Lời nói đầu
Hướng về xuất khẩu và trên cơ sở đó đề ra những mục tiêu cho nhập khẩu là một trong những chiến lược được nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong những năm gần đây. Điều này không chỉ do tầm quan trọng của xuất khẩu mà xuất phát từ tình hình phát triển kinh tế của nước ta hiện nay. Hướng về xuất khẩu giúp cho chúng ta phát triển nhanh về kinh tế và khắc phục được những khó khăn chúng ta đang gặp phải: thiếu công ăn việc làm, nghèn nàn về ngoại tệ, trình độ khoa học kỹ thuật thấp kém và
49 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1530 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chiến lược và kế hoạch xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặc biệt quan trọng là sự mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu.
Do vậy, việc đề ra chiến lược xuất nhập khẩu là hoàn toàn cần thiết. Trong phạm vi bài viết này, chúng em sẽ đề cập đến những thông tin khát quát nhất về tình hình xuất nhập khẩu của nước ta trong những năm vừa qua, đồng thời đưa ra những chiến lược quan trọng cho kế hoạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2010 đã được Đảng và Nước ta thông qua.
Do thời gian có hạn và do hạn chế trong việc thu thập thông tin, bài viết của chúng em chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Mong thầy cô giáo và các bạn xem xét và đóng góp ý kiến để bài viết hoàn chỉnh hơn.
Sinh viên thực hiện: Doãn Văn Thiệp
Lớp: Nhật 1 - K38F
Chương I
Đánh giá tổng quát hoạt động xuất - nhập khẩu thời kỳ 1991-2000
I. Những thành tựu đã đạt được
Nhìn chung, trong 10 năm qua, lĩnh vực xuất - nhập khẩu của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đạt khoảng 13, 5 tỷ USD, gấp 5, 6 lần kim ngạch xuất khẩu năm 1990 là 2, 4 tỷ USD. Nhịp độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 1991-2000 là 18, 4%/năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cùng kỳ (7, 6%/năm) khoảng 2, 6 lần.
Cơ cấu xuất khẩu đã được cải thiện theo hướng "tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định". Tỷ trọng sản phẩm chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu đã tăng từ 8% năm 1991 lên khoảng 40% vào năm 2000. Nếu như trong năm 1991, chúng ta mới có 4 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 100 triệu USD là dầu thô, thủy sản, gạo và hàng dệt may thì nay đã có thêm 8 mặt hàng nữa là cà phê, cao su, điều, giày dép, than đá, điện tử, thủ công mỹ nghệ và rau quả. Về một số mặt hàng, nước ta đã chiếm vị trí cao về giá trị xuất khẩu, mhư xuất khẩu gạo và cà phê đứng hàng thứ hai trên thế giới, hạt tiêu và hạt điều đứng thứ ba.
Về nhập khẩu, 95% kim ngạch nhập khẩu là tư liệu sản xuất, trong đó 26-27% là máy móc thiết bị, 68% là nguyên nhiên vật liệu. Hàng tiêu dùng chỉ chiếm khoảng 5% so với năm 1990 là 15%. Nhập siêu giảm cả về giá trị tuyệt đối lẫn tương đối: năm 1996, chúng ta còn nhập siêu gần 4 tỷ USD, tới năm 1999 chỉ còn khoảng 0, 2 tỷ USD. Tỷ trọng nhập siêu so với xuất khẩu đã giảm từ 33% trong kỳ 1991-1995 xuống còn 18% trong kỳ 1996-2000.
Một thành tựu nổi bật là chúng ta đã vượt qua được sự khủng hoảng thị trường vào đầu những năm 90 khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ, đã đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận và về cơ bản thực hiện được chủ trương "đa dạng hóa thị trường và đa phương hóa quan hệ kinh tế... tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới”. Ngày nay, nước ta có quan hệ thương mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ trong đó đã ký Hiệp định Thương mại với 61 nước. Chủ trương "gia nhập các tổ chức và hiệp hội kinh tế quốc tế khác khi cần thiết và có điều kiện” đã được thực hiện bằng việc gia nhập ASEAN năm 1995, ASEM năm 1996, APEC năm 1998 và trở thành quan sát viên WTO năm 1995.
Cơ chế quản lý đã được thay đổi đáng kể theo hướng mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, giảm dần hàng rào phi thuế, hạn chế cơ chế "xin- cho”, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và nâng cao vai trò của các công cụ vĩ mô như thuế, lãi suất, tỷ giá. Chính phủ cũng đã dành sự quan tâm đặc biệt cho hoạt động xuất khẩu thông qua các chương trình hỗ trợ như trợ cấp, trợ giá, lập Quỹ Hỗ trợ, Quỹ thưởng... Hành lang pháp lý từng bước được hoàn thiện, đặc biệt chúng ta đã thông qua được Luật Thương mại.
Những thành tựu trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Công cuộc đổi mới đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cơ cấu sản xuất chuyển dịch dần, từ đó thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cơ cấu xuất nhập khẩu.
- Xuất khẩu được đặt thành một nhiệm vụ trọng tâm. Các cơ chế chính sách ngày càng phù hợp, thông thoáng, đã tạo thuận lợi cho các ngành sản xuất, các địa phương và các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
- Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã góp phần đẩy lùi chính sách bao vây cấm vận và giúp cho việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu. Đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh doanh xuất nhập khẩu (từ 4% năm 1994 lên 22, 3% năm 1999, nếu kể cả dầu khí thì lên tới 35%).
II. Những vấn đề tồn tại
Hiện nay, quy mô xuất khẩu của Việt Nam còn quá nhỏ so với các nước khác trong khu vực. Giá trị xuất khẩu bình quân tính theo đầu người của Việt Nam vào khoảng 175 USD trong năm 2000, trong khi Malaysia vào năm 1996 đã đạt mức 3700 USD, Thái Lan 933 USD và Philippin là 285 USD. Riêng Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt 195 tỷ USD, mức bình quân đầu người đạt khoảng 163 USD.
Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu ngành hàng của Việt Nam hiện nay còn chưa bám sát với những dấu hiệu của thị trường thế giới, nên nhiều sản phẩm làm ra không có khả năng tiêu thụ. Khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hóa còn thấp do giá thành cao, chất lượng còn kém, mẫu mã chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Tỷ trọng hàng thô và sơ chế trong cơ cấu xuất khẩu còn khá cao. Trong số sản phẩm chế biến, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng lớn. Tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí tuệ cao còn rất nhỏ. Xuất khẩu dịch vụ còn thấp xa so với tiềm năng.
Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam có rất ít sự hiểu biết về thị trường bên ngoài, trong khi nhà nước lại chưa thể cung cấp được thông tin đầy đủ cho các doanh nghiệp. Vì vậy, hoạt động xuất khẩu hiện nay rất thụ động, chủ yếu do khách hàng tự tìm đến. Đối với một số thị trường, hàng xuất khẩu vẫn còn phải qua trung gian. Nhiều doanh nghiệp còn trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước và Nhà nước cũng chưa đưa ra được lộ trình giảm dần sự bảo hộ.
Việc hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới còn không ít lúng túng. Công tác quản lý nhà nước về thương mại tuy đã có nhiều sự cải tiến nhưng nhìn chung còn khá thụ động. Cho tới nay, chúng ta vẫn chưa hình thành được chiến lược tổng thể, chưa có lộ trình giảm thuế và hàng rào phi quan thuế dài hạn. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành địa phương tuy đã có chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung chưa tạo được sức mạnh tổng hợp. Chúng ta đang gặp phải tình trạng thiếu nghiêm trọng cán bộ quản lý có trình độ.
Những tồn tại trên bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
- Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, cơ cấu kinh tế nói chung còn lạc hậu, từ năm 1997 lại chịu tác động không ít của cuộc khủng hoảng trong khu vực.
- Nền kinh tế nước ta trên thực tế mới chuyển sang cơ chế thị trường và mới tiếp cận với thị trường toàn cầu trong khoảng mươi năm trở lại đây, trình độ cán bộ còn chưa theo kịp với nhu cầu nên không thể tránh khỏi bỡ ngỡ.
- Còn lúng túng trong việc đề ra cơ chế quản lý nhằm thực hiện phương châm hướng mạnh ra xuất khẩu và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt, nhiều chủ trương chính sách đã được ban hành nhưng việc triển khai thực hiện còn chậm và kém hiệu quả.
Chương II
Định hướng phát triển xuất - nhập khẩu thời kỳ 2001-2010
I. Tình hình trong nước, thế giới và những thuận lợi, khó khăn đặt ra cho hoạt động xuất nhập khẩu
Bước vào thời kỳ 2001-2010, thế và lực của Việt Nam đã khác hẳn so với 10 năm trước đây. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị trường được mở rộng. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, GDP bình quân đầu người năm 2000 mới đạt gần 400 USD. Cơ cấu kinh tế và trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu. Khả năng cạnh tranh còn thấp ở cả cấp độ quốc gia, doanh nghiệp lẫn sản phẩm.
Trên bình diện quốc tế, khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, đưa thế giới vào thời kỳ phát triển mới: thời kỳ kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Các ngành dịch vụ và các ngành kinh tế giàu hàm lượng chất xám phát triển mạnh. Khái niệm thương mại được mở rộng, bao gồm cả các sản phẩm hữu hình của nền sản xuất truyền thống lẫn các sản phẩm "mềm" của nền sản xuất dựa vào tri thức. Mức độ phổ cập của mạng Internet khiến tỷ trọng của thương mại điện tử tăng nhanh, qua đó thay đổi hẳn phương thức kinh doanh. Theo số liệu của UNCTAD thì nếu trong năm 1995, giá trị thương mại điện tử mới đạt 100 triệu USD thì đến năm 1999 đã là 180 tỷ USD và năm 2002 dự kiến sẽ lên tới khoảng 1. 234 tỷ USD.
Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa sẽ tiếp tục diễn biến với các mặt tích cực và tiêu cực của nó. Đặc biệt, cuộc khủng hoảng vừa qua cho thấy kinh tế thế giới và khu vực còn ẩn chứa nhiều nhân tố bất trắc. Không loại trừ khả năng sẽ còn xảy ra các cuộc khủng hoảng về kinh tế và tài chính mới.
Trong nền kinh tế thế giới, các nước công nghiệp phát triển vẫn giữ vị trí áp đảo. Mỹ sẽ tiếp tục là siêu cường hàng đầu, vừa cạnh tranh gay gắt, vừa tìm cách dung hòa lợi ích với Tây Âu, Nhật, Nga, Trung Quốc, và ở một chừng mực nào đó là ấn Độ, sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong nền kinh tế và thương mại thế giới. Khu vực châu á - Thái Bình Dương đang hồi phục nhanh chóng sau khủng hoảng, sẽ tiếp tục là một thị trường tiêu thụ rộng lớn và cùng châu Âu hình thành không gian kinh tế á - Âu (Eurasia).
Nhìn chung lại, vào thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam có những thuận lợi và khó khăn chủ yếu sau:
1. Về thuận lợi:
Như trên đã nói, "thế" và "lực" của nước ta đã khác trước. Các nguồn lực như lao động, đất đai, tài nguyên... còn khá dồi dào. Cơ sở hạ tầng được cải thiện hơn đã tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Với thế giới, ta đã có quan hệ kinh tế - thương mại với nhiều nước và nhiều tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Hàng hóa Việt Nam đã có mặt tại tất cả các nước lớn và các trung tâm kinh tế lớn. Quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam mở rộng thị trường để phát triển kinh tế và tăng cường quan hệ thương mại.
2. Về khó khăn, thách thức:
Chúng ta vẫn đang gặp phải những thách thức lớn, trực tiếp cản trở quá trình hội nhập:
- Nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển. Dự kiến 10 năm tới, GDP chỉ có thể tăng lên gấp đôi mức hiện nay. Cơ cấu sản xuất sẽ tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ hơn song nhìn chung còn lạc hậu so với chiều hướng phát triển của thế giới.
- Năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn thấp trong khi nước ta lại phải nhập cuộc đua tranh ngày càng gay gắt trên thị trường khu vực và thế giới, đặc biệt là khi chúng ta phải thực hiện các cam kết mở cửa thị trường của AFTA. Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu và công tác tham mưu về chiến lược, chính sách còn bất cập.
- Kinh tế thế giới và khu vực còn chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định, khó dự báo, có thể tác động tiêu cực tới nền kinh tế và hoạt động kinh doanh xuất - nhập khẩu của nước ta.
Nhìn toàn cục, nước ta đang có nhiều thuận lợi hơn so với khi bước vào thập kỷ 90. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể xem thường các thách thức, khó khăn trên, mà phải từng bước khắc phục để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu trong tương lai.
II. Mục tiêu và quan điểm phát triển xuất - nhập khẩu
Hoạt động xuất - nhập khẩu trong 10 năm tới cần phục vụ trực tiếp cho mục tiêu chung đã được thông qua tại Đại hội lần thứ IX của Đảng với nội dung cơ bản là: nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ, về nhập khẩu ưu tiên nhập khẩu các trang thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất - nhập khẩu, mở rộng và đa dạng hóa thị trường và phương thức kinh doanh, hội nhập hơn nữa vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Để hoàn chỉnh và triển khai Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010 và đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh xuất, nhập khẩu quán triệt những nội dung cơ bản và xúc tiến thực hiện những công việc dưới đây:
1. Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001 - 2010, nhất là xuất khẩu, phải là Chiến lược tăng tốc toàn diện trên nhiều lĩnh vực, phải có những khâu đột phá với bước đi vững chắc. Mục tiêu hành động của thời kỳ này là tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu; tạo nguồn hàng có chất lượng, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao để xuất khẩu; góp phần giải quyết việc làm cho xã hội, tạo nguồn dự trữ ngoại tệ, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế giữa nước ta và các nước trong khu vực.
2. Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001 - 2010 phải đạt mức tăng trưởng bình quân từ 15%/năm trở lên và phải đáp ứng các yêu cầu sau đây:
a) Cơ cấu xuất khẩu phải được chuyển dịch mạnh theo hướng gia tăng các sản phẩm chế biến, chế tạo, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao; bên cạnh đó, phải quan tâm khai thác các mặt hàng chủ yếu sử dụng nguyên, vật liệu tại chỗ, sử dụng nhiều lao động mà thị trường trong, cũng như ngoài nước có nhu cầu; đồng thời, phải khai thác mọi nguồn hàng có khả năng xuất khẩu; phấn đấu cân bằng cán cân thương mại vào những năm 2009-2010 và xuất siêu vào thời kỳ sau năm 2010.
b) Chú trọng nâng cao giá trị gia công và chất lượng từng sản phẩm xuất khẩu; giảm xuất khẩu hàng chế biến thô, tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu bằng công nghệ mới; giảm gia công, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu sử dụng nguyên, vật liệu chất lượng cao trong nước với công nghệ mới; cải thiện hệ thống hạ tầng cơ sở nuôi, trồng, sử dụng các loại giống cây, con có sản lượng, chất lượng cao và công nghệ chế biến thích hợp đi đôi với các biện pháp bảo vệ môi trường; phải có quy hoạch vùng nguyên liệu cho từng nhóm sản phẩm; quy trình quản lý sản xuất phải được tổ chức lại một cách khoa học và tiết kiệm nhất; từng bước xây dựng tiêu chuẩn chất lượng quốc gia cho các loại hàng hóa xuất khấu với nhãn hiệu "sản xuất tại Việt Nam".
c) Sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của thị trường thế giới, đặc biệt là yêu cầu về chất lượng, mẫu mã hàng hoá. Mỗi loại hàng hóa phải hình thành được các thị trường chính, chủ lực và tập trung khả năng mở rộng các thị trường này, đồng thời chủ động mở rộng sang các thị trường khác theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ buôn bán; phải có đối sách cụ thể với từng thị trường và từng bước giảm dần việc xuất khẩu qua các thị trường trung gian. Định hướng chung là tận dụng mọi khả năng để duy trì tỷ trọng xuất khẩu hợp lý vào các thị trường đã có ở Châu á, đặc biệt là thị trường Nhật, đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường có sức mua lớn như Mỹ, Tây Âu, thâm nhập, tăng dần tỷ trọng xuất khẩu vào các thị trường Đông Âu, Nga, SNG và khu vực châu Mỹ, châu Phi.
Công tác thị trường, xúc tiến thương mại có ý nghĩa rất quan trọng, phải được triển khai mạnh mẽ nhằm tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho xuất khẩu. Các chương trình xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cần được cụ thể hóa và gắn với hoạt động đối ngoại, tranh thủ ngoại giao hỗ trợ việc ký kết các Hiệp định khung, các thoả thuận và các Hợp đồng dài hạn có giá trị lớn với các quốc gia, các Tổ chức quốc tế, các thị trường lớn để tạo đầu ra ổn định và từ đó có cơ sở cho đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao giá trị nội địa hóa, giá trị gia tăng hàng xuất khẩu.
Theo chức năng của mình, các Bộ, ngành, các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài phải đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tăng cường hợp tác quốc tế để mở rộng thị trường xuất khẩu. Các Hiệp hội ngành hàng phải có vai trò tích cực trong việc phối hợp nỗ lực của các doanh nghiệp và hỗ trợ các doanh nghiệp tăng cường công tác tìm kiếm thị trường, khách hàng; xây dựng và thỏa thuận các chương trình hành động nhằm bảo vệ, nâng cao uy tín cũng như quyền lợi chung của Hiệp hội, của mỗi thành viên và của quốc gia trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
3. Nhập khẩu phải được định hướng chặt chẽ; tăng trưởng bình quân nhập khẩu cả thời kỳ 2001 - 2010 được duy trì ở mức 14%/năm; chú trọng nhập khẩu công nghệ cao để đáp ứng yêu cầu của các ngành chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản và sản xuất hàng công nghiệp nhẹ; đồng thời, phải gắn với việc phát triển, sử dụng các công nghệ, giống cây con và vật liệu mới được sản xuất trong nước.
Hạn chế việc nhập khẩu các sản phẩm trong nước đã sản xuất được và sản xuất có chất lượng, đạt tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế; tăng cường tiếp cận các thị trường cung ứng công nghệ nguồn và có khả năng đầu tư hiệu quả như Tây Âu, Mỹ, Nhật Bản.
Các chính sách, cơ chế điều hành nhập khẩu trong giai đoạn này phải được xem xét phù hợp với tiến trình thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế của Chính phủ ta với các Tổ chức quốc tế, khu vực và các cam kết đa phương, song phương khác.
4. Hiện nay, vai trò và khả năng của các ngành dịch vụ xuất khẩu, dịch vụ thu ngoại tệ chưa được đánh giá đầy đủ; phải coi đây là tiềm năng xuất khẩu cần được đẩy mạnh trong giai đoạn 2001 - 2010, trong đó chú trọng các lĩnh vực du lịch, xuất khẩu lao động, bưu chính - viễn thông, dịch vụ tài chính - ngân hàng - bảo hiểm, dịch vụ vận chuyển hàng hoá đường không, đường biển, đường sắt... ; hướng phát triển của các lĩnh vực này cần được thể hiện thành các chương trình cụ thể, trong đó cần quan tâm đầu tư để phát triển du lịch và đa du lịch nhanh chóng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Để đạt các mục tiêu trên, chính sách xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới cần tập trung vào các hướng:
Thứ nhất, dành ưu tiên cao cho hoạt động xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động, có thêm ngoại tệ.
Thứ hai, chủ động hội nhập hơn nữa vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Việt Nam cần xây dựng kế hoạch tổng thể và lộ trình cũng như các bước đi hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và quy định của các tổ chức mà ta tham gia.
Thứ ba, tập trung vào việc phát huy nội lực, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ tư, gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước.
Thứ năm, đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu, trong đó kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo.
III. Các chỉ tiêu cụ thể
1. Về quy mô và tốc độ tăng trưởng
1.1. Về xuất khẩu
a) Xuất khẩu hàng hóa:
Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006-2010 tăng 14%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 13, 5 tỷ USD năm 2000 lên 28, 4 tỷ USD vào năm 2005 và 54, 6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần 2000.
b) Xuất khẩu dịch vụ:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD vào năm 2005 và 8, 1 tỷ USD vào năm 2010, tức là gấp hơn 4 lần.
c) Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng từ khoảng 15, 5 tỷ USD vào năm 2000 lên 32, 4 tỷ USD vào năm 2005 và 62, 7 tỷ USD vào năm 2010.
1.2. Về nhập khẩu
a) Nhập khẩu hàng hóa:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 14%/năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 là 15% và thời kỳ 2006-2010 là 13%.
- Giá trị kim ngạch tăng từ khoảng 14, 5 tỷ USD năm 2000 lên 29, 2 tỷ USD năm 2005 (cả thời kỳ 2001-2005 nhập khẩu 112 tỷ USD) và 53, 7 tỷ USD vào năm 2010.
b) Nhập khẩu dịch vụ:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 11%/năm.
- Giá trị tăng từ khoảng 1, 2 tỷ USD năm 2000 lên 2, 02 tỷ USD năm 2005 và 3, 4 tỷ USD năm 2010.
c) Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15, 7 tỷ USD năm 2000 lên 31, 2 tỷ USD năm 2005 và 57, 14 tỷ USD năm 2010.
Như vậy, trong 5 năm đầu (2001-2005), nhập siêu về hàng hóa giảm dần, mỗi năm bình quân 900 triệu USD và cả thời kỳ là 4, 73 tỷ USD, 5 năm sau (2006-2010) nhập siêu tiếp tục giảm. Đến năm 2008, chúng ta sẽ cân bằng cán cân xuất nhập khẩu hàng hóa và phấn đấu xuất siêu khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010. Nếu tính cả xuất khẩu dịch vụ thì tới năm 2002, chúng ta sẽ cân bằng xuất nhập khẩu và bắt đầu xuất siêu, với mức xuất siêu dự kiến năm 2010 đạt khoảng 5, 5 tỷ USD.
2. Về cơ cấu hàng hóa xuất - nhập khẩu và cơ cấu dịch vụ
2.1. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu
Cơ cấu xuất khẩu hàng hóa trong 10 năm tới cần được chuyển dịch theo hướng chủ yếu sau:
- Trước mắt, huy động mọi nguồn lực hiện có để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ.
- Cần chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô.
- Mặt hàng, chất lượng, mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của từng thị trường.
- Chú trọng việc gia tăng các hoạt động dịch vụ.
Theo các hướng nói trên, chính sách các nhóm hàng có thể hình dung như sau:
2.1.1. Nhóm nguyên nhiên liệu
Hiện nay nhóm này, với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá, đang chiếm khoảng trên 20% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Sau khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động, lượng dầu thô xuất khẩu sẽ giảm dần. Dự kiến vào năm 2005, lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam chỉ còn khoảng gần 12 triệu tấn, so với hiện nay là 16 triệu tấn. Tới năm 2010 có hai phương án, tùy thuộc vào lượng khai thác:
- Nếu khai thác 14 - 16 triệu tấn thì sẽ sử dụng trong nước khoảng 12 triệu tấn, xuất khẩu 2 - 4 triệu tấn.
- Nếu khai thác 20 triệu tấn thì có khả năng xuất khẩu khoảng 8 triệu tấn.
Dù theo phương án nào thì kim ngạch dầu thô cũng sẽ giảm đáng kể vào năm 2010 (theo phương án 1 thì tỷ trọng dầu thô trong giá trị xuất khẩu dự kiến sẽ chỉ còn dưới 1% so với 22% hiện nay; theo phương án 2 thì tỷ lệ đó sẽ còn khoảng 3%). Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Australia, Singgapore, Nhật Bản và Trung Quốc, có thể thêm Hoa Kỳ.
Việc giảm xuất khẩu dầu thô sẽ đi đôi với việc giảm nhập khẩu sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài. Dự kiến đến năm 2010, sản xuất trong nước sẽ đáp ứng được gần 80% nhu cầu về sản phẩm dầu và khí, tức là khoảng 13 triệu tấn sản phẩm/năm, trị giá trên 3 tỷ USD. Nhập khẩu xăng dầu vào năm 2010 chỉ còn khoảng 4 triệu tấn, giảm 50% so với 8 triệu tấn hiện nay.
Về than đá, dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể do xây các nhà máy nhiệt điện mới nên dù sản lượng có thể lên tới 15 triệu tấn/năm (hiện nay là 10-12 triệu tấn/năm), xuất khẩu cũng sẽ chỉ dao động ở mức 4 triệu tấn/năm trong 10 năm tới, mang lại kim ngạch mỗi năm khoảng 120-150 triệu USD. Nhiệm vụ chủ yếu trong những năm tới là cố gắng duy trì những thị trường đã có như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu... và tăng cường thâm nhập vào các thị trường Thái Lan, Hàn Quốc...
Khả năng tăng xuất khẩu các loại khoáng sản khác để bù vào thiếu hụt của dầu thô là rất hạn chế. Cho đến năm 2010, quặng Apatit khai thác ra chỉ có thể đáp ứng một phần cho nhu cầu sản xuất phân bón, chưa có khả năng tham gia xuất khẩu. Quặng sắt khó có khả năng xuất khẩu với số lượng lớn bởi nhu cầu trong nước sẽ tăng mạnh. Đất hiếm có trữ lượng thương mại không nhiều, việc xuất khẩu lại rất khó khăn do công nghệ chế biến phức tạp, cung cầu thế giới đã ổn định. Các loại quặng khác trữ lượng đều không đáng kể.
Như vậy, tới năm 2005, nhóm nguyên nhiên liệu có khả năng chỉ còn đóng góp được khoảng 9% kim ngạch xuất khẩu (2, 5 tỷ USD) so với trên 20% hiện nay. Đến năm 2010, tỷ trọng của nhóm này sẽ giảm xuống còn chưa đầy 1% (dưới 500 triệu USD) hoặc 3, 5% (khoảng 1, 75 tỷ USD), tùy theo phương án khai thác dầu thô. Vì vậy, việc tìm ra các mặt hàng mới để thay thế là một thách thức lớn đối với việc gia tăng xuất khẩu.
2.1.2. Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản
Hiện nay nhóm này đang chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, chè, rau quả, thủy sản, hạt tiêu và nhân điều. Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính cơ cấu (như diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh bắt có hạn... ) và thời tiết nên theo dự thảo Chiến lược chung, tốc độ tăng trưởng của nhóm này sẽ chỉ ở mức 4%/năm trong toàn kỳ 2001-2010. Bên cạnh đó, nhu cầu của thị trường thế giới cũng có hạn, giá cả lại không ổn định. Vì vậy, dù kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nhóm sẽ giảm dần xuống còn 22% tương đương 5, 85 tỷ USD vào năm 2005 và 17, 2% tương đương 8-8, 6 tỷ USD vào năm 2010.
Hướng phát triển chủ đạo của nhóm hàng này trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Để đạt mục tiêu này, cần có sự đầu tư thích đáng vào khâu giống và công nghệ sau thu hoạch, kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển... để tạo ra những đột phá về năng suất và chất lượng sản phẩm.
Hạt nhân tăng trưởng của nhóm sẽ là thủy sản bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thị trường thế giới tăng khá ổn định, thuế suất thấp. Năm 1985, xuất khẩu thủy sản thế giới mới đạt 17, 2 tỷ USD, tới năm 1995 đã đạt 52 tỷ USD, tức là tăng bình quân mỗi năm trên 13%. Với sản lượng dự kiến đạt 3, 7 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sẽ đạt 2, 5 tỷ USD vào năm 2005 và 3, 2-3, 5 tỷ USD vào năm 2010, chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nông lâm hải sản. Thị trường chính sẽ là Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc... Để bảo đảm tốc độ tăng trưởng ổn định cho mặt hàng này, chúng ta cần tiếp tục chú trọng đầu tư để phát triển đánh bắt xa bờ và nuôi trồng, chuyển từ quảng canh sang thâm canh, phát triển những mặt hàng có kim ngạch cao như tôm, nhuyễn thể. Công nghệ sau thu hoạch cũng cần có sự quan tâm thỏa đáng để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và vệ sinh thực phẩm của sản phẩm xuất khẩu.
Về gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/năm, nhiều nước nhập khẩu nay chú trọng đến an ninh lương thực, thâm canh tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập khẩu, nên trong suốt thời kỳ 2001-2010 nhiều lắm Việt Nam sẽ chỉ có thể xuất khẩu được khoảng 4 - 4, 5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm khoảng trên 1 tỷ USD. Để nâng cao hơn nữa kim ngạch, chúng ta cần đầu tư để cải thiện cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu, khai thác các thị trường mới (như Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ) và ổn định các thị trường đã có như Indonesia, Philippines... , nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị trường, tăng hiệu quả xuất khẩu gạo.
Về nhân điều, xuất khẩu có thể tăng kim ngạch từ 115 triệu USD năm 2000 lên tới khoảng 400 triệu USD hay cao hơn vào năm 2010 vì nhu cầu còn lớn, liên tục tăng, và tiềm năng của nước ta còn lớn. Một số dự báo cho thấy nhu cầu sẽ tăng bình quân 7%/năm trong 10 năm tới và sẽ đạt mức 160-200. 000 tấn, giá xuất khẩu cũng tăng, từ 3. 799 USD/tấn năm 1994 lên 5. 984 USD/tấn. Thị trường chủ yếu là Mỹ, EU, Australia, Trung Quốc.
Hạt tiêu xuất khẩu trên thế giới khoảng 200. 000 tấn/năm, giá cả dao động lớn. Ta có khả năng mở rộng sản xuất, gia tăng sản lượng, từ đó có khả năng tăng lên thành 230-250 triệu USD so với 160 triệu USD hiện nay. Thị trường chủ yếu là Châu Âu, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Trung Đông.
Về các loại rau, hoa và quả khác, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 182/1999/QĐ-TTg ngày 03/9/1999 phê duyệt đề án phát triển đến năm 2010, theo đó kim ngạch xuất khẩu rau, hoa và quả sẽ được đưa lên khoảng 1, 2 tỷ USD với thị trường là Nhật, Nga, Trung Quốc, Châu Âu. Nếu có quy hoạch các vùng chuyên canh và đầu tư thỏa đáng vào các khâu như giống, kỹ thuật trồng và chăm sóc, công nghệ sau thu hoạch... thì thậm chí có thể thực hiện vượt mục tiêu trên, đạt kim ngạch 1, 6 tỷ USD.
Về cà phê, do sản lượng và giá cả phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết nên rất khó dự báo chuẩn xác về khối lượng và giá trị xuất khẩu trong những năm tới. Nếu thuận lợi, xuất khẩu có thể đạt 750 ngàn tấn vào năm 2010 với kim ngạch khoảng 850 triệu USD, đưa Việt Nam vượt qua Colombia để trở thành nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai trên thế giới. Để đạt giá trị cao, nên chú trọng phát triển cà phê chè (Arabica), tự tổ chức hoặc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê rang xay và cà phê hòa tan. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ, Singapore và Nhật Bản. Nói chung, xuất khẩu cà phê sẽ không gặp khó khăn lớn về thị trường nhưng về giá cả sẽ khó ổn định.
Với hai mặt hàng quan trọng còn lại là cao su và chè, Chính phủ đều đã có đề án phát triển. Tuy nhiên, cần tính lại vấn đề phát triển cao su vì nhu cầu của thế giới tăng chậm, chỉ trên 2%/năm (năm 2000, nhu cầu thế giới là khoảng 7 triệu tấn), giá cả có xu hướng xuống thấp. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt 500 triệu USD vào năm 2010. Nhu cầu chè trên thế giới tiếp tục tăng, hiện nay đạt mức 1, 3 triệu tấn/năm. Ta có tiềm năng phát triển, có thể đưa kim ngạch chè lên mức 200 triệu USD, tức là gấp 4 lần hiện nay, trong đó cần nỗ lực tăng tỷ trọng chè chất lượng cao cho các thị trường khó tính như Nhật Bản, Đài Loan, Trung Đông đi đôi với việc tăng cường hợp tác đóng gói tại Nga để đẩy mạnh tiêu thụ trên thị trường này.
Về thịt, hiện nay sản lượng của nước ta còn rất nhỏ bé (chỉ bằng 0, 7% của thế giới), chất lượng còn xa so với nhu cầu trên thị trường thế giới. Muốn gia tăng xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi thì khâu then chốt là đầu tư vào khâu nâng cao chất lượng vật nuôi phù hợp vớ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34024.doc