Chiến lược đẩy nhanh xuất khẩu gạo trong những năm đầu thế kỷ 21

Lời mở đầu Trong nền kinh tế quốc dân kim ngạch xuất khẩu chiếm một tỷ trọng rất lớn. Xuất khẩu được coi là tiêu chí để đánh giá sức mạnh của một nền kinh tế. ở Việt Nam, thời gian gần đây mặc dù chúng ta đã tăng cường được một số mặt hàng xuất khẩu và đã chiếm lĩnh được tỷ lệ tỷ phần nhất định trên thị trường thế giới. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực ở nước ta như: dầu khí, hàng dệt may, hàng thủ công mỹ nghệ… đặc biệt là xuất khẩu gạo. Với truyền thống của nền văn minh lúa nước, Việt Nam đ

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1639 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chiến lược đẩy nhanh xuất khẩu gạo trong những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã và đang là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Có thể nói hằng năm Việt Nam xuất khẩu một khối lượng gạo rất lớn ra thị trường thế giới, và nó góp phần đưa bản đồ xuất khẩu Việt Nam lên một tầm cao mới. Tuy nhiên so với một số nước khác như: Thái Lan, ấn Độ, Trung Quốc… và một số nước Bắc Mỹ thì trong xuất khẩu gạo của Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề chiếm lĩnh thị trường cũng như khẳng định lại vị thế của mình. Là một ngành xuất khẩu mũi nhọn của cả nước chúng ta cần nhìn lại quá trình xuất khẩu gạo trong những năm qua để từ đó có được một chiến lược, biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của nước ta trong những năm tới. Và đó cũng là lý do mà em chọn đề tài "Chiến lược đẩy nhanh xuất khẩu gạo trong những năm đầu thế kỷ XXI". Kết cấu của đề án gồm ba chương không kể mở đầu và kết luận: Chương 1: Lý luân chung về chiến lược và vai trò của hoạt động xuất khẩu. Chương 2:Thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của việt nam trong những năm gần đây. Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam. Chương I Lý luân chung về chiến lược và vai trò của Hoạt động xuất khấu I.lý luận chung về chiến lược 1. Khái niệm về chiến lược Chiến lược kinh doanh là một bản phác thảo tương lai bao gồm các mục tiêu mà doanh nghiệp phải đạt được cũng như các phương tiện cần thiết để thực hiện mục tiêu đó. Tuy nhiên có tác giả cho rằng: chiến lươc là tập hợp các quyết định và hành động quản trị quyết định thành công của doanh nghiệp . Theo quan điểm truyền thống, chiến lược phác thảo các mục tiêu giải pháp dài hạn; theo quan niệm hiện đại có cả chiến lược dài hạn và ngắn hạn. 2.Hoạch định chiến lược 2.1. khái niệm và bản chất 2.1.1. Khái niệm Hoạch định chiến lược là quá trình sử dụng các phương pháp, công cụ và kỹ thuật thích hợp nhằm xác định chiến lươc kinh doanh của doanh nghiệp và từng bộ phận doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ chiến lược xác định. 2.1.2. Bản chất Bản chất của hoạch định chiến lược là xây dựng bản chiến lược cụ thể trong một thời kỳ nào đó. Về cơ bản giữa hoạnh định chiến lược và xây dựng kế hoạch không giống nhau. Điểm khác nhau cơ bản giữa chúng là ở phương pháp xây dựng. 2.2 Quy trình hoạch định chiến lược Quy trình hoạch định chiến lược gồm 8 bước: Bước 1- Phân tích và dự báo môI trường bên ngoài, trong đó cốt lõi là phân tích và dự báo về thị trường . Bước 2- Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo môi trường bên ngoài. Bước 3- Phân tích, đánh giá và phán đoán đúng môi trường bên trong doanh nghiệp . Đó là đánh giá và phán đoán về hệ thống marketing, nghiên cứu và phát triển, tổ chức nhân sự, tình hình tài chính của doanh nghiệp… Bước 4- Tổng hợp kết quả phân tích, đánh giá và dự báo môi trường bên trong doanh nghiệp . Bước 5- Nghiên cứu các quan điểm, mong muốn, ý kiến… của lãnh đạo doanh nghiệp. Bước 6- Hình thành một (hay nhiều) phương án chiến lược. Bước 7- Quyết định chiến lược tối ưu cho thời kỳ chiến lược. Bước 8- Chương trình hoá phương án chiến lược đã lựa chọn với hai công việc trọng tâm: thứ nhất, cụ thể hoá các mục tiêu chiến lược thành các chương trịnh , phương án dự án; thứ 2, xác định các chính sách kinh doanh, các công việc quản trị nhằm thực hiện chiến lược. ii. vai trò của hoạt động xuất khẩu 1.Đối với các doanh nghiệp Mọi doanh nghiệp đều hướng tới hoạt động xuất khẩu những sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp ra nước ngoài. Xuất khẩu được xem như là chiến lược kinh doanh quốc tế quan trọng, cơ bản của nhiều công ty kinh doanh quốc tế. Xuất khẩu còn tồn tại ngay cả khi doanh nghiệp đã thực hiện được các hình thức cao hơn trong kinh doanh. Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu như: Đảm bảo mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp do nâng cao được khối lượng sản xuất dẫn đến giảm chi phí cho một đơn vị sản phẩm đồng thời giảm được rủi ro, tối thiểu hoá sự dao dộng của nhu cầu Nâng cao vị thế của doanh nghiệp tạo thế và lực cho doanh nghiệp Hoạt động xuất khẩu có vai trò điều tiết, hướng dẫn sản xuất kinh doanh thông qua yêu cầu về số lượng hàng xuất khẩu, chất lượng hàng xuất khẩu… 2.Đối với nhà nước Với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ góp phần giải quyết một số vấn đề sau: Thứ nhất: đẩy mạnh xuất khẩu là yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế, mở rộng qui mô sản xuất của nhiều ngành nghề phục vụ cho xuất khẩu và nhiều ngành kinh tế khác. Thứ hai: Đẩy mạnh xuất khẩu sẽ góp phần giải quyết nạn thất nghiệp trong nước. Sự phát triển các ngành công nghiệp hướng xuất khẩu làm quy mô sản xuất đươc mở rộng nhiều ngành nghề mới phát triển từ đó sẽ thu hút thêm nhiều lao động. Thứ ba: Xuất khẩu là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu của đất nước, góp phần quan trọng cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ là nguồn vốn chủ yếu đáp ứng nhu cầu nhập khẩu để phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế. Thứ tư: Đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành nghề theo hướng sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của đất nước. Thứ năm: Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Như vậy xuất khẩu không chỉ đóng vai trò hỗ trợ phát triển mà nó còn là yếu tố bên trong của sự phát triển góp phần thực hiện các chiến lược kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước ta. Chương 2 Thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của việt nam trong những năm gần đây i.nhận định chung về hoạt động xuất nhập khẩu của việt nam trong những năm đầu thế kỷ mới 1.Nhận định chung Bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, hoạt động xuất khẩu của nước ta thuận lợi hơn nhiều so với trước . Nhìn về “thế” thì ngày nay nước ta chẳng những không còn bao vây cô lập mà đã có quan hệ kinh tế – thương mại đa dạng với nhiều nước và tổ chức quốc tế cũng như khu vực. Đứng về “lực” thì nền kinh tế của nước ta đã khác xưa , nhiều ngành đã lớn mạnh cả về lượng lẫn chất, có khả năng gia tăng đáng kể hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu với chất lượng có thể cạnh tranh trên thương trường thế giới.Trên phạm vi khu vực và toàn cầu, những thoả thuận về việc thuyên giảm hàng rào thuế quan, dỡ bỏ các biện pháp phi thuê quan tạo ra thị trường xuất khẩu rộng mở. Mục tiêu hàng đầu mà chính phủ đề ra là vào năm 2010 GDP phải tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000 và vào năm 2020 Việt Nam phải trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ to lớn này, xuất khẩu chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng , tốc độ tăng trưởng của nó chỉ ít cũng phải gấp đôi tốc độ tăng trưởng của GDP, đồng thời phải giảm tới mức thấp nhất tình trạng nhập siêu , cân bằng cán cân thương mại quốc tế. Điều này gắn với sự thay đổi sâu sắc trong nền kinh tế nước ta sau những năm thực hiện công cuộc đổi mới. Từ một nền kinh tế khan hiếm , nay một số ngành đã sản xuất dư thừa so với nhu cầu trong nước . Do đó yêu cầu thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu được xem như một chiến lược toàn ngành. Để đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tới có ba khâu then chốt gắn quyện với nhau là đổi mới cơ cấu mặt hàng, mở rộng thị trường và nâng cao sức cạnh tranh. 2.Xuất khẩu bước vào thiên miên kỷ mới : Đỉnh cao, vị thế, thách thức 2.1.Đỉnh cao mới Năm 1999 , xuất khẩu của cả nước đạt kim ngạch hơn 11,5 tỷ đôla, tăng 23,1% so với năm 1998. Năm 2000, trước những biến động của thị trường, Chính phủ và Bộ Thương mại đã chủ động đề ra nhiều giải pháp khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu. Những biện pháp này đã góp phần cùng với nỗ lực vượt bậc của nền kinh tế, các doanh nghiệp, đưa kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 14,2 tỷ đôla, trong đó nổi bật là dầu thô tăng 71,2% (3,582 tỷ đôla), nhưng xuất khẩu gạo chỉ đạt 3,5 triệu tấn với kim ngạch đạt 672 triệu đôla, giảm 22,4% về lượng và 34,4% về kim ngạch. Năm 2001, xuất khẩu gạo đạt 624,71 triệu đôla .Đầu năm 2002, xuất khẩu gạo đạt khoảng 19,41 triệu đôla (hai tháng đầu năm 2002) . Như vậy, nhìn chung tình hình xuất khẩu của nước ta trong nhưng năm đầu thế kỷ mới là tương đối khả quan, tuy có một số ngành không đạt yêu cầu, nhưng bên cạnh đó cũng có một số ngành vượt chỉ tiêu.Điều này giúp cho xuất khẩu việt nam có một đỉnh cao mới trên trường quốc tế. 2.2. Vị thế mới Với mức kim nghạch 14,3 tỷ đôla ,xuất khẩu Việt Nam không chỉ đánh dấu thêm một mốc đỉnh mới mà còn vượt qua ngưỡng về xuất khẩu của một nền kinh tế đang phát triển (bình quân 184 đôla/người/năm so với chuẩn 170 đôla/người/năm), được thế giới công nhận là nước có nền ngoại thương tương đối phát triển. Trong kinh tế đối ngoại, đây là một thuận lợi không nhỏ khi xét về chất lượng hàng hoá Việt Nam để mở rộng thị trường , đánh dấu những nỗ lực hội nhập đáng kể của kinh tế Việt Nam vào khu vực và thế giới , mở đường cho việc tham gia Tổ chức Thương mại châu á Thái Bình Dương (APEC) và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và thực hiện những hiệp định thương mại song phương trên nền tảng bình đẳng , cùng có lợi. ở hoạt động kinh tế trong nước , kim nghạch xuất khẩu tăng cao đã tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong nước vượt chỉ tiêu kế hoạch , đạt 6,8% so với mức tăng 4,8% của năm 1999 và 5,8% của năm 1998 . Theo ước tính , tổng giá trị sản phẩm trong nước (GDP) đạt 444.000 tỷ đồng thì kim nghạch xuất khẩu chiếm đến hơn 46% (chưa kể 2,2 tỷ đôla kim nghạch xuất khẩu dịch vụ – theo ước tính của Bộ Thương Mại – mà nếu tính cả số ngoại tệ này thì chiếm đến 53,8% GDP ) . Mức kim nghạch tăng góp phần thúc đẩy sản xuất phục vụ cho xuất khẩu , nhiều ngành , nhiều doanh nghiệp tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị phục vụ sản xuất ... Và ở phương diện xã hội , đây là một giải pháp hữu hiệu nhất tăng cường giải quyết việc làm cho người lao động , giảm tỷ lệ thất nghiệp và qua đó kích cầu tiêu dùng trong nước . Theo một ước tính sơ bộ , cứ 1 đôla kim nghạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm qua đã giải quyết được việc làm cho 0,85 lao động. Hiện nay , chúng ta có quan hệ thương mại với 150 quốc gia và khu vực . Một khi công tác xuất khẩu được đẩy mạnh ,hàng hoá Việt Nam có mặt ngày càng nhiều trên các thị trường này hoặc những thị trường mới khác nữa thì không chỉ đem lại những nguồn ngoại tệ lớn phát triển đất nước mà còn nâng cao hơn vị thế của kinh tế Việt Nam trên thương trường . 2.3. Thách thức mới Nếu chỉ nhìn vào mức tăng trưởng kim nghạch xuất khẩu của 5 năm gần đây (1996 tăng 33,2% , 1997 tăng 26,6% , 1998 tăng 1,9% , 1999 tăng 23,1% , 2000 tăng 24% ) thì chỉ tiêu tăng trưởng 16% của năm 2001 không phải quá cao , song xét trên nhiều khía cạnh kinh tế và thương mại thời gian qua thì đây lại là chỉ tiêu không dễ dàng vượt qua mà thậm chí còn là thách thức không nhỏ với ngành thương mại ở đầu thế kỷ . Bởi với mức tăng trưởng 24% của năm 2000 đưa kim nghạch lên14,3 tỷ đôla là một đỉnh mốc mới , từ đỉnh mốc này vượt lên 16% đòi hỏi cả một qúa trình nỗ lực không ngừng của cả nền kinh tế nói chung và ngành thương mại , từng doanh nghiệp nói riêng . Về cơ cấu hàng xuất khẩu của những năm gần đây, dù đã có chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng chế biến , song đến nay xuất khẩu hàng thô và sơ chế vẫn chiếm chủ yếu , tới trên 60% . Việc xuất khẩu hàng thô , sơ chế (chủ yếu để làm nguyên liệu chế biến cho các nền công nghiệp tiên tiến) không những không tạo ra được khả năng tăng vượt bậc kim nghạch , mà ngay việc tạo được những yếu tố bền vững trong tăng trưởng cũng rất khó do phụ thuộc vào ngành chế biến của các nước nhập khẩu , chưa kể xã hội sẽ không tận dụng được cơ hội giải quyết vấn nạn thất nghiệp trong điều kiện thiếu việc làm gay gắt , đồng thời còn đẩy nhanh qúa trình tận kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên . Tuy nhiên , việc tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến sâu trong xuất khẩu cũng không phải dễ , đòi hỏi một lượng vốn lớn , một chiến lược chỉnh chu hợp với thực trạng kinh tế đất nước ... có nghĩa không thể làm ngày một ngày hai . Bằng chứng là trong suốt thập niên qua , mức chuyển biến này rất chậm. Một thách thức khác có vẻ như không liên quan đến chỉ tiêu kim nghạch xuất khẩu , nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến sức kéo của xuất khẩu với nền kinh tế , đó là làm sao nâng cao tỷ trọng giá trị gia tăng trong kim nghạch xuất khẩu để tái đầu tư phát triển . Đạt được đỉnh cao mới , tạo được vị thế mới , nhưng ngành xuất khẩu của nước ta cần phải vượt qua những thách thức trên để vươn lên tầm cao mới ổn định hơn trong một vị thế sánh vai với các cường quốc năm châu . Song song với điều đó , chúng ta cần sử dụng thoáng hơn công tác điều hành xuất nhập khẩu , các công cụ tài chính và thông tin , kỹ thuật giao dịch điện tử .. để không chỉ chuyển biến tăng về lượng , mà cả về chất trong xuất khẩu , đưa nền ngoại thương nước ta lên một tầm cao tương xứng hơn . ii.THựC TRạNG CủA XUấT KHẩU GạO VIệT NAM 1.Lợi thế so sánh trong xuất khẩu gạo của Việt Nam 1.1.Lợi thế so sánh trong sản xuất Qua tình hình về điều kiện sản xuất , về đất đai , tỷ lệ diện tích được tưới tiêu , năng suất , cũng như giá vật tư các yếu tố đầu vào thì chi phí cho sản xuất lúa ở Việt Nam thấp hơn Thái Lan . (Xem bảng : Một số giá vật tư liên quan trực tiếp đến sản xuất thóc gao ở Việt Nam và Thai Lan ) . Chỉ tiêu Việt Nam Thái Lan 1.Xăng(lít) 0,35 USD 0,4 USD 2.DầuD.O(lít) 0,26 USD 0,3 USD 3.Điện(kw/h) 0,064 USD 0,12 USD Cộng 0,674 USD 0,82 USD Ước tính chi phí sản xuất 1 kg thóc Việt Nam bình quân khoảng 1.250 đến 1.600 VNĐ , trước 1996 tương đương 90 – 114,7 đôla/tấn . Hiện nay , tỷ giá 14.070 tương đương 88 – 113 đôla/tấn . Còn ở Thái Lan , giá thành sản xuất lúa tương đương 165 – 175 đôla/tấn (trước 1996) . Hiện nay do trượt giá , 1đôla = 39,12 Bath thì tương đương 105 – 110 đôla/tấn . Như vậy , trước khủng hoảng thì ta thấp hơn Thái Lan khoảng 32% , sau năm 1997 thấp hơn 17% . Xét trên góc độ chi phí : chi phí cho yếu tố đầu vào của ta thấp hơn mà năng suất lúa lại cao hơn , vì thế giá xuất khẩu tuy thấp hơn Thái Lan mà vẫn có lãi . Đây là lợi thế có sức cạnh tranh lớn trên thị trường gạo . Song tử sản xuất ra thóc đến thành gạo xuất khẩu là một chặng đường dài không ít khó khăn , bất cập như các vấn đề chế biến , môi trường kinh doanh và hàng loạt tác động về thể chế chính sách đối với xuất nhập khẩu. 1.2. Lợi thế so sánh về chất lượng Xét về mặt chất lượng , gạo Thái Lan có chất lượng tốt hơn và đã có uy tín trên thị trường thế giới, phù hợp với thị trường có thu nhập cao như Nhật Bản, EU , TRung Đông ... Trong cùng thời gian Thái Lan xuất khẩu gạo có phẩm cấp cao thường chiếm tới 60- 62% còn Việt Nam chỉ ở khoảng 40- 45% tổng lượng gạo xuất khẩu . Hiện nay , nếu so với gạo cùng phẩm cấp và vào cùng thời điểm thì giá gạo Việt Nam vẫn thấp hơn giá gạo Thái Lan khoảng 7 – 10%. Tuy nhiên , nếu chỉ căn cứ trên số liệu về phẩm cấp tỷ lệ (%) gạo xuất khẩu thì chưa thể có nhận định chính xác , vì yếu tố thị trường đã ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ này . Ví dụ , năm gần đây lượng gạo xuất khẩu vào thị trường châu phi tỷ lệ lớn (62 – 67%) lại là thị trường tiêu thụ gạo chủ yếu qua các chương trình viện trợ quốc tế nên yêu cầu gạo phẩm cấp thấp . Lợi thế so sánh về chất lượng , một mặt giúp Việt Nam đi được vào nhiều thị trường , nhất là thị trường ít khả năng thanh toán , mặt khác lại làm giảm hiệu quả thương mại , qua đó , giảm hiệu quả sản xuất . 1.3. Lợi thế so sánh vận chuyển Chi phí cảng , chi phí bốc dỡ xếp hàng và các chi phí liên quan tại cảng Sài Gòn khoảng 40 ngàn đôla/tàu công suất 10 ngàn tấn (chiếm 1,6% giá gạo xuất khẩu ) . Trong khi chi phí này ở Băng Cốc chỉ bằng một nửa . Ngoài chi phí cảng , tốc độ bốc dỡ rất chậm , so với Băng Cốc ta chậm hơn 6 lần (nghĩa là tại Sài Gòn bốc được 1 ngàn tấn / ngày thì ở Băng Cốc 6 ngàn tấn / ngày ) . Chậm trễ do sửa chữa và bốc xếp thường làm tốn thêm 6 ngàn đôla/ngày . Những hạn chế nói trên làm mất cơ hội về giá và đương nhiên người trồng lúa phải chịu dưới hình thức giá FOB thấp hơn . 1.4. Lợi thế so sánh về thị trường tiêu thụ Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay khoảng 80 nước , trong đó châu á , châu Phi là thị trường chính , chiếm 70 – 80 % lượng gạo xuất khẩu hàng năm . Số còn lại là các nước châu Âu , Bắc Mỹ , Trung Đông và hiện nay là Hàn Quốc , Nhật Bản , Trung Quốc. Thị trường gạo của ta cũng là thị trường gạo của Thái Lan , nên diễn ra sự cạnh tranh gay gắt về chủng loại , chất lượng và giá ... Trên thương trường Thái Lan có nhiều bạn hàng truyền thống lớn với khoảng 15 thị trường chính , đã tiêu thụ cho Thái Lan trên 80% lượng gạo xuất khẩu . Hơn nữa gạo Thái Lan đồng đều , có phẩm cấp cao phù hợp với thị trường Nhật Bản , EU ... Gạo Việt Nam trên thực tế mới thâm nhập vào thị trường chưa có bạn hàng lớn và thị trường truyền thống, Chất lượng gạo Việt Nam thấp , độ trắng không đều , lẫn thóc và nhiều tạp chất , đặc biệt lúa hè thu có độ ẩm cao , mẫu mã bao bì đóng gói không đẹp . Để khắc phục những vấn đề trên chúng ta còn nhiều việc phải làm từ sản xuất đến chế biến , bảo quản và tiếp thị lưu thông . Qua phân tích lợi thế so sánh trong chi phí sản xuất , chất lượng , vận chuyển và thị trường tiêu thụ thấy rằng : Chúng ta cần phát huy lợi thế so sánh trong chi phí sản xuất , tuy nhiên những lợi thế về giá thì cần thấy rõ cả mặt tích cực và tiêu cực của nó , phải khai thác yếu tố rẻ nhưng cũng phải thu hẹp khoảng cách về phẩm cấp giữa gạo Việt Nam và gạo Thái Lan. Những bất lợi của ta về vận chuyển , bốc dỡ , thị trường so với Thái Lan không thể ngày một ngày hai khắc phục được , nhưng sự nhận thức sâu sắc về nó giúp ta hạn chế những bất lợi này . 2.Xuất khẩu gạo trong năm 2000 2.1.Thời cơ Kết thúc năm 1999 nước ta xuất khẩu 4,55 triệu tấn gạo , thu về 1,035 tỷ đôla , vượt kế hoạch 55 vạn tấn và đã kỷ lục về số lượng và giá trị kể từ năm 1989 đến nay. Trong bối cảnh thị trường gạo thế giới năm 1999 cung vượt cầu kéo theo giá gạo giảm mạnh (từ 290 đôla/tấn xuống còn 232 đôla/tấn) thì những kết quả đạt được như trên là một thành công đáng ghi nhận . Thành công đó bắt nguồn từ những quyết sách đúng đắn và kịp thời của Chính phủ về điều hành xuất khẩu gạo . Phát huy những kết quả của năm 1999 , bước vào năm 2000 hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta tiếp tục đi lên trên thế và lực mới với thời cơ mới . Đầu mối xuất khẩu năm 2000 đã được mở rộng , trong đó bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp với nhau . Cùng với việc cải tiến điều hành xuất khẩu theo hướng thông thoáng hơn , từ năm 2000 Chính phủ rất quan tâm đến phát triển sản xuất lúa gạo theo hướng tăng chất lượng và hiện đại hoá công nghệ sản xuất gạo xuất khẩu. Về sản xuất , đã hoàn thành quy hoạch vùng lúa xuất khẩu ở hai vùng trọng điểm lúa là ĐBSCL và ĐBSH với quy mô 1,3 triệu ha (ĐBSCL 1 triệu , ĐBSH 30 vạn ha) Công nghiệp xay xát và đánh bóng gạo xuất khẩu từ đầu năm 2000 cũng có bước phát triển mới cả về máy móc thiết bị và công nghệ . Bên cạnh các nhà máy đã có, được đầu tư mới máy móc và thiết bị tại thành phố Hồ Chí Minh , Tiền Giang , An Giang , từ đầu năm 2000 lại có thêm 2 nhà máy chế biến gạo xuất khẩu do Chính phủ Đan Mạch tài trợ tại 2 tỉnh chuyên canh lúa lớn là Cần Thơ và Sóc Trăng đi vào hoạt động . Bên cạnh những nỗ lực chủ quan từ của nhà nước và nhân dân , các điều kiện khách quan cũng rất thuận lợi cho xuất khẩu gạo năm nay . Thời tiết mưa đều ở các tỉnh Nam bộ , lượng nước ở các hồ , đập thuỷ lợi khả dồi dào. Do hậu quả thiên tai năm 1999 , năm 2000 sản lượng xuất khẩu gạo của ấn Độ giảm mạnh , trong khi đó , nhu cầu nhập khẩu gạo của các nước Châu Phi , Trung Đông và Mỹ Latinh tiếp tục tăng do hạn hán và tình hình chính trị không ổn định . Từ quan hệ cung – cầu đó , nên thời cơ xuất khẩu gạo của Việt Nam là rất lớn . 2.2.Thách thức Bên cạnh những thuận lợi và thời cơ , thị trường lúa gạo thế giới năm 2000 cũng chứa đựng những yếu tố không thuận đổi với nước ta . Trước hết , nhu cầu nhập khẩu gạo năm 2000 ở thị trường Châu á , nhất là các nước nhập khẩu lớn như Indonesia , Philippin , Bangladesh .Năm 2000 Indonesia nhập khoảng 1,8 – 2 triệu tấn gạo , giảm 0,8 – 1,5 triệu tấn . Còn philippin cũng chỉ nhập khoảng 0,5 – 0,8 triệu tấn , giảm 0,4 – 0,7 triệu tấn , Bangladesh nhập 1,1 – 1,2 triệu tấn , giảm 0,5 – 0,6 triệu tấn . Trong khi đó khả năng xuất khẩu gạo của các nước như Thái Lan , Trung Quốc và Campuchia . Mặc dù , lượng gạo xuất khẩu tăng thêm trong năm 2000 của các nước này không lớn (ví dụ Campuchia khoảng 144 nghìn tấn , Thái Lan khoảng 0,3 triệu tấn , Trung Quốc dưới 0,5 triệu tấn), nhưng điều đáng quan tâm chính là tính cạnh tranh của hạt gạo của các nước này với hạt gạo Việt Nam là rất lớn , xét trên cả ba mặt : chất lượng , giá cả và thủ tục. Thứ hai : Giá lương thực nói chung , giá gạo nói riêng trên thị trường thế giới tiếp tục đứng ở mức thấp và giảm trong năm 2000 và trở thành một thách thức lớn đối với xuất khẩu gạo nước ta . Theo Bộ Thương Mại , giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam trong tháng 1-2000 chỉ đạt 224,7 đôla/tấn , giá tháng hai còn thấp hơn : theo các doanh nghiệp cho biết gạo 5% tấm còn 216-218 đôla/tấn , loại 10% tấm còn 208-210 đôla/tấn và loại 25% tấm còn 186-188 đôla/tấn thấp hơn giá của năm 1999 (tháng 12 năm 1999 giá gạo xuất khẩu của Việt Nam loại 5% tấm là 228 đôla/tấn , loại 25% tấm là 198 đôla/tấn ) . Tốc độ giảm giá trung bình tháng 2-2000 so với tháng 12 năm 1999 là 4-6% .Tình trạng này kéo dài đến hết năm 2000 . Điều này chắc chắn sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng như Nhà nước và nông dân trồng lúa ở nước ta . Thứ ba : Thiếu vốn và thủ tục thanh toán của ngân hàng còn phiền phức . Để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu gạo , các doanh nghiệp đầu mối rất cần vốn để mua lúa tạm trữ với số lượng lớn , tập trung vào thời điểm trong vụ thu hoạch lúa , trong khi đó khả năng cung ứng của Ngân hàng Thương Mại ( chủ yếu là Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn ) có hạn , chính sách hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và phương thức bảo lãnh của Ngân hàng cũng còn nhiều điểm chưa hợp lý . Cuối năm 1999 , nhiều doanh nghiệp lẽ ra đã có được nhiều hợp đồng bán gạo trả chậm với số lượng lớn vả có thể gối đầu sang năm 2000 , song do Ngân hàng trong nước khó khăn trong việc tham gia thanh toán và thu nợ nên đã không ký kết được . Hai tháng đầu năm 2000 , gạo Việt Nam chỉ còn chiếm lĩnh những thị trường nhỏ , trong số 84 nghìn tấn xuất trong tháng 1 lớn nhất là hợp đồng giao cho Irắc theo hiệp định của chính phủ , còn lại là các hợp đồng lẻ tẻ do 30 doanh nghiệp ký bán , trong đó có những hợp đồng vài trăm tấn . Mức xuất của tháng 2-2000 cũng chỉ khoảng 150 nghìn tấn . Âu đó cũng là bài học đắt giá cho chúng ta trong vấn đề giải quyết vốn và vai trò cuả Ngân hàng trong việc xuất khẩu gạo . Thứ tư : Gạo nhập khẩu qua biên giới Tây Nam và phía Bắc vẫn còn nhiều và có xu hướng ngày càng tăng. Từ đó làm cho quan hệ cung – cầu gạo trong nước diễn ra phức tạp . Giá sàn mua lúa của Nhà nước rất khó thực hiện ảnh hưởng đến nguồn cung của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. 3.Xuất khẩu gạo trong năm 2001 3.1. Tình hình sản xuất và cân đối lương thực Trong kế hoạch sản xuất nông nghiệp năm 2001 , sẽ có khoảng 100.000 ha diện tích đất trồng lúa ở các vùng ven biển đất trũng sẽ được chuyển sang nuôi trông thuỷ sản ; diện tích đất ven đô thị và đất chưa chủ động tưới tiêu chuyển sang trồng cây ăn quả và loại cây trồng khác có giá trị cao hơn ; đồng thời có khoảng 200 ha gieo trồng sẽ không làm lúa vụ 3 . Như vậy , tính chung lại của cả nước sẽ giảm khoảng 130.000 ha đất trồng lúa , tức là từ 7,53 triệu ha giảm còn 7,40 triệu ha . Thay vào đó , các địa phương sẽ tăng cường công tác chỉ đạo thâm canh , đưa vào sử dụng các giống lúa có năng suất cao , chất lượng tốt để sản xuất ra gạo có sức cạnh tranh cao. 3.2.Tình hình thị trường xuất khẩu gạo năm 2001 Có thể thấy rằng thị trường gạo thế giới năm 2001 vẫn tiếp tục trong tình trạng khó khăn , cạnh tranh gay gắt . Bộ nông nghiệp Mỹ dự tính mức buôn bấn gạo trên thị trường thế giới đạt khoảng 24,6 triệu tấn , tăng 1,9 triệu tấn so với năm 2000 ; theo đó , các nước sản xuất và xuất khẩu gạo mạnh như Thái Lan , Việt Nam , ấn Độ... cũng sẽ gia tăng sản lượng và khả năng xuất khẩu . Đáng chú ý là trong thời gian ngắn nhiều nước sản xuất lúa ở Châu á bước vào thu hoạch với hưá hẹn nhiều khả năng được mùa . Chính vì vậy, một số nước đã có kế hoạch ngừng hoặc giảm đăng ký gạo nhập khẩu , đồng thời bán ra hàng triệu tấn lúa gạo tồn kho , dự trữ , như Indônesia , Pakistan... Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nước ta khả năng ký kết và thực hiện hợp đồng thời gian đầu là rất nhỏ bé . Mặc dù lượng gạo theo hợp đồng đã ký năm trước chuyển sang năm nay là khoảng 208.000 tấn ; trong đó , Tổng công ty lương thực miền Bắc là 120.000 tấn (irăq 70.000 tấn , Cu Ba 50.000 tấn) , Tổng công ty lương thực 88.000 tấn . Song , theo số liệu của Hiệp hội xuất khẩu lương thực thì tính đến quý I mới chỉ xuất khẩu được khoảng xấp xỉ 400.000 tấn , tuy có tăng hơn về mặt lượng và giá trị so với cùng kỳ năm 2000 , nhưng so với kế hoạch cả năm thì mới đạt 10% . Do vậy mà mục tiêu xuất khẩu gạo trong nam 2001 đạt 4 triệu tấn không hoàn thành , với 2 lí do chính sau : Thứ nhất , sản lượng lương thực vùng đồng bằng sông Cửu Long năm nay giảm sút khoảng 700.000 tấn so với năm trước (trong đó gạo chiếm 400.000 tấn) do chuyển cơ cấu cây trồng và do chăm bón không tốt khi giá gạo xuất khẩu thấp . Do đó nếu mua gom đủ 4 triệu tấn để xuất khẩu thì sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia . Thứ hai , cho dù mức giá lúa ở đồng bằng sông Cửu Long đang ở mức cao (1.500 – 1.700 đồng/kg) , nhưng dự báo mức giá này vẫn còn tăng , có thể lên tới 1.800 – 1.900 đồng/kg . Với mức giá đó tương ứng với giá gạo xuất khẩu là khoảng 200 đôla/tấn thì doanh nghiệp mới có lãi , điều này làm cho các doanh nghiệp sẽ không ham xuất khẩu để được tiếng và được thưởng. III. ĐáNH GIá Về XUấT KHẩU GạO TRONG 3 NĂM ĐầU THế Kỷ (2000 - 2002) 1.Đánh giá về xuất khẩu gạo 1.1.Đánh giá về xuất khẩu gạo năm 2000 Năm 2000 , mặc dù thời tiết diễn biến phức tạp , lũ lụt xảy ra ở nhiều nơi trên phạm vi cả nước , đặc biệt tại nhiều vùng ở đồng bằng sông Cửu Long , nhưng nhờ có sự chăm lo và điều hành sát sao của Chính phủ , cấc cấp , các ngành cùng với sự nỗ lực của nhân dân các địa phương nên nhìn chung sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục và đạt kết quả khá, đời sống nhân dân sớm đi vào ổn định . Theo đánh giá bước đầu củ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn , tổng sản lượng lúa cả năm 2000 đạt 32,6 triệu tấn , tăng gần 1,2 triệu tấn so với năm 1999 và là năm đạt sản lượng cao nhất từ trước đến nay. Tại vùng đồng bằng sông Cửu Long , mặc dù lũ về sớm và kéo dài đã làm giảm diện tích giảm 110.00 ha , nhưng sản lượng lúa hàng hoá dành cho xuất khẩu vẫn đạt khoảng 9 triệu tấn tương đương với khoảng 4,5 triệu tấn gạo . Mặc dù , nhìn chung vụ mùa năm 2000 đạt được sản lượng cao , nhưng tỷ trọng xuất khẩu gạo năm nay giảm cả về lượng và giá trị . Đặc trưng cơ bản của thị trường gạo thế giới trong năm 2000 là nhịp độ giao dịch trầm lặng , khối lượng mua bán giảm mạnh - đó cũng chính là nguyên nhân quan trọng có tác động trực tiếp đến kết quả xuất khẩu gạo trong năm của nước ta . Theo số liệu báo cáo của hiệp hội xuất khẩu lương thực của hai tổng công ty lương thực miền Bắc và miền Nam thì tổng lượng gạo xuất khẩu trong trong năm 2000 cả nước đạt 3,398 triệu tấn , tổng kim ngạch đạt 638 triệu đôla , so với năm 1999 thì giảm 1,17 triệu tấn , và kim ngạch giảm 360 triệu đôla. Với kết quả xuất khẩu như trên , tính toán cho thấy giá xuất khẩu bình quân năm 2000 đạt 188 đôla/tấn , thấp hơn mức giá bình quân năm 1999 là 31 đôla/tấn và năm 1998 là 87 đôla/tấn . Theo ý kiến của các nhà phân tích thị trường , có tình hình trên là do mấy nguyên nhân sau đây : Trước hết , trong mấy năm gần đây lượng gạo giao dịch trên thị trường thế giới giảm liên tục , từ 27,26 triệu tấn năm 1998 , xuống còn 25 triệu tấn năm 1999 và khoảng 23 triệu tấn năm 2000 . Sự sụt giảm như vậy đã làm cho thị trường gạo thế giới ngầy càng khó khăn hơn , giá thị trường giảm mạnh và cạnh tranh gay gắt . Trong khi đó , tại một số nước trước đây phải nhập khẩu gạo với một lượng gạo lớn như Inđônesia , Philippin , Bangladesh...thì trong một vài năm gần đây đã đẩy mạnh sản xuất lương thực , sản lượng lúa gạo tăng lên đáng kể, do dó mà lượng gạo nhập khẩu cũng giảm qua các năm. Đi đôi với sự giảm sút về lượng , giá gạo trên thị trường thế giới cũng giảm mạnh , tính ra giá bình quân năm 2000 giảm khoảng 20% so với năm 1999 và giảm 30% so với năm 1998 . Tuy nhiên , so sánh với giá xuất khẩu gạo của Thái Lan thì trong năm 2000 , giá xuất khẩu gạo của Việt Nam có tốc độ giảm chậm hơn : loại gạo 5% tấm của Thái Lan giảm 53,6 đôla/tấn, loại 35% tấm giảm 42,1 đôla/tấn ; tương ứng với gạo cùng loại của Việt Nam giảm 48 đôla/tấn và 39 đôla/tấn . Ngoài ra , cũng phải nhìn nhận một thức tế là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam còn nhiều hạn chế , bởi nhìn chung chất lượng gạo xuất khẩu của ta chưa cao , trong những năm qua Việt Nam chủ yếu xuất khẩu những loại gạo có chất lượng thấp mà thời gian gần đây lại phải cạnh tranh gay gắt với gạo cùng loại của Trung Quốc , Pakistan . Trong khi đó khả năng tài chính của các doanh nghiệp lại thấp , ít kinh nghiệm và thiếu chủ động trong các hoạt động thương mại quốc tế . Cuối cùng là trong cơ chế điều hành , mặc dù trong năm qua đã có những cải tiến tạo nên sự thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu gạo , song trong điều hành cụ thể vẫn còn nhiều hạn chế , như thiếu tính chủ động tích cực của các doanh nghiệp , việc quản lý đầu mối xuất khẩu gạo... 1.2.Đánh giá về xuất khẩu gạo năm 2001 Thị trường gạo thế giới năm 2001 có rất nhiều biến động , khác với sự trầm lắng của năm 2000 . Lần đầu tiên kể từ nhiều năm nay , giá gạo của Việt Nam cao hơn giá gạo của Thái Lan trên thị trường quốc tế . giá gạo việt nam và thái lan năm 2001 (đôla/tấn) Nước\Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Việt Nam 5% 25% 169 157 167 144 151 131 145 127 158 137 153 137 159 138 175 157 173 150 175 160 192 170 197 185 Thái Lan 5% ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29530.doc
Tài liệu liên quan