Chiến lược của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam thời kì hậu WTO

Lời mở đầu Đất nước ta đã bước vào một thời kì mới khi chúng ta chính thức là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, một tổ chức kinh tế lớn nhất toàn cầu. Đây là sự kiện có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là yếu tố thúc đẩy và hỗ trợ mạnh mẽ quá trình cải cách bên trong nước ta, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài, khơi dậy và phát huy tiềm năng của đất nước. Việc gia nhập WTO sẽ mở ra một giai đoạn phát triển mới cho nền kinh tế nước ta, giai đoạn phát

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1473 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chiến lược của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam thời kì hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển trong bối cảnh hội nhập sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới đang thay đổi nhanh chóng đem lại những cơ hội và thuận lợi, khó khăn và thách thức đan xen trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế trong đó có ngành du lich. Đại hội IX của Đảng đã đề ra chủ trương là “phát triển du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn” và trong bối cảnh mới của đất nước, Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh “phát triển mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động du lịch, đa dạng hoá sản phẩm và loại hình du lịch” Đứng trước những nhiệm vụ do Đảng đặt ra, những cơ hội và thách thức đan xen đặt ra trước mắt cho ngành du lịch thì toàn ngành sẽ phải có những giải pháp để tận dụng cơ hội và hạn chế những thách thức để đưa du lịch Việt Nam phát triển bền vững sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Để làm được điều đó thì các doanh nghiệp du lịch phải là những người đi đầu, phải có nhận thức và hiểu biết đúng đắn về WTO, về cơ hội và thách thức cho du lịch Việt Nam khi hội nhập nói chung và cho doanh nghiệp của mình nói riêng. Với tư cách là một sinh viên của khoa QTKD Du Lịch và Khách Sạn, em cũng cần phải có những hiểu biết cơ bản về WTO, về những ảnh hưởng của việc gia nhập tổ chức này đối với nền kinh tế nước nhà nói chung và đối với ngành du lịch nói riêng. Việc lựa chọn đề tài: “Chiến lược của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam thời kì hậu WTO” để nghiên cứu không nằm ngoài mục đích là tìm hiểu những tác động đến ngành du lịch, nâng cao hiểu biết về nền kinh tế thế giới, nền kinh tế nước nhà và hiểu biết hơn về ngành mà mình đã lựa chọn. Nội dung I.Các cam kết dịch vụ du lịch lữ hành, khách sạn của Việt Nam khi gia nhập WTO 1. Các cam kết dịch vụ của Việt Nam và biểu cam kết ngành dịch vụ du lịch, lữ hành, khách sạn khi Việt Nam gia nhập WTO. Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đồng nghĩa với việc chúng ta phải thực hiện các cam kết của lộ trình mở cửa nền kinh tế. Trong hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ BTA, ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ, khoảng 5 phân ngành. Trong thoả thuận WTO, ta cam kết đủ11 ngành dịch vụ, khoảng110 phân ngành. Với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch…ta giữ được các cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng khoán, để sớm kết thúc đàm phán ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát triển đã được phê duyệt cho các ngành này. 1.1. Các cam kết về dịch vụ của Việt Nam khi gia nhập WTO. Nội dung cam kết của một số lĩnh vực chủ chốt như sau: a. Cam kết chung cho các ngành dịch vụ: Trước hết, công ty nước ngoài không được phép hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ khi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể mà những ngành như thế không nhiều. Tiếp theo, công ty nước ngoài được phép đưa cán bộ quản lý vào Việt Nam làm việc nhưng ít nhất phải có 20% các bộ quản lý là người Việt Nam. Cuối cùng, ta cho phép cá nhân và các tổ chức nước ngoài được phép mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam nhưng với một tỷ lệ phù hợp với mức mở cửa thị trường của ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép công ty nước ngoài được mua tối đa 30% cổ phần b. Dịch vụ hỗ trợ và khai thác dầu khí: Ta cho phép công ty nước ngoài thành lập với 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên ta vẫn giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ định các công ty thăm dò và khai thác tài ngyên. Ta cũng giữ nguyên được một danh mục các dịch vụ dành riêng cho các doanh nghiệp Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ…Tất cả các công ty vào Việt Nam cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí đều phải khai báo với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. c. Dịch vụ viễn thông: Chúng ta cho phép thành lập các doanh nghiệp với đa số vốn nước ngoài để cung cấp các dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng( phải thuê mạng do doanh nghiệp Việt Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng( chỉ các doanh nghiệp Nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, các doanh nghiệp nước ngoài chỉ được phép góp vốn đến 49% và cũng chỉ được hợp tác với các doanh nghiệp đã được cấp phép). d. Dịch vụ phân phối: Thời điểm cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài là từ ngày 1/1/2009. Ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, đường, gạo và các kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều mặt hàng nhạy cảm như sắt thép, phân bón, xi măng…ta chỉ cam kết mở cửa thị trường sau 3 năm. Quan trọng nhất, ta hạn chế khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, nếu muốn mở thêm điểm bán lẻ thứ hai phải được sự cho phép của ta theo từng trường hợp cu thể. e. Dịch vụ bảo hiểm: Mức độ cam kết ngang BTA. Tuy nhiên, ta cho phép Mỹ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày gia nhập. f. Dịch vụ ngân hàng: Ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài muốn thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không được mở chi nhánh phụ mà vẫn phảI chiu hạn chế về huy động tiên gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về việc mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam không quá 30%. Đây là hạn chế có ý nghĩa đặc biệt đối với ngành ngân hàng g. Dịch vụ chứng khoán: Ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO. h. Các cam kết khác: Với các ngành con lại như giáo dục, pháp lý, kế toán, xây dựng, vận tải…mức độ cam kết không khác so với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn, xuất bản. 1.2. Biểu cam kết dịch vụ du lịch, lữ hành, khách sạn khi Việt Nam gia nhập WTO.    Ngành và phân ngành Hạn chế tiếp cận thị trường Hạn chế đối xử quốc gia Cam kết bổ sung Cam kết cụ thể từng ngành Dịch vụ du lịch và dịch vụ liên quan A. Khách sạn và nhà hàng(CPC 641-643) (1)a không hạn chế (1) không hạn chế B. Dịch vụ đại lý lữ hành và điều hành tour CPC 7471 (1) không hạn chế (2) không hạn chế (3) không hạn chế, ngoại trừ các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ dưới hình thức liên doanh với đối tác Việt Nam mà không bị hạn chế phần góp vốn phía nước ngoài (4) chưa cam kết, trừ các cam kêt chung (1) không hạn chế (2) không hạn chế (3) không hạn chế, trừ hướng dẫn viên trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là công dân Việt Nam. Được phép đưa khách vào Việt Nam (inbound)… (4) chưa cam kết, trừ cam kết chung. C. Dịch vụ hướng dẫn viên du lịch Dịch vụ khác Phưong thức cung cấp: (1) cung cấp qua biên giới, (2) tiêu dùng ở nước ngoài, (3) phương thức hiện diện thương mại, (4) phương thức thể nhân. Những cam kết dịch vụ du lịch: Dịch vụ du lịch theo định nghĩa của WTO bao gồm: Dịch vụ khách sạn và nhà hàng (CPC 641-643) Dịch vụ lữ hành và điều hành tour du lịch (CPC 7471) Dịch vụ hướng dẫn viên du lịch (CPC 7472) Dịch vụ khác. Nội dung cam kết: - Diện cam kết: Việt Nam chỉ cam kết dịch vụ khách sạn và nhà hàng, dịch vụ đại lý lữ hành và điều hành tour du lịch, dịch vụ cung cấp thức ăn và đồ uống. Không cam kết dịch vụ hướng dẫn viên du lịch. - Đối với dịch vụ đại lý lữ hành và điều hành tour du lịch: + Mở cửa thị trường: Việt Nam chỉ cho phép các doanh nghiệp nước ngoài thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam, không hạn chế số vốn nước ngoài trong liên doanh. + Đối xử quốc gia: không hạn chế, ngoại trừ: Hướng dẫn viên du lịch trong doanh nghiệp nước ngoài phải là người Việt Nam ( không cho phép hướng dẫn viên du lịch là người nước ngoài hành nghề tại Việt Nam- cơ hội cho việc phát triển kinh doanh khách du lịch Inboud. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có vốn đậu tư nước ngoài chỉ được phép cung cấp dịch vụ Inbound và du lịch nội địa đối với khách du lịch vào Việt Nam như là một phần của dịch vụ đưa khách du lịch vào du lịch Việt Nam. Các doanh nghiệp sở hữu nước ngoài cũng không được phép thực hiện các dịch vụ gửi khách trong nước. Công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý phải là người Việt Nam. Điều này sẽ tạo ra một cơ hội cho các cán bộ quản lý là người Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý chuyên nghiệp từ cán bộ quản lý là người nước ngoài. Nhưng đó cũng là một nguy cơ đối với nguồn nhân lực cho ngành du lịch Việt Nam, vì 20% cán bộ quản lý trong công ty là người VN đều là những người giỏi, những nhân tài sẽ bị thu hút vào các doanh nghiệp sở hữu nước ngoài gây ra hiện tượng chảy máu chất xám tại chỗ. Về phương thức cung cấp dịch vụ: có 4 phương thức: Phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới: dịch vụ được cung cắp từ lãnh thổ của một thành viên này sang lãnh thổ của một thành viên khác mà không có sự di chuyển của cả người cung cấp và người tiêu dùng dịch vụ sang lãnh thổ của nhau (1). Phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ: người tiêu dùng của một thành viên này sang lãnh thổ của một thành viên khác để tiêu dùng dịch vụ (2). Phương thức hiện diện thương mại: có nghĩa là nhà cung cấp dịch vụ của một thành viên này thiết lập các hình thức hiện diện như thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, chi nhánh tại lãnh thổ của một thành viên khác để cung cấp dịch vụ (3). Phương thức hiện diện thể nhân: có nghĩa là thể nhân cung cấp dịch vụ của một thành viên này sang lãnh thổ của một thành viên khác để cung cấp dịch vụ (4). Như vậy, trong các cam kết của mình với WTO, Việt Nam cam kết không hạn chế đối với phương thức (1) và (2). Đối với phương thức (3) VN cũng cam kết xoá bỏ hạn chế vốn sở hưũ nước ngoài đối với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào VN dưới hình thức liên doanh liên kết trong hoạt động đại lý du lịch, kinh doanh lữ hành du lịch. 2. Tác động chung của viêc gia nhập WTO đối với nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng. 2.1.Tác động chung của viêc gia nhập WTO đối với nền kinh tế. Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO từ ngày 7/1/2006 đã khẳng định quá trình đổi mới, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đưa nền kinh tế tăng tốc. Việc chúng ta vào WTO sẽ mang lại những cơ hôi lớn nhưng cũng đem lại nhiều thách thức lớn cho nền kinh tế nước ta. Những cơ hội cho nền kinh tế VN khi chúng ta gia nhập WTO: a. Mở rộng thị trường và tăng xuất khẩu: Khi gia nhập WTO, theo nguyên tắc tối huệ quốc, nước ta sẽ được tiếp cận mức độ tự do hoá mà không phải đàm phán hiệp định thương mại song phương với từng nước. Hàng hoá của nước ta vì vậy sẽ có cơ hội lớn hơn và bình đẳng hơn trong việc xâm nhập và mở cửa thị trường quốc tế. Do điều kiện tự nhiên và chi phí lao động rẻ, VN có lợi thế trong một số ngành, đặc biệt là trong ngành nông nghiệp và dệt may. Đây là hai ngành được WTO rất quan tâm và đã đề ra rất nhiều biện pháp để xoá bỏ dần các rào cản thương mại. Chẳng hạn, theo Hiệp định dệt may của WTO (ATC), mọi hạn chế định lượng đối với hàng dệt may được xoá bỏ từ ngày 1/1/2005. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ mối quan hệ thương mại đối với các nước thành viên WTO. Đối với thương mại hàng nông sản, các thành viên WTO cũng đã và đang đưa ra các cam kết về cắt giảm trợ cấp, giảm thuế và loại bỏ hàng rào phi thuế quan, từ đó mang lại cơ hội lớn cho các nước xuất khẩu nông sản như VN. b. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Gia nhập WTO sẽ giúp ta có một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn, có sức hấp dẫn hơn đối với viếc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Gia nhập WTO khiến quyết tâm cải cách của nước ta mạnh mẽ hơn, tạo niềm tin cho các doanh nghiệp nước ngoài khi bỏ vốn làm ăn tại VN. Cơ hội tiếp cận thị trường của các thành viên WTO một cách bình đẳng và minh bạch theo hướng đúng chuẩn mực của WTO cũng là yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. c. Nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, mở cửa thị trường dịch vụ sẽ khiến cho môi trường kinh doanh ở nước ta trở nên cạnh tranh hơn. Trước sức ép cạnh tranh, các doanh nghiệp trong nước kể cả các doanh nghiệp nhà nươc sẽ phải tự vươn lên để tự hoàn thiện mình, nâng cao hiệu quả và tính cạnh tranh cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, giảm thuế và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan sẽ giúp các doanh nghiệp tiếp cận thị trường các yếu tố đầu vào với chi phí hợp lý hơn, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh không những ở thị trường trong nước mà cả ở thị trường quóic tế. d. .Sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO Môi trường thương mại quốc tế sau này với nhiều nỗ lực của WTO đã trở lên thông thoáng hơn. Tuy nhiên, khi tiến ra thị trường quốc tế, các doang nghiệp nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều rào cảm thương mại, trong đó có cả những rào cảm trá hình núp dưới bóng các công cụ của WTO như chống trợ cấp, chống bán phá giá…tranh thủ thương mại là điều khó khăn mà phân thua thiệt thường rơi về phía nước ta bởi nước ta là nước nhỏ. Gia nhập WTO sẽ giúp ta sử dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức này, qua đó có thêm công cụ để đấu tranh với các nước lớn, đảm bảo sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Thực tế cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO hoạt động khá hiệu quả và nhiều nước đang phát triển đã thu được lợi ích từ việc sử dụng cơ chế này. Những thách thức của viêc gia nhập WTO: Bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cũng tạo ra một số thách thức lớn đối với nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đó là: a. Sức ép cạnh tranh: Giảm thuế, cắt giảm hàng rào phi thuế quan, loại bỏ trợ cấp, mở cửa thị trường dịch vụ…sẽ khiến cho môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Đây sẽ là thách thức không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp sẽ không có cách nào khác là chủ động và sẵn sàng đối mặt với thử thách này bởi nó là hệ quả tất yếu của sự phát triển, là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới hiệu quả và phồn vinh. Dù không gia nhập WTO thì thách thức này sớm muộn sẽ tới. Riêng đối với khu vực nông nghiệp, việc gia nhập có thể đem lai nhiều khó khăn hơn bởi chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp khó có thể diễn ra trong một sớm một chiều. Chính phủ luôn lưu tâm đến yếu tố này trong đàm phán gia nhập WTO và hy vọng kết quả đàm phán cuối cùng sẽ là một kết quả có thể chấp nhận được đối với ngành nông nghiệp. b. Thách thức của chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Một trong những hậu quả tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí lại nhân lực. Dưới sức ép của cạnh tranh, một ngành sản xuất không hiệu quả sẽ mất đi và nhường chỗ cho một ngành khác hiệu quả hơn. Quá trình tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Đây là thách thức hết sức to lớn, chúng ta chỉ có thể vượt qua được thách thức này nếu có một chính sách đúng đắn nhằm tăng cường hơn nữa tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, cũng cần củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khôi phục những khó khăn ngắn hạn. d. Thách thức của việc hoàn thiên thể chế và cải cách nền hành chính quốc gia. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến kinh tế- thương mại, Việt Nam vẫn còn nhiều việc phải làm khi gia nhập WTO. Trước hết, phải liên tục hoan thiện các quy định về cạnh tranh để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập. Sau đó, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh, yếu tố quyết định sự thành bại của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và bố trí lại nguồn nhân lực. Cuối cùng, những cam kết mở cửa thị trường là cam kết theo lộ trình nên tiến trình hoàn thiện khuôn khổ pháp lý sẽ còn tiếp tục diễn ra trong một thời gian dài. Một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hoá. Đây là một thách thức đối với mọi nền hành chính quốc gia. Khi gia nhập WTO, nền hành chính quốc gia chắc chắn phải thay đổi theo hướng công khai hơn và minh bạch hơn. Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và doanh nhân, coi trọng doanh nghiệp và doanh nhân hơn nữa, khắc phục sức ỳ của tư duy và khắc phục mọi biểu hiện trì trệ, vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy sẽ không tận dụng được những cơ hội của việc gia nhập WTO đem lại. e. Thách thức về nguồn nhân lực: Để quản lý nhất quán toàn bộ tiến trình hội nhập, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo dựng môi trường cạnh tranh năng động và cải cách có hiệu quả nền hành chính quốc gia, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ đủ mạnh xuyên suốt từ TƯ đến địa phương. Đây cũng là một thử thách lớn đối với nước ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về điều hành một nền kinh tế mở có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị từ bây giờ, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Ngoài ra, để tận dụng được cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO và tham gia có hiệu quả vào các cuộc đàm phán trong tương lai của tổ chức này, chúng ta cần một đội ngũ cán bộ thông thạo quy định luật lệ của WTO, có kinh nghiệm và kỹ năng đàm phán quốc tế. Thông qua đàm phán gia nhập, ta đã từng bước xây dựng được đội ngũ này nhưng còn quá ít so với nhu cầu thực tiễn của đất nước. Từ những cơ hội và thách thức đó, hiện nay chúng ta đang chuẩn bị các điều kiện để thực hiện các nghĩa vụ của một thành viên, thời gian qua Quốc hội và các cơ quan Chính phủ đã tiến hành khẩn trương việc xây dựng pháp luật cho phù hợp với thời kì mới của đất nước. Quá trình rà soát văn bản pháp luật đã tiến hành ở Trung ương. Bộ tư pháp đang tiếp tục hướng dẫn các tỉnh rà soát lại các văn bản quy phạm pháp luật của địa phương, có đối chiếu với quy định của WTO và cam kết của nước ta. Các địa phương cũng đang khẩn trương, nghiêm túc tiến hành rà soát, điều chỉnh các quy định, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại đầu tư để đảm bảo tính thống nhất với các văn bản của Nhà nước và các cam kết quốc tế. Đồng thời, chúng ta cũng đang đẩy mạnh triển khai các chương trình hành động thực hiện các hiệp định của WTO như Hiệp định về thủ tục cấp phép nhập khẩu, Hiệp định về các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại, Hiệp định về kiểm dịch và vệ sinh an toàn thực phẩm… Để nắm bắt cơ hội tiếp cận thị trường quốc tế, chúng ta đã tập trung đầu tư phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh để hướng vào xuất khẩu như nâng cao chất lượng và giá trị chế biến của các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản, đầu tư công nghệ và quản lý để nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng các mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dệt may, da giày…khuyến khích các ngành hàng có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, có tiềm năng phát triển như điện tử, tin học… Đồng thời, tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tìm hiểu thị trường, hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập thị trường quốc tế. Ngoài ra, nên tiếp tục củng cố hệ thống cơ quan đại diện thương mại ở nước ngoài và gắn kết hoạt động của các cơ quan này với các doanh nghiệp, hoàn thiện hành lang pháp lý và tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng để giúp các doanh nghiệp làm quen và ứng dụng rộng rãi thương mại điện tử. Nhằm nâng cao năng lực đối phó với thách thức, nước ta đang tập trung xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường nội địa. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế để đối phó với tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Kiện toàn, củng cố hệ thống tiêu chuẩn về kỹ thuật, vệ sinh kiểm dịch cũng như hỗ trợ doanh nghiệp các thông tin và kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế hầu hết các nước gia nhập WTO đều có nền kinh tế phát triển nhanh. Sớm gia nhập WTO, toàn Đảng toàn dân và toàn quân ta quyết tâm phấn đấu, chủ động tạo bước chuyển mới về phát triển kinh tế. Nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức rất lớn, phát huy cao độ nội lực, khai thác tối đa các nguồn lực bên ngoài để tạo thế lực mới cho công cuộc phát triển kinh tế, xã hội, nhất định Việt Nam sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2010 và trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. 2.2. Những tác động của việc gia nhập WTO tới ngành du lịch: Là một quốc gia có tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú, du lịch Việt Nam đã được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Cùng với sự phát triển chung của đất nước, du lịch Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng, đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhất là sau sự kiện APEC toàn ngành đã thu được nhiều kết quả vượt trội so với những năm trước. Khi là thành viên chính thức của tổ chức WTO thì ngành du lịch cũng phải đối mặt với những khó khăn và thách thức cùng với những cơ hội đang mở ra trước mắt cho nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói riêng.Các cơ hội và thách thức này tác động đan xen và chuyển hoá lẫn nhau khó có thể lường trước được. Cơ hội rất lớn đang mở ra cho du lịch Việt Nam cụ thể là: Thứ nhất, tăng khả năng mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ với các đối tác một cách bình đẳng, không bị phân biệt đối xử khi xuất hiện trên thị trường trong và ngoài WTO. Thứ hai, sẽ tạo niềm tin và sức hút mới đối với các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch, nhất là các nhà đầu tư chiến lược, các công ty xuyên quốc gia hàng đầu thế giới có tiềm lực tài chính lớn, tăng vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp và ODA. Hai cơ hội này sẽ tạo ra sự đột biến về cung cầu du lịch. Thứ ba, việc thực hiện đầy đủ các cam kết của một thành viên của WTO theo quy định sẽ thúc đẩy công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ ở trong nước, khơi dậy tiềm năng to lớn và sức sáng tạo của toàn xã hội cho sự nghiệp phát triển du lịch nhanh và bền vững. Thứ tư, nước ta sẽ có địa vị bình đẳng với các thành viên khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, buôn bán thương mại sẽ tăng lên kéo theo dòng khách di lịch, dòng vốn, vật tư, kinh nghiệm, thông tin, công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với ngành du lịch. Thứ năm, việc gia nhập WTO tạo cho các doanh nghiệp có thêm điều kiện tiếp thu công nghệ, kinh nghiệm và cách làm du lịch để mở rộng mô và nâng cao hiệu quả kinh doanh, người dân có thêm điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất và tinh thần. Hình ảnh đất nước con người Việt Nam được quảng bá rộng rãi hơn, tăng sức thu hút khách du lịch. Tuy vậy, Du lịch Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn, nổi bật: Thứ nhất, sức ép cạnh tranh du lịch sẽ trở nên gay gắt hơn trên cả ba cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Thứ hai, do sự phát triển không đồng đều giữa các lĩnh vực hoạt động của ngành, giữa các vùng, miền trong nước, cả trong quản lý nhà nước và kinh doanh nên khi mở cửa, hội nhập toàn diện sẽ phải chịu sự tác động từ bên ngoài vào, không khỏi bỡ ngỡ, lúng túng, phản ứng và chống đỡ không tốt có thể dẫn đến những yếu tố bất ổn và đổ vỡ. Thứ ba, sự biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động mạnh, nhanh và toàn diện hơn đến thị trường trong nước, nếu không xử lý tốt cả tầm vĩ mô và vi mô có thể xảy ra những rối loạn thị trường, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển du lịch bền vững. Thứ tư, nguồn nhân lực du lịch vốn còn bất cập và yếu kém sẽ không theo kịp yêu cầu hội nhập, sẽ chảy máu chất xám, doanh nghiệp du lịch Việt Nam sẽ mất nhiều người giỏi. Thứ năm, những thách thức mới xuất hiện ở mức cao, đa chiều và tinh vi hơn như diễn biến hoà bình thông qua con đường du lịch, khó khăn trong bảo đảm an ninh quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái cho phát triển du lịch bền vững… Cơ hội và thách thức nêu trên là rất lớn khi chúng ta gia nhập WTO. Nhưng cần nhìn nhận cơ hội và thách thức trong trạng thái động. Có cơ hội mà không biết tận dụng thì cơ hội sẽ qua đi hay chuyển thành thách thức, thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động trực đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vượt qua của toàn ngành. Nếu có sự chuẩn bị tích cực, biện pháp ứng đối phù hợp và hiệu quả để vượt lên thì không những sẽ vượt qua được thách thức mà còn biến thách thức thành động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững. II. Cơ hội và thách thức khi hội nhập WTO đối với các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam. Việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới sẽ có tác động rất lớn đối với ngành du lịch nói chung và đối với các doanh nghiệp lữ hành nói riêng. Gia nhập WTO sẽ đem lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp lữ hành nhưng cũng mang theo những thách thức không nhỏ khi chúng ta tham gia một sân chơi chung WTO. Được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, ngành du lịch Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng cả về lượng và chất, thu hẹp dần khoảng cách về phát triển du lịch với các nước trong khu vực. Theo số liệu thống kê năm 1990 và đặc biệt là từ năm 2001 cho thấy ngành du lịch Việt Nam có những bước phát triển liên tục, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng nhanh( bảng 1). Nếu như năm 1990 lượng khách quốc tế đến Việt Nam mới bằng 14.5% lượng khách đến Thái Lan, bằng 12.5% lượng khách đến Malaysia…và bằng 1.86% lượng khách quốc tế đến khu vực Đông Nam á. Đến thời điểm năm 2000 và năm 2005 những con số tương ứng là: 22.5% và 27.7% so với Thái Lan, 19.8% và 20.9% so với Malaysia… và 5.4% và 6.9% so với khu vực Đông Nam á. Năm 2006 lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt 3.6 triệu tăng khoảng 3% so với năm 2005. Bảng 1: Một số chỉ tiêu phát triển ngành giai đoạn 2001-2005. Chỉ tiêu đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 Tăng trưởng trung bình (% năm) Khách quốc tế Nghìn 2.3300 2.6280 2.4287 2.9280 3.4700 9.1 Khách nội địa Nghìn 11.700 13.000 13.500 14.500 16.100 8.1 Thu nhập du lịch Tỷ USD 1.63 1.97 1.90 2.17 2.52 11.9 Phòng khách sạn Nghìn 74.5 78.8 82.0 85.4 112.0 11.2 Sự gia tăng của khách du lịch kéo theo sự gia tăng của số lượng lao động phục vụ trong ngành du lịch. Năm 1996 nếu chỉ tính riêng lao động trực tiếp phục vụ trong các doanh nghiệp du lịch đã có trên 65000, năm 2000 tăng lên 80000 và năm 2004 đạt khoảng 110000. Tỷ lệ lao động bình quân trên 1 phòng khách sạn là 1.5 người. Tuy nhiên số lượng lao động này chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển chung của ngành. Ngoài số lao động trực tiếp, hoạt động du lịch còn tạo khoảng 500000 lao động cho xã hội( năm 2005). Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh mức sống của người dân nước ta còn thấp, tỷ lệ đói nghèo còn cao. Vì vậy phát triển du lịch sẽ tạo cơ hội cho cộng đồng có thêm công ăn việc làm và cải thiện mức sống. Thực tế phát triển du lịch ở nhiều điểm du lịch như Sa Pa( Lào Cai), Ba Bể( Bắc Cạn), Cửa Lò(Nghệ An), Hội An( Quảng Nam), Gò Tháp(Đồng Tháp)…cho thấy ý nghĩa của việc phát triển du lịch đứng ở góc độ này. Thực trạng phát triển du lịch Việt Nam được phản ánh rõ nét qua chỉ số cạnh tranh phản ứng năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam. Năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam có thể hiểu là khả năng duy trì và cải thiện vị trí thị trường và thị phần của nó so với các đối thủ trong qua trình phát triển. Kết quả nghiên cứu và đánh giá về năng lực cạnh tranh du lịch của các nước trong khu vực năm 2004 do Hội đồng Du lịch và Lữ hành Thế giới(WTTC) thực hiện. Bảng 2: Chỉ số năng lực cạnh tranh du lịch 2004 của một số quốc gia khu vực Đông Nam á. Quốc gia Giá Du lịch nhân văn Cơ sở hạ tầng Môi trường(mật độ người) Công nghệ Nguồn nhân lực Mở cửa Xã hội Singapore 23.07 77.45 92.27 1.72 99.98 71.60 79.65 70.03 Malaysia 74.86 82.80 ------ 62.85 96.22 50.70 72.210 54.43 Thái lan 83.12 62.90 49.93 44.06 72.45 57.80 71.40 47.93 Indonesia 65.46 ------ 39.22 46.72 44.38 44.36 41.83 38.43 Philippines 67.13 13.81 49.08 61.11 82.86 65.76 35.03 43.89 Việt nam 84.75 ------ 36.92 45.56 17.38 48.51 46.90 35.76 Lào 57.51 ------ 48.46 20.57 4.51 ------ ------ ------ Canpuchia 84.91 ------ 8.52 36.91 5.16 2.69 31.01 31.39 Kết quả đánh giá cho thấy năng lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam so với các nước trong khu vực còn thấp. Trong 8 quốc gia được xem xét, Việt Nam chỉ có lợi thế cạnh tranh về giá. Kết quả đánh giá cho thấy về tổng thể khả năng cạnh tranh của Du lịch Việt Nam so với các nước trong khu vực còn hạn chế bởi hiện tại còn tồn tại nhiều vấn đề đặt ra cho ngành du lịch Việt nam. Hệ thống chính sách nhằm phát triển du lịch với tư cách là ngành kinh tế mũi nhọn chưa đồng bộ trên phạm vi toàn quốc. Chưa có sự phối hợp giữa du lịch với các ngành khác như: giao thông vận tải, văn hoá, tài nguyên… Chưa xây dựng được những sản phẩm du lịch mang bản sắc riêng của Việt Nam có sức cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế để thu hút khách từ những thị trường trọng điểm có khả năng chi trả cao do việc quy hoạch, đầu tư và quản lý phát triển hệ thống các khu du lịch còn nhiều bất cập. Tại những khu du lịch có nhiều lợi thế với việc được thế giới công nhận là di sản văn hoá thế giới như : Vịnh Hạ Long, vườn quốc gia Phong Nha- Kẻ Bàng, phố cổ Hội An, Lăng tẩm Huế…song đã và đang tồn tại nhiều bất cập trong hoạt động quy hoạch và quản lý hoạt động quy hoạch phát triển du lịch, đầu tư phát triển sản phẩm du lịch. Vì vậy những sản phẩm du lịch thực sự có khả năng thu hút, hấp dẫn và có sức cạnh tranh thực sự vẫn chưa có. Hoạt động xúc tiến quảng bá, xây dựng hình ảnh Việt Nam như một điểm đến an toàn, hấp dẫn của khu vực còn nhiều hạn chế. Năng lực của đội ngũ lao động tham gia hoạt đông du lịch còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và trình độ. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm du lịch, đến qua trình hội nhập của du lịch Việt Nam. Cơ sở hạ tầng du lịch còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, môi trường du lịch trên phạm vi cả nước đặc biệt ở những địa bàn trọng điểm phát triển du lịch như Vịnh Hạ Long, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu… đang suy thoái nghiêm trọng do tá._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docH0117.doc
Tài liệu liên quan