghị với tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam phối hợp với các cơ quan ban ngành có liên quan xây dựng một hệ thống trao đổi thông tin nhanh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát hoạt động các ngân hàng, đồng thời đảm bảo bảo mật cho hệ thống ngân hàng. Như vậy, Bảo hiểm tiền gửi Việt nam sẽ phối hợp với các ngân hàng xây dựng một mạng an toàn tài chính quốc gia với mục đích là: trao đổi thông tin nhanh, chính xác, quản lý được hoạt động của các ngân hàng.
3.2.5. Đa dạng hóa các dịch vụ. Không chỉ dừng lại ở dịch vụ bảo hiểm tiền gửi mà nên mở rộng sang các dịch vụ khác như: tư vấn, đầu tư…
3.3. Kiến nghị đến các Ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng có tham gia Bảo hiểm tiền gửi Việt nam
+ Đề nghị các Ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng nghiêm chỉnh tuân thủ các quy định và biện pháp bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng khi tham gia Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
+ áp dụng đúng phương pháp tính phí (khi Bảo hiểm tiền gửi Việt nam áp dụng hình thức tính phí theo mức độ rủi ro) và nộp phí đầy đủ, đúng hạn, tạo điều kiện cho Bảo hiểm tiền gửi Việt nam tăng nguồn vốn hoạt động, đảm bảo khả năng thanh khoản.
+ Phối hợp chặt chẽ với tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam khi có sự cố, rủi ro xảy ra để giải quyết nhanh, hợp lý, tránh để rủi ro lan rộng gây ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng, tránh gây lãng phí và giảm sút lòng tin của người gửi tiền.
+ Không nên đầu tư vào những dự án quá mạo hiểm, nên xin tư vấn của các chuyên gia trong tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
KẾT LUẬN
Hoạt động Bảo hiểm tiền gửi đang ngày càng có vai trò quan trọng và xu hướng phát triển mạnh mẽ mang tính chất toàn cầu. Đặc biệt là trong thời kỳ Việt nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nền kinh tế phải đối mặt với nhiều thách thức. Để có thể giữ vững ổn định và phát triển cần có một chính sách Bảo hiểm tiền gửi phù hợp. Trong phạm vi đề tài, khóa luận đã nghiên cứu, phân tích được một số nội dung cơ bản nhất về Bảo hiểm tiền gửi: Khái niệm, bản chất, vai trò, các công cụ của chính sách…. Đồng thời cũng đưa ra hai mô hình tổ chức Bảo hiểm tiền gửi tiêu biểu trên Thế giới, phân tích những yếu tố tạo nên sự thành công của hai tổ chức này, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt nam.
Khóa luận phân tích sự cần thiết xây dựng hệ thống Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam, phân tích thực trạng hoạt động của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam trong gần 7 năm hoạt động, rút ra được một số đánh giá về những thành tựu đã đạt được cũng như nhưng hạn chế, tồn tại. Trong quá trình gần 7 năm hoạt động Bảo hiểm tiền gửi Việt nam đạt được một số thành tựu nhưng nổi bật là đã góp phần ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng và quỹ tín dụng, tổ chức phi ngân hàng khác có tham gia Bảo hiểm tiền gửi, ổn định lòng tin của dân chúng vào hệ thống này, từ đó góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế. Nhưng những tồn tại cũng không nhỏ. Đó là tồn tại về cơ sở pháp lý, tồn tại trong từng công cụ của chính sách,..
Khóa luận đã chọn phân tích hai tổ chức Bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đó là Mỹ và Đài Loan. Mỹ là nền kinh tế lớn nhất thế giới, Công ty bảo hiểm tiền gửi Liên bang là tổ chức Bảo hiểm tiền gửi có lịch sử phát tiền lâu đời và vững mạnh. Còn tổ chức Bảo hiểm tiền gửi của Đài Loan, tuy ra đời không sớm nhất so với khu vực Châu á, nhưng đã có những vận dụng sáng tạo và xây dựng được một chính sách Bảo hiểm tiền gửi hiệu quả. Qua những phân tích trên, khóa luận rút ra một số bài học cho quá trình hoàn thiện chính sách Bảo hiểm tiền gửi ở Việt nam.
Từ đánh giá thành tựu, phân tích tồn tại của hoạt động Bảo hiểm tiền gửi Việt nam, khóa luận xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị đến Chính phủ, tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam và hệ thống ngân hàng Việt nam.
Khóa luận chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và khuyết điểm, xin được sự quan tâm, góp ý của thầy cô và các bạn.
PHỤ LỤC
Danh mục các chữ viết tắt:
CNNHNNg
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
CTTC
Công ty tài chính
CNNHNN
Chi nhánh ngân hàng Nhà nước
NHNNg
Ngân hàng nước ngoài
NHLD
Ngân hàng liên doanh
NHTMCP
Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTMNN
Ngân hàng thương mại Nhà nước
QTDND
Quỹ tín dụng nhân dân
QTDNDCS
Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở
QTDNDTW
Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
Danh sách các Ngân hàng thương mại tham gia vào Bảo hiểm tiền gửi Việt nam:
STT
TấN TỔ CHỨC THAM GIA BHTG
SGCN
NGÀY CẤP
ĐỊA CHỈ
NHTM QUỐC DOANH
1
NH ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VN
00001.0001.1
09/11/06
Thỏp A Vincom 191 Bà Triệu, Hà nội
2
NH NễNG NGHIỆP VÀ PTNT
00003.0001.1
11/11/06
Số 2, Lỏng Hạ, Đống Đa, Hà nội
3
NH NGOẠI THƯƠNG VN
00005.0001.1
30/10/06
198 Trần Quang Khải, Hoàn kiếm, Hà nội
4
NH CÔNG THƯƠNG VN
00004.0001.1
11/11/06
108 Trần Hưng Đạo, Hoàn Kiếm, Hà nội
5
NH NHÀ ĐỒNG BẰNG SCL
000020.0001.1
09/11/06
Số 9 Vừ Văn Tần, Quận 3, TP Hồ Chớ Minh
NHTM CP ĐÔ THỊ
1
NHÀ HÀ NỘI
00010.0001.1
27/10/06
B7 Giảng Vừ, Ba Đỡnh, Hà nội
2
HÀNG HẢI
00020.0001.1
23/10/06
44 Nguyễn Du, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội
3
SÀI GềN THƯƠNG TÍN
00014.0001.1
27/10/06
278 Nam Kỳ Khởi nghĩa, Q3, TP. HCM
4
ĐÔNG Á
00011.0001.1
13/11/06
130 Phan Đăng Lưu, Q. Phú Nhuận, TP. HCM
5
XUẤT NHẬP KHẨU
00021.0001.1
27/10/06
7 Lờ Thị Hồng Gấm, Q1, TP. HCM
6
NAM Á
00017.0001.1
06/11/06
98 Bis Hàm Nghi, Nguyễn Thỏi Bỡnh, Q1, TP.HCM
7
Á CHÂU
00013.0001.1
09/10/06
442 Nguyễn Thị Minh Khai, Q3, TP. HCM
8
SÀI GềN CễNG THƯƠNG
00018.0001.1
06/11/06
2C Phó Đức Chớnh, Q1, TP. HCM
9
NGOÀI QUỐC DOANH
00007.0001.1
27/10/06
Số 8 Lờ Thỏi Tổ, Hoàn Kiếm, Hà nội
10
KỸ THƯƠNG
00009.0001.1
27/10/06
15 Đào Duy Từ, Hoàn Kiếm, Hà Nội
11
QUÂN ĐỘI
00008.0001.1
15/11/06
Số 3 Liễu Giai Cống Vị, Ba Đỡnh Hà nội
12
BẮC Á
00025.0001.1
06/11/06
117 Đường Quang Trung, TP. Vinh, Nghệ An
13
QUỐC TẾ VIỆT NAM
00006.0001.1
09/10/06
64-68, Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà nội
14
ĐÔNG NAM Á
00023.0001.1
06/11/06
16 Lỏng Hạ, Ba Đỡnh, Hà Nội
15
PHÁT TRIỂN NHÀ TP. HCM
00019.0001.1
04/10/06
33-39 Pasteur, Q1, TP. HCM
16
TOÀN CẦU
00026.0001.1
23/08/06
21 Phan Chu Trinh Hoàn Ki Hà Nội
17
GIA ĐỊNH
00016.0001.1
19/10/06
68 Bạch Đằng, Phường 24, Q Bỡnh Thạnh, TP.HCM
18
PHƯƠNG NAM
00015.0001.1
09/11/06
279 Lý Thường Kiệt, P.15, Q.11, TP. HCM
19
ĐỆ NHẤT
00022.0001.1
23/10/06
715 Trần Hưng Đạo, Q5, TP. Hồ Chớ Minh
20
PHƯƠNG ĐÔNG
00844.0001.1
27/10/06
45 Lờ Duẩn, P. Bến Nghộ, Q1, TP. HCM
21
AN BèNH
00983.0001.1
19/10/06
47 Điện Biờn Phủ, QI, TP Hồ Chớ Minh
22
VIỆT Á
00024.0001.1
05/10/06
119/121 Nguyễn Cụng Trứ, Q1, TPHCM
23
THÁI BèNH DƯƠNG
00997.0001.1
04/10/06
340H-340K Hoàng Văn Thụ, P4, Q Tõn Bỡnh, TP Hồ Chớ Minh
24
SÀI GềN
00012.0001.1
05/10/06
Số 193-203 Trần Hưng Đạo, P Cụ Giang, QI, TP Hồ Chớ Minh
25
SÀI GềN-HÀ NỘI
00998.0001.1
23/10/06
Số 138 đường 3/2, P Hưng Lợi, Q Ninh Kiều, TP Cần Thơ
26
NAM VIỆT
00027.0001.1
25/09/06
Số 39-41-43 Bến Chương Dương, QI, TP Hồ Chớ Minh
NHTM CP NễNG THễN
1
HẢI HƯNG
00032.0001.1
06/11/06
199 Nguyễn Lương Bằng, Thanh Bỡnh, TP. Hải Dương
2
ĐẠI Á
00028.0001.1
19/10/06
152 Cỏch mạng tháng 8, Biên Hoà, Đồng Nai
3
RẠCH KIẾN
00029.0001.1
23/10/06
Số 01 Thị tứ Long Hoà, Cần Đước, Long An
4
ĐỒNG THÁP MƯỜI
00030.0001.1
27/10/06
132-134 Nguyễn Huệ, Phường 2, Cao Lónh, Đồng Thỏp
5
MỸ XUYấN
00031.0001.1
15/11/06
248 Trần Hưng Đạo, TP. Long Xuyờn,An Giang
6
KIấN LONG
00033.0001.1
27/10/06
44 Phạm Hồng Thỏi, Rạch Giỏ Kiờn Giang
7
MIỀN TÂY
00987.0001.1
27/10/06
124 Lý Tự Trọng, Ninh Kiều, TP Cần Thơ
3.Danh sách các công ty tài chính tam gia Bảo hiểm tiền gửi Việt nam
STT
TấN TỔ CHỨC THAM GIA BHTG
SGCN
NGÀY CẤP
ĐỊA CHỈ
CễNG TY TÀI CHÍNH
1
CTTC DỆT MAY
941
41 Bến Chương Dương, Q1 TP HCM
2
CTTC CAO SU
30
210 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q3, TP.HCM
3
CTTC CễNG NGHIỆP TÀU THUỶ
1029
Hoàn Kiếm - Hà Nội
4
CTTC DẦU KHÍ
1034
34B-Hàn Thuyên - Hai Bà Trưng Hà Nội
21
CTY CHO THUấ TÀI CHÍNH II - NH NễNG NGHIỆP
1069
10/01/2005
422 Trần Hưng Đạo
4.Danh sách các ngân hàng liên doanh tham gia Bảo hiểm tiền gửi Việt nam
STT
TấN TỔ CHỨC THAM GIA BHTG
SGCN
NGÀY CẤP
ĐỊA CHỈ
NGÂN HÀNG LIấN DOANH
1
VID PUBLIC BANK
00034.0001.1
19/10/06
Tầng 7 số 53 Quang Trung, Hoàn Kiếm, HN
2
INDOVINA BANK
00036.0001.1
25/09/06
39 Hàm Nghi, Q1, TP. HCM
3
SHINHANVINA BANK
00999.0001.1
04/10/06
3-5 Hồ Tựng Mậu, Q1, TP. HCM
4
NHLD VIỆT THÁI
00035.0001.1
23/10/06
2 Phó Đức Chớnh, P. Nguyễn Thỏi Bỡnh, Q1, TP. HCM
5.Danh sách các Chi nhánh ngân hàng nước ngoài
STT
TấN TỔ CHỨC THAM GIA BHTG
SGCN
NGÀY CẤP
ĐỊA CHỈ
CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI
1
NATEXIS BANQUE
00048.0001.1
30/10/06
11 Công Trường Mờ Linh, Q1, TP. HCM
2
ANZ BANK
00037.0001.1
27/10/06
14 Lờ Thỏi Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội
3
STANDARD CHARTERED BANK- HANOI BRANCH
00047.0001.1
23/10/06
49 Hai Bà Trưng, Hà Nội
4
CITI BANK - HN BRANCH
00913.0001.1
27/10/06
17 Ngụ Quyền, Hà Nội
5
CHINFON BANK
00039.0001.1
05/10/06
14 Lỏng Hạ Ba Đỡnh, Hà Nội
6
MALAYAN BANK BERHAD
00038.0001.1
19/10/06
608 - 63 Lý Thỏi Tổ - Hoàn Kiếm, Hà Nội
7
BANGKOK BANK HCMC BRANCH
00040.0001.1
27/10/06
35 Nguyễn Hụờ, Q1, TP. HCM
8
SHINHAN BANK
00044.0001.1
05/10/06
41 Nguyễn Thị Minh Khai, Lầu 7, Q1, TP. HCM
9
HONGKONG & SHANGHAI BANK
00042.0001.1
05/10/06
235 Đồng Khởi, Q1, TP. HCM
10
UNITED OVERSEAS HCMC BRANCH
00041.0001.1
30/11/06
17 Lờ Duẩn, Q.1, TP. HCM
11
DEUTSCHE BANK AG
00046.0001.1
23/10/06
65 Lờ Lợi, Q.1, TP. HCM
12
BANK OF CHINA - HCMC BRANCH
00045.0001.1
23/10/06
115 Nguyễn Huệ, Q.1, TP. HCM
13
CALYON- HCM
00957.0001.1
19/10/06
21-23 Nguyễn Thị Minh Khai, Q1, TP. HCM
14
BANK OF TOKYO MITSUBISHI UFJ
00989.0001.1
27/10/06
Lầu 8, 5B Tôn Đức Thắng, Q1, TP. HCM
15
MEGA INTERNATIONAL COMMERCIAL BANK OF CHINA - HCMC
00043.0001.1
25/09/06
5B Tôn Đức Thắng, Q.1, TP. HCM
16
WOORI BANK
00928.0001.19
23/10/06
Tầng 11, Trung tõm TM Daeha, 360 Kim Mó, Hà Nội
17
KOREAN EXCHANGE BANK
00914.0001.1
19/10/06
Tầng 14, Trung tâm thương mại Deaha, 360 Kim Mó, Ba Đỡnh, Hà Nội
18
LIấN DOANH LÀO VIỆT - HN
00930.0001.1
06/11/06
17B Hàn Thuyờn, Hà Nội
19
CHINA TRUST BANK
00931.0001.1
04/10/06
37 Tôn Đức Thắng - Q1 - TP Hồ Chớ Minh
20
FIRST COMMERCIAL BANK HCM
00939.0001.1
05/10/06
Tầng 2 Số 88 Đồng Khởi, QI, TP Hồ Chớ Minh
21
FAR EAST NATIONAL BANK
00963.0001.1
04/10/06
2A/4A Tôn Đức Thắng, Q1, TPHCM
22
LIấN DOANH LÀO VIỆT - HCM
00941.0001.1
23/10/06
181 Hai Bà Trưng- TP Hồ Chớ Minh
23
HONGKONG & SHANGHAI BANKING CORP - HN
00966.0001.1
05/10/206
23 Phan Chu Trinh, Hoàn Kiếm, Hà Nội
24
CATHAY UNITED -CHU LAI
00982.0001.1
05/10/06
123 Trần Quý Cỏp Tam Kỳ Quảng Ngói
25
MALAYAN BANKING BERHAD
00981.0001.1
05/10/06
Tầng 9, 115 Nguyễn Huệ, TP Hồ Chớ Minh
26
SUMITOMO MITSUI BANKING
00995.0001.1
04/10/06
Tầng 9, 5B Tôn Đức Thắng, TP Hồ Chớ Minh
27
STANDARD CHARTERED- HCM
01000.0001.1
23/10/06
Tầng 2, 37 Tụn Đức Thắng, QI, TP Hồ Chớ Minh
28
BNP BARISBAS-HCM
01005.0001.1
23/10/06
29 Lờ Duẩn, QI, TP Hồ Chớ Minh
29
WOORI BANK - HCM
00988.0001.1
19/10/06
Phũng 1808, 115 Nguyễn Huệ, QI, TP Hồ Chớ Minh
30
MIZUHO CORPORATE BANK - HN
01017.0001.1
25/09/06
Tầng 4 tũa nhà 63, Lý Thỏi Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội
31
HUANAN COMMERCIAL BANK - HCM
01025.0001.1
15/11/06
10A-B Cống QUỳnh QI, TP Hồ Chớ Minh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bảo hiểm tiền gửi Việt nam (2005), Chiến lược phát triển Bảo hiểm tiền gửi Việt nam giai đoạn 2006- 2015.
2. Bảo hiểm tiền gửi Việt nam (2006), Báo cáo kết quả hoạt động 2006, phương hướng, nhiệm vụ 2007.
3.Bảo hiểm tiền gửi Việt nam (2007), Bảo hiểm tiền gửi Việt nam chuẩn bị trình Chính phủ hai đề án phí trên cơ sở rủi ro và tiếp nhận xử lý, trang 55- 56, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 21 (ra ngày 1/11/2007).
4. Huỳnh Kim Trí (2007), An toàn tín dụng: Cảnh báo và xử lý sớm nợ nhóm hai, trang 31- 32, tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 13 (ra ngày 1/07/2007).
5. Phạm Thị Hiền (2007), Phí Bảo hiểm tiền gửi từ góc nhìn của tổ chức tham gia Bảo hiểm tiền gửi, trang 13, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 8 (ra ngày 15/04/2007).
6. Nguyễn Mạnh Dũng (2007), Tính phí bảo hiểm tiền gửi theo mức độ rủi ro của ngân hàng xu hướng tất yếu của Việt nam trong hội nhập Quốc tế, trang 28- 35, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 6 (ra ngày 15/03/2007).
7. ThS. Lê Việt Nga (2007), Bảo hiểm tiền gửi dưới góc độ là hàng hóa công, trang 27- 29, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 10 (ra ngày 15/05/2007).
8. ThS. Nguyễn Anh Tuấn (2007), Tìm hiểu những hướng dẫn của ủy ban Basel về các nguyên tắc cơ bản trong quản lý và giám sát rủi ro tác nghiệp trong hoạt động ngân hàng, trang 35- 38, Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 19 (ra ngày 1/10/2007).
Các văn bản pháp luật
9. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (1999), Nghị định số 89/1999/NĐ- CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi.
10. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2005), Nghị định số 109/2005/NĐ- CP ngày 24/08/2005 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định số 89/1999/NĐ- CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về Bảo hiểm tiền gửi.
11. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (1999), Quyết định số 218/1999/QĐ- TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
12. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2003), Nghị định số 14/2003/NĐ- CP ngày 20/11/2003 về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương.
13. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (2000), Quyết định số 75/2000/QĐ- TTg ngày 28/06/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều lệ về tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt nam.
14. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam (1997), Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997.
Tài liệu nước ngoài
15. FDIC (1998), A Brief History of Deposit Insurance in US
16. Gilian G.H.Garcia (2000), Bảo hiểm tiền gửi thực tế và những định chế phù hợp, ũy tiền tệ Quốc tế- Washington DC.
17. Garcia G.G.H (1999), Deposit Insurance: A survey of Actual and best practices.
18. Kunt A. D and Kane E.J (2001), Deposit Insurance around the Globe: where does it work?, World Bank and Boston College.
19. Bradley C.M (2000), A historical perspective on Deposit Insurance Coverage.
Các website
20. Website của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt nam: www.div.gov.vn
21. Website của Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ: www.fdic.gov
22. Website của Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi quốc tế: www.iadi.org
23. Website của Tổng công ty Bảo hiểm tiền gửi Trung Ương Đài Loan: www.cdic.gov
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNH020.doc