Lời nói đầu.
Thị trường vốn là yếu tố cơ bản nhất của nền kinh tế hiện đại, đóng vai trò quan trọng sống còn đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia, giá cả của thị trường này phản ánh hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế thiếu vắng một thị trường vốn được vận hành hiệu quả. Điều này cản trở các luồng vốn đến được với những doanh nghiệp có khả năng sinh lời làm trì trệ sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế. Không may mắn là thị trường vốn của các nền kinh tế
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1758 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Chiến lược phát triển thị trường vốn của Việt Nam trong tương lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyển đổi lại đang ở giai đoạn rất sơ khai của tiến trình phát triển vì nhiều lý do khác nhau liên quan đến kinh tế, văn hoá và chính sách. Việt Nam là một trong những quốc gia không nằm ngoài những khó khăn và vấn đề do sự thất bại của thị trường gây nên tương tự như các thị trường vốn đang phát triển khác.
So với các nước khác, chúng ta đã chậm trễ rất nhiều trong việc định hình và phát triển thị trường vốn. Hơn nữa, cho tới nay những vấn đề cơ bản của thị trường này vẫn chưa được giải quyết, trong khi đó, nhu cầu của nền kinh tế đòi hỏi phải nhanh chóng thúc đẩy quá trình tạo lập và giao lưu vốn, đặc biệt là sớm định hình thị trường vốn ở nước ta. Là một yếu tố cấu thành đặc biệt quan trọng của nền kinh tế thị trường và nó cũng có đầy đủ các đặc trưng của một thị trường, nó tồn tại là khách quan và ra đời tự phát trong nền kinh tế thị trường. Nhiệm vụ của chúng ta là phải kịp thời nắm bắt được nhu cầu khách quan, nghiên cứu và nhanh chóng đề ra các biện pháp, chính sách kích thích nhanh quá trình hình thành và điều chỉnh xu hướng hoạt động của thị trường đặc biệt này vào quĩ đạo hoạt động có tổ chức và sử dụng hết các ưu thế, tác dụng của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội với mục đích cung ứng kịp thời các nguồn vốn cho các nhu cầu về vốn đầu tư của nền kinh tế.
Trước thực trạng trên, là sinh viên chuyên ngành thị trường chứng khoán em quyết định chọn đề tài: "Chiến lược phát triển thị trường vốncủa Việt Nam trong tương lai", với hy vọng qua đây sẽ được biết thêm về lý luận của thị trường vốn nói chung và thực tiễn hoạt động của thị trường vốn ở Việt Nam nói riêng.
Em xin chân thành cảm ơn giáo viến TS. Đào Hùng đã hướng dẫn em trong quá trình nghiên cứu.
Sinh viên: Hoàng Thị Thanh Huyền
Chương 1. Giới thiệu tổng quan về thị trường vốn.
1.1. Thị trường vốn.
Thị trường tài chính được phân chia làm 2 bộ phận : thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Việc phân chia này dựa vào nhiều căn cứ khác nhau, nhưng quy lại có 2 căn cứ khác nhau :
+Dựa vào thời gian sử dụng vốn vay của người đi vay và thời gian cho vay của người tích luỹ. Theo tiêu chuẩn này, người ta phân biệt hai loại vốn : vốn ngắn hạn và vốn dài hạn. Các nguồn vốn ngắn hạn vận động không tập trung chủ yếu là các phương tiện thanh toán và được quy thành đối tượng của thị trường tiền tệ. Các nguồn vốn dài hạn vận động tập trung thành các kênh lớn và có khối lượng lớn, để đáp ứng nhu cầu đầu tư vào sản xuất, kinh doanh và được tụ lại trên các điểm giao dịch vốn lớn, được coi là đối tượng của thị trường vốn.
+ Dựa vào hình thức vận động của các nguồn tài chính.Dựa vào các hình thức này người ta phân làm hai loại : vận động gián tiếp và vận động trực tiếp. Tương ứng với hai hình thức vận động nói trên của các nguồn vốn là hai dạng thị trường : thị trường tiền tệ (chuyên môn hoá các công cụ tài chính gián tiếp ) và thị trường vốn ( chuyên môn hoá của các công cụ tài chính trực tiếp ).
Các công cụ trao đổi trên thị trường vốn là các chứng khoán, nên thị trường vốn còn được gọi là thị trường chứng khoán ( hay thị trường tư bản ). Nhưng nhận định trên chưa thống nhất vì vẫn còn tồn tại hai quan điểm đối lập nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn là một, chỉ là tên gọi khác nhau của một khái niệm: thị trường tư bản (Capital Market ). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. Thị trường chứng khoán là biểu hiện bên ngoài, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản.
Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: “Thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Như vậy theo quan điểm này, thị trường chứng khoán và thị trường vốn là khác nhau, trong đó thị trường chứng khoán chỉ giao dịch, mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của thị trường chứng khoán.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều kiện lịch sử nhất định. Tuy nhiên, quan điểm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của thị trường vốn hiện nay, được trình bày trong giáo trình là: “Thị trường vốn là thị trường trong đó diễn ra việc mua bán các công cụ vay nợ dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu”.
Nếu nhìn nhận từ bên ngoài thì thị trường vốn không chỉ là các sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá trị từ trong tay của một chủ thể này sang tay của một chủ thể khác một cách đơn thuần. Về thực chất đây là quá trình vận động tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. Do đó, các quan hệ mua, bán các chứng khoán trên thị trường chứng khoán phản ánh sự thay đổi các chủ thể sở hữu về chứng khoán. Vì vậy, thị trường vốn, xét về mặt bản chất, phản ánh các quan hệ trao đổi mua, bán không phải một số lượng nhất định các tư liệu sản xuất và vốn tiền mặt.
Nghiên cứu thị trường vốn, chúng ta không thể không đề cập đến những nội dung cơ bản gắn liền đến hoạt động của thị trường chứng khoán.
1.2. Cơ cấu thị trường vốn.
Có thể phân biệt hai dạng cơ cấu của thị trường vốn căn cứ vào các bộ phận cấu thành và vào tổ chức của thị trường vốn
1.2.1. Các bộ phận cấu thành thị trường vốn.
Về mặt lý thuyết, thị trường vốn bao gồm 3 bộ phận sau đây:
+ Thị trường chứng khoán Nhà nước
+ Thị trường trái phiếu
+ Thị trường cổ phiếu
Tuy nhiên, trong thực tế, ở mỗi nước, cơ cấu thị trường có khác. ví dụ, ở Malaysia có thị trường chứng khoán Nhà nước, nhưng ở Nhật, Pháp, Anh, Mỹ thì lại không có, mà chủ yếu là hai thị trường là thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu.
Thị trường chứng khoán Nhà nước là nơi diễn ra các hoạt động mua và bán các chứng khoán Nhà nước ( các giấy ghi nợ của Nhà nước: phiếu công trái, tín phiếu kho bạc Nhà nước dài hạn và các chứng chỉ đầu tư ). Thị trường chứng khoán Nhà nước hoạt động tương đối ổn định và có tỷ trọng khá cao trong thị trường chứng khoán. Có thể giải thích bằng các lý do chủ yếu như: các chứng khoán Nhà nước có lãi suất cố định; ngân sách Chính phủ luôn bội chi và do đó Nhà nước vay nợ của dân ngày càng nhiều và có số lượng lớn. Do đó, thị trường này được coi là chỉ dẫn mức nợ trong nước của Chính phủ ( Mỹ và Anh là hai nước có mức nợ trong nước lớn nhất thế giới ).
Thị trường trái phiếu là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua và bán các trái phiếu ( các chứng khoán có lãi suất cố định ). Đây là loại thị trường gặp ít rủi ro, mạo hiểm hơn, vì các chứng khoán để giao dịch có lãi suất cố định và có thời hạn hoàn vốn được ấn định trước. Trường hợp công ty bị phá sản, thì trái phiếu cũng là một món nợ mà công ty cần phải ưu tiên thanh toán trước. Nhưng người ta ít nói đến thị trường này, vì giá cả của trái phiếu rất ít khi biến động, so với các thị trường khác như: thị trường cổ phiếu.
Thị trường cổ phiếu là nơi thực hiện quá trình mua và bán các cổ phiếu. Đây là thị trường có dung tích cao nhất và là hạt nhân cơ bản của thị trường chứng khoán. Thị trường cổ phiếu gặp nhiều rủi ro và mạo hiểm, cho nên quy mô và phạm vi hoạt động của nó cũng luôn luôn thay đổi. Thị trường này rất nhạy cảm với những biến động về kinh tế như: lạm phát, khủng hoảng, thất nghiệp, chiến tranh…Lý do cơ bản nhất để giải thích ở đây, vì lãi suất cổ phiếu phụ thuộc vào tình hình sản xuất, kinh doanh của các con nợ – người kinh doanh. Lợi nhuận kinh doanh càng cao, thì xí nghiệp càng có nhiều khả năng trả lợi tức cổ phần cao. Do đó, già trị của xí nghiệp có ảnh hưởng lớn đến giá trị cổ phận. Thị trường cổ phiếu thường có doanh số cao nhất về trao đổi cổ phiếu so với các dạng thị trường khác. Vì vậy, thị trường này là bộ phận cấu thành cơ bản của thị trường chứng khoán. Nói thị trường chứng khoán phát triển, tức là nói đến thị trường cổ phiếu phát triển, hoặc xây dựng thị trường chứng khoán, xét cho cùng là xây dựng và thiết lập thị trường các cổ phiếu.
1.1.2. Cơ cấu tổ chức của thị trường vốn.
Cơ cấu tổ chức của thị trường vốn, trước hết, gồm: hệ thống các ngân hàng, các tổ chức tài chính khác và Sở giao dịnh chứng khoán. Thực chất, đây chính là các tổ chức tài chính trung gian làm nghiệp vụ môi giới chứng khoán. Nói đến thị trường chứng khoán, nhiều người cho rằng đây là Sở giao dịch chứng khoán. Thực ra các hoạt động giao dịch chủ yếu diến ra trên Sở giao dịch. Nhưng về mặt lý thuyết, người ta thường phân ra làm hai nấc: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
+ Thị trường sơ cấp hay thị trường 1 ( Primary Market ) là thị trường phát hành các chứng khoán hay là nơi mua bán các chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát hành. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc phát hành chứng khoán, Chính phủ có thêm nguồn thu để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc chi tiêu dùng của Chính phủ, các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
+ Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 ( Secondary Market ) là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản xã hội
Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thể hiện trên giác độ sau:
Thứ nhất: thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của các chứn khoán đã phát hành. Việc này làm tăng sự ưa chuộng của chứng khoán và làm rủi ro cho các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn, thay đổi kết cấu danh mục đầu tư, trên cơ sở đó làm giảm chi phí cho các nhà phát hành trong việc huy động và sủ dụng vốn.
Việc tăng tính lỏng cho các chứng khoán tạo điều kiện cho việc chuyển đổi thời hạn của vốn, từ vốn ngắn hạn sang trung hạn và dài hạn, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân phối vốn một cách hiệu quả.
Thứ hai: thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá các công ty.
Thứ ba: thị trường thứ cấp cung cấp một danh mục chi phí vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở tham chiếu cho các nhà phát hành cũng như các nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp.
Tóm lại: thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Về bản chất, mối quan hệ giữa thị trường vốn sơ cấp và thị trường vốn thứ cấp là mối quan hệ nội tại, biên chứng. Nếu không có thị trường sơ cấp thì sẽ không có thị trường thứ cấp, đồng thời, thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Mục đích cuối cùng của các nhà quản lý là phải tăng cường hoạt động, huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ có tại thị trường này, vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp chỉ là tư bản giả, không tác động trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
1.3. Các công cụ tham gia thị trường vốn.
Công cụ thị trường vốn là công cụ nợ và cổ phần với kỳ hạn thanh toán trên 1 năm. Chúng có giao động giá rộng hơn nhiều so với công cụ trên thị trường tiền tệ và được coi là những đầu tư thực sự có rủi ro. Về mặt lịch sử, các công cụ của thị trường vốn có tên chung là các chứng khoán dài hạn. Chứng khoán dài hạn cũng có rất nhiều loại, để thuận tiện cho việc nghiên cứu, cần thiết phải phân biệt chúng theo những đặc điểm nhất định.
Trước hết, chứng khoán là các giấy tờ có giá và có khả năng chuyển nhượng, xác định số vốn đầu tư ( tư bản đầu tư ); chứng khoán xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ hợp pháp, bao gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời hạn nào đó. Tuỳ theo cách chọn tiêu thức, người ta có thể phân loại chứng khoán thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên cách phân chia dựa vạo khả năng thu nhập là chủ yếu và thường gặp. Căn cứ vào từng loại thu nhập, chứng khoán được chia làm các loại sau:
+ Chứng khoán có thu nhập cố định
+ Chứng khoán có thu nhập biến đổi
+ Chứng khoán hỗn hợp
1.3.1. Chứng khoán có thu nhập cố định
Là loại chứng khoán có quyền yêu cầu thu nhập cố định, đây là loại giấy ghi nợ có xác định tỉ lệ tiền lãi hàng năm phải trả cho người sở hữu. Thu nhập của loại chứng khoán này không phụ thuộc vào kết quả hoạt động của nhà phát hành. Nó có thể là chứng khoán vô danh hoặc là chứng khoán đích danh, có thể là tín phiếu, trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi. Đối với chứng khoán có thu nhập cố định, lợi tức thường được trả theo quý, theo kỳ hạn nửa năm hoặc 1 năm. Mỗi loại chứng khoán có quy định thời hạn trả lợi tức khác nhau. Nếu trong khoảng thời gian trả lợi tức có sự thay đổi quyền sở hữu đối với các chứng khoán này thì phần lợi tức sẽ được thanh toán cho người thụ hưởng tuỳ thuộc thời điểm mua bán và thời điểm trả lợi tức theo quy định của pháp luật.
Theo đối tượng phát hành, chứng khoán có thu nhập cố định bao gồm những loại chủ yếu sau:
+ Trái phiếu Nhà nước
+ Trái phiếu của chính quyền địa phương
+ Trái phiếu cầm cố
+ Trái phiếu công nghiệp ( trái phiếu công ty )
+ Trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm
+ Tín phiếu kho bạc
Trái phiếu chính phủ : Trái phiếu chính phủ do chính phủ hoặc những ngành đặc biệt như ngành giao thông, bưu điện, xi măng, điện được Chính phủ uỷ quyện phát hành. Những trái phiếu này được phát hành nhằm bù đắp sự thiếu hụt ngân sách hoặc để xây dựng các công trình công cộng hoặc để giải quyết những khó khăn về tài chính.Trái phiếu chính phủ được bảo đảm chắc chắn bởi uy tín của chính phủ và tài sản của quốc gia, trái phiếu chính phủ có khả năng cầm cố và chuyển nhượng.
Trái phiếu địa phương:là khoản vay của chính quyền địa phương ( thành phố, tỉnh hoặc vùng dân cư đối với các tổ chức và cá nhân.Bên cạnh trái phiếu chính quyền địa phương còn huy động vốn bằng cách vay vốn của các ngân hàng.
Trái phiếu cầm cố:là giấy ghi nợ có đảm bảo bằng tài sản cầm cố của chính quyền địa phương đối với ngân hàng khi nhận tiền vay dài hạn.
Bên cạnh trái phiếu cầm cố ( hay còn gọi là khế ước vay nợ).Khi vay dài hạn ngân hàng ,chính quyền địa phương có thể phát hành trái phiếu công cộng(vì mục đích vay là để đầu tư cho các công trình công cộng), loại trái phiếu này tuy không ghi vật cầm cố, nhưng trên thực tế chính quyền phải đảm bảo trả nợ bằng mọi tài sản của mình ( các nguồn thu thuế và sẽ có).
Trái phiếu công nghiệp ( trái phiếu công ty ) : trái phiếu công nghiệp do các công ty cổ phần và các xí nghiệp lớn phát hành đưa vào thị trường vốn dưới dạng những phiếu nợ và được đảm bảo bằng thu nhập hoặc tài sản của công ty. Về nguyên tắc trái phiếu công nghiệp được phát hành với lãi suất cao hơn so với những chứng khoán có thu nhập cố định trên trong cùng một thời điểm. Các công ty muốn phát hành trái phiếu phải được Nhà nước cấp giấy phép ( thông qua uỷ ban chứng khoán Quốc gia ).
Việc phát hành trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm nhằm tạo ra nguồn vốn tín dụng cho chính các tổ chức này hoặc cho các tổ chức tín dụng có liên quan. Trái phiếu tín dụng và tín phiếu quỹ tiết kiệm được chia ra theo các thời hạn khác nhau với lãi suất khác nhau.Những tín phiếu quỹ tiết kiệm thường bị khống chê bởi giới hạn trả lãi. Mua trái phiếu ngân hàng và tín phiếu quỹ tiết kiệm có lợi là không phải trả lệ phí và được bảo hiểm.
Tín phiếu kho bạc: là loại giấy ghi nợ của kho bạc khi huy động vốn để bổ sung quỹ ngân sách, có thu nhập cố định có thời hạn từ 6 tháng đến 1 năm do hệ thống kho bạc Nhà nước phát hành.Do có rủi ro thấp, tỷ lệ lợi tức của tín phiếu kho bạc thấp hơn tỷ lệ lợi tức trên thị trường vốn trong cùng thời điểm. Tin phiếu kho bạc được hệ thống kho bạc Nhà nước mua vào và bán ra khuôn khổ của hoạt động thị trường mở nhằm mục đích điều chỉnh thị trường tiền tệ.
1.3.2. Chứng khoán có thu nhập thay đổi:
Cổ phiếu thường đại diện cho loại chứng khoán có thu nhập biến đổi. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu mạng lại gọi là cổ tức ( hay lợi tức cổ phần), nó biến động theo kết quả kinh doanh của công ty. Hình thức khác của loại chứng khoán này là phiếu tham gia hay chứng chỉ đầu tư. Loại này khác với cổ phiếu thông thường ở chỗ, nó không được quyền tham gia giám sát hoạt động của công ty. Khi phát hành chứng chỉ đầu tư, công ty có thể huy động được vốn vô thời hạn, không chịu rủi ro về chi trả lợi tức cố định như cổ phiếu ưu đãi hay trái phiếu, song không bị pha loãng quyền kiểm soát của cổ đông.
1.3.3. Chứng khoán hỗn hợp:
Loại chứng khoán này vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập cố định vừa mang tính chất cuả chứng khoán có thu nhập biến đổi. Việc phát hành loại chứng khoán này nhằm để thích ứng với nhu cầu đặc biệt của thị trường vốn.
Để nhận ra các công cụ được sử dụng trong thị trường vốn, có thể tham khảo bảng phân loại những công cụ của thị trường này( bảng 1) bởi vì, nói chung trong thị trường vốn sơ cấp phải sử dụng các giấy chứng nhận, mà khi ở độ phát triển nhất định, các giấy chứng nhận đó được mua bán ở thị trường thứ cấp.
Bảng 1 thể hiện tính đa dạng của các công cụ của thị trường vốn, song đồng thời chia ra 2 bộ phận của thị trường vốn là thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu
1.4. Mục tiêu thành lập thị trường vốn
Thị trường vốn đóng vai trò quan trọng sống còn đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Thị trường vốn phát triển ở mức độ cao không chỉ nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ( khu vực tài sản thực của nền kinh tế ) thông qua việc tạo điều kiện cho việc chuyển nhượng các quỹ vốn cho các doanh nghiệp với các cơ hội đầu tư hấp dẫn, mà còn cho phép sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quản lý của các công ty. Thị trường vốn cung cấp cho các nhà đầu tư một công cụ hữu hiệu cho việc ra quyết định đầu tư tôí ưu, phù hợp với thứ tự ưu tiên của nhà đầu tư về rủi ro hay lợi nhuận. Từ đó, thị trường vốn cung cấp một bộ máy thể chế thích hợp cho việc huy động tài sản cá nhân và phân bổ tài sản đó cho các doanh nghiệp (khu vực tài sản thực ) của nền kinh tế.
Bảng 1: các công cụ của thị trường chứng khoán
Thị trường tiền tệ
( ngắn hạn )
Thị trường vốn (dài hạn)
Chính phủ
-Tín phiếu kho bạc
- Chứng chỉ kho bạc
Chính phủ
-Trái phiếu Chính phủ
-Trái phiếu Chính phủ
có chỉ số
-Trái phiếu ngoại tệ
-Trái phiếu có thưởng
-Trái phiếu hàng hoá
Các tổ chức tài chính
-Thị trường ngân hàng tương hỗ
-Chứng chỉ tiền gửi
Giấy chứng nhận của ngân hàng
- Giấy hẹn trả của công ty tài chính
Các tổ chức tài chính
-Trái phiếu của công ty tài chinh
Trái phiếu cầm cố
Trái phiếu cầm cố có chỉ số
Trái phiếu thả nổi
Các công ty cổ phần
Tín phiếu trao đổi
Kỳ phiếu thương mại
Giấy chấp nhận thương mại
Giấy ký gửi của công ty
Trái phiếu có thể hoàn trả sớm
Các công ty cổ phần
Trái phiếu công ty cổ phần
Giấy chứng nhận nợ chuyển đổi
Trái phiếu liên kết
Các công ty cổ phần
Cổ phiếu thông thường
Cổ phiếu ưu đãi
Lệnh trả tiền
Theo kinh nghiệm khái quát của các nước kinh tế thị trường phát triển ( Mỹ, Anh, Pháp, Nhật…) và của các nước kinh tế thị trường đanh phát triển ( các nước Mỹ Latinh, Brazin, Ac-hen-ti-na, Mê-hi-cô, các nước NIC: Đài Loan, Hồng Kông, Nam Triều Tiên, Thái Lan, Xin-ga-po, và các nước Trung Đông ) thì việc thành lập thị trường vốn nhằm thực hiện mục tiêu chủ yếu sau:
Mục tiêu bao quát nhất là nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn tài chính trong quá trình phát triển kinh tế và coi đây là nhân tố quan trọng nhất để phát triển sản xuất. Thị trường vốn là “van” điều tiết hữu hiệu nhất các nguồn vốn từ nơi sử dụng kém hiệu quả sang nơi sử dụng có hiệu quả cao hơn.
Mở rộng nền tảng của quyền sở hữu của cải tài chính và bất động sản. Thị trường vốn là nơi diễn ra quá trình chuyển nhượng quyền sở hữu về vốn tài sản hết sức thuận lợi và là môi trường cho việc đa dạng hoá các chủ thể sở hữu về vốn ở các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện cho nhiều ngwofwi sử dụng vốn đầu tư. Thị trường vốn luôn bảo đảm và phục vụ được bất cứ ai có nhu cầu về vốn cho đầu tư sản xuất thông qua các tổ chức tài chính trung gian ( ngân hàng thương mại, Sở giao dịch chứng khoán, các quỹ tín dụng, các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí…).
Bảo đảm sẵn sàng các nguồn vốn cho đầu tư dài hạn. Thị trường vốn khác với ngân hàng là luôn sẵn sàng cung cấp vốn dài hạn cho các doanh nghiệp kịp thời, đúng lúc và đầy đủ số lượng cần thiết, không phải thông qua các thủ tục hành chính khắt khe, mức độ vay hạn chế hoặc chủ yếu là vay ngắn hạn, nếu quá ngắn phải trả lãi cao.
Mở rộng các dịch vụ tài chính thông qua hoạt động của các tổ chức tài chính.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tài chính.
Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư nước ngoài ( những người đầu tư chủ yếu trên thị trường vốn của các nước Đài Loan, Hồng Kông, Malaixia và Thái Lan là các công ty siêu quốc gia, công ty nước ngoài và các chủ đầu tư tư nhân là người nước ngoài ).
Chương 2.Thực trạng thị trường vốn Việt Nam.
2.1. Nhu cầu cấp thiết đối với chiến lược phát triển thị trường vốn ở Việt Nam
Việc hình thành thị trường vốn là một hiện tượng kinh tế cần thiết khi phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Kinh nghiệm thế giới cho thấy các nước phát triển theo cơ chế thị trường thì đều phải tuân theo các quy luật khắt khe của thị trường. Thị trường vốn, đây là một yếu tố cấu thành đặc biệt quan trọng của nền kinh tế thị trường và nó cũng có đầy đủ các đặc trưng của một thị trường, nó tồn tại là khách quan và ra đời tự phát trong nền kinh tế thị trường. Nhiệm vụ của chúng ta là phải kịp thời nắm bắt được nhu cầu khách quan, nghiên cứu và nhanh chóng đề ra các biện pháp, chính sách kích thích nhanh chóng quá trình hình thanhfvaf điều chỉnh xu hướng hoạt động của thị trường đặc biệt này. So với thị trường vốn của các nước khác thì thị trường vốn ở Việt Nam vẫn còn kém phát triển. Tỷ lệ tổng giá trị thị trường trên GDP của Việt Nam hiện duy trì ở mức 0,1%, trong khi đó các nước khác có quy mô kinh tế tương đương hoặc các nước đang trong giai đoạn phát triển tương tự, ví dụ như: Iran, Srilanka và New Zealand đều duy trì được tỷ lệ này ở mức tương ứng là 5,9%, 1,1% và 18,2%.
Có một số bằng chứng cho thấy yêu cầu cấp thiết của việc phát triển thị trường vốn ở Việt Nam.
Thứ nhất, lượng tiền có khả năng đầu tư mà các nhà đầu tư tiềm năng nắm giữ, bao gồm các công ty chứng khoán, ngân hàng, các công ty bảo hiểm và các nhà đầu tư các nhân, ước tính lớn hơn gấp 10 lần so với tổng giá trị thị trường trên thị trường chính thức. Tuy nhiên, các nhà đầu tư này chưa tìm được cơ hội đầu tư thích hợp do thiếu chứng khoán lưu chuyển trên thị trường vốn. Việc phát triển thị trường vốn sẽ mở rộng thành phần nhà đầu tư, đồng thời tạo điều kiện cho việc chuyển nhượng vốn có khả năng đầu tư cho các doanh nghiệp nhằm mục đích sản xuất, góp phần vào sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế.
Thứ hai, khả năng mở rộng thị trường cổ phiếu là rất đáng kể. Ước tính có 6300 doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, và hơn 900 doanh nghiệp nhà nước đã trải qua quá trình cổ phần hoá và chuyển đổi thành công ty cổ phần. Trong số các doanh nghiệp cổ phần hoá đó, ước tính khoảng 129 doanh nghiệp có giá trị thị trường trên 10 tỷ đồng. Ước tính từ 50 đến 605 trong số 129 công ty này đáp ứng được các tiêu chuẩn niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có 17 công ty niêm yết. Các chứng khoán không được niêm yết hiện đang được giao dịch một cách sôi động trên thị trường phi tập trung( OTC ).
Thứ ba, như được mô tả ở bảng 3 trong vòng 3 năm qua, ước tính 43000 doanh nghiệp mới được thành lập. Các công ty tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 39866 doanh nghiệp mới nâng tổng giá trị tiền vốn lên gần 2,5 tỷ đô la. Tuy nhiên, 953 triệu đô la tiền vốn cũng đã được huy động để thành lập hơn 3108 công ty cổ phần mới. Sự phát triển của thị trường vốn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mới thành lập huy động vốn từ người đầu tư với chi phí vốn thấp hơn . Lý do là người đầu tư sẵn sàng đầu tư vào các công ty mới thành lập hơn vì họ hy vọng là các công ty này sẽ được niêm yết trên thị trường cổ phiếu trong một tương lai gần, và do đó họ có thể thu được lợi nhuận từ khoản đầu tư của họ một cách dễ dàng hơn. Vì thị trường vốn cho phép các doanh nghiệp huy động được vốn với chi phí vốn thấp hơn, đồng thời việc thành lập và phát triển các doanh nghiệp mới là điều kiện then chốt cho tăng trưởng kinh tế, cần đẩy mạnh phát triển thị trường vốn nhằm cung cấp đủ vốn cho việc thành lập các doanh nghiệp mới.
Bảng 2 : Tổng số vốn được huy động bởi các doanh nghiệp mới thành lập
Loại hinh doanh nghiệp
2000
2001
2002
Số doanh
nghiệp
Số vốn được huy
động(tr.USD)
Số doanh
nghiệp
Số vốn được huy
động(tr.USD)
Số
doanh
nghiệp
Số vốn được huy
động(tr.USD)
Công ty tư nhân
6486
187.6
7100
258.5
2818
121
Công ty TNHH
7244
532.35
11121
944.52
5135
500
Công ty TNHH một thành viên
31
6.8
Công ty cổ phần
726
202
1550
504.4
832
247
Công ty hợp danh
3
0.08
3
0.018
2
0.02
Doanh nghiệp nhà nước
16
47.8
27
10.64
2
2.07
Tổng
14437
969,83
19801
1718
8820
876,8
Thứ tư, trong các năm 2001 và 2002, 4424 doanh nghiệp hiện đang hoạt động đã huy động được 870 triệu đô la tiền vốn cho hoạt động cuả mình, theo số liệu minh hoạ của Bảng 2. Tuy nhiên, trong số các doanh nghiệp kể trên chỉ có một công ty sử dụng đến thị trường vốn nhằm mục.
đích huy động vốn để mở rộng hoạt động của mình. Điều này thể hiện rất rõ một thực trạng là cần khuyến khích các công ty niêm yết huy động vốn thông qua hoạt động phát hành thêm cổ phiếu.Sự phát triển của thị trường vốn sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hiện đang hoạt động dễ dangf hơn tiếp cận với nguồn vốn cần thiết với các cơ hội đầu tư hấp dẫn. Hoạt động này chắc chắn sẽ hỗ trơ cho tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao hơn
Bảng 3 : Vốn do các doanh nghiệp hiện hành huy động
Năm
Vốn huy động
Số DN huy động vốn
Tổng giá trị vốn huy động
2001
3664
605
5/2002
1760
321
Thứ năm, Việt Nam đã và đang duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định. Vào thời điểm năm 2001, GDP của Việt Nam là 32,4 tỷ đô la, và 64,7 tỷ đô la vào cuối năm 2010 song song với việc thực hiện cải cách kinh tế theo như hoạch định. Phát triển thị trường vốn là một yuee cầu quan trọng đối với việc đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP , lý do là việc phát triển thị trường vốn giúp phân bổ nguồn vốn cần thiết từ người đầu tư đến các doanh nghiệp, góp phần vào quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định.
Việt Nam hiện đang gặp nhu cầu cấp thiết trong việc tạo điều kiện phát triển thị trường vốn. Vì trên thực tế khối lượng vốn có thể đầu tư do người đầu tư nắm giữ vẫn chưa được khai thác một cách đầy đủ để phục vụ sản xuất , việc nhanh chóng phát triển thị trường vốn sẽ mở rộng cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn cho các doanh nghiệp, đồng thời tạo nền tảng cho phát triển và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
2. Tình hình thị trường vốn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tình hình thị trường vốn Việt Nam hiện nay có thể so sánh với thị trường vốn Trung Quốc vào cuối những năm 1980 khi các sở giao dịch Trung Quốc bắt đầu hoạt động ở các thành phố lớn, đồng thời thị trường OTC đầu tiên và hoạt động tín thác đầu tư đã xuất hiện. Dự đoán về sự phát triển thị trường vốn Việt Nam: tổng giá trị thị trường đạt 20 - 30% GDP vào năm 2010.
2.1. Thị trường cổ phiếu.
Thị trường cổ phiếu chính thức duy nhất ở Việt Nam là trung tâm giao dịch chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (TTGDCK) được khai trương ngày 20/7/2000. TTGDCK này được đưavào hoạt động với công suất thực hiện 300.000 lệnh trong một phiên giao dịch vơí thời gian thanh toán T+3.
Theo như bảng 4, vào thời điểm cuối 2001, đã có 10 Công ty được niêm yết, tuy nhiên chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2002 số lượng các Công ty niêm yết đã tăng lên 17 Công ty và hiện tại số lượng các Công ty niêm yết là 21. Xu hướng này là tích cực vì qua đó chúng ta có thể thấy rằng các Công ty đã có nhận thức tốt hơn về thị trường chứng khoán sự cần thiết và các lợi thế của cơ chế công bố thông tin doanh nghiệp cũng như việc tuân thủ các chuẩn mực quốc tế.
Bảng 4: Dữ liệu thị trường của thị trường cổ phiếu Việt Nam.
2001 - 12 - 31 2002 - 05 - 31
TT
Công ty niêm yết
Số cổ phiếu niêm yết
Giá đóng cửa (USS)
Giá trị thị trường (tr.USS)
Giá đóng cửa (USS)
Giá trị thị trường tr. USS
1
REE
15.000.000
2,19
62,85
2,22
33,00
2
SAmcom
12.000.000
2,32
27,84
2,03
24,36
3
hapaco
2.008.000
3,67
7,37
2,64
5,30
4
transimex
2.200.000
3,00
6,60
2,59
5,70
5
lafooco
1.909.840
2,27
4,34
1,57
3,00
6
saigonhotel
1.766.300
1,62
2,87
1,36
2,40
7
cànoco
3.500.000
2,41
8,44
1,70
5,95
8
danaplast
1.587.280
1,89
3,00
1,28
2,03
9
bibica
5.600.000
1,77
9,91
1,55
8,68
10
tribeco
3.790.300
1,97
7,47
1,97
7,47
11
gilimex
1.700.000
-
-
2,99
5,08
12
btc
1.261.345
-
-
1,65
2,08
13
bpc
3.800.000
-
-
1,61
6,12
14
620-ccc
5.882.690
-
-
1,68
9,88
15
gemandept
17.178.455
-
-
2,72
46,73
16
agifish
4.179.130
-
-
2,13
8,90
17
savimex
4.500.000
-
-
1,59
7,16
Tổng cộng
87.863.340
174,11
Giá mỗi cổ phiếu (USS)
2,09
Mặc dù vậy, nhiều doanh nghiệp cổ phần hoá đủ tiêu chuẩn ra niêm yết lại lựa chọn phương án là không ra niêm yết, các công ty cổ phần có mặn mà tham gia TTCK hay không? Đây là câu hỏi lớn cần đặt ra trong hoàn cảnh thị trường cần có thêm nhiều hàng hoá mới. Thực tế một phần là bởi TTGDCK không đem lại nhiều lợi ích cho họ do các Công ty niêm yết phải áp dụng các tiêu chuẩn chặt chẽ hơn về công bố thông tin và quản trị Công ty. Một số đơn vị đủ điều kiện hơn thế họ đã chuẩn bị làm thủ tục niêm yết tuyên bố nán lại vì theo họ, thị trường còn "xấu" lắm. Có đơn vị đã làm xong thủ tục nhưng lại chần chừ chưa muốn đưa cổ phiếu lên sànguyên vật liệuì họ cho rằng "hiện tại chưa phải là thời điểm thích hợp" và vì "sợ bất lợi" cho cổ phiếu của họ. Qua nhiều cuộc khảo sát thì thấy rằng phần lớn các doanh n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35388.doc