Chiến lược đầu tư nước ngoài trong thăm dò khai thác dầu khí của Tổng Công ty dầu khí Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU ''Phát triển công nghiệp Dầu khí thành một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn'' đã và đang là mục tiêu của Chính phủ ta trong quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đáp ứng lại sự tin tưởng ấy, sau 27 năm đầu tư và phát triển, Ngành Dầu khí Việt Nam đã đạt được một vị trí quan trọng và vững chắc trong nền kinh tế đất nước. Từ những dòng dầu đầu tiên khai thác được từ mỏ Bạch Hổ đến phát hiện thương mại ở mỏ Sư Tư Đen (8/2003), tính đến nay đã hơn 100 t

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1316 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chiến lược đầu tư nước ngoài trong thăm dò khai thác dầu khí của Tổng Công ty dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riệu tấn dầu thô được khai thác cung cấp nguồn năng lượng cho phát triển đất nước. Tất cả những thành tích to lớn và ấn tượng này đều khởi nguồn từ những nỗ lực rất lớn của toàn Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam. Bước vào thế kỷ mới, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam cũng phải đối diện với những vận hội và thách thức mới. Đó là khi khi việc đảm bảo an toàn năng lượng cho đất nước sẽ trở nên cực kỳ quan trọng, đặc biệt là từ năm 2015, khi chúng ta khó có thể đáp ứng nhu cầu năng lượng bằng các nguồn trong nước. Do đó, đòi hỏi Tổng Công ty không những đẩy mạnh hoạt động trong nước mà còn phải từng bước thực hiện đầu tư thăm dò khai thác ở nước ngoài. Mặc dù đây là một lĩnh vực vô cùng mới mẻ không những của ngành dầu khí mà còn của Việt Nam, nhưng nó có ý nghĩa cấp thiết đối với việc phát triển kinh tế đất nước nói chung, đối với tiến trình hội nhập vào các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu của Tổng Công ty dầu khí nói riêng. Trong khuôn khổ khoá luận của mình, em xin trình bày: “Chiến lược đầu tư nước ngoài trong thăm dò khai thác dầu khí của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam”. Mong sao những ý tưởng và quyết tâm lớn lao của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam sớm trở thành hiện thực, đóng góp vào sự nghiệp phát triển đất nước. Mục đích nghiên cứu Khoá luận nhằm mục đích làm rõ yêu cầu cấp thiết của hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong thăm dò khai thác dầu khí, để từ đó đưa ra một Chiến lược đầu tư cụ thể cho hoạt động này cũng như là đề xuất một số giải pháp thiết thực để thực hiện hiệu quả chiến lược đó, nhất là trong thời gian tới khi vấn đề an ninh năng lượng quốc gia thực sự trở nên cấp bách trước yêu cầu phát triển của kinh tế đất nước. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu trong Khoá luận tốt nghiệp là phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích kết hợp với những kết quả thống kê, vận dụng lý luận để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu. Mặt khác, Khoá luận còn vận dụng những quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước cũng như chiến lược phát triển Ngành Dầu khí để khái quát, hệ thống và khẳng định các kết quả nghiên cứu. Và phương pháp luận chủ yếu là chủ nghĩa duy vật biện chứng ứng dụng vào nghiên cứu. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Khoá luận bao gồm các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài trong ngành dầu khí, tình hình an ninh năng lượng quốc gia, chiến lược đầu tư ra nước ngoài trong thời gian tới. Phạm vi nghiên cứu của khoá luận trong khuôn khổ những hoạt động đầu tư nước ngoài trong ngành dầu khí của Việt Nam và trên thế giới. Bố cục khoá luận Phù hợp với mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu nêu trên, nội dung của Khoá luận được chia thành 3 chương: Lời nói đầu Chương I: Một số vấn đề cơ bản về đầu tư nước ngoài. Chương II: Chiến lược đầu tư nước ngoài trong thăm dò khai thác dầu khí của Tổng công ty dầu khí Việt Nam. Chương III: Một số biện pháp thực hiện chiến lược ĐTNN trong TDKT dầu khí của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Kết luận Tài liệu tham khảo Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu của đề tài là rất mới mẻ, thời gian nghiên cứu có hạn nên trong một số khía cạnh trình bày của em sẽ không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong những ý kiến đánh giá, phê bình quý báu của thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện và có ý nghĩa thực tiễn hơn. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI I. ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Khái niệm Đầu tư nước ngoài là phương thức di chyuển vốn, tài sản của chủ sở hữu từ quốc gia này sang quốc gia khác để tiến hành sản xuất kinh doanh dịch vụ với mục đích kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội khác. Về bản chất, đầu tư nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng chính trong trào lưu có tính quy luật trong liên kết kinh tế toàn cầu hiện nay. Vốn đầu tư nước ngoài có thể được đóng góp dưới các dạng tiền tệ (ngoại tệ, nội tệ), các vật thể hữu hình (hàng hoá, tư liệu sản xuất, nhà xưởng, tài nguyên thiên nhiên…), các hàng hoá vô hình (công nghệ, bí quyết, bằng bảo hộ, nhãn hiệu, uy tín hàng hoá…) hoặc các phương tiện đầu tư đặc biệt khác như cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán có giá khác… Nguyên nhân ra đời 2.1. Sự phát triển của xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Chúng ta đang sống trong thời đại mà quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra nhanh chóng, với quy mô và tốc độ ngày càng lớn, tạo nên một nền kinh tế thị trường toàn cầu, trong đó tính phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế dân tộc ngày càng gia tăng. Sau thời kỳ chiến tranh lạnh, quá trình này ngày càng diễn ra nhanh chóng và đã chi phối thế giới cho đến tận bây giờ, làm cho nền kinh tế hầu hết các nước vận động theo xu hướng mở cửa và hoà mình vào quỹ đạo của nền kinh tế thị trường. Và hiện nay, hàng loạt các tổ chức liên kết kinh tế khu vực cũng như toàn cầu đã ra đời và không ngừng phát triển. Đó là các tổ chức như EU, ASEAN, APEC… và tổ chức lớn nhất là WTO. Trong điều kiện trình độ phát triển sản xuất, khả năng về công nghệ, nguồn tài nguyên, mức độ chi phí… ở mỗi nước khác nhau, nguồn vốn đầu tư quốc tế với tư cách của loại hàng hoá đặc biệt tất yếu sẽ tuân theo những quy luật của thị trường vốn là chảy từ nơi thừa vốn tới nơi thiếu vốn theo tiếng gọi của lợi nhuận cao. 2.2. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học-công nghệ-thông tin đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế của các nước tạo nên sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia. Khi khoa học công nghệ càng phát triển thì thời gian từ khâu nghiên cứu đến ứng dụng sản xuất càng được rút ngắn lại, chu kỳ sống của sản phẩm càng ngắn, sản phẩm hàng hoá ngày càng đa dạng phong phú. Đối với doanh nghiệp, nghiên cứu phát triển và đổi mới sản phẩm cũng như đổi mới thiết bị có ý nghĩa sống còn. Đối với quốc gia làm chủ và đi đầu trong khoa học công nghệ sẽ quyết định vị trí lãnh đạo chi phối hay phụ thuộc các nước khác trong tương lai. Và ở đây xuất hiện hai hướng tổ chức: với những vấn đề khoa học công nghệ đòi hỏi vốn lớn, các tập đoàn sẽ hợp tác đầu tư; bên cạnh đó các nước phát triển còn có hướng chuyển dịch đầu tư sang các nước khác đối với các sản phẩm đã lão hoá, cần nhiều lao động, nguyên liệu thô gây ô nhiễm môi trường. Thông qua quá trình chuyển giao công nghệ trên thế giới diễn ra theo “mô hình đàn sếu bay” (nghĩa là các nước tư bản phát triển chuyển giao công nghệ sang cho các nước NICs, các nước NICs chuyển giao sang cho các nước đang phát triển và chậm phát triển). 2.3 Sự thay đổi các yếu tố sản xuất kinh doanh ở các nước sở hữu vốn thúc đẩy đầu tư nước ngoài. Trình độ phát triển kinh tế cao ở các nước công nghiệp phát triển đã nâng cao mức sống và khả năng tích luỹ vốn của các nước này. Điều này dẫn đến hiện tượng thừa vốn trong nước; mặt khác, làm cho chi phí tiền lương cao, nguồn tài nguyên thiên nhiên thu hẹp và chi phí khai thác tăng lên dẫn đến giá thành sản phẩm tăng, tỷ suất lợi nhuận giảm dần, lợi thế cạnh tranh trên thị trường không còn. Chính nguyên nhân này tạo nên lực đẩy các doanh nghiệp tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước ngoài để giảm chi phí sản xuất, tìm thị trường mới, nguồn nguyên liệu mới nhằm thu lợi nhuận cao. Bên cạnh đó, sự phát triển như vũ bão của cách mạng thông tin, bưu chính viễn thông, phương tiện giao thông vận tải đã khắc phục sự xa cách về không gian, giúp các chủ đầu tư xử lý thông tin kịp thời, đưa ra những quyết định đầu tư, điều hành sản xuất kinh doanh đúng đắn ở cách xa hàng trăm vạn km, tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô để chuyển vốn trên toàn cầu đến các địa chỉ đầu tư hấp dẫn. Ngoài việc chuyển dịch vốn, thiết bị sang đầu tư ở các nước khác để đổi mới thiết bị trong nước, việc đầu tư này còn cho phép kéo dài tưổi thọ sản phẩm của doanh nghiệp ở các thị trường tiềm năng mới… 2.4. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển để công nghiệp hoá của các nước đang phát triển rất lớn, tạo nên sức hút mạnh mẽ đối với nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay trình độ chênh lệch phát triển giữa các nước công nghiệp phát triển và các đang phát triển ngày càng dãn cách, nhưng sự phát triển của một nền kinh tế toàn cầu đang đòi hỏi kết hợp chúng lại. Các nước đang phát triển rất trông chờ và mong muốn thu hút được vốn đầu tư, công nghệ của các nước phát triển để thực hiện công nghiệp hoá, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa. Tuy nhiên trong điều kiện cung cầu vốn trên thị trường quốc tế ngày càng căng thẳng, sự cạnh tranh giữa các nước đang phát triển nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng ác liệt thì việc tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, có những chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, chấp nhận phần thiệt hơn về mình trong chính sách của các nước đang phát triển hiện nay tạo nên thời kỳ các chủ đầu tư có quyền lựa chọn địa chỉ đầu tư. Các hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu vào Việt Nam Xét theo hình thức di chuyển vốn, đầu tư nước ngoài bao gồm các kênh chính sau đây: Vốn đầu tư quốc tế Đầu tư tư nhân Trợ giúp phát triển chính thức của Chính phủ và tổ chức quốc tế. Đầu tư Đầu tư Tín dụng Hỗ trợ Hỗ trợ Tín dụng trực tiếp gián tiếp thương mại dự án phi dự án thương mại Hình 1: Các hình thức đầu tư nước ngoài theo dòng di chuyển vốn 3.1. Đầu tư tư nhân Đầu tư trực tiếp (FDI) FDI là một hình thức của đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay một phần của các dự án nhằm giành quyền điều hành hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại. Theo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2000 thì khái niệm về FDI có thể hiểu như sau: FDI là hoạt động đầu tư do các tổ chức nhà nước hoặc các tổ chức kinh tế và các cá nhân nước ngoài tự mình hoặc cùng với các tổ chức kinh tế của Việt Nam bỏ vốn vào một đối tượng nhất định, trực tiếp quản lý và điều hành để thu được lợi nhuận trong kinh doanh. Hoạt động FDI tại Việt Nam thường được tiến hành thông qua các dự án - gọi là dự án FDI. Đây là một hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu và rất quan trọng, thường có những đặc trưng sau: Thứ nhất, FDI là vốn đầu tư do chủ đầu tư tự quyết định đầu tư và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Do đó, hình thức đầu tư này mang lại hiệu quả kinh tế cao, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế, ít bị lệ thuộc vào điều kiện chính trị. Lợi nhuận mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của đối tượng mà họ bỏ vốn ra đầu tư, do đó, FDI có tính khả thi cao vì các chủ đầu tư theo đuổi mục tiêu lợi nhuận và hoàn vốn. Thứ hai, chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn pháp định hoặc điều lệ tối thiểu tuỳ theo quy định của luật pháp mỗi nước để tham gia kiểm soát doanh nghiệp. Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam 1996 quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu là 30% vốn pháp định của dự án. Tỷ lệ đóng góp của mỗi bên trong vốn pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đồng thời cùng là cơ sở để phân chia lợi nhuận và rủi ro. Thứ ba, thông qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý, ... là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. Do đó, thông qua hình thức này nước tiếp nhận đầu tư có thể kết hợp tối ưu các nguồn lực trong và ngoài nước cũng như các nguồn lực tiên tiến từ bên ngoài. Đầu tư gián tiếp Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà ở đó chủ đầu tư nước ngoài đầu tư bằng hình thức mua cổ phần của các công ty nước sở tại (ở mức khống chế nhất định) để thu lợi nhuận mà không tham gia trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Tín dụng thương mại Đây là hình thức đầu tư dưới dạng cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay. Nguồn vốn này nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu giữa các nước và theo một nghĩa nào đó thì cũng là nhằm hỗ trợ cho đầu tư nước ngoài. 3.2. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) Đây là nguồn viện trợ song phương hoặc đa phương với một tỷ lệ là không hoàn lại, phần còn lại chịu lãi suất thấp, và thời gian cho vay tuỳ thuộc vào từng dự án. Đây cũng là nguồn vốn của Chính phủ nước ngoài hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức quốc tế, tổ chức liên chính phủ, phi chính phủ hoặc là nguồn ODA hỗn hợp bao gồm một phần của Chính phủ nước ngoài, một phần do các doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi Chính phủ đóng góp. Vốn ODA có thể đi kèm hoặc không đi kèm các điều kiện chính trị. Các hình thức chủ yếu của hỗ trợ phát triển: Hỗ trợ dự án: Đây là hình thức chủ yếu, bao gồm các hỗ trợ cơ bản cho những dự án cải thiện cơ sở hạ tầng và những hỗ trợ kỹ thuật về mặt kỹ thuật cho dự án. Hỗ trợ phi dự án: Chủ yếu là viện trợ chương trình đạt được sau khi kí các hiệp định với đối tác tài trợ dành cho một mục đích tổng quát với thời hạn nhất định. Tín dụng thương mại: là những khoản tín dụng dành cho chính phủ các nước sở tại với các điều khoản “mềm” về lãi suất, thời gian ấn hạn, thời hạn trả dài nhưng thường kèm theo những ràng buộc nhất định. MÔI TRƯỜNG CHO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Có thể hiểu môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố có ảnh hưởng đến công cuộc kinh doanh của nhà đầu tư và bao gồm các nhóm yếu tố chủ yếu là: vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, môi trường chính trị, trình độ phát triển kinh tế, chính sách đối ngoại, điều kiện cơ sở hạ tầng... Những yếu tố này rất khác nhau ở mỗi nước và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm. Và những yếu tố quan trọng nhất là: Môi trường chính trị, kinh tế Hệ thống pháp luật và các thủ tục hành chính Chính sách kinh tế đối ngoại Trình độ công nghệ 5. Chất lượng lao động 6. Cơ sở hạ tầng TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Xu hướng vận động của dòng đầu tư trên thế giới Cách mạng khoa học cộng nghệ và quốc tế hoá đời sống kinh tế cùng với xu hướng mở cửa hoà nhập của các nền kinh tế đang phát triển vào thị trường thế giới là quá trình kinh tế năng động, mạnh mẽ thúc đẩy sự vận động của luồn vốn quốc tế trong suốt thập kỷ qua theo những xu hướng sau: Quy mô dòng vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh: năm 1993, tổng vốn đầu tư quốc tế tăng gấp đôi so với năm 1990, từ 434,9 tỷ USD lên 818,6 tỷ USD. Năm 1999 khối lượng FDI trên thế giới là 865 tỷ USD, tăng 36% so với năm 1998, gấp 10 lần so với 10 năm trước đó. Lượng vốn đầu tư quốc tế trong năm 2000 tăng từ 4-5%, chiếm khoảng 23,8% GDP của toàn thế giới so với 23,2% của năm 1999. Trong đó vốn FDI gia tăng ngoạn mục mức kỷ lục khoảng 1.200 tỷ USD, tăng 38,7% so với năm 1999. Theo dự báo trong 5 năm đầu thế kỷ XXI, dòng đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng vượt tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới và của thương mại quốc tế. Ngày càng gia tăng tính không đồng đều trong phân bố và lưu chuyển đầu tư nước ngoài, đầu tư giữa các nước phát triển vẫn là chủ yếu. Mỹ và EU là tâm điểm của dòng lưu chuyển đầu tư thế giới. Trong hai năm 1998, 1999, riêng Mỹ đã tiếp nhận 1/4 FDI, còn Châu Âu là khoảng 1/2 FDI của toàn thế giới. Năm 2002, trong tổng lượng FDI của các TNCs có hơn 4/5 là đầu tư vào các nước phát triển. FDI đổ vào các nước đang phát triển tuy có tăng về qui mô nhưng tỷ trọng lại giảm. Năm 1998, 1999, FDI đổ vào các nước này chiếm 22,5% tổng FDI toàn thế giới nhưng năm 2002 lại giảm xuống chỉ còn 20%, tương đương với 200 tỷ USD. Ngay trong các quốc gia đang phát triển sự phân bố cũng không đồng đều: 2/3 FDI tập trung vào 10 nước có trình độ phát triển kinh tế tương đối cao của Châu á và Châu Mĩ La Tinh, 1/3 còn lại được san sẻ cho hơn 100 quốc gia. Dòng vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là FDI chịu sự chi phối và kiểm soát chủ yếu bởi các công ty xuyên quốc gia (TNCs) của các nước phát triển. TNCs trở thành chủ đầu tư trực tiếp kiểm soát trên 90% tổng FDI trên toàn thế giới hiện nay. Chỉ 100 TNCs lớn nhất thế giới (tất cả đều thuộc Mỹ, EU và Nhật Bản) đã chiếm tới 1/3 FDI toàn cầu và tổng tài sản ở nước ngoài của chúng lên tới 1.400 tỷ USD. Hiện nay, các TNCs vẫn tiếp tục vươn dài ra các khu vực khác nhau trên thế giới với qui mô FDI ngày càng lớn. Bên cạnh việc giữ các khu vực truyền thống như Châu Âu, Bắc Mỹ, các TNCs đều đẩy mạnh đầu tư vào khu vực Châu Á. Châu Á cũng là địa bàn ưu tiên đầu tư hàng đầu của Nhật, thứ 2 của Mỹ và hàng thứ 3 của Châu Âu (sau Bắc Mỹ và Châu Âu) dưới hình thức chủ yếu là mua lại và sáp nhập. Năm 2002, làn sóng sáp nhập tăng hơn 50% so với năm 2000. Tính linh hoạt trong dòng chảy đầu tư nước ngoài ngày càng cao. Chi phí vận tải và truyền thông giảm trong những năm gần đây cũng như nới lỏng các hàng rào mậu dịch và đầu tư giữa các nước trên thế giới có tác động như ''chất bôi trơn'' đẩy nhanh sự vận động của dòng đầu tư quốc tế. Đầu tư quốc tế có xu hướng vận động tới những thị trường an toàn và đem lại nhiều lợi nhuận. Vào những năm 60, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của khu vực Châu Mỹ La Tinh đã hấp dẫn được dòng FDI, những năm 70, 80 là Đông Nam Á. Tuy nhiên, sau cơn bão tài chính - tiền tệ Châu Á, dòng FDI lại đổ vào các nước Mỹ La Tinh và vùng vịnh Caribe. Dòng vốn này hiện nay tập trung vào những ngành nghề có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, tiêu tốn ít năng lượng và nguyên liệu, sử dụng ít nhân công nhưng lại có giá trị gia tăng lớn, tỷ suất lợi nhuận lớn, trong đó chủ yếu là vào hai ngành công nghiệp và dịch vụ Tác động của đầu tư nước ngoài tới nền kinh tế thế giới. Với các nước tiếp nhận đầu tư Chuyển giao vốn Tại nhiều nước đang phát triển, vốn FDI chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế. Với các nước công nghiệp phát triển, ĐTNN vẫn là nguồn bổ sung vốn quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Bằng chứng là các yếu tố này đã thu hút tới hơn 60% vốn FDI trong thập kỷ 20. Tuy nhiên việc thu hút vốn ĐTNN này không phải do thiếu vốn, hay do trình độ kỹ thuật thấp kém, mà nhàm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Trên thực tế các nước phát triển là những nước tích cực nhất cả trong việc đầu tư và thu hút đầu tư. Bên cạnh đó, ĐTNN khuyến khích tăng nguồn tiết kiệm của các nước tiếp nhận đầu tư khi có thể tạo thêm việc làm trong nước và tạo ra nguồn thu nhập. FDI còn đóng một vai trò quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nước tiếp nhận, và cũng có thể làm giảm thâm hụt cán cân vãng lai khi các công ty nước ngoài thu được những khoản xuất khẩu ròng. Vậy nên thực sụ ĐTNN có vai trò quan trọng trong việc chuyển giao vốn cho phát triển kinh tế. Chuyển giao công nghệ Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ chuyển vào nước đó vốn bằng tiền mà còn cả vốn bằng hiện vật như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu...(hay còn gọi là công nghệ cứng), và vốn vô hình như chuyên gia kỹ thuật, công nghệ, tri thức khoa học, bí quyết công nghệ....(hay còn gọi là công nghệ mềm). Chuyển giao công nghệ thông qua ĐTNN cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với các nước phát triển vì mặc dù trình độ sản xuất ở đây có hiện đại nhưng không thể nào toàn diện được. ĐTNN đã khiến cho các nước này hoàn thiện mình và liên kết hỗ trợ nhau cùng phát triển. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước NICs với tốc độ tăng trưởng luôn ở mức trên dưới 10%/năm trong thập kỷ 90, đã chứng minh rằng quốc gia nào thực hiện chiến lược kinh tế mở cửa với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của các nhân tố bên ngoài, biến nó thành chỗ dựa để khai thác những tiềm năng to lớn trong nước thì quốc gia đó tạo ra được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ là đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội tại của nền kinh tế mà nó còn là đòi hỏi của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. Bên cạnh việc làm xuất hiện nhiều lĩnh vực ngành nghề mới, ĐTNN còn góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động ở các ngành này và làm tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Tạo ra công ăn việc làm, do đó giảm các tệ nạn xã hội Về mặt xã hội, việc thu hút một số lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không chỉ góp phần cải thiện đời sống người dân mà còn giúp giảm bớt nạn thất nghiệp, vốn là tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Điều này cũng có thể làm giảm bớt các tệ nạn xã hội. Ngoài ra, thông qua quá trình làm việc tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tiếp xúc với công nghệ kỹ thuật hiện đại, môi trường làm việc chuyên nghiệp, trình độ của người lao động cũng sẽ từng bước được nâng lên. Với các nước đi đầu tư Có thể nói đầu tư cũng là một hình thức mở rộng thị trường cho một quốc gia hay một tập đoàn kinh tế. Việc mở rộng này có ý nghĩa nhiều mặt với nước đi đầu tư. Điều này được thể hiện rõ qua các góc độ sau: Đứng trên góc độ vĩ mô: Hoạt động ĐTNN làm cho sự lưu thông kinh tế giữa các nước trở nên dễ dàng hơn, uy tín của nước đi đầu tư cũng được nâng cao trên thị trường quốc tế. ĐTNN giúp cho các nước chủ động trong việc tiêu thụ hàng hoá, đặc biệt là những mặt hàng đã cũ, lạc hậu hoặc nhu cầu trong nước đã giảm. Bên cạnh đó, hoạt động ĐTNN, đặc biệt là đầu tư trực tiếp sẽ đem về nước những khoản lợi nhuận, hàng hoá, nguồn nguyên liệu các nước này không có hoặc đã cạn kiệt... Đứng trên góc độ vi mô: Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Khi thị trường trong nước đã trở nên nhỏ bé và thừa thãi thì bắt buộc họ phải đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường tiêu thụ, kéo dài vòng đời sản phẩm để thu lợi nhuận, đồng thời với việc tìm nguồn hàng, nguồn tài nguyên nước mình khan hiếm. Tác động của đầu tư nước ngoài tới kinh tế Việt Nam 3.1. Thực trạng hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Tính đến tháng 8 năm 2003, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư trên địa bàn cả nước có hơn 4000 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký hơn 42,2 tỷ USD được cấp giấy phép hoạt động. Trong những năm qua, ĐTNN là nguồn lực quan trọng bổ sung cho nguồn vốn đầu tư phát triển của Việt Nam. Từ năm 1995 đến nay, nguồn vốn này chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Tỷ lệ đóng góp của khu vực có vốn FDI trong GDP tăng dần qua các năm, đạt 9,3% trong năm 2002 và hiện chiếm 8% tổng thu nhập GDP trong của cả nước, chiếm 29,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, và 37% tổng giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước trong 6 tháng đầu năm 2003. Tuy nhiên hiện nay, trong bối cảnh dòng ĐTNN trên thế giới liên tục giảm, nhất là dòng đầu tư vào các nước đang phát triển, ĐTNN vào Việt Nam cũng có phần bị ảnh hưởng. Riêng năm 2002, con số dự án được cấp Giấy phép là 745 dự án với tổng số vốn đăng ký là 1,49 tỷ USD. So với năm 2001, ĐTNN năm 2002 gia tăng đáng kể về số dự án (tăng 42%) nhưng giảm vốn đăng ký cấp mới (giảm 41%), vì thực tế không có dự án nào quy mô trên 50 triệu USD được cấp phép. Nếu xét theo lĩnh vực đầu tư thì trong năm 2002 ngành công nghiệp nặng và xây dựng chiếm tới 81,4% về số dự án, và 80,5% tổng vốn đăng ký. Nếu xét theo địa phương, thì cũng như các năm trước, phần lớn các dự án và vốn đầu tư nước ngoài tập trung vào các vùng kinh tế phía Nam. ở ba địa phương dẫn đầu là Bình Dương, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm tới 63,2% tổng số dự án và 54% tổng vốn đăng ký cấp phép của cả nước. Cơ cấu đầu tư nước ngoài theo đối tác trong năm 2002 vẫn thể hiện vai trò quan trọng của các nền kinh tế Đông Bắc Á ( Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông và Nhật Bản) với 60,6% tổng số dự án và 55% tổng vốn đăng ký, và đánh dấu việc gia tăng đầu tư của Mỹ cũng như cho thấy sự giảm sút đầu tư của Châu Âu và Asean. Bên cạnh việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, trong năm 2002, chúng ta cũng đã có 13 dự án đầu tư ra nước ngoài được cấp phép, với số vốn đăng ký là 139,74 triệu USD, tăng đột biến so với các năm trước (năm 2001 có 13 dự án, 6 triệu USD vốn đăng ký). Nguyên nhân của sự gia tăng này là do trong năm 2002, hai dự án thăm dò và khai thác dầu khí sang Iraq (100 triệu USD) và Angeri(21 triệu USD) được cấp phép đầu tư. Bên cạnh đó, dự án đầu tư vào lĩnh vực xây dựng tại Liên bang Nga, với số vốn đăng ký 11,9 triệu USD cũng góp phần làm tăng lượng đầu tư ra nước ngoài. Các dự án đầu tư ra nước ngoài năm 2002 tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, và dầu khí, với 9 dự án, 136,6 triệu USD vốn đăng ký, chiếm 72,7% tổng số dự án và 98,5% tổng vốn đăng ký. Số dự án còn lại đầu tư vào lĩnh vực nông lâm nghiệp, văn phòng cho thuê và dịch vụ. Đầu tư ra nước ngoài tuy là một hoạt động mới mẻ nhưng đầy triển vọng của Việt Nam, phù hợp với xu hướng vận động phát triển cuả nền kinh tế thế giới và khu vực. 2.2 Tác động của đầu tư nước ngoài đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong suốt gần 15 năm qua, ĐTNN đã không ngừng đóng góp vào những thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Tựu trung lại, ĐTNN có những tác động tích cực chủ yếu như sau: Bảng 1.1: Đóng góp của FDI vào nền kinh tế Việt Nam Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Doanh thu (Triệu USD) 2743 3815 3910 4600 6167 7400 8570 Xuất khẩu (Triệu USD) 788 1790 1982 2547 3300 3560 3820 Tỷ trọng GDP (%) 7,39 9,07 10,03 12,24 13,25 13,5 13,7 Tốc độ tăng công nghiệp (%) 21,7 23,2 24,4 20,0 23,1 12,1 19,5 Tỷ trọng trong công nghiệp (%) 26,7 28,9 32,0 34,7 36,0 35,4 37,3 Nộp ngân sách (Triệu USD) 263 315 317 271 260 - 310 Lao động trực tiếp (ngìn người) 220 250 270 296 327 380 417 Nguồn: Thống kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư 3/2003 ĐTNN tạo nguồn vốn quan trọng hỗ trợ phát triển kinh tế Trong thời gian qua, bình quân mỗi năm chúng ta thu hút được hơn 3 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài, chiếm khoảng 26% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vốn FDI thực hiện bình quân thời kỳ 1991 - 2001 đạt 1.925,9 triệu USD/năm. Đối với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay còn thiếu vốn nghiêm trọng để thực hiện phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước tiến lên hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, nhất là thiếu vốn để đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu tạo ra nguồn ngoại tệ chủ yếu cho nước nhà thì đây có thể nói là một lượng vốn đầu tư đáng kể, góp phần chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu từ chỗ chỉ xuất khẩu những hàng sử dụng nhiều lao động sang sử dụng nhiều vốn. ĐTNN giúp đổi mới và tiếp cận công nghệ hiện đại Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành (năm 1987), quá trình chuyển giao và đổi mới công nghệ ở nước ta diễn ra vô cùng mạnh mẽ. Hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua các dự án FDI ngày càng tăng. Trong giai đoạn 1996-2002, cứ 10 dự án đầu tư thì có 1 dự án chuyển giao công nghệ; hiện nay tỷ lệ này là 4/1. Do đó, khoảng cách lạc hậu về công nghệ của nước ta so với các nước phát triển giảm từ 50 - 100 năm xuống còn 30 - 50 năm. Cũng chính thông qua các doang nghiệp FDI mà nhiều kỹ thuật và công nghệ tiến bộ được đưa vào các ngành phục vụ hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu như khai thác dầu khí, công nghiệp hoá chất, sản xuất hàng tiêu dùng, thực phẩm có chất lượng cao... Các công nghệ này tuy không phải hiện đại nhất mà chỉ thuộc loại trung bình của thế giới nhưng đa phần là đồng bộ và có trình độ cơ khí hoá cao hơn các thiết bị tiên tiến đã có sẵn trong nước. Một số công nghệ chuyển giao vào lĩnh vực dầu khí, viễn thông, điện tử tin học, lắp ráp ô tô, xe máy... thuộc loại hiện đại của thế giới. Ví dụ, công nghệ khai thác dầu khí ngoài khơi lắp đặt tổng đài, kỹ thuật số, rô bốt, dây truyền tự động. ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước Trong giai đoạn 1996-2001, vốn đầu tư nước ngoài đã tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất vật chất với cơ cấu hợp lý hơn, hướng vào xuất khẩu và xây dựng kết cấu hạ tầng. Nếu thời kỳ 1991-1995 đầu tư nước ngoài trong công nghiệp và xây dựng chiếm 56% vốn thực hiện thì tới giai đoạn này con số đã lên tới 73%. Hiện tại, đầu tư nước ngoài tạo ra xấp xỉ 35% giá trị sản lượng công nghiệp với tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm, góp phần đưa tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nước đạt 11-13% mỗi năm, tạo nên nhiều ngành nghề, sản phẩm mới, làm tăng đáng kể năng lực công nghiệp của Việt Nam. Thông qua đầu tư nước ngoài, một hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất đã được hình thành, góp phần phân bổ công nghiệp hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư. Và chúng ta tin tưởng rằng đất nước sẽ hoàn thành mục tiêu trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. ĐTNN tham gia phát triển nguồn nhân lực cho đất nước Với điều kiện làm việc tốt hơn, có đầy đủ thiết bị máy móc và các điều kiện vật chất khác, sử dụng các loại công nghệ kỹ thuật hiện đại và áp dụng các phương thức quản lý tiên tiến nên lao động trong khu vực ĐTNN có năng suất cao hơn trong khu vực nội địa. Kết quả khảo sát của Viện Khoa học Lao động cho thấy mức thu nhập trung bình của công nhân làm việc trong các doanh nghiệp FDI vào khoảng 70 - 100 USD/tháng và của cán bộ quản lý là 200 - 300 USD/tháng. Theo kết quả khảo sát điều tra liên bộ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thì khoảng 49% doanh nghiệp FDI có quỹ đào tạo. Trong những năm qua, có nhiều kỹ thuật viên và nhà quản lý giỏi được đào tạo ra từ các dự án FDI. Có thể nói là chủ đầu tư nước ngoài rất chú trọng tới việc đào tạo cán bộ một cách có hệ thống. ĐTNN nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam Kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí tăng nhanh thể hiện qua con số 10,6 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2002 là khoảng 16,6 tỷ USD tăng hơn 9 lần so với 5 năm trước, chiếm 24% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đó là chưa kể xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực dầu khí. Nếu tính cả dầu khí thì con số này cao hơn rất nhiều (chiếm trên 40% tổng kim ngạch xuất khẩu). Năm 1996, kể cả dầu thô, các doanh nghiệp FDI đã chiếm 31% tổng kim ngạch xuất khẩu, năm 2000 tăng lên 47,1% và năm 2002 là 45%. Thông qua hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã được thay đổi về cơ cấu theo hướng tích cực, theo hướng ngày càng tiếp cận được với thị trường các nước phát triển có sức tiêu thụ lớn song cũng đòi hỏi chất lượng hàng hoá rất khắt khe. Cùng với quá trình đổi mới công ._.nghệ, nhiều sản phẩm xuất khẩu mới có giá trị cao ra đời như các sản phẩm điện tử ... cũng làm tăng đáng kể sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam. ĐTNN thể hiện thông qua sự phát triển nhiều ngành sản xuất ở nước tiếp cận đầu tư. Một trong những ngành đó là ngành dầu khí vừa mới phát hiện trong đẩy mạnh khai thác ở các nước đang phát triển. Việt Nam là nước như vậy, và điều này sẽ được đề cập đến trong Chương II. Bên cạnh rất nhiều các tác động tích cực của đầu tư nước ngoài tới nền kinh tế Việt Nam như chúng ta vừa tìm hiểu, vẫn còn những tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài như: Công tác quản lý nhà nước đối với đầu tư nước ngoài còn yếu kém và sơ hở, chưa nhất quán, thủ tục đầu tư còn nhiều phức tạp và tồn tại nhiều tiêu cực. Hình thức đầu tư nước ngoài chưa phong phú. Công tác quy hoạch tổng thể còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu tính đồng bộ. Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài còn nhiều bất cập và hiệu quả tổng thể về kinh tế – xã hội của khu vực đầu tư nước ngoài chưa cao. Năng lực trình độ cán bộ phía Việt Nam còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, không nắm vững pháp luật. Tóm lại, đầu tư nước ngoài là một hoạt động mang tính quy luật tất yếu của nền kinh tế thế giới, mà bất kỳ nước nào cũng phải tham gia trong bối cảnh hội nhập kinh tế hiện nay. Đầu tư nước ngoài không những đã đem lại những lợi ích nhất định cho nền kinh tế thế giới, mà riêng với Việt Nam cũng đem lại nhiều đóng góp thiết thực cho kinh tế đất nứơc. Tuy nhiên, trong thời gian qua, chúng ta mới chỉ thực sự chú trọng đến công tác thu hút vốn đầu tư vào trong nước mà chưa có những chiến lược thích đáng cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Trong xu thế của thời đại, để tăng trưởng kinh tế chúng ta không những cần thu hút đầu tư nước ngoài nhằm khai thác nguồn lực trong nước mà còn cần tích cực tham gia đầu tư ra nước ngoài để tận dụng lợi thế so sánh giữa các nước. Tuy mới chỉ bắt đầu đi những bước đi mới mẻ, nhưng muốn thành công, chúng ta cũng rất cần các định hướng đúng đắn mang tính chiến lược. CHƯƠNG II: CHIẾN LƯỢC ĐTNN TRONG THĂM DÒ KHAI THÁC DẦU KHÍ CỦA PETROVIETNAM GIỚI THIỆU VỀ TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM Sự ra đời, phát triển Khi nhắc đến ngành Dầu khí Việt Nam, chúng ta thường liên tưởng ngay tới một ngành mới và trẻ với hình ảnh những giàn khoan ngoài khơi ở vùng biển phía Nam Tổ quốc, với ngọn lửa đỏ phần phật toả vào không trung như biểu tượng cuả ngành. Là một đất nước giàu tài nguyên, có trữ lượng dầu khí khá lớn, trên thực tế, ngay từ những năm đầu của thập kỷ 60, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã sớm có chủ trương xây dựng và phát triển ngành dầu khí và năm. Từ đó đến nay, ngành Dầu khí Việt Nam đã có những mốc son đáng nhớ trên con đường phát triển như sau: Năm 1961 Thành lập Liên đoàn địa chất 36 Tháng 9-1975 Thành lập Tổng cục Dầu khí Việt Nam trên cơ sở Liên đoàn Địa chất và Ban Dầu thuộc Tổng cục Hoá chất Tháng 9-1977 Thành lập Công ty dầu mỏ và khí đốt Việt Nam gọi tắt là Petrovietnam trực thuộc Tổng cục Dầu khí với nhiệm vụ hợp tác tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí với nước ngoài tại Việt Nam Tháng 4-1990 Sáp nhập Tổng cục Dầu khí vào Bộ Công nghiệp nặng. Tháng 7-1990 Thành lập Tổng công ty Dầu mỏ và khí đốt Việt Nam trên cơ sở các đơn vị cũ của Tổng cục Dầu khí (tên giao dịch quốc tế là Petrovietnam) Tháng 4-1992 Tổng công ty Dầu mỏ và khí đốt Việt Nam tách khỏi Bộ Công nghiệp nặng và trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Tháng 5-1995 Tổng công ty Dầu khí Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ quyết định là Tổng công ty nhà nước. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là Tổng công ty Quốc gia, là đơn vị được tổ chức theo mô hình Tổng công ty 91, có Hội đồng quản trị, Ban Tổng Giám Đốc và 17 phòng ban. Hiện nay, Tổng công ty có 17 đơn vị thành viên với 15.000 lao động; trong đó có 10 đơn vị hạch toán độc lập, 3 đơn vị hạch toán phụ thuộc, 4 đơn vị sự nghiệp nghiên cứu. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam có nhiệm vụ chính là: Nghiên cứu, tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến, tàng trữ, vận chuyển, cung cấp dịch vụ về dầu khí. Xuất nhập khẩu vật tư thiết bị dầu khí, dầu thô, khí thiên nhiên, các sản phẩm về dầu khí. Lưu thông các sản phẩm dầu khí. Tiến hành các hoạt động kinh doanh đa dạng cũng như thực hiện các nhiệm vụ khác do Nhà nước giao phù hợp với pháp luật Việt Nam. Như vậy, rõ ràng là so với nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, ngành Dầu khí nước ta ra đời khá muộn. Từ thập niên 70, khi mà ngành công nghiệp Dầu khí của các nước trên thế giới đã phát triển mạnh thì chúng ta mới có một đơn vị làm nhiệm vụ tìm kiếm thăm dò. ở giai đoạn đầu khi mới thành lập đến trước khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, trong bối cảnh đất nước bị bao vây cấm vận, vốn đầu tư dành cho điều tra cơ bản phục vụ cho phát triển ngành Dầu khí rất eo hẹp, tiềm lực vật chất và kỹ thuật thiếu thốn nên hoạt động của ngành chủ yếu là tự đầu tư, tiến hành công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long. Thành tựu quan trọng thu được trong giai đoạn này là hình thành Xí nghiệp Liên doanh Dầu khí Vietsopetro với sự liên doanh của Liên bang Xô Viết (cũ) năm 1981, đã đưa vào khai thác mỏ dầu Bạch Hổ. Xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước và của ngành, nghiên cứu kinh nghiệm phát triển của các quốc gia dầu khí, từ giữa những năm 80, Tổng Công Ty Dầu khí Việt nam đã đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, tăng cường hợp tác thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dầu khí, nhằm tận dụng vốn đầu tư, trình độ công nghệ và trình độ quản lý cao của các nước có ngành công nghiệp Dầu khí tiên tiến trên thế giới. Trong giai đoạn từ những năm 1985 đến 1995, Tổng Công Ty Dầu khí Việt nam đã từng bước khai thác tiềm năng dầu khí phục vụ nền kinh tế quốc dân và đã có những đóng góp quan trọng trong giai đoạn này. Đồng thời, cũng trong giai đoạn này, Tổng Công Ty Dầu khí Việt nam đã từng bước đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và nhân lực, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho những bước phát triển tiếp theo. Giai đoạn từ 1995 đến nay, tiếp tục triển khai chính sách kinh tế mở và công cuộc đổi mới do Đảng, Chính phủ Việt nam chủ trương, quán triệt những quan điểm chủ đạo trong hoạt động kinh tế đối ngoại, Tổng công ty dầu khí Việt nam đã thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các hình thức hợp tác quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Quá trình xây dựng và phát triển ngành Dầu khí Việt nam là một chặng đường dài với nhiều khó khăn, thử thách. Vượt qua những khó khăn những ngày đầu thì lại gặp phải những thử thách mới, đó là tình hình chính trị diễn biến phức tạp, khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, đầu tư nước ngoài giảm nhiều so với những năm trước đây...Ngoài những khó khăn chung đó, sự bất ổn định của giá dầu thô trên thế giới đã khiến đầu tư của các Công ty dầu khí nước ngoài vào Việt Nam giảm hẳn, những hạn chế về tiềm lực tài chính, cơ sở vật chất, khoa học-kỹ thuật-công nghệ, trình độ, năng lực chuyên môn...đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành Dầu khí. Đứng trước những khó khăn thử thách đó, Tổng Công Ty Dầu khí Việt nam đã cùng với các đơn vị thành viên phát huy mọi nguồn lực sẵn có, quán triệt phương hướng, nhiệm vụ, từng bước vượt qua khó khăn này đến khó khăn khác để tự khẳng định mình và ngày càng phát triển, mở rộng không ngừng cả về quy mô và sản lượng khai thác sản phẩm. Như vậy, sau hơn 40 năm hoạt động và 27 năm thành lập Petrovietnam , ngành Dầu khí Việt nam đã trưởng thành nhanh chóng, đóng góp nguồn tài chính quan trọng cho đất nước, giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn người lao động. Đến nay, chúng ta đã đưa vào khai thác 6 mỏ dầu và xuất khẩu trên 100 triệu tấn dầu thô, thu gom và sử dụng được trên 6 tỷ m3 khí đồng hành. Thành quả này là sự ghi nhận công lao đóng góp của toàn thể cán bộ, công nhân của ngành, đồng thời khẳng định vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ, Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị Tổng Công Ty Dầu khí Việt nam. 2. Hoạt động của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam - Tìm kiếm thăm dò khai thác Trong lĩnh vực tìm kiếm thăm dò, với mục tiêu xác định tiềm năng và gia tăng trữ lượng dầu khí, phát hiện thêm nhiều mỏ mới, đảm bảo nhu cầu về sản lượng dầu khí cho đất nước, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam tiếp tục mở rộng khu vực tìm kiếm, thăm dò thông qua các hợp đồng phân chia sản phẩm, hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc liên doanh, đưa nhanh các mỏ đã được phát hiện vào khai thác và áp dụng các công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng, tăng hệ số thu hồi dầu khí, bảo vệ môi trường tài nguyên và đạt mục tiêu sản lượng 25-27 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2005. Kết quả các hoạt động này gồm: đã ký được 45 hợp đồng các loại như PSC, JOC, BCC... trong đó 25 hợp đồng đang thực hiện. Số mỏ chính đang khai thác gồm mỏ Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, Bunga Kekwa. - Sử dụng các tiềm năng khí thiên nhiên Để sử dụng tiềm năng to lớn về khí thiên nhiên, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã và đang tích cực triển khai các đề án khai thác như xây dựng tuyến đường ống dẫn từ mỏ Bạch Hổ, các mỏ khí Nam Côn Sơn, Tây Nam vào bờ. Mục tiêu trước mắt của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là nâng công suất đưa khí vào bờ lên đến 4,5-5 triệu m3/ngày. Hiện nay, Nhà máy xử lý khí Dinh Cố đang hoạt động từ nguồn khí mỏ Bạch Hổ nhằm đáp ứng nhu cầu khí hoá lỏng trong nước, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đang triển khai các đề án khai thác và sử dụng khí từ các bể trầm tích Nam Côn Sơn và vùng Tây Nam nhằm đảm bảo nhu cầu về nguyên, nhiên liệu cho các cụm nhà máy điện, đạm, các khu công nghiệpngoại vi thành phố Hồ Chí Minh và các công trình khác trong kế hoạch tổng thể về sử dụng khí của Việt Nam. - Các đề án lọc hoá dầu Trong lĩnh vực hạ nguồn, các đề án lọc hoá dầu cũng đang được Tổng công ty Dầu khí Việt Nam triển khai tích cực. Đề án lọc dầu số 1 Dung Quất – miền Trung Việt Nam công suất 6,5 triệu tấn/năm đang trong giai đoạn xây dựng. Nhà máy lọc dầu số 2 với công suất tương đương cũng sẽ được xây dựng cùng với khu tổ hợp công nghiệp hoá dầu. Nhà máy đạm Phú Mỹ là một trong những công trình hoá dầu đầu tiên của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đang được xây dựng. Những công trình này sau khi xây dựng xong sẽ đáp ứng nhu cầu của thị trường nội địa về các sản phẩm lọc hoá dầu và phục vụ cho xuất khẩu. Hiện nay, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đang thành lập các liên doanh với các công ty dầu khí hàng đầu thế giới để sản xuất nhựa đường, PVC, polypropylene, DOP, menthanol cũng như xây dựng các cơ sở đóng bình và mạng lưới phân phối khí hoá lỏng. - Dịch vụ dầu khí Ngoài những dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các khâu tìm kiếm, tham dò, khai thác và chế biến dầu khí, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam còn chú trọng các dự án phát triển năng lực dịch vụ các loại, nhất là dịch vụ kỹ thuật cao. Cho đến nay, dịch vụ dầu khí của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc, đảm đương các công việc phức tạp trong các hoạt động thăm dò, khai thác, phát triển mỏ, thiết kế, lắp ráp, chế tạo vật tư, thiết bị cung cấp cho ngành. Có nhiều loại hình dịch vụ hiện là thế mạnh của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam như dịch vụ căn cứ, dịch vụ tàu thuyền, xây dựng các công trình dầu khí biển, cung cấp lao động kỹ thuật cao, phân tích mẫu, xử lý tài liệu địa chất, địa vật lý,… Các loại hình dịch vụ của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam cung cấp đều đạt các tiêu chuẩn quốc tế và được các công ty dầu khí lớn trên thế giới đánh giá cao về chất lượng, giá cả và thời gian thực hiện. - Hợp tác quốc tế Với hàng loạt các đề án lớn trong khuôn khổ chương trình phát triển chiến lược của ngành cho đến năm 2010, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam mong muốn mở rộng hơn nữa sự hợp tác với các công ty dầu khí nước ngoài, đa dạng hoá các hình thức đầu tư và nâng cao hiệu quả hợp tác, đầu tư với các đối tác trong và ngoài nước. Ngoài việc tích luỹ kinh nghiệm và chuẩn bị lực lượng để tự đầu tư tại một số khu vực trong nước, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam sẽ tham gia cùng với các công ty dầu khí quốc tế tiến hành các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí ở các khu vực tiềm năng khác trên thế giới như ở Đông Nam Á, Trung Đông, Châu Phi, và Nam Mỹ. Đồng thời, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam cùng các đối tác trong khu vực ASEAN triển khai đề án xây dựng mạng lưới đường ống dẫn khí xuyên qua các nước, cho phép nhập khẩu dầu khí nhằm cân đối nhu cầu mỗi nước. Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam khyến khích các công ty nước ngoài đầu tư dưới nhiều hình thức vào các lô còn mở ngoài khơi và trên đất liền, nhất là các lô vùng nước sâu, xa bờ và cùng với các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước Việt Nam tìm mọi giải pháp để tạo điều kiện cho các công ty dầu khí nước ngoài nâng cao hiệu quả đầu tư vào ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam. 3. Mục tiêu chiến lược phát triển chung của Ngành dầu khí Việt Nam Căn cứ Đường lối và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020” và định hướng phát triển ngành dầu khím hoá chất, phân bón, đã được quyết định tại Đại hội IX của Đảng; Căn cứ vào Mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001-2005, mà Chính phủ báo cáo và đã được thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X; Xuất phát từ tiềm năng về cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực, khả năng tài chính và kinh nghiệm tổ chức quản lý hiện nay của ngành Dầu khí, các mục tiêu chiến lược phát triển ngành Dầu khí Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 được xác định như sau: Nâng cao sản lượng trung bình hàng năm khoảng 65 triệu tấn dầu quy đổi. Phấn đấu sản lượng khai thác dầu khí vào năm 2010 đạt 45-50 triệu tấn dầu quy đổi, trong đó dầu thô khai thác trong nước khoảng 20-25 triệu tấn, khí khoảng 20-25 tỷ m3, sản lượng dầu thô khai thác từ nước ngoài khoảng 4-5 triệu tấn. Phát triển thị trường khí trong nước đảm bảo sử dụng 18-25 tỷ m3 khí vào năm 2010; phấn đấu trong giai đoạn 2010 -2020 có nối kết với đường ống dẫn khí khu vực, đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa khả năm xuất và nhập khẩu dầu khí. Tăng cường đầu tư phát triển các loại hình dịch vụ kỹ thuật dầu khí. Đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm và dịch vụ dầu khí. Tham gia thị trường kinh doanh dầu thô và các sản phẩm dầu khí quốc tế. Thu hút và hỗ trợ sự tham gia của mọi thành phần kinh tế ngày càng nhiều vào cung cấp dịch vụ cho dầu khí và kinh doanh phân phối các sản phẩm dầu khí. Từng bước đầu tư phát triển hoạt động dầu khí ra nước ngoài, đặc biệt là khâu thăm dò và khai thác nhằm đảm bảo nguồn cung cấp dầu khí lâu dài cho đất nước. Đồng thời từng bước đầu tư trong các lĩnh vực chế biến, phân phối dầu khí ở nước ngoài. Đẩy mạnh đầu tư để phát triển tiềm lực khoa học công nghệ của ngành Dầu khí Việt Nam, sớm tiếp cận với trình độ chung của cộng đồng dầu khí quốc tế. Đến năm 2010 đạt trình độ khoa học công nghệ của các nước trong khu vực và đạt trình độ thế giới trong một số lĩnh vực về công nghệ thăm dò, khai thác, chế biến và dịch vụ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia và nhân công dầu khí Việt Nam đủ mạnh về chất lượng để tự điều hành các hoạt động dầu khí cả ở trong nước và nước ngoài. Xây dựng Tổng công ty Dầu khí Việt Nam thành tập đoàn kinh tế mạnh ngang tầm với các tập đoàn dầu khí trong khu vực. Như vậy, Sau hơn 27 năm xây dựng và trưởng thành Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã thực sự trở thành một nhân tố phát triển của kinh tế đất nước. Trong thế kỷ mới, Petrovietnam sẽ tích cực phát huy tiềm năng nội lực không những đẩy mạnh hoạt động trong nước mà còn ở nước ngoài như đã đề ra trong “Chiến lược phát triển ngành dầu khí”. Đây là một bước đi vô cùng mới mẻ nhưng đầy triển vọng, Petrovietnam rất cần thiết phải nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này trước khi hoạch định ra một chiến lược đầu tư nước ngoài trong thăm dò khai thác dầu khí cụ thể. II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG THĂM DÒ KHAI THÁC DẦU KHÍ. Tổng quan về thăm dò khai thác dầu khí thế giới Tình hình thăm dò khai thác dầu dầu khí thế giới Lịch sử khai thác dầu khí được coi như bắt đầu vào năm 1859 với dòng dầu đầu tiên được phun lên tại Tutresville (Pennsylvania, Mỹ), nhưng sản lượng khai thác dầu thô chỉ thực sự tăng rất nhanh trong giai đoạn 1939-1980. Đó là nhờ có những tiến bộ khoa học đáng kể về cơ khí nặng, các tiến bộ của bộ môn điện và điện tử đã được đưa vào áp dụng trong công nghệ thăm dò khai thác dầu khí. Trong giai đoạn từ năm 1975 tới nay sản lượng khai thác tăng chậm dần do sự cạn kiệt dần các mỏ dầu trên đất liền cộng với các cuộc khủng hoảng năng lượng vào những năm 1973-1974 (thành lập khối OPEC), 1979-1980 (chiến tranh Iran-Irắc), 1991-1992 (khủng hoảng Vùng Vịnh) khiến cho giá dầu tăng vọt. Điều này đã thúc đẩy các quốc gia phát triển nghĩ tới khả năng thay thế nguồn năng lượng dầu lửa bằng các năng lượng khác, đồng thời tiến dần ra các vùng nước sâu thềm lục địa để tìm kiếm các mỏ mới. Hiện nay, trữ lượng dầu khí thế giới được đánh giá ở vào khoảng 4.500 tỷ thùng. Mức tiêu dùng hiện nay khoảng 75 triệu thùng/ngày và dự báo sẽ tăng lên hơn 120 triệu thùng/ngày vào 2020. Tỷ trọng dầu khí trong cơ cấu năng lượng tương lai được dự báo ở mức 40% như hiện nay. Phần lớn nguồn cung cấp dầu gia tăng dự kiến sẽ từ các nước thành viên OPEC ở vùng Vịnh Ba-tư (20,5 triệu thùng/ngày). Các nguồn cung cấp bổ sung đáng kể khác gồm các nước vùng Ca-xpiên và Tây Phi. Dự báo tỷ trọng khí thiên nhiên trong các dạng năng lượng thế giới sẽ tăng lên so với mức hiện nay khoảng 23-28% và lượng khí thiên nhiên được tiêu thụ vào năm 2020 sẽ tăng lên 162 nghìn tỷ bộ khối khí so với mức 84 nghìn tỷ bộ khối khí năm 1999. Hoà cùng không khí toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, quốc tế hoá hoạt động thăm dò khai tác dầu khí đang lan rộng trên toàn thế giới và đặc biệt là ở các nước đang phát triển với ngày càng nhiều các công ty dầu khí tham gia vào thị trường dầu khí thế giới. Nhiều quốc gia và khu vực giàu tiềm năng dầu khí đã mở cửa cho các đối tác nước ngoài vào thăm dò khai thác dầu khí như I-rắc, Li-bi, Nga và các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ… Công nghiệp dầu khí thế giới cũng được cơ cấu lại với việc sáp nhập giữa các công ty dầu khí quốc tế thành những tập đoàn dầu khí siêu lớn. Đồng thời, các công ty dầu khí quốc gia cũng đẩy mạnh hoạt động dầu khí ở nước ngoài. Tổ chức Các nước Xuất khẩu dầu lửa OPEC vẫn duy trì ảnh hưởng chi phối đến mức cung cầu dầu thô thế giới ở mức tương đối ổn định. Sau cuộc khủng hoảng giá dầu hồ cuối thập kỷ 90, giá dầu thế giới nhìn chung được duy trì ở mức trên 20USD/thùng, nhờ đó các công ty dầu khí tăng chi tiêu vào công tác thăm dò. 1.2. Sự điều chỉnh chiến lược của các công ty dầu khí quốc tế trên thế giới Hiện nay, nhiều công ty dầu khí quốc gia đang tích cực triển khai hoạt động trên phạm vi quốc tế, trong đó một số công ty được coi là đã và đang triển khai quốc tế hoá một cách thành công như CNPC (Trung Quốc), Petrobras (Braxin), Petronas (Malaysia), Statoil (Na Uy), KNOC (Hàn Quốc). Các công ty mới bắt đầu triển khai hoạt động quốc tế như CNOOC, PTT (Thái Lan), Pertamina (Indonesia), Petrovietnam… cũng đang tích cực hoạt động để có chỗ đứng trên trị trường thế giới. Để huy động vốn và nâng cao hiệu quả hoạt động, nhiều công ty dầu khí quốc gia đã tiến hành cổ phần hoá như CNPC, CNOOC, PTT… nhưng nhà nước vẫn nắm quyền kiểm soát qua việc sở hữu cổ phần chi phối. Với sự điều chỉnh chiến lược phù hợp, các công ty dầu khí quốc gia đã tham gia với vai trò ngày càng to lớn vào thăm dò khai thác dầu khí thế giới. Bên cạnh đó, nhiều công ty dầu khí quốc tế lớn đã tiến hành sáp nhập như Exxon với Mobil, BP với Amoco, Total với Fina và Elf. Động thái này nhằm thực hiện hiệu quả hơn chiến lựơc “chi phí thấp” và tăng cường sức mạnh tài chính, kỹ thuật và công nghệ, để từ đó tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường. Sự điều chỉnh chiến lược mới nhất của các công ty dầu khí quốc tế lớn là thiết lập các liên minh/hợp tác chiến lược với các nước giàu tiềm năng dầu khí và chi phí/giá thành khai thác thấp (A-rập Xê-út, Cô-oét). Nhờ vậy, họ tiếp cận các cơ hội đầu tư khổng lồ và không có khả năng cạnh tranh lớn ở những nước hay khu vực khai thác then chốt. 1.3. Những cơ hội và thách thức mới với ngành dầu khí thế giới Các công ty dầu khí có nhiều cơ hội thâm nhập vàp các nước, các khu vực giàu tiềm năng dầu khí trên thế giới nhờ chính sách mở cửa của các nước, các khu vực này. Hiện nay, khu vực được nhiều công ty quan tâm là Trung Đông, Bắc và Tây Phi, Nga và các nước thuộc Liên Xô cũ. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hoạt động thăm dò khai thác dầu khí với các vùng nước sâu (ví dụ như ngoài khơi An-gô-la…) và các mỏ cận biên đã trở thành những dự án khả thi cả về kỹ thuật và kinh tế. Xu hướng tiêu dùng khí gia tăng nhanh, đặc biệt ở khu vực Châu á, mở ra những cơ hội thăm dò khai thác khí mới. Các công ty dầu khí quan tâm nhiều hơn đến rủi ro chính trị, an ninh sau những biến động vừa qua của tình hình chính trị thế giới. Những biến động đó có thể đe doạ nguồn cung trong thời gian ngắn hoặc tương đối dài và do đó gây nên biến động giá dầu với biên độ lớn. Sở hữu và ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật sẽ tạo thêm sự khác biệt về khả năng cạnh tranh giữa các công ty lớn/siêu lớn và các công ty trung bình/nhỏ và điều này thực sự trở thành một thách thức lớn đối với các công ty trung bình nhỏ. Đặc thù của công việc thăm dò và khai thác dầu khí Trong ngành công nghiệp dầu khí, người ta phân chia ra hai nhánh hoạt động chính. Đó là công việc “thượng nguồn” (Uptream) hay công nghiệp thăm dò và khai thác dầu khí và công việc “hạ nguồn” gồm lọc dầu, hoá dầu và phân phối các sản phẩm dầu khí. Ngành công nghiệp dầu khí vốn là một ngành non trẻ nhưng lại có tác động rất lớn đến nền kinh tế thế giới, nên việc thăm dò và khai thác dầu khí cũng có những đặc thù rất khác biệt so với bất kỳ ngành công nghiệp nào mà các nhà đầu tư nên nắm vững. Đó là: 2.1 Rủi ro rất cao Việc tìm kiếm một loại khoáng sản ở thể lỏng và khí nằm sâu trong lòng đất hàng ngàn mét, đã hình thành và tồn tại hàng trăm triệu năm, đồng thời lại luôn di dịch quả thực không dễ dàng gì. Hơn nữa, hiện nay các mỏ dầu nằm trên đất liền hầu như đã được khám phá và khai thác, nên người ta phải tiến ra biển, thăm dò trên các vùng thềm lục địa mà mức nước biển giao động từ vài chục mét tới hàng kilômét. Vậy nên rủi ro luôn là bài toán đầu tiên cần xem xét đối với mọi nhà đầu tư trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí để đi đến quyết định có đầu tư hay không và đầu tư ở đâu? Đây quả là một bài toán hóc búa bởi vì có rất nhiều yếu tố rủi ro như sau:Rủi ro kỹ thuật: Mũi khoan có phát hiện mỏ dầu khí hay không? Mỏ phát hiện có kinh tế hay không? Kỹ thuật có đảm bảo để đạt hệ số thu hồi dầu khí hay không? Rủi ro chính trị: Chế độ chính sách của quốc gia sở hữu mỏ có ổn định không? Các sắc thuế có đảm bảo việc khai thác mỏ đạt hiệu quả kinh tế không? Rủi ro kinh tế: Vấn đề dao động giá dầu thô trong tương lai có thể làm cho đề án khai thác trở nên rất hiệu quả hoặc hoàn toàn sụp đổ. Đây là một yếu tố bị ảnh hưởng rất nhiều bởi tình hình kinh tế chính trị có tính chất quốc tế. Rất nhiều các tập đoàn dầu khí lớn và các tổ chức hiệp hội quốc tế tìm mọi biện pháp khống chế song vô cùng khó khăn và ít khi đạt được theo mong muốn. Ngoài ra còn có hàng loạt các rủi ro khác cần phải xem xét như: môi trường, công nghệ áp dụng, tài chính, tỷ giá chuyển đổi ngoại tệ, thuê mướn nhân công …. Tuy nhiên trong tất cả các yếu tố rủi ro có thể ảnh hưởng tới sự thành công của các nhà đầu tư thì trong thăm dò khai thác dầu khí rủi ro kỹ thuật vẫn là lớn nhất. Mặc dù đã có sự hỗ trợ rất nhiều của công nghệ hiện đại, song khi chưa thực hiện khoan sâu vào lòng đất thì không thể khẳng định chắc chắn ở đó có dầu hay không. Hơn nữa, hiện nay tỷ lệ giếng khoan thăm dò có phát hiện dầu khí ngày càng giảm. Tính trung bình trên thế giới phải khoan từ 7 đến 10 giếng mới có 1 giếng có phát hiện dầu khí. Trong khi đó, chi phí cho một giếng khoan sâu 3000 m trung bình: 3-5 triệu USD (trên đất liền), 8-15 triệu USD (ngoài khơi). Điều này cũng cho thấy các quốc gia , đặc biệt là các nước đang phát triển khi thực hiện đầu tư thăm dò khai thác dầu khí phải có chiến lược đúng đắn, lộ trình hành động cụ thể. 2.2 Đầu tư vốn lớn Theo đánh giá của nhiều nhà kinh tế, ngành công nghiệp thăm dò khai thác dầu khí là một ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn hàng đầu trong các ngành công nghiệp nặng. Một vài con số cụ thể sau đây cho phép ta hình dung thực tế: Công việc Chi phí 1 giếng khoan thăm dò trên đát liền 3-5 triệu USD 1 giếng khoan thăm dò ngoài biển 8-15 triệu USD Thẩm lượng tính thương mại của mỏ Khoan 7-10 giếng Phát triển 1 mỏ dầu tầm trung (50 triệu tấn) 3 tỷ USD 1 ngày khoan ngoài biển 150 ngàn USD Thu nổ, xử lý 1000 km địa chấn 4-5 triệu USD Xử lý sự cố kẹt cần khoan, phun trào không khống chế được, mất dung dịch khoan Hàng chục triệu USD Như vậy, nếu xét tới mức độ rủi ro cao của công tác thăm dò (1 thành công/ 9 thất bại) ta sẽ hiểu được tại sao chỉ các tập đoàn cực lớn mới có độ ổn định về tài chính trong hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí và tại sao có hàng trăm công ty dầu khí phá sản mỗi khi có sự giao động giá dầu thô. 2.3 Công nghệ và kỹ thuật áp dụng rất hiện đại Ba bộ môn cơ bản của khoa học áp dụng cho công tác thăm dò khai thác dầu khí là: địa chất, địa vật lý và khoan sâu. Tuy nhiên để thực hiện toàn bộ công việc tìm ra dòng dầu thô và khí đốt đòi hỏi áp dụng hầu như những kỹ thuật tiên tiến nhất của các ngành như: thông tin học, phân tích hoá học, phóng xạ, vật lý, quang học, hàng không, cơ khí…. Các thiết bị sử dụng ở đây có quy mô rất lớn và đòi hỏi độ chính xác cao. 2.4 Công tác điều hành quản lý đòi hỏi chặt chẽ và khẩn trương Hoạt động thăm dò khai thác dầu khí đòi hỏ vốn đầu tư lớn, công nghệ hiện đại, thực hiện ở những nơi rất nguy hiểm như ngoài khơi xa nên muốn đạt được thành công đòi hỏi một quy trình điều hành quản lý phải thật chặt chẽ, nhanh nhạy, và đặc biệt phải có kiến thức và kinh nghiệm cao. Công tác điều hành quản lý ở đây phải rất khẩn trương vì chỉ cần một khâu chậm trễ có thể gây những thiệt hại trầm trọng cả về người và của. 3. Dự báo cung cầu các sản phẩm dầu khí tại Việt Nam tới năm 2020 3.1. Dự báo nhu cầu tiêu thụ đối với các sản phẩm dầu khí của Việt Nam đến năm 2010 và 2020. Là một một nước đang phát triển, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm xăng dầu ở Việt Nam tăng rất nhanh. Theo dự báo của Bộ Thương mại, mức tăng trung bình từ năm 2002 đến năm 2005 khoảng 8%, và từ năm 2006 đến năm 2010 khoảng 6%, sau đó sẽ giảm dưới 5%/năm tới năm 2020. Còn theo dự báo của Viện chiến lược-Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì nhu cầu về các sản phẩm xăng dầu ở Việt Nam được xác định vào khoản 12 triệu tấn vào năm 2005; 17 triệu tấn vào năm 2010 và 26 triệu tấn vào năm 2020. Tuy nhiên các dự báo trên chưa tính tới các yếu tố đột biến, và theo tính toán của các chuyên gia Ngân hàng thế giới thì con số dự báo sẽ thấp hơn nhu cầu thực tế của nền kinh tế Việt Nam. Hơn nữa, hiện nay Đảng và nhà nước ta đang quyết tâm phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, nhu cầu thực tế về năng lượng tính theo đầu người ít nhất cũng xấp xỉ Thái Lan hiện nay. Như vậy nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm xăng dầu ở Việt Nam vào năm 2020 có thể phải trên 30 triệu tấn/năm. Đối với các sản phẩm hoá dầu, con số dự báo nhu cầu cho giai đoạn 2001-2010 cũng tăng nhanh lên tới trên 10%/năm, giai đoạn 10 năm tiếp theo là khoảng trên 5%/năm. Theo dự báo của Bộ Công nghiệp, nhu cầu với tổng sản phẩm hoá dầu các năm 2005, 2010, 2020 lần lượt là trên 5 triệu, 8 triệu và 17 triệu tấn. Nhu cầu tiêu thụ khí đang phát triển rất nhanh, đặc biệt là khu vực phía Nam, bao gồm các nhu cầu cho sản xuất điện, cho các ngành công nghiệp khác và cho dân sinh. Cho đến năm 2010 nhu cầu tiêu thụ khí cho sản xuất điện vẫn là lớn nhất. Theo “Tổng sơ đồ phát triển Điện lực V” đã được chính phủ phê duyệt trong giai đoạn từ 2001 đến 2010 có xét đến triển vọng cho 2020 là trên 7000 MW, chiếm khoảng 30-40% tổng công suất và năm 2020 là khoảng 10.000-14.000MƯ. Vậy nên nhu cầu tiêu thụ khí cho sản xuất điện được dự báo cho năm 2010 là trên 8 tỷ m3 khí và cho năm 2020 là khoảng 14-19 tỷ m3. Dự báo trữ lượng và khai thác dầu khí trong nước Theo những kết quả tìm kiếm thăm dò trong những năm vừa qua thì tổng trữ lượng dầu khí có thể thu hồi dự báo vào khoảng 5-6 tỷ m3 dầu quy đổi, tập trung chủ yếu ở thềm lục địa (tới 99%); (So với tiềm năng dầu khí của các nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được xếp ở mức trung bình). Đến nay đã có phát hiện dầu khí tại hơn 65 cấu tạo chủ yếu ở các vùng nước nông tới 200m, với trữ lượng phát hiện khoảng 1.530 triệu tấn dầu quy đổi, trong đó có các mỏ dầu khí thương mại như Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Hồng Ngọc, Rạng Đông, Bunga-Kekwa, Cái Nước, Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Lan Tây, Lan Đỏ, Hải Thạch, Rồng Đôi Tây, Kim Long… đang khai thác hoặc chuẩn bị đi vào khai thác. Phần lớn trữ lượng tiềm năng còn lại (trên 60% tổng tiềm năng) tập trung chủ yếu ở ngoài khơi vùng nước sâu, xa bờ và các vùng chồng lấn.Đánh giá hiện nay của Petrovietnam cho rằng tiềm năng và trữ lượng khí thiên nhiên lớn hơn dầu. Với nhịp độ phát triển thị trường tiêu thụ hiện nay, sản lượng khí có thể tăng dần, từ 1,9 tỷm3 năm 2002 lên tới gần 6 tỷ m3 năm 2005 và 12 tỷ m3 năm 2010 với nguồn cung cấp chính ở phía Nam. ở miền Bắc và miền Trung, ngoài mỏ Tiền Hải C, dự báo sẽ có một số mỏ cung cấp khí tiêu dùng tại chỗ. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Như vậy, các nguồn năng lượng trong nước có thể sẽ không đủ đáp ứng cho nhu cầu năng lượng ngày càng tăng, đặc biệt là sau năm 2015. Để cân đối cung-cầu về năng lượng, Việt Nam cần bổ sung khoảng 5-6 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2020 và có thể nhiều hơn trong các năm tiếp theo. Đây là một vấn đề hết sức cấp bách của ngành năng lượng Việt Nam nói chung và của ngành dầu khí nói riêng. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta cần tích cực khẩn trương hơn nữa trong hoạt động thăm dò khai thác ở nước ngoài để đảm bảo vấn đề an ninh năng lượng quốc gia Thực trạng hoạt động đầu tư nước ngoài của._.khoản thu gồm: bằng hiện vật hoặc tiền là khoản thu hồi chi phí thăm dò khai thác đã bỏ ra bằng hiện vật hoặc bằng tiền khác là khoản lãi được chia theo quy định hợp đồng Hai khoản trên được gọi chung là “phần được chia” của Petrovietnam sẽ được chuyển ngay về nứơc theo quy định hiện hành của nhà nước. Để cấp kinh phí cho các dự án ở nước ngoài, Petrovietnam sẽ chuyển ngoại tệ qua các tài khoản ở Việt Nam và ở nước ngoài được phép mở theo quy định của hợp đồng và các thoả thuận liên quan đã ký giữa các bên trong hợp đồng. Để Petrovietnam sử dụng nguồn thu từ các dự án ở nước ngoài một cách linh hoạt, hiệu quả nhất, tránh lãng phí về thời gian và nguồn lực, Chính phủ cho phép Petrovietnam sau khi hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước được giữ nguyên “Phần được chia” bằng ngoại tệ tại các tài khoản đã nêu để tiếp tục chi tiêu cho các dự án theo chương trình công việc và ngân sách đã được phê duyệt (không phải bán ngoại tệ cho ngân hàng). 1.5. Thành lập công ty chi nhánh ở nước ngoài Theo thông lệ dầu khí quốc tế, các công ty dầu khí khi thực hiện dự án trong một số trường hợp đặc biệt cần thành lập công ty thành viên mang quốc tịch một nước thứ ba để thuận tiện cho việc điều hành và hạn chế rủi ro. Vì vậy, khi cần thiết, Petrovietnam sẽ kiến nghị Chính phủ cho phép thành lập công ty thành viên ở nước ngoài để thực hiện dự án. 2. Huy động nguồn vốn đầu tư - Quỹ dự phòng rủi ro Đầu tư thăm dò khai thác dầu khí đòi hỏi vốn lớn, song lại là đầu tư rủi ro,vì vậy cần sớn có Quỹ rủi ro của Nhà nước hoặc Ngành hỗ trợ. Xét thực tế các công ty dầu không thể vay vốn để hoạt động tìm kiếm thăm dò (công ty dầu quốc tế thường trích từ lãi ròng theo tỷ lệ nhất định), nguồn vốn cho hoạt động tìm kiếm thăm dò sẽ được lấy từ Quỹ Đầu tư Phát triển của Petrovietnam. Để bù đắp Quỹ Đầu tư Phát triển trong trường hợp thăm dò không thành công, đề nghị Chính phủ xem xét cho phép hình thành một quỹ dự phòng rủi ro tìm kiếm thăm dò khoảng 30-50 triệu USD/năm. Quỹ rủi ro là hình thức hỗ trợ bắt buộc của Nhà nước đối với các Công ty Dầu. Trong trường hợp này, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước chủ động xác lập quỹ rủi ro này. Quỹ rủi ro hình thành trên cơ sở trích từ tổng lợi nhuận do hoạt động thăm dò khai thác dầu khí của toàn ngành đem lại. Tỷ lệ trích có thể lên đến 25% lợi nhuận hàng năm. Quỹ rủi ro xác lập và quyết toán kỳ hạn 5 năm. không nên theo hàng năm. Khi có phát hiện dầu khí thương mại, nguồn vốn cho hoạt động phát triển – khai thác mỏ sẽ được lấy từ: Quỹ Đầu tư Phát triển của Petrovietnam ( chiếm tỷ trọng tối thiểu là 30% trong tổng chi phí phát triển khai thác mỏ ) và một phần trong Phần được chia của Petrovietnam từ dự án; phần còn lại (khoảng 70% trong tổng chi phí phát triển khai thác mỏ) sẽ được Petrovietnam thu xếp từ các tổ chức tài chính, tín dụng ở trong và ngoài nước. Để huy động vốn cho các dự án đi vào giai đoạn phát triển – khai thác mỏ, đề nghị Chính phủ ban hành quy định cho phép các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước cung cấp các khoản vay cho các dự án dầu khí ở nước ngoài. Trong tương lai, học tập kinh nghiệm của các công ty dầu khí quốc gia khác, khi được chính phủ cho phép, Petrovietnam sẽ nghiên cứu trình Chính phủ phương án phát hành chứng khoán (IPO) trong nước và quốc tế, bắt đầu có thể thực hiện bằng việc phát hành IPO cho một dự án/công trình (Petrovietnam nắm cổ phần đa số) - Ưu tiên vốn cho tìm kiếm thăm dò ở nước ngoài. Giai đoạn 2001- 2005 là giai đoạn khởi đầu của đầu tư tìm kiếm thăm dò ở nước ngoài, do đó rất cần tập trung vốn ưu tiên từ Quỹ rủi ro cho đầu tư này. Có thể dành không ít hơn 1/2 Quỹ rủi ro cho đầu tư tìm kiếm thăm dò ở nước ngoài. Biết rằng một mặt cần ưu tiên, nhưng dò tìm dự án ở nước ngoài rất khó khăn - Lấy dự án nuôi dự án Để có nguồn vốn đầu tư cho thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài, một hình thức lấy dự án trong nước để đổi lấy dự án ở nước ngoài phải là một chủ trương. Nhiều công ty sẵn sàng hợp tác với ta ở Việt Nam và sẵn sàng chia sẻ với ta, cho ta tham gia vào dự án ở nước ngoài. Kinh doanh cổ phần các dự án đem lại nguồn thu nhất định. Xem xét để cho phép được giữ lại nguồn thu này từ các dự án ở nước ngoài để tái đầu tư vào thăm dò khai thác các dự án mới ở nước ngoài. - Hạch toán kinh doanh thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài Đầu tư thăm dò khai thác dầu khí là đầu tư lớn nhưng rủi ro cao. Bởi vậy cần phân tán vốn đầu tư vào càng nhiều dự án thăm dò khai thác càng tốt, trong đó có dự án thành công sẽ đem lại lợi nhuận rất cao, song sẽ có rất nhiều dự án thất bại là điều tất yếu. Bởi vậy hạch toán kinh doanh thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài không thể hạch toán riêng lẻ độc lập từng dự án hay nhóm dự án mà phải nhất định hạch toán kinh doanh tổng hợp, thống nhất và tập trung toàn bộ các dự án thăm dò khai thác cả trong và ngoài nước. 3. Xây dựng quy chế lao động Đầu tư thăm dò khai thác ở nước ngoài là hoạt động quốc tế theo thông lệ quốc tế, cạnh tranh quốc tế… chỉ có thể có và được triển khai thành công bởi nguồn lực con người đạt trình độ quốc tế. Điều này không thể có ngay được, song cũng không thể không cấp bách tập trung xây dựng, bởi việc tìm và xây dựng dự án đã cần người rồi thì khi triển khai dự án càng đòi hỏi cần có nhiều người gắn với từng dự án cụ thể. Đó là: Lực lượng cán bộ điều hành quản lý dự án quốc tế: ần có một đội ngũ tuy không đông nhưng phải mạnh, có năng lực quản lý - điều hành độc lập trong môi trường quốc tế, theo thông lệ quốc tế, thấu hiểu và biết vận dụng luật pháp Việt Nam. Đây là lực lượng bắt buộc phải là người Việt Nam, người của Petrovietnam và gắn bó với Petrovietnam. Lực lượng cán bộ quản lý Tài chính – kinh doanh: Rất cấp bách cho quản lý và thực thi công tác tài chính các dự án quốc tế, đặc biệt là các dự án do Petrovietnam điều hành. Đây cũng bắt buộc phải là người Việt Nam và gắn bó với Petrovietnam. Lực lượng chuyên gia kỹ thuật kinh tế: Cần một lực lượng không ít, có thể tự chủ với từng dự án linh hoạt chuyển sang các dự án khác, luôn sáng tạo tìm ra cái mới. Cần có lực lượng Việt Nam trẻ khỏe, nhiệt tình, sẵn sàng đi các nơi để làm việc. Bên cạnh đó cần sớm tuyển thuê lao động quốc tế vào làm trong các tổ chức, một mặt nâng chuẩn cho các chuyên viên của ta, mặt khác sử dụng họ như một minh chứng cho chuẩn quốc tế của hoạt động của ta. Bên cạnh đó, để khuyến khích người lao động trong ngành dầu khí đi làm việc ở nước ngoài, Chính phủ cần sớm cho phép Petrovietnam ban hành và áp dụng chính sách nhân viên (lương, thưởng và các chế độ khác) cho người Việt Nam làm việc trong các dự án dầu khí ở nước ngoài trên cơ sở tham khảo chính sách nhân viên của các công ty dầu khí quốc gia trong khu vực Châu Á (như Petronas của Malaysia, Pertamina của Indonesia, KNOC của Hàn Quốc, PTT của Thái Lan, CNOOC của Trung Quốc). Để thực hiện các dự án ở nước ngoài một cách có hiệu quả, Petrovietnam cũng nên nhanh chóng đào tạo/ tuyển dụng các chức danh là lao động Việt Nam đã có kinh nghiệm công tác và có thể hoạt động ở nước ngoài. Đối với các chức danh chưa có cán bộ Việt Nam thích hợp đảm nhiệm, Petrovietnam được phép thuê chuyên gia nước ngoài với phương châm sớm đào tạo tuyển dụng cán bộ Việt Nam thay thế. 4. Hoàn thiện cơ chế quản lý điều hành dự án Cấp chính phủ: phê duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật của các dự án, kế hoạch phát triển và khai thác các mỏ dầu khí thương mại đã được phát hiện và ra quyết định đầu tư. Cấp các bộ ngành quản lý nhà nước: thẩm định, cấp giấy phép đầu tư và thực hiện các thủ tục quản lý nhà nước trong các lĩnh vực liên quan sau khi có quyết định đầu tư của Chính phủ. Giấy phép Đầu tư cho từng dự án sẽ được cấp cho Petrovietnam là chủ đầu tư và Đơn vị chuyên trách là đơn vị trực tiếp triển khai dự án ở nước ngoài. Cấp Tổng công ty: Petrovietnam chịu trách nhiệm xây dựng và ban hành quy chế quản lý, điều hành hoạt động thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài phù hợp với các quy định của Nhà nước Việt Nam và nước chủ nhà, hợp đồng dầu khí, các văn bản thoả thuận liên quan và thông lệ dầu khí quốc tế trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản sau: Tổng công ty: chỉ đạo quản lý tổng thể các hoạt động dầu khí ở nước ngoài theo định hướng phát triển chiến lược ngành, thẩm định dự án trước khi trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt; phê duyệt chương trình công tác và ngân sách; phê duyệt các hạng mục đầu tư, dự toán công trình dầu khí; cấp vốn cho Đơn vị chuyên trách thực hiện dự án theo kế hoạch tháng/quý/năm đã được phê duyệt. Đơn vị chuyên trách thực hiện dự án: Tìm kiếm đánh giá cơ hội đầu tư, lập phương án kinh tế – kỹ thuật, ký hợp đồng và văn bản thoả thuận liên quan theo sự uỷ quyền của Tổng công ty, tổ chức thực hiện các dự án theo chương trình công tác và ngân sách đã được phê duyệt. Công ty/Văn phòng Điều hành trực thuộc Đơn vị chuyên trách: chịu trách nhiệm trực tiếp triển khai dự án. 5. Cải cách thể chế và quản trị công ty Đầu tư thăm dò khai thác dầu khí ra nước ngoài là một hoạt động quốc tế, các tổ chức - hệ thống tổ chức cho hoạt động này một mặt đảm bảo nguyên tắc của tổ chức hệ thống Doanh nghiệp Nhà nước XHCN của Việt Nam, mặt khác không thể không hội nhập thông lệ dầu khí quốc tế. Bàn về tổ chức bao giờ cũng khó bởi đây là vấn đề nhạy cảm, liên quan đến con người cụ thể, liên quan đến nhiều khía cạnh phức tạp trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế – quản lý theo cơ chế thị trường định hướng XHCN… Song muốn tạo ra sức mạnh, không thể không có các tổ chức hợp lý với đặc thù hoạt động quốc tế. Các nguyên tắc sau đây cần xem xét về kiện toàn và xây dựng các Tổ chức: Đảm bảo quản lý chỉ đạo thống nhất và tập trung một đầu mối trong toàn Tổng công ty về thăm dò khai thác trong đó có thăm dò khai thác ở nước ngoài. Phải gắn thăm dò khai thác ở nước ngoài với trong nước bởi cả hai hoạt động này đều tạo nên tài sản chung, đều là lợi thế tạo nên sức mạnh và uy tín trên trường quốc tế. Đồng thời nó cũng tạo nên lợi thế trong sử dụng và điều chuyển nguồn nhân lực cho các dự án. Thương hiệu PETROVIETNAM phải là duy nhất để tạo sức cạnh tranh quốc tế. Thống nhất tập trung về đầu tư và hạch toán kinh doanh thăm dò khai thác: Đầu tư thăm dò khai thác dầu khí là đầu tư rủi ro, cần phân tán nhiều dự án, trong đó có những dự án thành công đem lại lợi nhuận cao, song có những dự án không thành công. Không thể phân chia để đầu tư và hạch toán riêng rẽ, bắt buộc phải thống nhất tập trung về đầu tư và hạch toán toàn bộ hệ thống thăm dò khai thác, kể cả thăm dò khai thác ở trong nước và ngoài nước. Phân công triệt để trong điều hành triển khai các dự án. Đối với mỗi dự án quốc tế cần lập một thực thể pháp nhân không đầy đủ theo thông lệ quốc tế và quy định thẩm quyền cũng như nghĩa vụ của tổ chức đối với dự án. Trong đó những dự án do ta làm chủ điều hành sẽ được lập pháp nhân tương đối đầy đủ và có biên chế tổ chức hoạt động riêng, giới hạn ở hoạt động điều hành triển khai. Song hạch toán kinh doanh vẫn tập trung thống nhất. Có thể thành lập rất nhiều các công ty trách nhiệm hữu hạn ở trong và ngoài nước. Xây dựng các chuẩn mực quy phạm – quy chế vận hành Thăm dò khai thác dầu khí là hoạt động phức tạp, rất nhiều hoạt động vận hành không chỉ về kỹ thuật, tài chính mà còn về nhiều lĩnh vực và mối quan hệ khác cần phải có hệ thống quy phạm quy chế theo chuẩn mực quốc tế, chuẩn mực Việt Nam hay ở cấp chuẩn mực ngành. Để hội nhập hoạt động dầu khí, rất cấp bách kiện toàn bộ phận pháp luật của doanh nghiệp, thu thập, hệ thống hoá và hoàn thiện đưa ra áp dụng hệ thống các chuẩn mực cho quá trình vận hành doanh nghiệp. 6. Tìm hiểu tiếp cận khu vực ưu tiên đầu tư 6.1. Đông Nam Á Đây là khu vực có tiềm năng dầu khí khá lớn, đặc biệt Indonesia, và có có nền kinh tế năng động, gần gũi về địa lý, văn hoá với Việt Nam. Các nước trong khu vực có quan hệ tốt với Việt Nam, đặc biệt thông qua các tổ chức và diễn đàn khu vực (ASEAN, APEC); quan hệ hợp tác giữa Petrovietnam và một số công ty dầu khí quốc gia (Petronas, Pertamina, PTT, PNGC) là những điều kiện thuận lợi để Petrovietnam thực hiện chiến lược đầu tư nước ngoài của mình. Cơ hội đầu tư của Petrovietnam vàp khu vực gồm cả mua tài sản dầu khí, thăm dò các lô mới ở các nước có tiềm năng dầu khí cao (Indonesia, Malaysia và Thái Lan). Tiềm năng dầu khí ở khu vực này được đánh giá là lớn, về trung hạn và dài hạn thị trường khí của khu vực sẽ phát triển nhanh chóng, do vậy các cơ hội thăm dò khai thác khí sẽ thu hút được sự quan tâm ngày càng nhiều. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng cho công nghiệp khí ở một số nước chưa phát triển. 6.2. Trung Đông và Bắc Phi: Đây là khu vực có tiềm năng dầu khí khổng lồ với trữ lượng xác minh gần 720 tỷ thùng dầu và 2.000 tỷ bộ khối khí. Petrovietnam có điều kiện nắm bắt các cơ hội cả về thăm dò diện tích mới và phát triển các mỏ đã được phát hiện. Ngoài ra, khu vực này gần với thị trường tiêu thụ dầu và khí lớn của thế giới là các nước phát triển ở Tây Âu, tạo điều kiện rất thuận lợi cho tiêu thụ sản phẩm dầu khí của các nước trong khu vực. Quan hệ truyền thống giữa Việt Nam với nhiều nước trong khu vực (Irắc, Angiêri, Libi) trước đây cũng như hiện nay là rất tốt và có thể tranh thủ một cách hiệu quả để thúc đẩy hợp tác về kinh tế. Khu vực này được giới chuyên môn đánh giá là khu vực “chi phí thấp”: Chi phí phát hiện khoảng 0,5-1,0 USD/thùng dầu, chi phí phát triển mỏ và khai thác khoảng 2 USD/thùng dầu. Sự hạn chế đối với đầu tư nước ngoài vào một số khu vực này là rủi ro chính trị liên quan đến lệnh cấm vận của Liên Hợp Quốc và Mỹ, vấn đề an ninh, chiến tranh…Tuy nhiên, đây lại là một cơ hội để Petrovietnam thâm nhập thị trường, giành lấy các dự án có giá trị thông qua đấu thầu (nhờ cạnh tranh thấp) hoặc qua con đường quan hệ chính trị. 6.3 Nga và các nước vùng Ca-xpiên. Tiềm năng dầu khí của khu vực này cũng rất lớn, đặc biệt về khí, trong đó Nga có trữ lượng khí lớn nhất thế giới. Đây là khu vực vốn có quan hệ truyền thống, hợp tác tương trợ trong nhiều năm trong thời kỳ chiến tranh lạnh và các mối quan hệ chính trị – kinh tế hiện nay đang được thúc đẩy phát triển. Đồng thời, Petrovietnam có thể tranh thủ mối quan hệ với các Công ty dầu khí như Zarubezhneft và Gazprom trong việc thâm nhập thị trường thăm dò khai thác của Nga. Hạn chế lớn nhất của thị trường dầu khí Nga và các nước vùng Ca-xpiên là cơ sở hạ tầng cho việc phát triển tài nguyên dầu khí. 7. Lựa chọn đối tác Đầu tư thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài là một hoạt động quốc tế có rủi ro, không thể đầu tư đơn độc mà nhất thiết phải có quan hệ quốc tế rộng. Giữ lập trường và chính sách đối ngoại độc lập tự chủ – làm bạn với tất cả, song vẫn phải có định hướng chọn bạn, chọn đối tác hợp tác. Các đối tác sau đây được định hướng quan tâm để xây dựng quan hệ đối tác: 7.1 Các công ty dầu khí quốc gia các nước có quan hệ truyền thống thân thiện và hữu nghị Trước hết là các Công ty Dầu khí quốc gia các nước láng giềng lân cận trong khối ASEAN như Petronas, Pertamina, PTT. Các công ty Dầu khí Quốc gia các nước bạn bè truyền thống khác: Nga, Trung Quốc, ấn Độ, Iraq, Algeria… Quan hệ hợp tác với các Công ty Dầu khí Quốc gia kể trên trên nền tảng quan hệ Liên Chính phủ, quan hệ kinh doanh, trao đổi hoặc cùng hợp tác đầu tư trên lãnh thổ của mỗi nước và cùng hợp tác kinh doanh ở nước thứ 3. Mục tiêu của quan hệ hợp tác với các Công ty Dầu khí Quốc gia là để tận dụng cơ hội có các dự án mới, trao đổi kinh nghiệm quản lý điều hành, tăng cường sức mạnh cạnh tranh, sớm tạo ra bước khởi đầu có kết quả. Các công ty dầu khí quốc tế có quan hệ hợp tác ở Việt Nam hoặc quan tâm đầu tư ở Việt Nam Các Công ty Dầu khí Quốc tế hoạt động thuần tuý về lợi nhuận trước mắt và lâu dài. Khi quan tâm đến Việt Nam trước hết là cần có dự án ở Việt Nam. Tận dụng cơ hội đó, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam cần quan tâm để đan xen điều kiện, đan xen quyền lợi, tranh thủ hợp tác không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nước ngoài. Mục tiêu của ta trong hợp tác quan hệ này thể hiện ở 2 mặt, trước hết vẫn là để có các dự án khởi đầu đi ra quốc tế, mặt khác quan trọng hơn là có điều kiện thực tập, học tập để nâng cao năng lực thực tiễn trong quản lý điều hành theo mục tiêu lợi nhuận và hiệu quả. 8. Xây dựng Petrovietnam thành một Tập đoàn dầu khí hùng mạnh Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển Ngành Dầu khí nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đồng thời để từng bước hoà nhập vào các hoạt động dầu khí trong khu vực và trên thế giới trong xu thế toàn cầu hoá, Nhà nước giao nhiệm vụ cho Ngành đổi mới tổ chức và hoạt động của mình theo hướng tập đoàn dầu khí mạnh, với các mục tiêu chính sau đây: Xây dựng và phát triển Ngành Dầu khí theo mô hình tập đoàn kinh tế - công nghiệp hoàn chỉnh, đa dạng về tổ chức và sản phẩm; gắn khai thác với chế biến và tiêu thụ sản phẩm; không chỉ hoạt động trong nước mà từng bước phát triển ra nước ngoài. Các sản phẩm làm ra đạt tiêu chuẩn quốc tế, có sức cạnh tranh trong khu vực, không những đáp ứng về cơ bản nhu cầu tiêu thụ trong nước về năng lượng sơ cấp và nguyên liệu, đồng thời còn tham gia xuất khẩu. Có năng lực tài chính mạnh, có khả năng tích luỹ nhanh, có uy tín trên thị trường quốc tế, có đủ khả năng huy động vốn trong và ngoài nước để tự đầu tư và có đóng góp quan trọng cho ngân sách Nhà nước. Có đội ngũ cán bộ, chuyên gia kinh tế - kỹ thuật - công nghệ, công nhân lành nghề đạt trình độ của khu vực, trong một số lĩnh vực đạt trình độ thế giới; tự điều hành mọi hoạt động dầu khí ở trong nước và ở nước ngoài. Để đạt được các mục tiêu trên, đòi hỏi xây dựng cơ cấu tổ chức của tập đoàn dầu khí Việt Nam thống nhất và hợp lý: Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là một công ty dầu khí quốc gia đồng thời là một doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt có các đơn vị sự nghiệp và trực thuộc hoạt động trong các lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí. Các doanh nghiệp 100% vốn của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam hạch toán độc lập, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh các sản phẩm dầu khí. Các doanh nghiệp độc lập là thành viên của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. Các doanh nghiệp này hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ dầu khí, trong đó vốn góp của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam lớn hơn 50% (cổ phần chi phối). Các doanh nghiệp độc lập có vốn góp của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, thông qua liên doanh hoặc mua cổ phần. Đây là các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với mức vốn của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam bằng hoặc nhỏ hơn 50%. Các đơn vị này hoạt động trong lĩnh vực thăm dò, khai thác, chế biến, và kinh doanh dầu khí, trong các lĩnh vực sản xuất công nghiệp có liên quan như hoá dầu, điện, đạm hay các lĩnh vực công nghiệp chế tạo khác, v.v... Như vậy, hoạt động của tập đoàn sẽ theo nguyên tắc tập trung - thống nhất từ trên xuống dưới, từ công ty mẹ đến công ty con, làm công tác quản lý và điều hành dễ dàng hơn, thúc đẩy tốt các hoạt động thăm dò, khai thác và chế biến dầu khí đồng thời nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, xây dựng mô hình tập đoàn công nghiệp dầu khí là đúng đắn và hiệu quả. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI CÔNG TY PIDC Như đã trình bày ở Chương II, Mục II.4 về “Thực trạng hoạt động đầu tư nước ngoài trong thăm dò khai thác dầu khí của Petrovietnam”, thì tính tới thời điểm hiện tại, mọi hoạt động đầu tư nước ngoài đều được Petrovietnam giao cho công ty thành viên là Công ty Đầu tư Phát triển Dầu khí (PIDC) thực hiện. Chính vì thế, trong Chương III này, bên cạnh một số giải pháp đề xuất cho Petrovietnam thì em cũng xin kiến nghị ở đây một số biện pháp riêng cho PIDC nhằm tăng cường hơn nữa nội lực của công ty để từ đó có thể thực hiện tốt nhiệm vụ mà Petrovietnam tin tưởng giao phó. 1. Hỗ trợ từ phía Petrovietnam Các dự án ĐTNN trong lĩnh vực thăm dò khai thác mà PIDC đang triển khai hiện nay và sẽ triển khai trong thời gian tới như: Hợp đồng PC lô PM 304 và SK 306 tại Malaysia, Hợp đồng Tamtsaq Mông Cổ-Soco, dự án hợp tác 3 bên (PIDC-Pertamina- Carigali) tại lô 10, 11.1...là những dự án có vốn đầu tư lớn, công nghệ phức tạp, cần sự ủng hộ tích cực từ phía Chính phủ và Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam. Để đưa các dự án này vào hoạt động đúng tiến độ và đạt được hiệu quả mong muốn cũng như tạo điều kiện để PIDC hoàn thành mục tiêu kế hoạch 2001-2005, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam cần quan tâm đến Công ty Đầu tư Phát triển Dầu khí ở một số điểm chính sau: Tổng Công ty cho phép PIDC được ổn định chức năng nhiệm vụ thăm dò khai thác Dầu khí trong nước và quốc tế, tạo vị thế pháp lý cho Công ty hoạt động như một Công ty Dầu khí trong môi trường quốc tế hóa. Tổng Công ty giữ ổn định những dự án mà PIDC đang có, những dự án mà PIDC đang xây dựng ở trong nước, bởi đó là cái gốc và nền tảng để Công ty đi lên và đi ra quốc tế. Tổng Công ty sớm xây dựng và định hình cơ chế đầu tư hoạt động Dầu khí, bảo đảm có vốn đầu tư thăm dò, có cơ chế ưu đãi vốn phát triển mỏ. Cho phép Công ty hạch toán kinh doanh chủ động hơn trong thực hiện Chương trình công tác và Ngân sách đã được Tổng Công ty phê duyệt để tạo vị thế hoạt động quốc tế của Công ty. Tổng Công ty tạo điều kiện để Công ty sớm có cơ sở hạ tầng, văn phòng trụ sở làm việc và trang thiết bị cần thiết cho hoạt động quốc tế. Ngoài ra, Tổng Công ty Dầu khí Việt nam cần phải tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình thực hiện, đồng thời các Bộ, ngành và các địa phương có liên quan căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao cần phối hợp chặt chẽ với Tổng Công ty Dầu khí Việt nam trong việc triển khai thực hiện, giải quyết kịp thời những yêu cầu đặt ra đối với dự án, nhất là đối với các vấn đề có tính chất liên ngành. Về công tác quản lý dự án, cần xem xét việc cho phép chủ đầu tư được thuê tư vấn quản lý dự án, cơ quan đăng kiểm trong và ngoài nước để tư vấn cho chủ đầu tư trong việc quản lý dự án, giám sát, kiểm tra chất lượng, nghiệm thu, nhận bàn giao công trình. Về cơ chế quản lý đầu tư, xây dựng, Tổng Công ty Dầu khí Việt nam cho phép PIDC được áp dụng một số thông lệ quốc tế trong quá trình tổ chức thực hiện dự án như: lập thiết kế tổng thể và tổng dự toán, thực hiện xây lắp theo hình thức EPC (thiết kế chi tiết, mua sắm vật tư, thiết bị và thi công)... 2. Đối với PIDC: Để tăng vị thế của PIDC trong hợp tác quốc tế, xin đề xuất một số giải pháp sau: Thứ nhất, trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, với tư cách là một bên đối tác, PIDC nên yêu cầu các Công ty Dầu khí nước ngoài cung cấp các bản báo cáo và thông tin định kỳ liên quan đến hoạt động của dự án (ví dụ như các bản báo cáo hàng ngày về công tác khoan, tài liệu báo cáo địa chấn hàng tuần, báo cáo công tác điều hành hàng quý, các báo cáo tài chính và khai thác khác...). Đây cũng là cơ hội để các nhà ĐTNN đưa ra những vướng mắc của mình (nếu có) trong quá trình thực hiện dự án. Dựa trên những báo cáo này, PIDC có thể giám sát, bao quát được những công việc của dự án (những công việc đã thực hiện hoặc những công việc chưa thực hiện được so với cam kết tối thiểu trong hợp đồng). Từ đó, cùng với các đối tác của mình có kế hoạch xúc tiến công việc một cách hiệu quả hơn, đồng thời, phối hợp với Petrovietnam hoặc các Bộ, ngành có liên quan giải quyết thỏa đáng những vướng mắc của các nhà ĐTNN(nếu có), tạo lòng tin cho các nhà ĐTNN khi hợp tác với PIDC. Thứ hai, PIDC cần tập trung, chú trọng, nâng cao hơn nữa năng lực điều hành của mình trong các dự án đầu tư nhằm tăng cường vai trò của nước chủ nhà trong hợp tác quốc tế. Dựa trên chương trình Công tác và Ngân sách đã được phê duyệt, các Công ty Dầu khí nước ngoài chuẩn bị chương trình khoan, bao gồm các nội dung cơ bản như mục tiêu địa chấn chính yếu, thứ yếu; tiến độ khoan; phân tích thử nghiệm, dự toán chi phí...Bên Việt nam-PIDC phải đảm bảo rằng những nội dung trên là hoàn toàn phù hợp với luật pháp Việt nam, với Hợp đồng đã ký kết và với những cam kết về kỹ thuật đã được các bên thỏa thuận trước khi tiến hành khoan. Công việc này đòi hỏi PIDC phải có đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm, am hiểu luật pháp, có trình độ ngoại ngữ và chuyên môn đủ khả năng tiếp cận với khoa học công nghệ tiên tiến của ngành Dầu khí và thế giới; một bộ máy lãnh đạo có năng lực điều hành cao để kịp thời có những quyết định sáng suốt và hiệu quả. Hiện nay, trong số cán bộ có trình độ đại học và trên đại học của Công ty, có khoảng 15% tốt nghiệp ở nước ngoài. Đây là nguồn nhân lực vô cùng quý giá giúp Công ty thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược của mình. Trước nhu cầu phát triển mới của ngành, cùng với việc tiếp tục triển khai và mở rộng phạm vi tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí trong nước và quốc tế, việc đào tạo đồng bộ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ kỹ thuật ở tất cả các chuyên ngành Dầu khí trong những năm tới đòi hỏi PIDC phải có những chính sách đào tạo phù hợp. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo của PIDC trong thời gian tới: Cần phải xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chuyên sâu, đặc biệt là lĩnh vực phát triển và khai thác mỏ để đáp ứng nhiệm vụ trong những năm tới. Mở rộng các ngành nghề đào tạo như địa chất, địa vật lý, khoan khai thác, lọc hóa dầu, công nghệ khí, tự động hóa, kinh tế và quản lý, tài chính và ngân hàng, bảo hiểm, an toàn, môi trường, ngoại ngữ đảm bảo cả về số lượng và chất lượng nhân lực cho các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, điều hành quản lý của PIDC. Kết hợp với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, tổ chức nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn Dầu khí cho cán bộ công nhân viên của Công ty. Cử cán bộ đi thực tập dài hạn tại các Công ty dầu khí nước ngoài. Tăng kinh phí đào tạo cho Công ty. Phần kinh phí này cần được huy động từ nhiều nguồn khác nhau như: từ ngân sách của Tổng Công ty- phần dành cho đào tạo từ các PSC và các hợp đồng kinh tế thương mại khác, đồng thời nhận sự trợ cấp của các hãng trong và ngoài nước, quỹ phát triển sản xuất của các đơn vị, kinh phí Nhà nước và phần đóng góp của những người được cử đi đào tạo. Cần phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những người có năng lực và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tránh tình trạng gây “chảy máu chất xám”. Vấn đề con người mà cụ thể là những giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực của PIDC trên đây được coi là giải pháp vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cấp bách, đóng vai trò then chốt trong quá trình thực hiện nhiệm vụ quốc tế hóa của Công ty. Thứ ba, hiện tại đội ngũ chuyên gia kinh tế kỹ thuật của PIDC còn chưa đủ trình độ để hoạch định chiến lược đầu tư thăm dò khai thác dầu khí tổng thể, nên việc thuê chuyên gia nước ngoài đảm đương nhiệm vụ trên là rất cần thiết và phải có đầu tư thích đáng. Thứ tư, PIDC cần tập trung nâng cấp cơ sở vật chất, hiện đại hóa từng bước phương tiện kỹ thuật để có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của Công ty. Vươn lên thành nhà điều hành có năng lực trong thăm dò khai thác dầu khí, PIDC cần xây dựng cho mình một “hình ảnh” ngang tầm với các công ty dầu khí nước ngoài. Công ty cần nâng cấp, mở rộng trụ sở làm việc cho rộng rãi, khang trang; trang bị và từng bước hiện đại hóa các phương tiện làm việc như toàn bộ hệ thống máy vi tính đều được nối mạng Internet, điện thoại...nhằm tạo dựng một môi trường làm việc mang tính quốc tế hóa cao. Thứ năm, công tác quản lý, điều hành đòi hỏi chặt chẽ và khẩn trương. Quản lý một lĩnh vực kinh doanh với vốn đầu tư lơn, độ rủi ro cao cần phải chặt chẽ, chính xác. Công tác điều hành cũng phải nhanh nhạy, bắt kịp các công tác khác vì chậm trễ ở một khâu có thể gây ra thiệt hại, mất mát lớn làm giảm lợi nhuận và giảm hiệu quả kinh tế của hợp đồng. Ví dụ dừng khoan một ngày sẽ mất tới hàng trăm ngàn USD và có thể dẫn đến hỏng giếng. Thứ sáu, PIDC cần coi trọng công tác xúc tiến đầu tư. Trước mắt, Công ty cần xây dựng chương trình vận động xúc tiến đầu tư trên cơ sở các quy hoạch, dự án thu hút vốn ĐTNN và tập trung vào các hoạt động xúc tiến đầu tư tại một số nước và khu vực quan tâm như các nước Đông Nam Á, khu vực Trung Đông; thường xuyên cập nhật thông tin trên các website giới thiệu về ĐTNN của công ty; đề xuất với Tổng công ty về việc mở văn phòng xúc tiến đầu tư ở một số địa bàn trọng điểm bằng kinh phí của Tổng công ty. KẾT LUẬN Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng vận động tất yếu của hầu hết các nền kinh tế hiện nay, khi quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng với nhiều thách thức và cơ hội luôn mở ra cho tất cả các quốc gia. Trong xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế, hoạt động đầu tư ra nước ngoài đã, đang và sẽ có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển của Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam nói riêng và đối với sự tăng trưởng và phát triển của Việt Nam nói chung. Nếu từ trước tới nay, chúng ta mới chỉ chú trọng vào việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào, thì nay chúng ta đã bắt đầu mong muốn và thực hiện hoạt động đầu tư tại các nước khác trên thế giới. Đó là một bước chuyển mình cơ bản đánh dấu bước phát triển mới của nền kinh tế đất nước không chỉ ở chất mà còn ở lượng, không chỉ ở nguồn vốn mà còn ở năng lực khai thác và quản lý nguồn vốn ấy. Riêng với Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, hoạt động đầu tư thăm dò khai thác dầu khí ở nước ngoài không những đảm bảo được Chiến lược phát triển ngành dầu khí tới năm 2020, mà còn là nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, để bổ cân đối cung cầu năng lượng trong nước. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước đã tin tưởng giao phó. Mặc dù với vai trò của “Người đi khai phá”, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam đã phát huy nội lực, tận dụng cơ hội, khắc phục khó khăn, chấp nhận thử thách để bước vào lĩnh vực rất mới mẻ không những của ngành dầu khí mà còn của Việt Nam này. Để sánh vai được với các công ty dầu khí quốc tế trong hợp tác cũng như cạnh tranh, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam sẽ đồng tâm nhất trí cao trong việc thực hiện chiến lược đầu tư nước ngoài trong thăm dò khai thác dầu khí. Con đường phía trước còn nhiều gian nan nhưng chúng ta tin tưởng rằng Tổng Công ty dầu khí Việt Nam sẽ phát huy được các thành tích đạt được trong 27 năm qua để xứng đáng với niềm tin: “Petrovietnam – Năng lượng cho phát triển đất nước” ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChien luoc dau tu nuoc ngoai trong khai thac dau khi cua tong cong ty dau khi VN.doc
  • doc3106.doc
  • docBiaLV.doc
  • docLoi cam on.doc
  • docTai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan