LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, với xu thế đa phương hóa, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam, xuất khẩu chính là công cụ quan trọng để nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Cùng với xu thế toàn cầu hoá, hoạt động ngoại thương nói chung và hoạt động xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực nói riêng hàng năm đã đóng góp rất nhiều vào Ngân sách Nhà nước, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu ngoại tệ và chiếm tỷ
93 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chiến lược phát triển các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 2005 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu, phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động Ngoại thương của Việt Nam trong thời gian qua, nhất là trong vài năm trở lại đây, cho thấy hoạt động xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực còn có nhiều điểm bất cập, chưa có một hệ thống tổ chức, phối hợp chặt chẽ, linh hoạt từ sản xuất đến xuất khẩu cùng với một hệ thống cơ chế, chính sách thông suốt, hợp lý. Kết quả là tuy khối lượng và kim ngạch xuất khẩu có tăng nhưng nhìn chung những tiềm năng vẫn chưa thực sự được khai thác một cách tối ưu, hiệu quả xuất khẩu mang lại còn thấp.
Trong tình hình đó, việc nghiên cứu và tìm ra chiến lược phát triển thiết thực hơn nhằm đẩy mạnh một cách có hiệu quả hơn nữa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam đang là một nhiệm vụ cấp thiết của nhiều Bộ, Ban, Ngành,... từ Trung Ương đến địa phương, và cũng đang thu hút được nhiều quan tâm của các doanh nghiệp, các nhà phân tích kinh tế, các nhà khoa học, các giảng viên, sinh viên đang giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở các trường đại học... Trên cơ sở tập trung phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất và xuất khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: gạo, cà phê, dầu thô, dệt may…khoá luận với đề tài “Chiến lược phát triển các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 2005 – 2010” sẽ đưa ra chiến lược phát triển cho giai đoạn 2005 - 2010, đồng thời tìm ra một số kiến nghị nhằm củng cố và phát triển các mặt hàng chủ lực đến năm 2020. Mục tiêu là để đạt được hiệu quả, ổn định và tăng trưởng vào những năm đầu thế kỷ 21.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của khoá luận là khái quát hoá về mặt lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực để từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong những năm tới. Về lý luận, khoá luận có ý nghĩa tổng hợp, thống nhất, đúc kết và phát triển những vấn đề bức xúc đã, đang và sẽ tiếp tục được bàn luận, nghiên cứu.
Trong khuôn khổ một bài khóa luận, do những hạn chế nhất định về thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu, đề tài chỉ đề cập đến những vấn đề lý luận có liên quan đến vị trí của một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, và có được một chiến lược phát triển chung cho toàn bộ các mặt hàng chủ lực, một số giải pháp và kiến nghị nhằm hỗ trợ, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, xây dựng định hướng phát triển trong giai đoạn 2005 – 2010.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp phân tích - tổng hợp, kết hợp lý luận với thực tiễn, đi từ cái chung đến cái riêng, từ phân tích đến đánh giá để đưa ra các định hướng phát triển cùng với các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện.
Nội dung chính của khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương I: Chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Chương II:Thực trạng xuất khẩu và xây dựng chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
Chương III: Kiến nghị về việc xây dựng chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 2005 - 2010
Ngoài những lý do chọn đề tài trên, em còn mong muốn qua khoá luận này có thể nghiên cứu và đóng góp ý kiến của bản thân về một số vấn đề quan trọng đang được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, do trình độ có hạn của một sinh viên, khoá luận này không tránh khỏi còn nhiều khiếm khuyết. Em rất mong các thầy cô và mọi người đóng góp ý kiến giúp em có thể hoàn thiện
nghiên cứu của mình. Em xin chân thành cảm ơn TS. Bùi Ngọc Sơn và những người đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.
CHỦ LỰC
I.1. Chiến lược kinh doanh
I.1.1 Khái niệm
Thuật ngữ “Chiến lược” lần đầu tiên được sử dụng trong lĩnh vực quân sự. Trong quân sự, “chiến lược” được hiểu là: nghệ thuật phối hợp các lực lượng quân sự, chính trị, tinh thần, kinh tế được huy động vào chiến tranh nhằm chiến thắng kẻ thù. Chiến lược kinh doanh trở thành khái niệm quen thuộc từ những năm 50 của thế kỷ 20 và được áp dụng khá rộng rãi trong lĩnh vực quản lý kinh tế.
Qua thời gian, tư tưởng chiến lược kinh doanh thay đổi rất nhanh và được hoàn thiện dần, đặc biệt là trong 4 thập kỷ vừa qua. Lúc đầu là sự xuất hiện các mô hình, các phương pháp đánh giá thời cơ, cơ hội... nhằm tìm ra những phương án hợp lý trong sản xuất kinh doanh và tiến đến là việc xuất hiện các phương pháp dài hạn nhằm quản lý việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh từ những nỗ lực hoàn thiện quản lý sản xuất nội bộ, khai thác nguồn lực nội sinh gắn với nguồn lực bên ngoài. Sau đó, các nỗ lực hoàn thiện tư tưởng chiến lược kinh doanh lại hướng vào phát triển thị trường và chiến lược marketing. Ngày nay, việc nghiên cứu hoàn thiện tư tưởng chiến lược kinh doanh đang hướng tới việc nỗ lực kết hợp xâu chuỗi các kết quả đã đạt được để vận dụng một cách tổng hợp hơn vào môi trường hoạt động mới, đầy biến động. Do vậy, đã có rất nhiều khái niệm được đưa ra để định nghĩa thế nào là chiến lược kinh doanh:
“Chiến lược kinh doanh là những phương tiện để đạt tới những mục tiêu dài hạn. Các doanh nghiệp cần phải giải quyết là làm thế nào đạt được các kết quả đã đề ra dựa trên cơ sở tình thế và triển vọng của doanh nghiệp. Các mục tiêu là đích hướng tới, còn phương tiện để đạt được mục đích này chính là
chiến lược."(1)
"Chiến lược kinh doanh là một tập hợp mô hình các hành động mà các giám đốc sử dụng nhằm đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp và các hoạt động tức thời với những thay đổi của tình thế và việc xảy ra các sự kiện bất ngờ. Như vậy, các chiến lược của doanh nghiệp bao gồm các hoạt động được kế hoạch hoá (chiến lược định trước) và các phản ứng cần thiết với các điều kiện không dự báo trước (các đáp ứng chiến lược không kế hoạch hoá)."(2)
“Chiến lược kinh doanh dựa trên cơ sở một loạt các bước tiến của đối thủ cạnh tranh và các phương pháp kinh doanh mà các bậc quản trị trên cơ sở đó tạo ra các kết quả thực hiện thành công. Do đó, chiến lược kinh doanh là một kế hoạch quản lý nhằm củng cố vị thế, là sự hài lòng của khách hàng và đạt được các mục tiêu thực hiện của doanh nghiệp.”(3)
Tóm lại: Chiến lược kinh doanh là tổng hợp các mục tiêu dài hạn, các chính sách và giải pháp lớn về sản xuất - kinh doanh, về tài chính và về giải quyết nhân tố con người nhằm đưa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát triển lên một trạng thái cao hơn về chất.
I.1.2 Vai trò của chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh quyết định định hướng hoạt động dài hạn và là cơ sở vững chắc cho triển khai hoạt động trong tác nghiệp. Thiếu vắng chiến lược hoặc chiến lược không được thiết lập rõ ràng, không có luận cứ sẽ làm cho hoạt động mất hướng, chỉ thấy trước mắt không gắn được với dài hạn, chỉ thấy cục bộ mà không thấy vai trò của cục bộ trong cái toàn bộ.
Chiến lược kinh doanh tạo cơ sở vững chắc cho các hoạt động nghiên cứu - triển khai, đầu tư phát triển, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực. Trong thực tế, phần lớn các sai lầm, trả giá về đầu tư, về nghiên cứu - triển khai... có nguồn gốc từ chỗ thiếu vắng hoặc có sự sai lệch trong xác định các mục tiêu
chiến lược. Các mục tiêu chiến lược là các mục đích mà các bậc quản trị thiết
(1) - Athur. A. Thompson & A.J. Strickland, Strategic Management, 1995.
(2) - Philip Kotler, Marketing Management, 1995.
(3) - Athur. A. Thompson & A.J. Strickland, Strategic Management, 1995.
lập nhằm củng cố vị trí kinh doanh chung và sức cạnh tranh sống động của doanh nghiệp. các mục tiêu này liên quan đến sức cạnh tranh và vị trí kinh doanh của nó trong dài hạn ở trên thị trường, phát triển nhanh hơn mức trung bình của ngành, vượt trội các đối thủ cạnh tranh chủ yếu về chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ khách hàng hoặc thị phần, giành được chi phí thấp hơn các đối thủ cạnh tranh, nâng cao được danh tiếng của doanh nghiệp đối với khách hàng, giành được chỗ đứng vững chắc hơn trên các thị trường quốc tế, thực hiện dẫn đạo về công nghệ, giành được lợi thế cạnh tranh bền vững, khai thác các cơ hội phát triển có sức hấp dẫn cao.
Chiến lược kinh doanh tạo cơ sở cho các doanh nghiệp chủ động phát triển các hướng kinh doanh phù hợp với môi trường trên cơ sở tận dụng các cơ hội, tránh các rủi ro, phát huy các lợi thế của doanh nghiệp trong kinh doanh, cải thiện căn bản tình hình, vị thế của một công ty, một ngành, một địa phương.
I.1.3 Các đặc điểm cơ bản của chiến lược kinh doanh
+ Tính dài hạn: Chiến lược kinh doanh xác định các mục tiêu và phương hướng phát triển của doanh nghiệp trong thời kỳ tương đối dài (3 hoặc 5 năm, thậm chí 10 hoặc 20 năm). Chính khuôn khổ của mục tiêu và phương pháp dài hạn đó bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phát triển liên tục và vững chắc trong môi trường kinh doanh đầy biến động của kinh tế thị trường.
+ Tính định hướng: Chiến lược kinh doanh chỉ phác thảo các phương hướng dài hạn, có tính định hướng còn trong thực tế kinh doanh phải thực hiện phương châm "kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu tình thế", kết hợp chiến lược với sách lược và các phương án kinh doanh tác nghiệp"... Hoạch định chiến lược là phác thảo khuôn khổ cho các hoạt động kinh doanh dài hạn của doanh nghiệp trong tương lai dựa trên cơ sở các thông tin thu thập được qua quá trình phân tích và dự báo. Do vậy, sự sai lệch giữa các mục tiêu định hướng và khuôn khổ chiến lược phác thảo ban đầu với hình ảnh kinh
doanh sẽ diễn ra trong thực tế là điều chắc chắn. Xem xét tính hợp lý và điều chỉnh các mục tiêu ban đầu cho phù hợp với các biến động của môi trường và điều kiện kinh doanh đã thay đổi là việc làm cần thiết của tất cả các doanh nghiệp.
+ Tính toàn diện: Không chỉ định hướng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chiến lược kinh doanh còn đưa ra một phương thức quản trị doanh nghiệp toàn diện và hiệu quả. Nó cho phép sự nhận biết, ưu tiên và tận dụng các cơ hội, thể hiện sự phân phối hiệu quả thời gian và các nguồn tài nguyên cho các cơ hội đã xác lập. Nó cho phép có các quyết định chính yếu, hỗ trợ tốt hơn cho các mục tiêu. Chiến lược góp phần tối thiểu hoá tác động của những thay đổi có hại, giảm thiểu thời gian điều chỉnh lại các quyết định sai sót, đưa ra những giải pháp kịp thời nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh. Nó khuyến khích doanh nghiệp có thái độ tích cực đối với đổi mới, khuyến khích suy nghĩ về tương lai...
+ Tính tập trung: Mọi quyết định chiến lược quan trọng trong quá trình xây dựng, quyết định, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá, điều chỉnh chiến lược đều phải được tập trung về người lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp. Đặc trưng này ước định bởi thang quyền lực tương ứng trong quản lý và điều hành doanh nghiệp, đồng thời bảo đảm yêu cầu bí mật thông tin kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
+ Chiến lược kinh doanh luôn được xây dựng, lựa chọn và thực thi dựa trên cơ sở các lợi thế so sánh, các ngành nghề kinh doanh, các lĩnh vực kinh doanh chuyên môn hoá, truyền thống, thế mạnh của doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải đánh giá đúng thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình khi xây dựng chiến lược và thường xuyên xem xét các yếu tố nội tại trước khi thực thi chiến lược.
I.1.4 Nội dung của chiến lược kinh doanh
I.1.4.1 Bước chuyển từ kế hoạch dài hạn sang chiến lược kinh doanh
Chiến lược là phương thức mà các doanh nghiệp sử dụng để định hướng
tương lai nhằm đạt được thành công. Việc chuyển đổi từ quản trị sang quản trị chiến lược, chiến lược kinh doanh là sự phản ánh đặc trưng mới của kế hoạch dài hạn. Với nhịp độ phát triển nhanh chóng của khoa học – kỹ thuật và sự biến đổi của thị trường ngày càng trở nên phức tạp. Trong điều kiện đó, kế hoạch dài hạn dựa vào phương pháp ngoại suy xu thế đã không đảm bảo được tính mềm dẻo để thích ứng với sự biến đổi nhanh chóng. Do vậy, nét đặc trưng cơ bản của tầm nhìn dài hạn đòi hỏi phải hướng tới sự thích ứng mềm dẻo cần thiết, nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của môi trường và trước những thời cơ mới.
Ở đây, hai yếu tố cơ bản của chiến lược là cạnh tranh và bất ngờ. Tạo ra được các yếu tố bất ngờ cho đối phương và sức mạnh trong cạnh tranh là những yếu tố cơ bản đảm bảo cho thắng lợi và thành công. Ngày nay, những yếu tố này cũng được coi là những yếu tố cơ bản để chiến thắng trong kinh doanh. Từ đó cũng có thể hiểu chiến lược kinh doanh là quá trình xác định các mục tiêu tổng thể phát triển doanh nghiệp và sử dụng tổng hợp các yếu tố kỹ thuật, tổ chức kinh tế và kinh doanh để chiến thắng trong cạnh tranh và đạt được các mục tiêu đề ra.
I.1.4.2 Các cấp chiến lược
Chiến lược có thể được tiến hành ở nhiều cấp khác nhau, nhưng thông thường có hai cấp cơ bản nhất là cấp công ty và cơ sở kinh doanh. Chiến lược cấp công ty xác định ngành hoặc các ngành kinh doanh mà doanh nghiệp đang hoặc sẽ phải tiến hành. Do đó, nó phải đề ra được hướng phát triển cho các đơn vị kinh doanh đơn ngành giới hạn lĩnh vực hoạt động của họ trong một ngành công nghiệp hoặc dịch vụ chính. Các đơn vị kinh doanh đa ngành hoạt động trong hai ngành trở lên, vì vậy nhiệm vụ của họ sẽ phức tạp hơn, họ cần phải quyết định tiếp tục hay không các ngành hiện đang kinh doanh, đánh giá các khả năng ngành mới và đưa ra quyết định cần thiết.
Chiến lược cấp cơ sở kinh doanh cần được đưa ra đối với các đơn vị kinh doanh đơn ngành cũng như đối với mỗi cơ sở trong đơn vị kinh doanh đa
ngành. Chiến lược phải làm rõ là đơn vị tham gia cạnh tranh như thế nào. Chiến lược cấp cơ sở kinh doanh có mức độ quan trọng như nhau đối với các đơn vị kinh doanh đơn ngành và từng đơn vị riêng biệt trong đơn vị kinh doanh đa ngành. Chiến lược cấp cơ sở kinh doanh dựa trên tổng hợp các chiến lược khác nhau ở cấp bộ phận chức năng. Tuỳ theo lĩnh vực kinh doanh mà chiến lược cấp cơ sở lựa chọn chiến lược trung tâm. Đối với nhiều hãng, chiến lược marketing là trung tâm, đóng vai trò liên kết cùng với các chức năng khác. Đối với một số hãng thì vấn đề sản xuất hoặc nghiên cứu phát triển có thể được chọn là chiến lược trung tâm. Mỗi chiến lược cấp cơ sở cần phù hợp với chiến lược cấp công ty, và chiến lược cấp cơ sở khác của công ty.
I.1.4.3 Tổ chức xây dựng chiến lược
Nhà quản trị là người đứng đầu công việc, chủ trì hoặc lãnh đạo các hoạt động của doanh nghiệp, là người biết điều khiển hoặc phối hợp các công việc của mọi người trong doanh nghiệp một cách có hiệu quả. Các nhà lãnh đạo thường là người đưa ra những tư tưởng xuất phát, xác định những mục tiệc chung của doanh nghiệp và xác định những biện pháp có tính chất chiến lược. Mặt khác việc xây dựng chiến lược đòi hỏi sự cộng tác của tất cả các bộ phận và tất cả các thành viên trong công ty.
Có hai loại nhà quản trị, đó là nhà quản trị chiến lược và nhà quản trị chức năng. Nhà quản trị chiến lược là những người chịu trách nhiệm về khả năng hoạt động chung của công ty, hay đơn vị hoạt động chính. Nhà quản trị chức năng là người chịu trách nhiệm về một chức năng kinh doanh cụ thể. Các phòng, ban kế hoạch trong công ty thường được coi là bộ phận tham mưu, có nhiệm vụ giúp lãnh đạo phân tích tình hình, xác định mục tiêu chiến lược và các biện pháp cơ bản để đạt được mục tiêu đề ra. Bộ phận này cũng có nhiệm vụ tổng hợp các kế hoạch đã được soạn thảo ở các bộ phận khác và chuẩn bị các nghiên cứu cần thiết cho bước triển khai, đồng thời họ cũng cố vấn cho các bộ phận chức năng, giúp các bộ phận này xây dựng kế hoạch và cùng tiến hành nghiên cứu các lĩnh vực đặc thù.
I.1.5 Quy trình xây dựng chiến lược kinh doanh
+ Bước 1: Phân tích và dự báo về môi trường kinh doanh, trong đó cốt lõi nhất là phân tích và dự báo về thị trường. Doanh nghiệp cần nhận thức rõ các yếu tố môi trường có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình và đo lường mức độ, chiều hướng ảnh hưởng của chúng.
+ Bước 2: Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo về môi trường kinh doanh. Các thông tin tổng hợp kết quả phân tích và dự báo cần được xác định theo 2 hướng: thứ nhất là các thời cơ, thách thức của môi trường kinh doanh, thứ hai là các rủi ro, cạm bẫy, đe dọa... có thể xảy ra trong môi trường kinh doanh.
+ Bước 3: Phân tích và đánh giá đúng thực trạng của doanh nghiệp. Nội dung đánh giá cần bảo đảm tính toàn diện, hệ thống, song các vấn đề cốt yếu cần được tập trung là: hệ thống tổ chức, tình hình nhân sự, tình trạng tài chính của doanh nghiệp.
+ Bước 4: Tổng hợp kết quả phân tích và đánh giá thực trạng doanh nghiệp, xác định các điểm mạnh, lợi thế; điểm yếu, bất lợi trong kinh doanh. Đó là các căn cứ thực tiễn quan trọng nâng cao tính khả thi của chiến lược.
+ Bước 5: Nghiên cứu các quan điểm, mong muốn, ý kiến... của những người lãnh đạo công ty (các quản trị viên cấp cao).
+ Bước 6: Xác định các mục tiêu chiến lược, các phương án chiến lược.
+ Bước 7: So sánh, đánh giá và lựa chọn phương án chiến lược tối ưu cho doanh nghiệp. Cần đánh giá toàn diện và lựa chọn theo mục tiêu ưu tiên.
+ Bước 8: Chương trình hoá phương án chiến lược đã lựa chọn với hai công tác trọng tâm: cụ thể hoá các mục tiêu kinh doanh chiến lược ra thành các chương trình, phương án, dự án, thứ hai là xác định các chính sách kinh doanh, các công việc quản trị nhằm thực hiện chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp.
Ngày nay, khi quyết định chiến lược kinh doanh, trước hết phải tính đến khách hàng của mình và đối thủ cạnh tranh cận kề, đồng thời phải tính đến khả năng có thể thu hút được các hoạt động xúc tiến và tài trợ của các tổ chức với hoạt động kinh doanh quốc tế của mình.
Do đó, khi lựa chọn chiến lược kinh doanh, không thể không tìm hiểu:
- Đặc điểm ngành hàng kinh doanh của doanh nghiệp
- Đối tác: nhà cung cấp, nhà phân phối
- Phân đoạn thị trường, phương thức thâm nhập thị trường
Do kinh tế thế giới ngày càng phát triển và đang có xu thế hội nhập kinh tế vùng và khu vực tiến tới Toàn cầu hoá, do đó Chiến lược kinh doanh còn phải tính tới đặc điểm của các khối và các quốc gia là thị trường mục tiêu.
I.2 Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
I.2.1 Chính sách phát triển xuất khẩu của Việt Nam
Phát triển xuất khẩu là điều kiện tiên quyết để mở rộng nhập khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, là một tiền đề của sự tăng trưởng. Do đó, tạo một nhịp độ phát triển xuất khẩu cao và bền vững phải là mục tiêu quan trọng của hoạt động ngoại thương.
Phương hướng chủ đạo để phát triển xuất khẩu là tạo dựng những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, nhưng không giới hạn vào những mặt hàng cố định mà linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường và biến động giá cả, ở đây trọng tâm cần đặt vào các mặt hàng chế biến (chủ yếu là nông, lâm, thủy sản) và hàng công nghiệp nhẹ (hàng dệt may, da và giả da), công nghiệp lắp ráp, sử dụng nhiều lao động có tay nghề khá. Đồng thời cần tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, nhiều chất xám, có công nghệ mới để tạo cho nhóm hàng này có vị trí quan trọng trong cơ cấu hàng xuất khẩu vào cuối thập kỷ này.
Một phương hướng quan trọng khác để gia tăng xuất khẩu là chính sách mở rộng thị trường đúng đắn và linh hoạt. Trong những năm tới, thị trường xuất khẩu chính của ta có thể là: (1) châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có các nước Nhật Bản, NICs, ASEAN, Trung Quốc là trọng điểm, (2) Liên minh châu Âu, trong đó có Pháp, Đức là trọng điểm, (3) Bắc Mỹ, trong đó có Mỹ là trọng điểm. Các nước SNG và Đông Âu là những thị trường có tiềm năng song chắc chắn cần có một thời gian nữa, khi tình hình khu vực này trở nên ổn định mới có điều kiện phát triển buôn bán quy mô lớn. Nhân tố quyết định quy mô, nhịp độ xuất khẩu là cơ cấu hàng xuất khẩu và những mặt hàng chủ
lực, xác định cơ cấu hàng hóa và các mặt hàng chủ lực có hiệu quả là rất quan trọng.
Trong một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, việc đổi mới chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu phải căn cứ vào: thị trường xuất khẩu, điều kiện và khả năng sản xuất ở trong nước, hiệu quả cao (bao gồm hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội). Trong ba yếu tố này, hiệu quả là yếu tố quan trọng hàng đầu trong sự lựa chọn cơ cấu về mặt hàng xuất khẩu. Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh trạnh của hàng xuất khẩu, cần có chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng: (1) giảm tỷ trọng thô và sơ chế đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu, (2) giảm tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu truyền thống đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu mới, (3) tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong giá trị kim ngạch hàng xuất khẩu.
Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu phải gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu thị trường. Từ nay đến 2010, chính sách xuất khẩu là phải triệt để khai thác những lợi thế có thể xuất khẩu ngay, đặc biệt là nguồn lao động dồi dào, có óc tiếp thu tay nghề nhanh, nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú hơn so với nhiều nước đã trở thành nước công nghiệp, phát triển các ngành khai thác và sản phẩm hướng tới xuất khẩu. Đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu đòi hỏi phải đổi mới cơ cấu sản xuất, gắn quy hoạch xuất khẩu với quy hoạch sản xuất các sản phẩm xuất khẩu.
Nhà nước cần ban hành các chính sách đầu tư vốn và công nghệ đối với các ngành, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất kinh doanh sản phẩm xuất khẩu thông qua các biện pháp tín dụng, tài chính, thuế… Việc đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu, danh mục các mặt hàng xuất khẩu sẽ thay đổi theo chiều hướng gia tăng các mặt hàng có sức cạnh tranh và mang lại hiệu quả cao. Một số sản phẩm hiện nay được coi là mặt hàng chủ lực, có khả năng sẽ tăng lên về mặt số lượng và kim ngạch xuất khẩu nhưng tỷ trọng của chúng
lại có thể giảm đi trong kim ngạch xuất khẩu trong 10 -15 năm tới. Ngược lại, một số mặt hàng hiện nay mới chiếm tỷ trọng nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu, nhưng lại có khả năng sẽ trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn.
I.2.2 Chiến lược phát triển xuất khẩu
Ngày nay, với xu thế đa phương hóa, đa dạng hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt Nam, xuất khẩu chính là công cụ để nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Song bên cạnh sự hợp tác là sự cạnh tranh hết sức khốc liệt nhằm chiếm một chỗ đứng trên thị trường, do đó đối với Việt Nam, làm thế nào để tăng trưởng xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm, phát triển sản xuất trong nước, đẩy nhanh công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước là điều vô cùng quan trọng. Với vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước, xuất khẩu cần được nhìn nhận dưới góc độ một chính sách dài hạn.
Chiến lược xuất khẩu là một tổng thể bao gồm các mục tiêu dài hạn, sự phân tích đánh giá thực trạng và tiềm năng xuất khẩu của doanh nghiệp cùng những cơ hội và thách thức trong môi trường kinh doanh quốc tế đầy biến động, từ đó xây dựng nên hệ thống các chính sách, giải pháp và nhiệm vụ cần phải thực hiện để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu, nâng cao uy tín và ảnh hưởng của doanh nghiệp, mở rộng và củng cố thị trường, nâng cao kim ngạch xuất khẩu.
Chiến lược xuất khẩu là sự cụ thể hoá của chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp, hay lớn hơn là của một ngành, một quốc gia. Do đó, việc xây dựng chiến lược xuất khẩu cũng phải tuân theo quy trình các bước xây dựng chiến lược kinh doanh như đã nêu trên.
I.2.3 Sự cần thiết xây dựng chiến lược phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Cuộc cách mạng Khoa học Kỹ thuật và Công nghệ đã làm thay đổi sâu sắc bộ mặt của nền kinh tế thế giới. Các nước nói chung và Việt Nam nói riêng muốn tiến hành Công nghiệp hóa - Hiện đại hoá thành công thì không có con đường nào khác là phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu. Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế, phát huy lợi thế so sánh của sản xuất trong nước, đổi mới công nghệ để đưa năng suất lên cao, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thực hiện chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu, các nước phải không ngừng học hỏi, áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất nhằm thu được những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, mỗi đất nước chỉ có những nguồn lực nhất định (nguồn lực luôn gắn liền với sự khan hiếm). Chính vì vậy, để khai thác và sử dụng một cánh tối ưu các nguồn lực hạn chế đó, các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng đều đứng trước một bài toán là phải quyết định phân bổ các nguồn lực đó như thế nào giữa những nhu cầu cạnh tranh nhau.
Do vậy, một vấn đề được đặt ra là phải lựa chọn những ngành hàng, mặt hàng chủ lực nhằm khai thác được một cách tối đa các giới hạn nguồn lực sẵn có. Giải quyết được vấn đề này lại phát triển tiếp đến một vấn đề mới đó là phải giải quyết bài toán thị trường của các mặt hàng chủ lực đó như thế nào, tức là đi tìm thị trường xuất khẩu của các mặt hàng đó như thế nào để có thể khai thác tối đa các lợi thế so sánh của quốc gia và lợi thế cạnh tranh của mặt hàng đó trên thị trường quốc tế. Như vậy, có thể nói việc lựa chọn được một chiến lược phát triển các mặt hàng chủ lực và thị trường xuất khẩu luôn là một nhiệm vụ thực sự cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược đẩy mạnh kinh tế hướng về xuất khẩu của các nước nói chung và Việt Nam nói riêng.
I.2.4 Vai trò then chốt của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Xuất khẩu là một tất yếu khách quan và có vai trò quan trọng đối với các quốc gia, đặc biệt là nước ta, một nước có nền kinh tế phát triển chậm, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh. Sự tăng trưởng kinh tế đòi hỏi mỗi quốc gia phải có những điều kiện về nhân lực, tài nguyên, vốn và công nghệ để thực hiện quá trình công nghiệp hoá của mình. Song hầu hết các nước đang phát triển như Việt Nam đều nằm trong tình trạng thiếu vốn, công nghệ và thừa lao động. Thực tế kinh nghiệm một số nước NICs và ASEAN cho thấy chiến lược tăng trưởng kinh tế trong công cuộc công nghiệp hoá là phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu. Xuất khẩu đã được xác định là một trong những mũi nhọn có ý nghĩa quyết định đối với quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia.
Thứ nhất: xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ cho công nghiệp hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của mỗi quốc gia. Để công nghiệp hoá đất nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có một số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Tuy nhiên, nguồn vốn ngoại tệ để nhập khẩu chủ yếu được hình thành từ các nguồn như: đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu sức lao động, hàng hoá trong nước ra nước ngoài...
Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ,...tuy quan trọng nhưng vẫn phải trả theo cách này hay cách khác. Như vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước chỉ có thể trông chờ vào xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. Ở những nước đang phát triển và chậm phát triển, một trong những nguyên nhân thiếu vốn trong quá trình phát triển là do ít có cơ hội xuất khẩu. Không xuất khẩu được một mặt không thu được ngoại tệ từ hoạt động này, mặt khác các nhà đầu tư cũng không ưa thích đầu tư vào quốc gia mà họ không thấy có khả năng phát triển xuất khẩu do đó lại càng thiếu vốn hơn nữa.
Thứ hai: xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Các cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đã làm cho cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi một cách mạnh mẽ. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá từ nông nghiệp sang công nghiệp là phù hợp với xu thế tất yếu của nền kinh tế thế giới. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Xuất khẩu chỉ là tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu cầu nội địa. Theo cách hiểu này thì đối với những quốc gia lạc hậu và chậm phát triển khi mà sản xuất về cơ bản còn chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ sự “thừa ra” của sản xuất thì xuất khẩu chỉ ở quy mô nhỏ và tăng trưởng chậm, sản xuất và sự thay đổi cơ cấu kinh tế sẽ rất chậm chạp.
+ Coi thị trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này chính là xuất phát từ quan điểm coi nhu cầu của thị trường thế giới là nhu cầu cần đáp ứng để tổ chức sản xuất. Điều đó tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp cùng có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ, khi phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu có thể kéo theo sự phát triển của công nghiệp chế tạo thiết bị phục vụ nó hoặc nếu phát triển ngành giầy dép xuất khẩu thì các ngành sản xuất nguyên liệu như chăn nuôi, thuộc da, hoá chất... cũng phát triển theo.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn, thu hút kỹ thuật công nghệ mới từ các nước phát triển nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước, tạo ra năng lực sản xuất mới.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá các quốc gia sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Do cạnh tranh sâu sắc trên thị trường quốc tế, các quốc gia buộc phải tổ chức lại sản xuất sao cho phù hợp và từ đó hình thành cơ cấu sản xuất hợp lý.
Thứ ba: xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Tác động của xuất khẩu ảnh hưởng đến rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Sản xuất hàng xuất khẩu sẽ tạo ra hàng triệu chỗ làm, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập ổn định cho người lao động. Đồng thời xuất khẩu tạo ra nguồn thu ngoại tệ để nhập khẩu những vật phẩm tiêu dùng mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không có hiệu quả nhằm đáp ứng nhu cầu ngày một đầy đủ hơn, nâng cao mức sống của người dân.
Bốn là: xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại có thể phát triển sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại k._.hác như dịch vụ thương mại, bảo hiểm hàng hoá, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính quốc tế, kinh doanh du lịch, khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên hiện có. Cuối cùng, hoạt động xuất khẩu tăng cường hợp tác và chuyên môn hoá quốc tế, là một mắt xích quan trọng trong quá trình phân công lao động, nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, với vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, việc đẩy mạnh xuất khẩu đã trở thành vấn đề được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và của Việt Nam nói riêng.
I.2.5 Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay
I.2.5.1. Khái niệm về mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Hàng xuất khẩu chủ lực là các mặt hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi. Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng các mặt hàng chủ lực đã được Nhà nước đề ra từ cuối những năm 60. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây, khi chúng ta tiếp xúc mạnh mẽ với nền kinh tế thị trường của thế giới thì chúng ta mới ý thức được một cách nghiêm túc tầm quan trọng của vấn đề này. Mặt hàng chủ lực được hình thành trước hết qua quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài, qua những cuộc cọ sát, cạnh tranh mãnh liệt trên thị trường thế giới,
kéo theo việc tổ chức sản xuất trong nước trên qui mô lớn với chất lượng phù hợp với đòi hỏi của người tiêu dùng, đứng vững và liên tục phát triển.
Một mặt hàng xuất khẩu chủ lực ra đời cần có ít nhất 3 yếu tố cơ bản:
+ Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị trường đó.
+ Có nguồn lực để tổ chức sản xuất với chi phí thấp tương đối so với các sản phẩm cạnh tranh khác để có thể vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh vừa mang lại hiệu quả cao hơn.
+ Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng khối lượng kim ngạch xuất khẩu của quốc gia.
Tuy nhiên, vị trí của mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là vĩnh viễn mà trong quá trình phát triển luôn diễn ra những vận động, biến đổi của thị trường, kéo theo nó là sự vận động và biến đổi cơ cấu các sản phẩm làm thay đổi vị trí của các sản phẩm trên thị trường. Do vậy, việc xác định và xây dựng cơ cấu các sản phẩm xuất khẩu chủ lực không chỉ căn cứ vào khả năng sẵn có và nội lực trong nước, vào nhu cầu và khả năng hiện tại trên thị trường thế giới mà còn phải tính đến những xu hướng và diễn biến thị trường trong tương lai.
I.2.5.2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay
Mặt hàng xuất khẩu chủ lực là những mặt hàng có vị trí đáng kể trong tổng giá trị xuất khẩu của một đất nước và có ảnh hưởng ít nhiều trên thương trường quốc tế. Ở một chừng mực nhất, định chúng phản ánh thế lực kinh tế của một nước trong nền kinh tế thị trường. Từ năm 1992 nước ta mới chỉ có 4 mặt hàng chủ lực là: Dầu thô, Thuỷ sản, Gạo và Dệt may, 5 năm sau đến năm
1997 nước ta đã có 10 mặt hàng xuất khẩu được coi là chủ lực và hiện nay Việt Nam có khoảng 19 mặt hàng chủ lực bao gồm: Hàng dệt may; Dầu thô; Giầy dép; Gạo; Thuỷ – Hải sản; Cà phê; Chè; Cao su; Nhân hạt điều; Than đá; Rau quả; Hàng thủ công mỹ nghệ; Hạt tiêu; Hàng điện tử - Linh kiện máy
tính; Đậu phộng nhân; Xe đạp và phụ tùng; Dây điện và cáp điện; Sản phẩm gỗ; Sản phẩm nhựa.
Năm 1998, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước đạt khoảng 9,4 tỷ USD, tăng 1.9% so với năm 1997, trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu của 6 mặt hàng: Dầu thô, Dệt may, Thuỷ sản, Gạo, Cà phê và Giầy dép đã là 5,33 tỷ USD, chiếm hơn 60% kim ngạch hàng hoá xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng lên, năm 1999 đạt 11,5 tỷ USD, tăng 23,4% so với năm 1998, đến năm 2002 đạt 16,7 tỷ USD. Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực thay đổi nhanh chóng, luôn có sự thay đổi vị trí của các ngành hàng, mặt hàng. Một số mặt hàng chủ lực mới cũng đã dần khẳng định được vị trị trên thị trường xuất khẩu thế giới như: Thủ công mỹ nghệ; Chè, Rau quả…. Tuy nhiên, vai trò của các mặt hàng chủ lực như: Dầu thô, Dệt may, Gạo, Thủy sản, Giầy dép… vẫn rất quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Năm 2002, những mặt hàng đầu vị xếp theo thứ tự là: Dầu thô (3,27 tỷ USD), Hàng dệt may (2,75 tỷ USD), Thuỷ sản (2,023 tỷ USD), Giầy dép (1,87 tỷ USD), Gạo (726 triệu USD).
Bảng 1: Top 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam (1998 – 2002)
Mặt hàng xuất khẩu chủ lực
1998
1999
2000
2001
2002
- Dầu thô
- Hàng dệt may
- Thuỷ sản
- Giầy dép
- Gạo
- Cà phê
- Điện tử và linh kiện máy tính
- Hàng thủ công mỹ nghệ
- Cao su
- Hạt điều
2
1
5
3
4
6
7
10
8
9
1
2
5
3
4
6
7
8
9
10
1
2
3
4
6
7
5
8
10
9
1
2
3
4
5
7
6
8
9
10
1
2
3
4
5
9
6
7
8
10
Nguồn: “10 mặt hàng đầu vị”, Báo Thương mại, số 3 ngày 12/01/2003
Bảy tháng đầu năm 2003, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả nước đạt
11,4 tỷ USD, tăng gần 30% so với cùng kỳ năm ngoái. Có tới 17 trong tổng số 20 mặt hàng chủ lực tăng, trong đó có 10 mặt hàng có mức tăng từ 20% đến 60% so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu thủy sản đạt 1,158 tỷ USD, tăng 10%; Gạo đạt gần 500 triệu USD, tăng gần 20%; Cà phê đạt 269 triệu USD, tăng gần 60%; Cao su 155 triệu USD, tăng trên 33%; Hàng dệt may đạt gần 2,15 tỷ USD, tăng 60%; Giày dép đạt 1,34 tỷ USD, tăng 23,6%; Hàng điện tử và linh kiện máy tính 370 triệu USD, tăng 36,5%; Hàng thủ công mỹ nghệ 207 triệu USD tăng 9,6%; Xe đạp và phụ tùng 92 triệu USD, tăng
31,4%. Đây chính là điều mà Nhà nước, Chính phủ và các doanh nghiệp của ta phải nhận thức được và có những định hướng đúng đắn.
I.3. Ảnh hưởng của Toàn cầu hoá đối với các mặt hàng chủ lực
I.3.1 Tình hình thị trường của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Cơ cấu thị trường được cải thiện theo hướng chuyển dịch từ thị trường trung gian sang thị trường tiêu thụ trực tiếp, giảm xuất khẩu đối với khu vực châu Á nhưng lại tăng đối với châu Mỹ, châu Âu và châu Phi. Kim ngạch xuất khẩu sang hầu hết các nước bạn hàng chủ yếu đều tăng, nhất là Mỹ, Nhật, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Campuchia… Số liệu hải quan cho thấy, xuất khẩu sang Mỹ chín tháng đầu năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD, tăng 96,7% so với cùng kỳ năm 2002 (đổi lại nhập khẩu từ thị trường này gồm cả máy bay Boeing, cũng lên gần 1 tỷ USD Mỹ, tăng 198%). Kim ngạch xuất khẩu sang khối ASEAN tăng 23,5% và sang EU tăng 21,1%. Chúng ta có thể điểm lại tình hình những thị trường chính của các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong thời gian qua.
a. Thị trường ASEAN
Tổng kim ngạch hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường ASEAN hiện chiếm trên 20%. Do khủng hoảng tài chính vẫn còn ảnh hưởng ở các khu vực này nên ngoài mặt hàng Gạo là có khả năng tăng lượng xuất khẩu còn hầu hết các mặt hàng khác sẽ gặp khó khăn. Không những thế, hàng hoá của các
nước này còn cạnh tranh quyết liệt với hàng Việt Nam trên thị trường quốc tế. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, tình hình kinh tế của các nước ASEAN đang được cải thiện đáng kể sau cuộc khủng hoảng, điều này cho thấy khả năng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường các nước này trong thời gian tới sẽ có nhiều triển vọng sáng sủa hơn.
Theo quyết định của ASEAN, các nước thành viên mới, trong đó có Việt Nam, có nghĩa vụ thực hiện nhanh hơn nữa tiến trình cắt giảm thuế quan trong CEPT/AFTA. Theo đó, Việt Nam phải hoàn thành việc cắt giảm thuế suất xuống 0-5% vào 1/1/2005 (với một số linh hoạt) thay vì 1/1/2006 như hiện nay. Ngoài ra, năm 2006, Việt Nam phải đảm bảo 60% tổng số mặt hàng đưa vào cắt giảm có mức thuế suất 0%. Do đó, sau khi thống nhất với các Bộ, ngành và doanh nghiệp, trong danh mục CEPT 2003 – 2006 sẽ có một số mặt hàng (khoảng 7% tổng số các mặt hàng) được cắt giảm với tiến độ nhanh hơn so với tiến độ công bố năm 2002. Do vậy, để cạnh tranh được trên thị trường các nước này, Việt Nam còn nhiều việc phải làm nhất là khi tham gia vào khu vực mậu dịch tự do Châu Á Thái Bình Dương, nếu không khi những hàng rào mậu dịch và phi mậu dịch không còn nữa thì chẳng những hàng hoá của Việt Nam khó có thể cạnh tranh được trên thị trường các nước này mà còn có thể bị đè bẹp ngay tại thị trường trong nước.
b. Thị trường Mỹ
Hoa Kỳ là một trong những thị trường lớn nhất thế giới và là một cường quốc kinh tế của thế giới, có nền khoa học kỹ thuật – công nghệ tiên tiến, ngành giáo dục đào tạo có chất lượng cao cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Với một tiềm năng lớn về kinh tế và khoa học kỹ thuật, Mỹ có thể chia sẻ với Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
Thực tế, theo kinh nghiệm của các nước Châu Á cho thấy các nền kinh tế lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, ASEAN và Trung Quốc đều rất coi trọng thị trường này và là nơi xuất khẩu chủ yếu để phát triển. Phải nói rằng Mỹ là một thị trường rộng lớn cho hàng hoá xuất khẩu từ các nước, nhu cầu của thị trường này rất cao và rất đa dạng về chủng loại và chất lượng, từ những loại mang tính phổ thông đến những loại cao cấp.
Do chưa được hưởng qui chế Tối Huệ Quốc nên giá trị và chủng loại hàng hoá của ta xuất khẩu sang Mỹ còn rất hạn chế. Đến nay, Việt Nam mới chỉ xuất khẩu sang thị trường này một số mặt hàng như Gạo, Cà phê, Hạt điều, Cao su, Rau quả và Hải sản,... một số hàng như Giầy dép, Dệt may,... có xuất khẩu sang Mỹ nhưng bị đánh thuế cao từ 40 - 90% trị giá nhập khẩu. Tuy nhiên, Mỹ vẫn là thị trường lý tưởng cho hàng dệt may và thủy sản Việt Nam. Sở Thương mại TP. Hồ Chí Minh nhận định, hai mặt hàng này khi xuất khẩu vào Mỹ thường là cung không đủ cầu. Do các doanh nghiệp có xu hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu vào Mỹ nên nguyên liệu may nhập khẩu trong ba tháng đầu năm 2003 tăng 21,9% so với cùng kỳ năm 2002. Bộ Thương mại đang chuẩn bị cho vòng đàm phán tiếp theo của Hiệp định hàng dệt may. Thách thức lớn đối với hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ hiện nay là các rào cản kỹ thuật. Chúng ta phải nhận thức được thực chất thị trường Mỹ để không bị ảo tưởng đồng thời phải nhìn nhận lại chính mình trong vị trí thị trường toàn cầu để đưa ra được các chiến lược, chính sách vĩ mô và các giải pháp mô cụ thể nhằm khai thác tối đa những thế mạnh của mình, thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này.
c. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam sau ASEAN, quý I/2003, xuất khẩu sản phẩm dầu thô của Việt Nam sang Nhật Bản tăng
28,2% so với năm 2002. Ngoài mặt hàng Dầu thô, Việt Nam còn có nhiều mặt hàng như May mặc, Thuỷ sản, Giầy dép,.. đã xuất khẩu sang Nhật từ nhiều năm nay. Để giữ vững và mở rộng thị trường, các doanh nghiệp cần bám sát những khách hàng đã có quan hệ và phát triển, tìm kiếm các khách hàng mới. Với thị trường này, chúng ta nên hiểu đầy đủ một đặc điểm là các doanh nghiệp Nhật Bản thường là các hãng đa năng, do đó, khi quan hệ với họ cần gắn giữa xuất và nhập không chỉ trong phạm vi công ty mà cần có sự phối hợp giữa các công ty trong một Bộ, một địa phương, cùng với đó là việc không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm.
d. Thị trường EU
EU là một thị trường yêu cầu chất lượng hàng hoá rất cao. Phong cách kinh doanh và tâm lý kinh doanh của các nhà doanh nghiệp EU khác nhiều so
với các nhà doanh nghiệp Châu Á. Hiện nay, thị trường EU đóng vai trò khá quan trọng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Thị trường này đang còn nhiều khoảng trống cho hàng hoá của nước ta, đặc biệt, hàng Thuỷ sản có thể tìm được chỗ đứng nếu như đảm bảo được những yêu cầu về chất lượng và giá cả. Do vậy, các nhà doanh nghiệp Việt Nam cần phải kiên trì tiếp cận, đảm bảo chữ tín trong kinh doanh, thực hiện đúng các điều kiện như cam kết thì mới có khả năng xuất khẩu và tăng lượng xuất khẩu vào thị trường này. EU cũng đang mở ra một vận hội lớn cho xuất khẩu Việt Nam sau khi thêm hạn ngạch dệt may đối với các loại Cat nóng 50-75% và dự kiến sẽ tiếp tục tăng thêm một số lượng tương tự vào năm 2004. Hiện các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng thuộc Cat nóng thường không đủ hạn ngạch để sản xuất hết công suất.
e. Thị trường nước Nga
Đây là thị trường quen thuộc với hàng hoá của Việt Nam trước đây. Thời gian qua, giữa hai Chính phủ cũng như Bộ Thương Mại Việt Nam - Nga liên tiếp tiếp xúc với nhau, phía bạn khẳng định rằng hàng hoá Việt Nam vẫn có nhu cầu trên thị trường của họ. Tuy kim ngạch ngoại thương giữa Việt Nam và Nga không cao nhưng thị trường này vẫn là thị trường truyền thống của Việt Nam. Xuất khẩu Việt Nam sang Nga quý I/2003 tăng 20,6% so với cùng kỳ năm trước. Cơ quan thương mại TP.HCM dự kiến sẽ tổ chức đoàn xúc tiến thương mại qua Nga để đàm phán, nối lại các chương trình làm ăn và mở Trung tâm thương mại tại Moscow. Đặc biệt, trong thời gian tới khi tình hình chính trị và kinh tế của các nước này ổn định và phát triển hơn thì chắc chắn đây sẽ lại là một thị trường sôi động và nhiều tiềm năng cho chúng ta.
Chúng ta nên duy trì, khai thác và phát triển các quan hệ sẵn có, đây chính là một lợi thế đáng kể của chúng ta khi cạnh tranh trên thị trường này. Trước mắt, để giải tỏa một số khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam nên mạnh dạn áp dụng phương pháp buôn bán hàng đổi hàng hoặc phương thức tín dụng chứng từ (L/C) trả chậm. Để đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam, Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam cần ký các thoả thuận với Ngân hàng phía bạn nhằm thực hiện việc bảo lãnh và tái bảo lãnh hàng trả chậm. Việc mở KRAS BANK tại Tp. Hồ Chí Minh là kết quả của sự hợp tác giữa hai nước nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như các doanh nghiệp phía bạn yên tâm mở rộng quan hệ thương mại và kinh doanh xuất nhập khẩu thời gian tới.
f. Thị trường Trung Quốc
Trung Quốc là một thị trường lớn, lại ở sát nước ta đồng thời là một nước có khả năng cạnh tranh cao không những ở trên thị trường thế giới mà còn trên thị trường Việt Nam. Do đó, Trung Quốc vừa là bạn hàng của nước ta vừa là đối thủ cạnh tranh. Với ý nghĩa đó, cần tích cực, chủ động hơn trong việc thúc đẩy quan hệ buôn bán với Trung Quốc mà hướng chính là các tỉnh Hoa Nam và Tây Nam Trung Quốc, phấn đấu đưa tổng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 3 - 4 tỷ USD. Một trong những phương cách quan trọng là tranh thủ sự thoả thuận cấp Chính phủ về trao đổi một số mặt hàng với số lượng lớn, trên cơ sở ổn định, thúc đẩy buôn bán chính ngạch. Bên cạnh đó, ta nên có chính sách thích hợp, tích cực thúc đẩy quan hệ buôn bán biên mậu, tận dụng phương thức này để gia tăng xuất khẩu trên cơ sở hình thành sự điều hành tập trung và nhịp nhàng. Đồng thời cần chú ý thị trường Hồng Kông, một thị trường tiêu thụ lớn nhưng gần đây có biểu hiện thuyên giảm trong buôn bán với ta.
I.3.2 Xu thế khách quan
Mặc dù trên thế giới vẫn tồn tại nhiều yếu tố gây mất ổn định (mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, giai cấp... ) nhưng xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo. Các nước đều tập trung ưu tiên cho phát triển kinh tế, liên kết cùng phát triển, tích cực xúc tiến thương mại, giao lưu kinh tế và đầu tư vốn, công nghệ xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, đẩy mạnh các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá từ các châu lục, các quốc gia trên toàn thế giới. Tuy nhiên, tranh chấp về dân tộc và sắc tộc vẫn tiếp diễn trên nhiều lĩnh vực của đời sống của quốc gia và trên thế giới với những nội dung và hình thức
mới: xu thế chung là vừa hợp tác vừa cạnh tranh, thậm chí đấu tranh gay gắt
để giành lợi thế trong hợp tác.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có với nội dung nổi bật là điện tử và tin học, tự động hoá, vật liệu mới và sinh học, làm cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhiều nước diễn ra nhanh hơn theo hướng chuyển mạnh sang những ngành có hàm lượng trí tuệ cao và dịch vụ; tỷ trọng nông nghiệp và công nghiệp khai khoáng giảm dần. Là sản phẩm của sự phát triển khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất trên qui mô thế giới, toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành xu thế tất yếu thúc đẩy hầu hết các quốc gia mở rộng thị trường bằng cách giảm bớt, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan; chuyển dịch một cách thông thoáng hàng hoá, vốn đầu tư, tiền tệ, dịch vụ, lao động giữa các quốc gia với qui mô ngày càng lớn; hình thành vô số tổ chức kinh tế tài chính mang tính toàn cầu và khu vực; ký kết hàng vạn hiệp định song phương và đa phương, hàng trăm công ước kinh tế quốc tế; phát triển nhiều tập đoàn xuyên quốc gia...
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đặt ra nhiều vấn đề mới mà các quốc gia không thể không tính đến trong khi hoạch định chính sách của mình.
Một là: muốn tận dụng được công nghệ, tiền vốn và thị trường, cũng như việc lựa chọn được các mặt hàng chủ lực mang tính cạnh tranh cao để xuất khẩu nhằm phát triển kinh tế, các nước phải chủ động và tích cực tham gia toàn cầu hoá và khu vực hoá với những mục tiêu cụ thể, vào những thời điểm thích hợp để có thể chiếm vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế và khu vực.
Hai là: phải có cách nhìn mới về bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, mỗi quốc gia dân tộc bằng tinh thần và nghị lực, bằng sức mạnh tổng hợp nhiều mặt của bản thân mình là cơ sở hàng đầu quyết định vận mệnh của dân tộc. Nhưng ngày nay sức mạnh kinh tế, sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trong phân công lao động quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi đã trở thành những yếu tố vô cùng quan trọng trong việc giữ gìn
độc lập, chủ quyền.
Ba là: để giữ vững chủ quyền, bảo đảm hiệu quả trong khi tham gia toàn cầu hoá, bản thân mỗi nước phải nhanh chóng tăng cường tiềm lực của mình; nếu không sẽ không đương đầu nổi sự cạnh tranh, chèn ép mãnh liệt của các thế lực có sức mạnh lớn hơn.
Bốn là: phải biết vận dụng “luật chơi” của thế giới, mạnh dạn và chính xác điều chỉnh cơ chế, luật lệ, chính sách kinh tế, thương mại của mình cho phù hợp với thông lệ quốc tế, có tính điều kiện cụ thể của quốc gia mình.
Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá tạo ra tính phụ thuộc lẫn nhau ngày càng sâu sắc, do đó hình thành sự đan xen lợi ích và mâu thuẫn giữa các trung tâm, giữa các nước, đan xen cạnh tranh với hợp tác. Mâu thuẫn kinh tế, thương mại giữa các nước lớn, các trung tâm sẽ tiếp tục gay gắt. Nhưng, tuỳ thuộc lẫn nhau buộc các đối tác, trong khi tìm cách giành lợi ích tối đa cho mình, phải tìm cách “dàn xếp” để không xảy ra chiến tranh kinh tế, thương mại toàn cầu. Và cuộc chạy đua về kinh tế và khoa học công nghệ diễn ra ngày càng quyết liệt, lôi cuốn hầu hết các quốc gia, dân tộc.
I.3.3 Thời cơ và thách thức
I.3.3.1 Thời cơ
Những năm đầu thế kỷ 21, khó có nước nào đủ mạnh toàn diện để thách thức vị trí siêu cường của Mỹ trong quan hệ kinh tế quốc tế; ba trung tâm Mỹ
- Tây Âu - Nhật Bản cùng với Trung Quốc và Nga sẽ đóng vai trò chủ yếu tác động tới cục diện chung. Châu Á - Thái Bình Dương sẽ tiếp tục phát triển năng động và đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác. Nổi bật nhất là sự phát triển nhanh của Trung Quốc, sau đó là Hàn Quốc, Đài Loan, Malayxia, Thái Lan, Singapore, Indonesia, Ấn Độ. Trong khu vực, xu thế tự do hoá thương mại và đầu tư ngày càng mạnh mẽ. Nhìn chung trong những năm tới, triển vọng kinh tế thế giới và khu vực là tương đối sáng sủa, có khả năng đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 5%/ năm. Xu hướng tự do hoá thương mại sẽ phát triển mạnh mẽ, quan hệ thương mại giữa các quốc gia và các khối
này càng sôi động hơn, đồng thời mâu thuẫn, cạnh tranh, tranh chấp sẽ diễn ra quyết liệt hơn.
Tranh thủ những khả năng, tiến bộ mới trong nền kinh tế thế giới, biết lợi dụng các loại mâu thuẫn bằng những sách lược uyển chuyển, mềm dẻo để trong một thời gian tương đối ngắn, cùng với những nỗ lực vượt bậc ở bên trong, đưa nền kinh tế mau thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu - đó là bài toán chiến lược đặt ra cho các nước kém phát triển. Muốn giải được bài toán này, phải có bản lĩnh chính trị, tầm nhìn chiến lược, biết nhìn xa trông rộng, vượt qua cách tiếp cận tủn mủn, thủ cựu và định kiến; phải biết kết hợp giữa phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu và xây dựng một nền kinh tế độc lập, đánh giá đúng tiềm lực kinh tế, xác định được các mặt hàng chủ lực có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới.
Thành tựu to lớn về đối nội, đối ngoại của nước ta và những diễn biễn trên thị trường thế giới đã đặt nước ta trước nhiều thuận lợi mới để mở rộng hơn nữa kinh tế đối ngoại, làm cho kinh tế đối ngoại thực sự có vai trò quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế:
- Xu thế hoà bình, ổn định hợp tác trong khu vực có chiều hướng ngày càng phát triển; kinh tế thế giới phục hồi và kinh tế khu vực phát triển mạnh. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Nam Á nói riêng được thế giới quan tâm. Trong bối cảnh đó, vị trí địa - kinh tế, nhất là địa vị chính trị của nước ta được các nước lớn ngày càng coi trọng, dần dần trở thành một khâu quan trọng trong chiến lược của các nước lớn. Tuy Việt Nam chưa phải là đối tượng hàng đầu trong chính sách Châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ, song một nước Việt Nam đang đổi mới, mở cửa, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại, hội nhập vào Đông Nam Á, là không trái với tính toán chiến lược của Mỹ ở Châu Á - Thái Bình Dương.
Đối với Trung Quốc, Việt Nam có vị trí quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc, vì nằm ngay cửa ngõ Hoa Nam, trên con đường xuống Đông Nam Á. Trung Quốc muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại với ta để gia
tăng vị trí, hạn chế các đối tác khác. Nhật Bản có lợi ích về chính trị, kinh tế trong việc phát triển quan hệ với Việt Nam: tăng cường ảnh hưởng của Mỹ và Trung Quốc. Các nước Tây Âu ngày càng quan tâm đến quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với Việt Nam.
Các nước ASEAN coi trọng Việt Nam là một đối tượng hợp tác cần tranh thủ, vì Việt Nam là nhân tố quan trọng đối với hoà bình, ổn định và hợp tác phát triển trong khu vực. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà, nước ta đã có quan hệ ở mức độ khác nhau với tất cả các nước láng giềng khu vực, với hầu hết các nước lớn, các trung tâm chính trị, kinh tế lớn, các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế. Chúng ta đã đẩy lùi về cơ bản chính sách bao vây ta về kinh tế, cô lập ta về chính trị; tạo được môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, giữ gìn độc lập, chủ quyền.
- Tình hình chính trị - xã hội nước ta ổn định, sự cải thiện liên tục tình hình kinh tế, pháp luật chính sách thông thoáng, đó là những nhân tố tạo niềm tin và sức hấp dẫn trong các đối tác nước ngoài. Việt Nam có thị trường lao động dồi dào với trí tuệ cao, có khả năng tiếp thu nhanh khoa học và công nghệ mới. Với dân số 75 - 80 triệu người, Việt Nam là một thị trường đáng kể, là đối tượng quan tâm, tranh dành trong cuộc săn lùng thị trường của giới kinh doanh quốc tế.
- 2003 là năm các nước ASEAN 6 hoàn thành nghĩa vụ cắt giảm các mặt hàng xuống mức thuế suất 0-5%, đây sẽ là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động xuất khẩu sang các nước ASEAN. Thái Lan tuyên bố dành ưu đãi thuế quan cho 19 mặt hàng (quế, hạt hồi, than đá, đồ phụ trợ may mặc…) nhập khẩu từ Việt Nam với mức thuế thấp hơn 5% so với mức thuế CEFT, Malaysia cũng dành ưu đãi thuế quan 0% cho 172 mặt hàng của Việt Nam, bao gồm thuỷ sản, các loại quả và hạt, rau quả chế biến, nhựa, cao su, máy móc, thiết bị…
I.3.3.2 Thách thức
Thách thức gay gắt nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế do xuất
phát điểm của ta quá thấp, lại phải đối phó với sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế. Không thể không hội nhập, mà hội nhập với kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta không tránh khỏi phải chịu ảnh hưởng của xu thế "tự do hoá thương mại", biến động giá cả, lãi suất ngân hàng, tình hình cung cầu hàng hoá, vốn đầu tư và nhu cầu của thị trường thế giới... Tình hình đó dẫn đến nhiều khó khăn trong định hướng chiến lược cũng như trong điều hành quản lý, đòi hỏi nền kinh tế nước ta phải phát triển vượt bậc, mau chóng trưởng thành đủ sức chống đỡ các ảnh hưởng nói trên.
Nền kinh tế còn nhiều yếu kém; đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại vừa thiếu lại vừa yếu; tổ chức bộ máy kinh tế đối ngoại kém hiệu quả, đã tác động không thuận lợi đến sự phát triển kinh tế đối ngoại.
Mỹ và Phương Tây tiếp tục mưu toan thực hiện "diễn biến hoà bình" ở Việt Nam, gây áp lực với ta về những vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", đa nguyên, đa đảng. Đối phó với sức uy hiếp ngày một tăng, cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương diễn ra phức tạp, đe doạ an ninh, chủ quyền và lãnh thổ nước ta, buộc chúng ta phải hết sức coi trọng việc củng cố và tăng cường khả năng quốc phòng.
Hoạt động thương mại của Việt Nam hiện nay đang chịu sự chi phối của một số nhân tố chủ yếu như: Kinh tế thế giới tăng trưởng khá hơn những tháng đầu năm, trong khi đó kinh tế châu Á phục hồi mạnh. WTO dự báo giá trị thương mại toàn cầu năm nay tăng khoảng 3%. Tăng nhu cầu nhập khẩu ở nhiều thị trường như: Mỹ, EU, Nhật Bản…Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ ngày càng phát huy tác dụng, Hiệp định Dệt may Việt Nam – Hoa Kỳ đang triển khai tích cực, thúc đẩy xuất khẩu vào Hoa Kỳ. Giá nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới đang có chiều hướng tăng so với năm 2002 như: thuỷ sản, cao su, cà phê, dầu thô, ôtô, thép, xăng dầu, phân bón…
Hơn nữa, bên cạnh những thuận lợi, cũng có nhiều khó khăn đối với các doanh nghiệp trong nước, sự cạnh tranh với hàng hoá ASEAN tiếp tục trở nên gay gắt hơn, đặc biệt là những ngành Việt Nam có khả năng cạnh tranh thấp
hơn so với ASEAN. Với việc cắt giảm thuế suất, các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ chuyển hướng nhập khẩu nhiều hơn từ thị trường ASEAN. Theo quyết định của ASEAN, các nước thành viên mới trong đó có Việt Nam, có nghĩa vụ thực hiện đẩy nhanh hơn nữa tiến trình cắt giảm thuế quan trong CEPT/AFTA. Theo đó, Việt Nam phải hoàn thành việc cắt giảm thuế suất xuống 0-5% vào 1/1/2005 (với một số linh hoạt) thay vì 1/1/2006 như hiện nay.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU VÀ XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
II.1 Hiện trạng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam những năm gần đây không ngừng tăng lên, tốc độ tăng trung bình về kim ngạch xuất khẩu trong những năm qua là 13,1%/ năm.
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1998 - 2002
Chỉ tiêu
Đơn vị
1998
1999
2000
2001
2002
Kim ngạch
TrUSD
9.361
11.553
14.482
15.027
16.706
Tốc độ tăng
%
1,9
23,4
25,4
3,8
11,2
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, số “Kinh tế 2001 - 2002”
Qua bảng số liệu trên có thể thấy, năm 1998 tốc độ tăng xuất khẩu của Việt Nam so với năm trước mới chỉ là 1,9% nhưng sang đến năm 1999 tốc độ này đã tăng lên rất cao (23,4 %), có được kết quả này chính là nhờ vào chính sách khuyến khích xuất khẩu như: đổi mới và đơn giản hoá việc cấp giấy phép và cấp hạn ngạch xuất khẩu, cải cách hệ thống xuất nhập khẩu, hỗ trợ và khuyến khích đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến hàng xuất khẩu.
Năm 1999, giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trên thị trường thế giới tăng như: dầu thô, hạt tiêu, hạt điều..., trong khi giá một số mặt hàng khác lại giảm, điển hình là gạo và cà phê. Tuy nhiên, giá xuất khẩu bình quân trong 11 tháng đầu năm đã tiếp cận giá bình quân năm 1998. Điều đó có nghĩa là, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nói trên là do Việt Nam đã tăng mạnh khối lượng hàng hoá xuất khẩu. Chỉ trong 11 tháng đầu năm 1999, kim ngạch xuất khẩu tăng 20,9% so với cùng kỳ năm 1998, trong đó do tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu là 22,1%, tương ứng với 1,882 tỷ USD và do giảm
giá hàng hoá xuất khẩu 1,05%, tương ứng với 100 triệu USD. (4)
( 4) Thời báo kinh tế Việt Nam, số “ Kinh tế 1999-2000”.
Năm 2000, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về ngoại thương, kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 14,5 tỷ USD, tốc độ tăng so với năm trước là 25,4%. Sau 2 năm tăng trưởng với tốc độ cao, năm 2001 hoạt động xuất khẩu của nước ta đã bị giảm sút nặng nề, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt
15 tỷ USD tăng 3,8% so với năm 2000, thấp hơn hẳn so với mục tiêu dự kiến đầu năm là tăng trên 20% (đạt 17 tỷ USD) và cũng không đạt cả chỉ tiêu điều chỉnh của Quốc hội đề ra giữa năm là tăng 10% (đạt 16,2 tỷ USD) so với năm
2000. Tác động của lần giảm sút này rất lớn, sức mua yếu của thị trường thế giới làm giảm giá nhiều mặt hàng như: dầu thô, cao su, than đá, lúa mì, sắt thép, ô tô... trong đó có nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta. Khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam đã yếu đi rất nhiều khi các sản phẩm xuất khẩu của ta bị chèn ép bởi các mặt hàng xuất khẩu tương tự của các nước ASEAN như: dệt may, giầy dép, hải sản, cao su và sản phẩm gỗ tinh chế...
Bước sang năm 2002, Việt Nam vẫn tiếp tục đối mặt với những áp lực lớn ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, nhưng cũng đã có những thay đổi đáng kể. Kim ngạch xuất khẩu đạt 16,7 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2001. Đây là thành tích đáng ghi nhận của ngoại thương Việt Nam, thể hiện sự nỗ lực cao độ trong công tác tổ chức sản xuất, tổ chức thị trường của các ngành, các cấp và các doanh nghiệp. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng khá về lượng hoặc về trị giá, đặc biệt là gạo, dầu thô, may mặc, giày dép, điện tử, rau quả và hàng thủ công mỹ nghệ.
Tám tháng đầu năm 2003, kim ngạch xuất khẩu đạt 13,308 triệu USD, bằng 79,1% kế hoạch phấn đấu cả năm (18,5 tỷ USD), tăng 27,5%; trong đó, các doanh nghiệp trong nước đạt 6.653 triệu USD, tăng 16,4%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 6.655 triệu USD, tăng 41%. Có 15/19 mặt hàng chủ lực kim ngạch tăng trưởng là: cà phê (61,8%), dây điện và cáp điện (58,6%), hàng dệt may (58%), cao su (43%), sản phẩm gỗ (41,6%), nhân điều (35,5%), hàng điện tử và linh kiện máy tính (31,5%), giày dép (29%),
dầu thô (27,7%), xe đạp và phụ tùng (26,7%), than đá (22,6%), sản phẩm nhựa (18,6%), thuỷ sản (12,8%), hàng thủ công mỹ nghệ (7%), gạo (4,9%).
Bảng 3: Diễn biến về kim ngạch xuất khẩu 8 tháng đầu năm 2003
Bình quân
tháng Quí I
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
Kim ngạch
(triệu USD)
1.555
1.614
1.712
1.685
1.783
1.720
So với cùng kỳ
năm 2002 (%)
143,1
122,7
118,9
124,0
120,0
112,6
Nguồn: Báo cáo giao ban tháng 8 năm 2003, Vụ kế hoạch, Bộ Thương mại
Kim ngạch hàng hoá bình quân đạt 1.663 triệu USD/tháng, tăng 359 triệu USD so với cùng kỳ năm 2002. Kim ngạch của tất cả các tháng đều tăng so với cùng kỳ năm 2002, trong đó tháng 7 đạt 1.783 triệu USD, cao nhất từ trước đến nay. Tốc độ tăng trưởng bình quân 27,5% tháng, ch._.g mại, sản xuất và kinh doanh hàng giả và những hành vi vi phạm pháp luật khác. Tiếp tục nghiên cứu, áp dụng việc dán tem đối với một số hàng nhập khẩu khác để tạo thêm điều kiện thúc đẩy sản xuất kinh doanh hàng trong nước phát triển. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về thương mại thông qua việc tiếp tục nghiên cứu, ban hành các văn bản về cơ chế quản lý, chính sách, biện pháp điều hành hoạt động thương mại.
III.2.1 Giải pháp về tài chính và vốn
+ Cơ cấu nguồn thu ngân sách cần được thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, từ đó góp phần nâng cao lợi nhuận tái đầu tư cho lĩnh vực xuất khẩu.
Hiện nay số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đang chiếm trên dưới
30% tổng thu từ thuế các loại. Thuế xuất nhập khẩu do dễ thu và dễ cưỡng chế, đã được huy động một cách tối đa. Thực tiễn này vừa góp phần làm giảm động lực phát triển ngoại thương, vừa không phù hợp với xu thế tự do hoá thương mại trên toàn thế giới, vừa đưa ngân sách vào thế cực kỳ khó khăn khi những cam kết giảm thuế có hiệu lực và làm nguồn thu từ thuế nhập khẩu giảm mạnh. Để giải quyết tình trạng này, cần gấp rút thay đổi cơ cấu nguồn thu, tăng tỷ trọng của các sắc thuế khác như các loại thuế trực thu, thuế hàng hoá, tháo bỏ những cản trở đối với việc thu một số loại thuế như thuế chuyển quyền sử dụng đất để giảm dần tỷ trọng của số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đi đôi với việc tạo tiền đề cho đa dạng hoá nguồn vốn, khuyến khích mạnh vốn đầu tư cho sản
xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các nhóm mặt hàng chủ lực.Thực tiễn phân bổ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguyên nhân của tình trạng dồn vốn cho các khu vực phi xuất khẩu đã được trình bày tại các phần trên. Để khắc phục, từ nay trở đi, đối với đầu tư nước ngoài cần dành ưu đãi đặc biệt cho các ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu hoặc có khả năng xuất khẩu sản phẩm trong tương lai gần cũng như các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho sản xuất các mặt hàng chủ lực.
Trong thời kỳ 2001-2005, Chính phủ đã có các biện pháp để xác lập tiền đề thu hút các hình thức đầu tư quốc tế và đã đạt được một số thành quả nhất định, do đó cần phải duy trì và đưa ra các biện pháp nhằm khắc phục những điểm yếu của những biện phát trước đây. Giải pháp quan trọng nhất là lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống trung gian tài chính và nâng cao năng lực cho hệ thống này trong việc phân tích và thẩm định rủi ro. Kế hoạch của Chính phủ trong lĩnh vực này phải hết sức rõ ràng, với những mốc thời gian cụ thể để thúc đẩy quá trình tái cơ cấu và tạo niềm tin cho giới đầu tư quốc tế.
+ Các vấn đề tín dụng và tiền tệ: Trong thời gian tới đây cần tăng cường sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ hiệu quả hơn (như tỷ giá hối đoái, bảo lãnh bán hàng trả chậm, cho vay theo thành tích xuất khẩu, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn...) để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu.
Khẩn trương tiến hành cải cách hệ thống trung gian tài chính, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại để tránh hiện tượng co cụm, giảm dư nợ như đã xảy ra ở Thái Lan khi số lượng các khoản nợ khó đòi tăng nhanh.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc nhóm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực cần nghiên cứu về khả năng phát hành trái phiếu, phát hành cổ phiếu nhằm huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển sản xuất, phát triển ngành hàng của mình.
III.2.2 Giải pháp về đầu tư
+ Chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu cần được thi hành một cách triệt để và nhất quán hơn theo nguyên tắc: sản
xuất hàng xuất khẩu phải được đặt ở vị trí ưu tiên số một. Các hình thức ưu
đãi cao nhất phải được dành cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Đây là biện pháp có ý nghĩa rất quan trọng bởi tuy xuất khẩu đã được đưa lên vị trí ưu tiên và được coi là động lực chính thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế nhưng trên thực tế việc đầu tư chủ yếu vẫn đang tập trung vào sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Để xuất khẩu có được nguồn vốn đầu tư cần thiết trong hoàn cảnh tích luỹ nội bộ có hạn, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng này theo các hướng sau:
- Triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã được đề cập đến trong Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi.
- Rà soát lại danh mục ngành nghề khuyến khích đầu tư. Những ngành sản xuất thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất đã tương đối đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước cần được xem xét để đưa ra khỏi danh mục này, tránh khuyến khích tăng thêm đầu tư mới, kể cả đầu tư nước ngoài.
- Tăng cường sử dụng các biện pháp như thuế chống phá giá, thuế chống trợ cấp để đáp ứng những đòi hỏi mang tính tình thế.
+ Bên cạnh việc khẳng định vị trí của sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chính sách ưu đãi doanh nghiệp trong nước phải bằng hoặc cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, tuy vị trí của đầu tư trong nước đã được nâng cao nhưng vẫn còn một số lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước chưa được đối xử bằng hoặc cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thí dụ, doanh nghiệp trong nước phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức 32% trong khi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chịu tối đa là 25%. Một doanh nghiệp may của Việt Nam xuất khẩu 100% sản phẩm hiện nay phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là 32% trong khi xí nghiệp liên doanh may, sản phẩm xuất khẩu chỉ đạt 80% lại chỉ phải nộp 15%. Thực tế này chưa phù hợp với luận cứ
‘‘vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng” vẫn được đề
cập một cách thống nhất trong các đề án về chính sách tài chính quốc gia, đồng thời cũng chưa phù hợp với chủ trương của Đảng về ‘‘phát huy nội lực” trong phát triển kinh tế.
+ Chính sách khuyến khích đầu tư cần được xây dựng dựa trên các tiêu chí như: tính chất chủ lực, cấp độ chế biến... để không lặp lại tình trạng khuyến khích dàn đều, không có định hướng xây dựng ngành hàng chủ lực và định hướng chuyển đối cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng hàng đã qua chế biến.
Một hiện tượng tương đối phổ biến hiện nay là khuyến khích đầu tư một cách chung chung và dàn đều. Điều này mang lại 4 điều bất lợi: thứ nhất là không nêu bật được định hướng xuất khẩu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thứ hai là thiếu tính thực tiễn bởi Ngân sách không đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu ưu đãi trên diện rộng. Thứ ba là không tạo được định hướng vĩ mô đúng đắn cho sự dịch chuyển của các yếu tố đầu vào (đồng vốn, đất đai và sức lao động vẫn tiếp tục dồn vào những lĩnh vực không có hiệu quả hoặc kém hiệu quả, dẫn đến lãng phí vô cùng to lớn). Thứ tư là nếu tăng được xuất khẩu thì cũng chỉ là trên phương diện lượng, không mang lại được các thay đổi về chất nhờ đầu tư đổi mới công nghệ.
+ Cùng với việc đề cao vị trí của đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, chúng ta cũng cần phải hết sức chú ý tới việc làm sao để ổn định môi trường đầu tư. Trong các yếu tố của tổng cầu thì đầu tư là yếu tố tự thân, phụ thuộc rất nhiều vào nhận định chủ quan của nhà đầu tư, không biến thiên theo thu nhập. Vì lý do đó, ngoài việc ban hành các chính sách khuyến khích, việc duy trì một môi trường đầu tư ổn định, nhằm tạo tâm lý tin tưởng cho nhà đầu tư mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
III.2.3 Giải pháp về thị trường
+ Tăng cường vai trò và hiệu quả hoạt động của các cơ quan Chính phủ trong việc xây dựng phát triển thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực nói riêng và xuất khẩu hàng hoá Việt Nam nói chung. Các giải
pháp chủ yếu là:
- Đàm phán, ký các thoả thuận song phương và đa phương nhằm tăng khối lượng và giá trị hàng Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước (bao gồm đàm phán hạn ngạch xuất khẩu đối với các mặt hàng có hạn ngạch, ký các hiệp định chính phủ và mua bán hàng hoá giữa các quốc gia).
- Thiết lập hệ thống thu nhập và xử lý thông tin thương mại, nâng cao khả năng dự báo và định hướng thị trường bảo đảm cung cấp kịp thời và chính xác các thông tin cho các doanh nghiệp có căn cứ để phát triển buôn bán và đầu tư.
- Thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin và tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại.
+ Tăng tiềm năng về vốn, khả năng tổ chức thị trường để nâng cao khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Bằng cơ chế tổ chức và quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, hình thành các kinh lưu thông ổn định từ sản xuất đến tiêu thụ và xuất khẩu, trong đó doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Thực hiện tốt các yêu cầu này sẽ tạo tiền đề cho việc tích tụ và tập trung vốn, tăng thêm sức mạnh trong việc tổ chức thị trường cung ứng và tiêu thụ, tạo thế và lực mới cho các doanh nghiệp Việt Nam trong cạnh tranh trên thị trường thế giới.
- Tăng vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước, kinh doanh xuất nhập khẩu những mặt hàng chủ lực bảo đảm khả năng tạo nguồn xuất khẩu và dự trữ lưu thông để giữ vững thị trường và khách hàng.
- Sớm ban hành quy chế về việc các doanh nghiệp Việt Nam lập chi nhánh kinh doanh thương mại ở nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận trực tiếp với nhu cầu của thị trường nước ngoài và xâm nhập sâu hơn vào các thị trường đó.
- Tiến hành sâu rộng một chiến dịch nhằm cải thiện hình ảnh về hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
III.2.4 Giải pháp về điều hành và phát triển nguồn nhân lực
Cần nghiên cứu và triển khai áp dụng mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả điều hành trong các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước và các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu chủ lực. Người Giám đốc luôn là người chịu trách nhiệm mọi mặt trong công ty, do đó người giám đốc cần phải được trao các quyền cần thiết để thực thi nhiệm vụ của mình theo đúng luật định.
Các ngành, các doanh nghiệp thuộc mỗi ngành cần có kế hoạch xây dựng hệ thống mạng thông tin điều hành nhằm nâng cao hiệu quả của việc điều hành và quản lý thông suốt từ trên xuống dưới. Muốn tiếp nhận công nghệ phù hợp, nhập các loại thiết bị tương thích thì việc củng cố các Viện nghiên cứu và sử dụng các chuyên gia kỹ thuật chuyên ngành là rất cần thiết, kể cả việc thuê các chuyên gia nước ngoài nhằm đảm bảo cho các dự án đầu tư được triển khai thực hiện có hiệu quả, lựa chọn công nghệ và thiết bị chính xác, phù hợp với từng ngành cụ thể, phù hợp với môi trường sản xuất trong nước.
Huy động nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh tốt để bổ sung cho các doanh nghiệp gặp khó khăn, hoặc thực hiện các dự án đầu tư mới sau khi đã qua khoá đầu tư ngắn hạn về quản lý hoặc kỹ thuật.
Thuê các nhà quản lý, các chuyên gia kỹ thuật nước ngoài nhằm giải quyết các khó khăn cho một số công ty, hoặc điều hành các dự án mới. Xây dựng cơ chế ứng xử mới, cả về tinh thần và vật chất (thực chất là nền văn hoá doanh nghiệp) nhằm thu hút mọi nguồn chất xám cho phát triển sản xuất các mặt hàng chủ lực. Củng cố các trường đào tạo, trung tâm đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo (kể cả việc thuê các chuyên gia đào tạo nước ngoài) để đáp ứng nhu cầu về cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong thời gian tới.
III.3 Một số kiến nghị về cơ chế chính sách
Chủ thể chính trong việc thực hiện một cách chủ động những biện pháp để tăng tốc phát triển kinh tế đất nước chính là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh và thời cơ hiện nay thì sự chỉ đạo và hỗ trợ của Nhà nước vẫn mang tính chất quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu nêu trên trong thời gian ngắn nói trên. Trên tinh thần đó, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị như sau:
III.3.1 Có chính sách thuế và cơ chế tài chính tạo vốn và khuyến khích các ngành hàng đầu tư phát triển
Trong bối cảnh tình hình kinh tế nước ta hiện nay, chính sách thuế khoán sức dân, nuôi dưỡng nguồn thu và định hướng khuyến khích được sự đầu tư phát triển của các ngành sử dụng nhiều lao động và sản xuất các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như ngành dệt may, ngành thuỷ sản, sản xuất gạo, cà phê, khai thác dầu khí… là hết sức cần thiết.
Với quan điểm đó, mỗi ngành cần kiến nghị với Thủ tướng, Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan nghiên cứu thực thi một chính sách thuế và tài chính thực sự tạo điều kiện cho các ngành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển sản xuất, cụ thể là:
- Cho phép sử dụng vốn ngân sách cho các dự án quy hoạch vùng nguyên liệu, quy hoạch cụm công nghiệp, cho xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp mới, đầu tư cho các hoạt động của các Viện và Trung tâm nghiên cứu chuyên ngành.
- Tạo điều kiện và có cơ chế cho vay ưu đãi để tăng tốc phát triển mỗi ngành hàng, mặt hàng cụ thể trong thời gian ngắn 5 năm từ 2005-2010, và có thể kéo dài đến 2020.
- Được phép sử dụng vốn ODA không thêm điều kiện vay lại và một phần vốn đối ứng đặc biệt ưu đãi (vay 12 - 15 năm, 2 - 3 năm ân hạn, lãi suất
0-1% năm) cho các chương trình phát triển vùng nguyên nhiên liệu, các công trình xử lý nước thải và giải quyết vốn đối ứng xây dựng cơ sở hạ tầng cho các cụm công nghiệp mới.
- Đề nghị Chính phủ bảo lãnh cho các doanh nghiệp Nhà nước được mua trả chậm, vay thương mại của các nhà cung cấp hoặc các tổ chức tài chính nước ngoài.
- Đối với các doanh nghiệp Nhà nước có sản xuất kinh doanh phát triển nhanh cần cấp vốn lưu động phù hợp với tốc độ phát triển. Nguồn cấp có thể từ phần nộp ngân sách hàng năm. Đối với các dự án mới, được cấp 30% vốn từ ngân sách Nhà nước và cấp đủ vốn lưu động theo quy định.
III.3.2 Có biện pháp hỗ trợ hội nhập và xúc tiến xuất khẩu
- Cần phân định rõ trách nhiệm về công tác thị trường ở tầm vĩ mô và vi mô, khắc phục đồng thời hai biểu hiện tiêu cực là ỷ lại vào Nhà nước và phó mặc cho doanh nghiệp.
Bộ Thương mại là người hoạch định chiến lược xuất khẩu trong một tầm nhìn dài hạn, đảm bảo cả ba yếu tố: tốc độ phát triển, cơ cấu thị trường và cơ cấu mặt hàng; thu thập thông tin về thị trường, đồng thời làm tốt công tác dự báo để định hướng cho sản xuất và xuất khẩu, phát triển mặt hàng mới; tổ chức thị trường và xúc tiến thương mại. Trên cơ sở đó xác định mục tiêu cho từng thời kỳ, từng thị trường nước ngoài.... Vì thế, tham tán thương mại tại nước ngoài là người đầu tiên phải giải thích được lý do khi chỉ tiêu xuất khẩu không đạt được, đồng thời đề xuất các biện pháp khắc phục cần thiết.
Vấn đề tiếp theo của Bộ Thương mại là phổ biến thông tin thương mại, thị trường... tới các doanh nghiệp một cách nhanh nhất và tiết kiệm nhất. Để làm được việc này, Bộ Thương mại xây dựng ngay cơ sở dữ liệu và trang (Web) riêng, đồng thời tăng cường phát hành các tài liệu theo chuyên đề.
Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác thông tin, trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo, hội chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để nắm bắt thị trường, bám sát và tiếp cận được tiến bộ của thế giới trong sản xuất và kinh doanh, tự mình lo tìm bạn hàng, thị trường, ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và
xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý Nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá.
- Đề nghị Nhà nước có kế hoạch phát động một chiến dịch nhằm cải thiện hình ảnh về hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Thí dụ: có thể ra một tạp chí chính thức về các sản phẩm của Việt Nam phát hành miễn phí ra nước ngoài thông qua hệ thống sứ quán và thương vụ.
Bộ Thương mại bố trí Đại diện thương mại và Phòng trưng bày hàng xuất khẩu thường trực ở các thị trường chủ yếu như Nhật, Đức, Bắc Âu, Nga, Mỹ, cùng Tổng cục Hải quan cung cấp thông tin thị trường và thông tin xuất nhập khẩu định kỳ. Một trong các chức năng quan trọng của đại diện thương mại ở nước ngoài là phát hiện kịp thời các trở ngại do chính sách luật lệ của nước sở tại gây ra cho hàng hoá nước mình. Giảm cước phí vận chuyển giao nhận bằng đường hàng không để có thể xuất khẩu được những mặt hàng cần thời gian và có giá trị lớn nhưng trọng lượng nhỏ. Sau khi ký kết Hiệp định thương mại với Mỹ, xúc tiến nhanh hơn việc gia nhập WTO trước năm 2005 để ngành ngoại thương Việt Nam có điều kiện cạnh tranh với các nước trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu.
III.3.3 Về ưu đãi đầu tư
- Giảm thiểu các thủ tục xét duyệt phiền hà đối với đầu tư tư nhân, đặc biệt là việc phê duyệt nhập khẩu công nghệ, máy móc thiết bị.
- Công bố ngay trong năm 2004 một kế hoạch cho giai đoạn 2005 - 2010 nhằm giảm thiểu hành rào phi thuế quan và lộ trình giảm thuế theo Hiệp định CEPT/AFTA với các bước đi rõ ràng và cụ thể cho từng năm.
- Những năm gần đây, do quá lo lắng trước tình trạng nhập siêu và tình trạng “vốn nước ngoài chèn ép vốn trong nước”, đã xuất hiện một số ý kiến về việc dùng các biện pháp hành chính để hạn chế đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh vực. Các vấn đề như cam kết xuất khẩu, hạn chế bán ngoại tệ cũng đã được đề cập, gây ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của các nhà đầu tư nước ngoài. Thực ta, có thể dùng các biện pháp vĩ mô như tăng cường kiểm soát
dịch chuyển lợi nhuận (biện pháp chống chuyển giá), giảm thiểu hàng rào bảo hộ, giảm thiểu ưu đãi cho sản xuất hàng thay thế nhập khẩu ... để lành mạnh hoá môi trường kinh doanh và định hướng lại cho luồng vốn đầu tư, không cần thiết phải sử dụng đến các biện pháp hành chính. Chúng ta cần nhận thức rõ rằng giữa ổn định môi trường đầu tư và giảm thuế hàng rào phi thuế không hề tồn tại mâu thuẫn. Khái niệm ổn định đề cập ở đây là ổn định tích cực, theo hướng minh bạch hoá, nhất quán và đồng bộ hoá các chính sách vĩ mô trong việc dịch chuyển cơ cấu đầu tư, chứ không phải “giữ nguyên hiện trạng”.
- Phát triển hợp lý các khu công nghiệp và khu chế xuất để qua đó giảm thiểu các khó khăn (mang tính đặc thù Việt Nam) cho lĩnh vực đầu tư. Trong hoàn cảnh cụ thể của chúng ta hiện nay đất chật, người đông, thủ tục cấp đất khó khăn đã làm cho nhiều doanh nghiệp không muốn đầu tư mới hoặc mở rộng sản xuất. Nếu có nhiều khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung được xây dựng với cơ sở hạ tầng đầy đủ, cộng với việc triển khai tích cực, đầy đủ cơ chế “thủ tục và dịch vụ một cửa” như Chính phủ đã quy định sẽ kích thích và thu hút được các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
III.3.4 Về thương mại và hải quan
Về chính sách xúc tiến thương mại, nên mở rộng các chuyến viếng thăm giữa các đoàn cấp bộ, chủ động nêu khả năng đàm phán ký kết các văn bản khung như hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại... Tổ chức giới thiệu với các bạn hàng các mặt hàng ta có tiềm năng mà thị trường họ có nhu cầu như: gạo, cao su, than đá, hàng dệt may, hàng công nghiệp nhẹ, thủ công mỹ nghệ
...
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Thương Mại, các vụ chính sách thị trường ngoài nước đã cùng với nhiều cơ quan thương vụ ở nước ngoài đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai một số biện pháp về xúc tiến thương mại để tăng xuất khẩu vào thị trường Nga, Đông Âu, Trung Đông, Australia, NewZealand, Đài Loan và Hàn Quốc; đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may, giày dép, chè, cao su vào Đài Loan, hàng thuỷ sản, than đá và may mặc vào Hàn
Quốc... Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, các Hiệp hội doanh nghiệp, Hiệp hội ngành, nghề tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, ở trong và ngoài nước, thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, tăng nhanh khối lượng hàng xuất khẩu và tiêu thụ ở trong nước, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá. Triển khai các biện pháp thực hiện Hiệp định Dệt may Việt Nam – Hoa Kỳ.
Phối hợp với các Bộ, ngành đấu tranh khắc phục các hàng rào phi thuế quan, hàng rào kỹ thuật và xử lý tốt các tranh chấp thương mại đối với xuất khẩu, nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuyên truyên, phổ biến từ tháng 7/ 2003, theo lộ trình thuế AFTA, thực hiện chuyển các mặt hàng trong danh mục loại trừ tạm thời (TEL) sang danh mục cắt giảm (IL).
Đấu tranh chống gian lận thương mại, đẩy mạnh chống sản xuất và buôn bán hàng giả, xử lý nghiêm theo phát luật đối với các hành vi đầu cơ, găm hàng, nâng giá thu lời bất chính. Ưu tiên phân bổ Quota cho các đơn hàng FOB sử dụng nguyên liệu nội địa. Hiệp hội Dệt May được tham gia vào việc thảo luận xây dựng các quy chế phân bổ Quota. Cho phép Viện Kinh tế Kỹ thuật được phối hợp cùng với cơ quản Hải quan và cơ quan thuế để áp mã thuế phù hợp với các loại nguyên phụ liệu, vật tư nhập khẩu cho ngành dệt may.
III.3.5 Về chương trình phát triển các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Phương hướng chủ đạo để phát triển xuất khẩu là tạo dựng những mặt hàng chủ lực, nhưng không giới hạn vào những mặt hàng cố định mà linh hoạt đáp ứng nhu cầu thị trường và biến động giá cả, ở đây trọng tâm cần đặt vào các mặt hàng công nghiệp chế biến (chủ yếu là nông, lâm, thuỷ sản) và hàng công nghiệp nhẹ (hàng dệt, may, da và giả da...), công nghiệp lắp ráp, sử dụng nhiều lao động có tay nghề khá. Đồng thời cần tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, nhiều chất xám, có công nghệ mới để tạo cho nhóm hàng này có vị trí quan trọng trong cơ cấu hàng xuất khẩu trong thời gian tới.
III.3.5.1 Kiến nghị cụ thể về chương trình phát triển xuất khẩu hàng hoá
(nhóm mặt hàng xuất khẩu hữu hình)
- Yếu tố quyết định qui mô, nhịp độ xuất khẩu hàng hoá là cơ cấu hàng xuất khẩu và những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Xác định cơ cấu hàng hoá có hiệu quả và những mặt hàng chủ lực là một nội dung quan trọng của chính sách phát triển mặt hàng xuất khẩu.
- Trong một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, việc đổi mới chính sách cơ cấu hàng xuất khẩu phải căn cứ vào: thị trường xuất khẩu, điều kiện và khả năng sản xuất trong nước, hiệu quả (bao gồm hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế - xã hội). Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, cần có chính sách chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo các hướng: (1) Giảm tỷ trọng thô và sơ chế đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu; (2) Giảm tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu truyền thống đi đôi với tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu mới; (3) Tăng tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao trong giá trị kim ngạch hàng xuất khẩu.
- Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu phải gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu. Từ nay đến 2010, chính sách xuất khẩu là phải triệt để khai thác những lợi thế có thể xuất khẩu ngay, đặc biệt là nguồn lao động dồi dào, có óc tiếp thu tay nghề nhanh, nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú hơn so với nhiều nước đã trở thành nước công nghiệp, phát triển các ngành khai thác và sản xuất các sản phẩm hướng xuất khẩu.
- Đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu đòi hỏi phải đổi mới cơ cấu sản xuất, gắn qui hoạch xuất khẩu với qui hoạch sản xuất các sản phẩm xuất khẩu. Để đảm bảo qui hoạch xuất khẩu, Nhà nước cần ban hành các chính sách đầu tư (vốn và công nghệ) đối với các ngành, các doanh nghiệp sản xuất, khai thác hàng xuất khẩu, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất kinh doanh sản phẩm xuất khẩu thông qua các biện pháp tín dụng, tài chính, thuế và hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài.
- Với việc đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu, danh mục các mặt hàng xuất khẩu sẽ thay đổi theo chiều hướng gia tăng các mặt hàng chủ lực, các mặt hàng có sức cạnh tranh và mang lại hiệu quả cao. Một số sản phẩm hiện nay được coi là hàng xuất khẩu chủ lực, có khả năng sẽ tăng lên về mặt số lượng và kim ngạch xuất khẩu nhưng tỷ trọng của chúng lại có thể giảm đi trong kim ngạch xuất khẩu trong 10-15 năm tới.
III.3.5.2 Kiến nghị cụ thể về chương trình phát triển xuất khẩu dịch vụ (nhóm các mặt hàng xuất khẩu vô hình)
- Chính sách đối với xuất khẩu dịch vụ cần được hoàn thiện theo hướng triệt để khai thác và khai thác có hiệu quả các lợi thế trong xuất khẩu dịch vụ và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ quốc tế.
- Nâng cao chất lượng dịch vụ lên ngang tầm quốc tế, đây là nhân tố quan trọng để thu hút khách quốc tế trong mọi dịch vụ: chất lượng cơ sở hạ tầng cũng như chất lượng đội ngũ các nhân viên, cán bộ làm công tác dịch vụ với đủ các tiêu chuẩn cần thiết về đạo đức, nghiệp vụ, trình độ quản lý... ngang trình độ của các nước trong khu vực.
- Hình thành một hệ thống các doanh nghiệp dịch vụ thuộc các thành phần kinh tế cùng tham gia phát triển các dịch vụ quốc tế, tăng cường sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp dịch vụ, xoá bỏ sự độc quyền của Nhà nước trong lĩnh vực dịch vụ, có sự quản lý và giám sát chặt chẽ của Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội chứ không phải là hiệu quả kinh doanh cao.
KẾT LUẬN
Để tạo nguồn vốn bằng ngoại tệ cần thiết cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh tế - xã hội, đồng thời tham gia rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, mở rộng sự giao lưu giữa thị trường trong nước với thị trường quốc tế, chúng ta phải dựa chủ yếu vào các nguồn lực trong nước và những lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Vấn đề cốt lõi là xác định cơ cấu tối ưu, đáp ứng yêu cầu của thị trường , phù hợp với khả năng sản xuất trong nước, có hiệu quả và xây dựng được một số mặt hàng chủ lực để có khối lượng lớn kim ngạch và giá trị xuất khẩu cao.
Những năm qua, hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta, đặc biệt là xuất khẩu đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhìn lại hoạt động xuất khẩu những năm qua, có thể nhận thấy rõ vai trò của cơ chế chính sách trong thành công của hoạt động xuất khẩu kinh tế khu vực phục hồi. Tuy nhiên, nếu không có cơ chế chính sách phù hợp thì hoạt động xuất khẩu đã khó có thể tận dụng được các thời cơ do môi trường quốc tế đem lại... Hoàn cảnh bên ngoài là yếu tố quan trọng, nhưng các chủ trương, chính sách đúng đắn kết hợp với nội lực bên trong mới là yếu tố quyết định. Với những định hướng rõ ràng và tinh thần quyết tâm cao độ, hy vọng hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng sẽ lại đạt được những thành tích mới trong những năm đầu thế kỷ 21.
Kết thúc năm 2003, một năm đầy khó khăn và thử thách đối với Việt Nam do phải chịu nhiều ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài như: sự biến động dữ dội của tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới; đồng thời, trong nước thì gặp phải nhiều thiên tai, bão lụt. Thế nhưng nhờ những chính sách đổi mới sáng suốt của Đảng và Nhà nước, Việt Nam vẫn tiếp tục ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của mình là phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới. Đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương, Việt Nam đã và sẽ tiếp tục tăng trưởng bền
vững, đưa Việt Nam phát triển hơn nữa cả về kinh tế và văn hoá xã hội, vững chắc bước trên con đường hội nhập và cất cánh cao hơn vào nền kinh tế thế
giới.
Qua học tập ở trường và bằng những nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là giai đoạn từ năm
1998 đến nay, ‘‘Chiến lược phát triển các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 2005 - 2010’‘ là vấn đề vừa có ý nghĩa lý luận và thực tế to lớn của đất nước ta hiện nay.
Các vấn đề đã được trình bày và kiến nghị của luận văn là:
+ Tiến trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh đòi hỏi một chính sách phát triển các nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực hợp lý là một xu hướng có tính qui luật, là điều kiện cần thiết không thể thiếu được cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
+ Các chính sách đòn bẩy không những là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô rất quan trọng của Nhà nước mà chúng còn có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy xuất khẩu, hướng các hoạt động này theo đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong từng thời kỳ.
+ Khóa luận tốt nghiệp đã trình bày những mặt yếu còn tồn tại, nhận thức được nguyên nhân và đánh giá đúng thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong thời gian qua.
Tóm lại, những kiến nghị chính sách đòn bẩy và công cụ điều tiết nêu trên là rất cấp bách, song, cần phải đặt chúng trong mối quan hệ giữa bản thân các biện pháp nói trên với nhau, đặt trong mối quan hệ tổng hoà các công cụ khác cùng chủ trương của Đảng và Nhà nước ta từng thời kỳ mà xử lý thận trọng, đồng bộ thì mới đem lại kết quả mong muốn. Khoá luận nêu rõ vị trí chiến lược của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu có tính quy luật và là điều kiện không thể thiếu được cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta.
Do thời gian nghiên cứu không dài, tài liệu tham khảo chưa thực sự đầy
đủ, cộng với kinh nghiệm thực tế chưa nhiều, khoá luận chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong sự thông cảm và những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, bạn bè và những người quan tâm khác, để giúp em rút kinh nghiệm cho những nghiên cứu sau này./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo giao ban tháng 8 năm 2003, Vụ Kế hoạch, Bộ Thương mại
2. Báo cáo giao ban tháng 10 năm 2003, Vụ Kế hoạch, Bộ Thương mại
3. Báo cáo giao ban tháng 12 năm 2002, Vụ Kế hoạch, Bộ Thương mại
4. “Từ 1/7, cắt giảm thuế 17 mặt hàng tham gia AFTA”, VietNamNet, ngày
14/6/2003
5. Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam liệu có đứng đầu châu Á, VietNamNet, ngày
17/1/2002
6. Bài: “Xuất khẩu tăng 22,7%”, Thời Báo Sài Gòn, số 45 ngày 30/10/2003
7. “Giải pháp tăng kim ngạch xuất khẩu bốn tháng cuối năm 2003”, VNExpress.vnn.vn, ngày11/8/2003
8. “Xuất hiện một số khó khăn đối với hoạt động”, VNExpress.vnn.vn, ngày
11/8/2003
9. “Dự báo xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực giảm”, VietNamNet, ngày
2/8/2003
10. “Hướng phát triển thị trường xuất khẩu Việt Nam tới năm 2010”, PTS.
Phạm Quyền và PTS. Lê Minh Tâm, NXB Thống kê 2001
11. Giáo trình “ Kinh tế ngoại thương” – Giáo sư tiến sĩ Bùi Xuân Lưu – Nhà xuất bản giáo dục – 1998.
12. "Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 - 2005" - Bộ
Thương Mại, tháng 8/2000
13. Giáo trình “Chiến lược kinh doanh” – GS.PTS Vũ Thị Ngọc Phùng và
Thạc sĩ. Phan Thị Nhiệm, NXB Thống kê 1999
14. “Ảnh hưởng của tự do hoá thương mại đến một số ngành kinh tế Việt
Nam” Dự án VIE95/024, Bộ thương mại, 1998
15. Thời báo kinh tế Việt Nam, số “Kinh tế 1999 - 2000”.
16. Thời báo kinh tế Việt Nam, số “Kinh tế 2001 - 2002”
17. Báo cáo hàng năm của Hiệp hội da giầy Việt Nam
18. Kế hoạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đến 2010, Bộ Thủy sản
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8335.doc