Mở đầu
Ngành Dệt - May có vai trò quan trọng trong nền KTQD. Ngành Dệt - May luôn gắn liền với nhu cầu không thể thiếu được của mỗi con người vì nó cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động đồng thời mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu và đóng góp một phần thu cho ngân sách Nhà nước. Từ rất lâu trên thế giới ngành công nghiệp này đã hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của công nghiệp tư bản. Ngành công nghiệp Dệt - May Vi
30 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Chiến lược chất lượng hàng Dệt may Xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam hiện có tiềm lực phát triển khá mạnh và được coi là một trong những trọng điểm phát triển công nghiệp của đất nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành Dệt - may chiếm bình quân trên 9% toàn ngành công nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu chiếm 13 - 14% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt 1,73 tỷ USD, năm 2000 đạt 1,89 tỷ USD, năm 2001 đạt 1,96 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,75 tỷ USD và năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD. Tuy nhiên trong cơ cấu hàng Dệt - May xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu hàng may luôn giữ vị trí áp đảo. Hơn nữa, hiện nay xuất khẩu may được thực hiện chủ yếu bằng phương thức gia công - CM hoặc CMT - (chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt - May). Nguyên phụ liệu của các doanh nghiệp trong nước cung cấp cho may xuất khẩu rất hạn hẹp. Vì vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả và tính chủ động của các doanh nghiệp may - xuất khẩu. Vì vậy "Chiến lược chất lượng hàng Dệt may xuất khẩu" được em chọn làm đề tài cho đề án môn học.
I. Vị trí vai trò của chiến lược chất lượng đối với xuất khẩu hàng Dệt - May Việt Nam
1. Chất lượng - Chiến lược chất lượng và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hàng dệt may
Khái niệm chất lượng sản phẩm đã được sử dụng từ rất lâu và ngày nay lại rất thông dụng trên sách báo và tạp chí. Tuy nhiên chất lượng sản phẩm là một phần rất rộng và phức tạp, phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế, xã hội. Sản phẩm hàng hoá được gọi là có chất lượng không có giới hạn rõ ràng. Chất lượng là khái niệm tương đối nó phụ thuộc vào thuộc tính của bản thânhh và yêu cầu về mức độ đáp ứng của người tiêu dùng sản phẩm hàng hoá đó. Như vậy để hiểu như thế nào là chất lượng sản phẩm không phải là vấn đề đơn giản. Tuỳ vào góc độ khác nhau mà ta có thể đưa ra các khái niệm về chất lượng xuất phát từ người sản xuất, người tiêu dùng, từ sản phẩm hay đòi hỏi của thị trường.
Quan niệm xuất phát từ sản phẩm cho rằng: Chất lượng là tập hợp những tính chất của sản phẩm chế định tính thích hợp của sản phẩm để thoả mãn những nhu cầu xác định phù hợp với công dụng của nó. Quan niệm này đã đồng nhất chất lượng sản phẩm và số lượng các thuộc tính hữu ích của sản phẩm. Trên thị trường có nhiều sản phẩm có nhiều thuộc tính hữu ích song vẫn không được người tiêu dùng đánh giá cao. Ví dụ: các sản phẩm may mặc bị lỗi mốt, mặc dù chúng vẫn đảm bảo được các thuộc tính vốn có của hàng may mặc nhưng thị trường vẫn không chấp nhận.
Quan niệm của nhà sản xuất: Chất lượng là sự hoàn hảo, phù hợp của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, quy cách xác định trước. Theo quan niệm ngày này thì chất lượng chỉ phản ánh việc đạt được các chỉ tiêu chất lượng đề ra.
Quan niệm chất lượng theo hướng thị trường.
+ Chất lượng xuất phát từ người tiêu dùng: Chất lượng là sự phù hợp của sản phẩm với mục đích sử dụng của người tiêu dùng.
+ Chất lượng xuất phát từ mặt giá trị: Chất lượng được hiểu là đại lượng được đo bằng tỷ số giữa lợi ích thu được từ người tiêu dùng với chi phí bỏ ra để thu được lợi ích ấy.
+ Chất lượng xuất phát từ tính cạnh tranh của sản phẩm thì chất lượng cugn cấp các thuộc tính mang lại lợi thí cạnh tranh nhằm phân biệt nó với sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Quan niệm chất lượng theo tổ chức tiêu chuẩn hoá Quốc tế: chất lượng là tập hợp tất cả các tính chất và đặc trưng của một sản phẩm có khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu ra hay tiềm ẩn. Quan niệm này được chấp nhận rộng rãi trong hoạt động kinh doanh quốc tế ngày nay vì nó thể hiện được sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại khách quan của khách hàng. Tuy nhiên quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển và bổ sung hơn nữa. Tuy nhiên quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển và bổ sung hơn nữa. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhưng không thể theo đuổi chất lượng cao với bất kỳ giá nào mà luôn có giới hạn về kinh tế, xã hội và công nghệ.
Các quan niệm trên tuy khác nhau nhưng tựu chung lại ta thấy khi nói đến chất lượng cần chú ý các đặc điểm sau:
+ Chất lượng sản phẩm phải được xem xét thông qua các chỉ tiêu đặc trưng.
+ Chất lượng sản phẩm phải phù hợp với công dụng, mục đích chế tạo, nhu cầu của thị trường.
+ Chất lượng sản phẩm mang tính dân tộc thể hiện ở truyền thống tiêu dùng, thị hiếu người của người dân.
Bằng các quan niệm trên chúng ta đã hiểu thêm phần nào về chất lượng thì còn chiến lược chất lượng sản phẩm. Trên quan điểm kinh doanh có thể nếu chiến lước chất lượng là tổng hợp những định hướng, kế hoạch, biện pháp lớn nhằm phát triển sản xuất, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm trên cơ sở cải tiến toàn bộ hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm.
Nói chung mục tiêu của chiến lược chất lượng là cải tiến hệ thống các chỉ tiêu chất lượng là định lượng của các thuộc tính cấu thành lên chất lượng sản phẩm. Những thuộc tính này được xem xét, đánh giá trong những điều kiện nhất định của quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Khi đề cấp đến chỉ tiểu chất lượng của hàng Dệt - May, người ta thường dùng các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu công dụng: Sản phẩm Dệt - May phải phù hợp công dụng, chức năng của nó và phải có được bền đẹp thích hợp.
+ Chỉ tiêu an toàn: sản phẩm Dệt - May an toàn, không gây độc hại cho người sử dụng, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng trong những điều kiện nhất định.
+ Chỉ tiêu thẩm mỹ: Sản phẩm Dệt - May phải có kiểu mốt, kết cấu, kích cỡ, màu sắc, trang trí phù hợp với yêu cầu sử dụng và các đặc trưng nhân trắc của cơ thể. Các đặc điểm tâm sinh lý của người tiêu dùng.
+ Chỉ tiêu công nghệ: Sản phẩm Dệt - May phải có kết cấu phù hợp với đặc điểm công nghệ của doanh nghiệp sao cho sản phẩm được sản xuất có chất lượng cao tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành …
+ Chỉ tiêu kinh tế: Thể hiện tổng hợp ở các vấn đề là chi phí sản xuất thấp, bảo đảm giá thành cạnh tranh, phù hợp với khả năng mua sắm của người tiêu dùng hợp lý hoá về chi phí lưu thông, sử dụng, bảo quản sản phẩm.
Riêng đối với sản phẩm may mặc được gọi là đạt yêu cầu thì cần đảm bảo trước tiên là đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định cho sản phẩm may như:
+ Quy định về mật độ mũi kim:
Máy băng: 8,5 á 9,5 mũi/2cm
Máy xén: 8,5 á 9 mũi/2cm
Máy xén mờ: 7,5 á 8 mũi/2cm
Máy trần, viền: 8 á 8,5 mũi/2cm.
+ Quy định độ rộng của đường may:
Máy xén mờ: 3 á 4 mm
Máy xén một kim: 4 á 5 mm
Máy xén hai kim: 5 á 6 mm
Máy trần hai kim: 4,8 mm
+ Dung sai kích thước sản phẩm:
Dung sai kích thước sản phẩm được quy định trong các phiếu công nghệ.
Dung sai kích thước mảnh can:
Bề rộng mảnh can Ê 20cm: dung sai ± 0,5cm
Bề rộng mảnh can > 20cm: dung sai ±1cm
+ Qui định kỹ thuật may:
* Đối với áo:
Cổ áo: Bề mặt êm, không được phép có các lỗi thường vặn, rúm, xì chân cổ, ve cổ quá lệch, bọc cổ lè, hớ cổ, chồng cổ.
Nẹp áo: Không được phép có các lỗi bùng, trên dưới to nhỏ, cạnh nẹp cong, góc nẹp dúm hở, ép mex bị rộp, bong, chân nẹp xiên cong.
Túi áo: Đúng hình dáng, vị trí ép mex đường túi không bị rộp bong. Túi ốp đáy cân, mí đều, chặn miệng túi đều, phẳng.
Tay áo: May vào thân phải tra đều, êm, không gãy khúc, không bai, xoắn, măng xéc êm phẳng.
Vai áo, sườn áo: ráp êm, không thừa không thiếu làm sai lệch kích thước sản phẩm, gấu áo không được vồng, võng, vặn.
* Đối với quần:
Bản cạp: may đều, lót cạp êm, không bùng vặn.
Các đường dọc quần, giàng quần, đũng quần êm phẳng, đúng hình dáng quần cân xứng. Hai ống quần cân xứng.
+ Quy định về là gấp:
Sản phẩm được là mặt trước, bề mặt phẳng, không bị bóng mặt vải
Sản phẩm phải sạch sẽ không bị ẩm.
Gấp sản phẩm đúng theo kích thước, sai lệch cho phép ± 0.5 cm
Túi OPP, PVA không bị nhàu, nát, rách
Lót lưng không nhàu, rách, yêu cầu trằng sạch.
2. Vai trò của chất lượng hàng Dệt may đối với xuất khẩu:
Trong điều kiện kinh tế mở như hiện nay, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tìm được thế mạnh cạnh tranh của mình. Vì thế nâng cao chất lượng có tầm quan trọng sống còn đối với các doanh nghiệp. Chất lượng là một trong các lợi thế cạnh tranh mạnh với hàng dệt may xuất khẩu khi mà thị trường thế giới đã được phân chia khá rõ ràng. Chất lượng sản phẩm trở thành một giải pháp quan trọng để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt may, tăng sản lượng xuất khẩu, tăng sự tín nhiệm của khách hàng nước ngoài. Mặt khác, doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao tạo điều kiện quan trọng cho tăng cường đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Nhờ chất lượng sản phẩm cao làm tăng danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp, giữ được khách hàng cũ, thu hút thêm khách hàng mới, mở rộng thị trường nước ngoài tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững và lâu dài của doanh nghiệp. Sản phẩm có chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng cho quyết định. Sản phẩm có chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng cho quyết định lựa chọn mua hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, chất lượng tạo ra sự hấp dẫn, thu hút người mua. Vì vậy, chất lượng có vai trò rất to lớn đối với xuất khẩu.
Hàng dệt may là một trong những mặt hàng thiết yếu của xã hội, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, nhu cầu của người tiêu dùng về hàng dệt may không ngừng được nâng cao, ngày càng trở lên đa dạng và phòng phú hơn. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng có quyền lựa chọn những sản phẩm dệt may phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng thanh toán của họ. Với điều kiện giá cả không còn là mối quan tâm duy nhất của khách hàng thì chât lượng là công cụ cạnh tranh hữu hiệu nhất của các nhà sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Chất lượng hàng dệt may là tiêu chuẩn tạo nên sức cạnh tranh của nó làm cho bản thân sản phẩm chiếm được sự mến mộ của khách hàng, nhất là khách hàng nước ngoài, những người có yêu cầu đòi hỏi rất khắt khe, tạo nên tài sản vô hình cho doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng hàng dệt - may đồng nghĩa với việc nâng cao các thuộc tính của sản phẩm, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm nhờ hoàn thiện quá trình, đổi mới, cải tiến các hoạt động, giảm sự lãng phí, phế phẩm hoặc tái chế. Kết quả của một chuỗi quá trình đó là: Giảm chi phí, tăng mức cạnh tranh của doanh nghiệp, thu hút khách hàng, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, tăng vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu. Có thể nói khả năng xuất khẩu hàng hoá phụ thuộc nhiều vào 2 yếu tố: Chất lượng và giảm chi phí. Mà chất lượng và giảm chi phí là hai nhân tố tạo nên khả năng cạnh tranh của hàng dệt may. Chất lượng và chi phí phải được tạo ra từ chất lượng trong quản lý và sử dụng các nguồn lực, hiệu quả của tài sản và quá trình. Khi tài sản và quá trình được quản lý một cách có hiệu quả thì sẽ đạt được chất lượng cao hơn và chi phí đơn vị thấp hơn mà vẫn thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội. Nhưng thành thật mà nói, giá thành sản phẩm dệt may của Việt Nam còn cao hơn Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, Sri LanKa, Bangladesh… Như vậy, làm gì để nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu? Thị trường hàng dệt may thế giới được chia ra làm 2 phần rõ rệt. Loại thứ nhất dùng để tiêu dùng cho đại chúng, tiêu thụ số lượng rất lớn nhưng giá lại rẻ. Loại này phù hợp với những người có thu nhập trung bình và thấp. Loại thứ hai là hàng hiệu tức là sản phẩm có nhãn hiệu tức là sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng mà bình và thấp. Loại thứ hai là hàng hiệu tức là sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng mà người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao. Nếu Việt Nam chỉ sản xuất hàng thông thường thì chắc chắn giá sẽ không cạnh tranh được với các nước nêu trên. Vậy con đường đi hợp lý cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là đi vào thị trường thứ 2. Có thể giá thành sản phẩm dệt may cảu chung ta còn cao nhưng nếu chúng ta có thương hiệu mạnh và chất lượng cao thì chúng ta vẫn cứ xuất khẩu được hàng. Đối với việc sử dụng nhãn hiệu, nếu sản phẩm dệt may của chúng ta sử dụng nhãn hiệu Việt Nam thì rất khó xuất khẩu sẽ có rất ít người mua mà nếu có mua thì giá rất thấp, không xứng với chất lượng của chúng ta làm ra. Vì vậy tam thời phải sử dụng các nhãn hiệu nổi tiếng để từ đó xây dựng nhãn hiệu của riêng mình.
3. Các chiến lược chất lượng hàng dệt may:
Như đã biết, chiến lược chất lượng là tổng hợp những định hướng, kế hoạch, biện pháp lớn nhằm phát triển sản phẩm, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, trên cơ sở cải tiến toàn bộ hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Chiến lược hàng dệt may cũng là những biện pháp lớn nhằm phát triển sản phẩm, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm trên cơ sở cải tiến các chỉ tiêu chất lượng hàng dệt may.
Một số chiến lược thường được áp dụng là:
- Chiến lược chất lượng kỹ thuật: Chiến lược này hướng các doanh nghiệp dệt may vào việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp công nghiệp mới để áp dụng vào sản phẩm dệt may của mình, đôi khi bất chấp các nghiên cứu thị trường. Doanh nghiệp tin tưởng rằng các cải tiến mới sẽ giúp sản phẩm của trở thành mới hoàn toàn và họ trở thành người định hướng cho thị trường hình thành nên các nhu cầu mới cho thị trường.
Ưu điểm của phương án chiến lược này là các hãng dệt may được sản xuất trên dây truyền công nghệ hoàn toàn mới, chất lượng cao tạo ra các sản phẩm chất liệu mới, kiển cách và hình dáng mới, doanh nghiệp trở thành người định hướng cho các nhu cầu mới. Vì hiện nay ở Việt Nam, mặt hàng lụa Tapta đang được ưa chuộng. sản phẩm này mới xuất hiện rộng rãi ở thị trường nước ta một thời gian gân đây nhưng đã chiếm được niềm tin của khách hàng. Sản phẩm vải lụa đã có ở Việt Nam từ rất lâu rồi với các tên tuổi nổi tiếng từ hàng dệt Vạn Phúc, Hà Tây. Nhưng sản phẩm lụa Tapta thì mới xuất hiện. Với việc đầu tư vào công nghệ mới, các nhà sản xuất đã tạo ra được một sản phẩm lụa mới được lụa tapta được sử dụng nhiều vào sản xuất quần áo mùa đông, túi xách tay… Chính sản phẩm lụa này đã hình thành nên dòng sản phẩm mới là túi xách tay bằng lụa tapt. Nhược điểm: Vì chỉ tập trung đầu tư nghiên cứu cho giải phát công nghệ mới nên chiến lược chất lượng này không chú ý đến việc nghiên cứu thị trường. Vì vậy rất dễ dẫn đến rủi ro. Vì nhiều thị trường có những thói quen rất khó thay đổi nến sản phẩm được sản xuất ra thiếu sự nghiên cứu, văn hoá, thị hiếu phong cách thì rất khó chấp nhận.
- Chiến lược chất lượng Marketing: Chiến lược này coi chất lượng là sự chấp nhận của khách hàng và chỉ tìm kiếm giải pháp maketing cho cho chiến lược chất lượng. Ví dụ: Sản phẩm áo sơ mi nam là sản phẩm truyền thống của công ty May 10. Chiến lược chất lượng của công ty đổi mới sản phẩm này không phải sự cải tiến cho một loại sản phẩm mới, kiểu dáng mới… Thậm chí ngược lại sản phẩm sơ mi nam truyền thống công ty May 10 vẫn duy trì kết cấu sản phẩm hiện có. Mặc dù vậy nó vẫn được khách hàng biết đến và đánh giá rât cao. Chiến lược chất lượng đã được áp dụng cho sản phẩm sơ mi nam là chất lượng thông qua giải pháp Marketing với đẳng cấp đã được khẳng định
Nhược điểm không phải bất cứ sản phẩm nào, chất lượng nào cũng thành công với chiến lược chất lượng Marketing. Sản phẩm phù hợp với chiến lượng chất lượng Marketing khi đã có chất lượng tốt và có những công dụng thần kỳ. Chiến lược chất lượng kỹ thuật - Marketing:chiến lược này coi chất lượng là sự chấp nhận của khách hàng và chỉ tìm kiếm giải pháp Marketing cho chiến lược chất lượng Marketing khi đã có chất lượng tốt và có những công dụng thời kỳ chiến luợc kỹ thuật - Marketing, là chiến lược đan xen các cải tiến kỹ thuật nhỏ bên cạnh các nỗ lực Marketing. Ưu điểm của chiến lược này không đòi hỏi nguồn tài chính lớn nhưng lại luôn có các cải tiến nhỏ thường xuyên nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp nhanh chóng với nhu cầu thay đổi của thị trường.
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chiến lược chất lượng hàng dệt may:
a. Môi trường khu vực và quốc tế:
Xu hướng trên toàn cầu hoá, sự hội nhập của nền kinh tế cũng như quá trình tự do thương mại quốc tế tác động rất nhiều tới chất lượng và chiến lược chất lượng. Cùng với sự phát triển kinh tế và sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi nhiều cách nghĩ , cách làm, từ đó dẫn đến chiến lược chất lượng cũng thay đổi. Sự thay đổi nhanh chóng của tiến bộ xã hội đặc biệt vài trò của khách hàng ngày càng được nâng cao. Khách hàng được quyền lựa chọn mình sẽ mặc gì chứ không phải mình phải mặc gì. Cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với sự bão hoà của thị trường luôn đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may có chiến lược phù hợp.
Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ. Công nghệ càng hiện đại thì chất lượng hàng dệt may càng ổn định, chi phí càng ít, tạo khả năng cạnh tranh cao về chất lượng nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Vì chất lượng của sản phẩm được thể hiện trước hết ở trình độ đặc trưng kỹ thuật. Mặt khác tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra được các phương tiện nghiên cứu khách hàng một cách chính xác tử đó xác định rõ đúng đắn nhu cầu "sự thay đổi của nhu cầu khoa học công nghệ còn tạo ra các loại nguyên liệu mới tốt hơn, rõ hơn và sẵn có hơn để phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất .
Văn hoá - xã hội: Yếu tố văn hoá xã hội của mỗi khu vực thị trường, mỗi quốc gia ảnh hưởng rất lớn tới các đặc tính kỹ thuật của các sản phẩm dệt may. Đổi với mỗi loại thị trường khác nhau thì khách hàng yêu cầu, đặc tính chất lượng hoàn toàn khác nhau. Những đặc tính chất lượng của sản phẩm chỉ thoả mãn toàn bộ nhu cầu cá nhân nếu không ảnh hưởng lợi ích của xã hội. Do vậy, chiến lược chất lượng sản phẩm phụ thuộc chặt chẽ vào văn hoá- xã hội.
b. Cơ chế chính sách của Nhà nước:
Muốn ngành dệt may trong nước phát triển cần khuyết khích đầu tư nước ngoài vào máy móc thiết bị, khuyến khích xuất khẩu. Đồng thời nhà nước ần quản lý hàng nhái, hàng kém chất lượng đang trôi nổi tren thị trường. Một cơ chế kinh tế hợp lý sẽ tạo ra môi trường thuận lợi bên cạnh đó còn tạo ra sức ép để các tổ chức phải nâng cao chất lượng tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh một sân chơi bình đẳng cho tổ chức và doanh nghiệp. Một cơ chế thích hợp còn kích thích các doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư để nâng cao chất lượng thúc đẩy áp dụng chiến lược chất lượng đồng thời còn bảo vệ lợi ích của nhà sản xuất và người tiêu dùng hàng dệt may cũng nhu hàng hoá khác.
c. Môi trường ngành:
Trong môi trường ngành thì sức ép của các đối thủ cạnh tranh và sự hoạt động của các nhà cung ứng ảnh hưởng nhiều đến chiến lược chất lượng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải đưa ra được các chiến lược chất lượng phù hợp mang tình cạnh tranh hơn các đối thủ. Đồng thời trong điều kiện hiện nay việc xây dựng các hệ thống mua bán tin cậy là biện pháp quan trọng đê bảo đảm và nâng cao chất lượng.
d. Nội lực của doanh nghiệp:
Để thực hiện chiến lược chất lượng sản phẩm cho xuất khẩu thì đòi hỏi bản thân các doanh nghiệp dệt may phải xác định được điểm mạnh - yếu của mình đê tạo ra các lợi thế so sánh cần thiết.
Nguồn lực con người: Chất lượng phụ thuộc chủ yếu vào trình độ tay nghề, kinh nghiệm và ý thức trách nhiệm của con người lao động. Thêm nữa để một tổ chức có thể đạt được chất lượng theo mong muốn trên cơ sở giảm chi phí thì còn phụ thuộc lớn vào trình độ tổ chức quản lý của tổ chức. Chất lượng của hoạt động quản lý phản ánh chất lượng của các hoạt động chính trong tổ chức. Vì vậy, khai thác hợp lý các nguồn lực sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng bứt phá tạimỗi thời điểm vể chất lượng.
Vị thế và tiềm lực tài chính của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng nhiều đến việc xây dựng và áp dụng chiến lược chất lượng. Vị thế và tiền lực có mạnh thì chiến lược chất lượng mới được quan tâm chú ý.
II.Thực trạng, chiến lược chất lượng hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam
1. Tình hình phát triển xuất khẩu ngành dệt may trong thời gian qua
Hơn 10 năm qua, bằng việc phát triển ngành công nghiệp dệt may nước ta đã có nhiều thành tựu to lớn mà nhiều ngành kinh tế khác của đất nước khó mà theo kịp, hàng dệt mayluôn đứng thứ 2 (sau dầu thô) trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Trong giai đoạn 1996 - 2002 hàng may mặc xuất khẩu tăng bình quân hàng năm từ 20 - 25 %, chiếm khoảng 12 - 13 % tổng giá trị xuât khẩu của cả nước.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 1996 - 2002
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng KNXK hàng dệt may
1150
1502
1450
1747
1892
1975,4
2750
3600
Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 1996 - 2002
Thông qua bảng số liệu trên ta thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam năm 2000 đạt 1892 triệu USD tức là 1,892 tỷ USD, năm 2001 đạt 1,975 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,75 tỷ USD, năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 tăng gấp hai lần kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2000 và tăng 31% so với năm 2002. Trong những năm gần đây, tỷ lệ tăng trưởng ngành dệt may luôn cao hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP, ngang bằng tỷ lệ tăng trưởng toàn ngành công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành dệt may chiếm bình quân trên 9% toàn ngành công nghiệp. Giá trị sản xuất chiếm khoảng 2% GDP của cả nước tạo việc lmà cho khoảng 1,6 triệu lao động công nghiệp.
Từ năm 1990 trở vể trước, các sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Liên Xô là chủ yếu, chiếm 85% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu của ngành. Số còn lại xuất sáng các nước Đông Âu như Hungari, Tiệp Khắc, CHDC Đức…. Với các sản phẩm chủ yếu như áo sơ mi nam, nữ; quần áo bảo hộ lao động và một số sản phẩm thuộc loại đơn giản. Sự xụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa làm cho thị trường xuất khẩu của ta bị thu hẹp lại. Có thể nói sau năm 1990 các doanh nghiệp dệt may của nước ta đứng trước những khó khăn gay gắt, nhiều xí nghiệp phải giảm sản xuất, cho công nhân nghỉ không lương, thậm chí có những xí nghiệp dệt may lớn đã hết sức cố gắng, một mặt tìm cách khôi phục thị trường truyền thống, mặt khác tìm cách định hướng mở rộng thị trường mới nhấ là thị trường ở các nước phát triển. Song để thâm nhập các thị trường này đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ các khẩu tang thiết bị, tay nghề công nhân quản lý điều hành sản xuất, hoạt động Marketing, vệ sinh công nghệ… Vì đây là thị trường khó tính có yêu cầu cao về chất lượng. Sau năm 1990 đến nay, việc kinh doanh sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp dệt may nước ta đã được thực hiện với tất cả các bạn hàng mà chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển và các nước trong khu vực. Ngày 01/03/1993 Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và cộng đồng Châu Âu được ký kết, mở ra cho ngành dệt may Việt Nam cơ hội thâm nhập một thị trường tư bản quan trọng với hơn 350 triệu dân dệt may Việt Nam xâm nhập vào thị trường Mỹ..tt xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may nước ta hiện nay là Nhật Bản, EU và Mỹ.
Theo Bộ Thương mại, thống kê của Bộ Thương mại Mỹ cho biết nhập khẩu của hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ trong năm 2003 là 2,48 tỷ USD, tăng 161,4 về trị giá và tăng 132,07% về lượng so với năm 2002. Vươn lên là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 7 vào Mỹ theo kim ngạch. Trong năm 2003 xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ bắt đầu bị áp đặt hạn ngạch. Trong những tháng đầu năm tranh thủ khi Mỹ chưa áp đặt hạn ngạch các doanh nghiệp các doanh nghiệp đã tranh thủ xuất tối đa sang Mỹ. Chính vì vậy mà kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này trong những tháng đầu năm là rất cao. Có những tháng đạt trên 250 triệu. Tuy nhiên, kể từ khi Mỹ áp đặt hạn ngạch nhất là vào những tháng cuỗi năm thì xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ đã giảm khá mạnh do lượng hạn ngạch ở một số lat đã hết.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các tháng
Đơn vị: Triệu USD
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
KNX năm 2002
155
134
143,3
192,7
164,6
243,4
284,5
3,5
285
271
250
264
KNX năm 2003
317
240
270
289
336
403
396
396
262
230
213
270
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các tháng
Trong tháng 11, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ chỉ đạt khoảng 80 triệu USD, giảm tới 68,5 % so với kim ngạch xuất khẩu trong tháng 68 giảm 34,2% sơ với cùng kỳ 2002. Mặc dù bị hạn chế hạn ngạch nhưng xuất khẩu hàng dệt may của ta sang Mỹ cả năm 2003 vẫn đạt gần 1,9 tỷ USD, tăng 94,67% so với năm 2002 và chiếm hơn 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước.
EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Từ năm 1980 chúng ta đã xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đặc biệt phát triển mạnh kể từ khi có hiệp định buôn bán hàng dệt may. Từ chỗ bị cấm vận, đến năm 1999 đã đạt gần 700 triệu USD và năm 2000 tăng thêm khoảng 150 triệu USD. Hiện nay, xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này chiếm 34- 38% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may hàng năm của Việt Nam. Nhiều năm trước khi thị trường Mỹ mở ra, thị trường EU luôn dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu. Nhưng 6 tháng đầu năm 2003, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này lại xuống thấp tới mức kỷ lục, chỉ đạt 195triệu USD, giảm 31,3% so với cùng kỳ năm 2002 . Cuối năm 2003, Bộ Thương mại nối lại việc cấp giấy phép xuất khẩu (E/L) tự động đối với tất cả các mặt hàng sang EU và đặc biệt là mới đây EU đã chính thức tăng thêm 50% đến 70% hạn ngạch ở một số Lát nóng thì xuất khẩu hàng dệt may sang EU lại tăng mạnh trở lại. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU năm 2003 đạt 353 triệu USD giảm 3,26% so với năm 2002.
Thị trường Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ 3 của Việt Nam chiếm 17,5 % tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Nhật bản là thị trường phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này không bị hạn chế. Thế nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này đang có xu hướng giảm xuống do hàng may mặc của Việt Nam xuất khấu vào thị trường này đang bị cạnh tranh gay gắt với sản phẩm của các nước thành viên WTO như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Italia….
Năm 2002, Việt nam đứng thứ 4 trong các nước có hàng may mặc xuất khẩu vào Nhật bản. Nhưng đến năm 2003, sản phẩm dệt may của Việt nam đã vượt qua Italia, Hàn quốc để trở thành quốc gia thứ 2 sau Trung Quốc có năng lực cạnh tranh cao tại thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang Nhật bản tăng hàng năm đến năm 2000 đạt cao nhất 620 triệu USD, sau đó năm 2001 lại giảm 5% so với năm 2000 còn 592 triệu USD năm 2002 lại giảm 20% so với năm 2001 đạt 480 triệu USD. Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang nhật khoảng 480 triệu USD, chiếm 26% thị phần dệt may của Nhật bản.
Năm 2004, mặc dù xuất khẩu sang Mỹ năm 2004 vẫn bị áp đặt hạn ngạch nhưng dự báo triển vọng xuất khẩu hàng dệt may vẫn thuận lợi và kim ngạch xuất khẩu có thể đạt 4 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu sang Mỹ sẽ đạt khoảng 2,1 tỷ USD; sang EU đạt khoảng 800 triệu USD; sang Nhật bản đạt 500 triệu USD.
2. Thực trạng chất lượng hàng dệt - may xuất khẩu Việt nam.
Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp dệt may phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp đó bán ra. Sản phẩm có chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng cho quyết định lựa chọn mua hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, chất lượng tạo ra sự hấp dẫn, thu hút người mua. Với nhận thức muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường thì phải đặc biệt coi trọng chỉ tiêu chất lượng. Trong những năm gần đây các doanh nghiệp dệt - may xuất khẩu Việt nam đã tiếp cận với khái niệm và phương pháp quản lý chất lượng hiện đại là ISO & TQM trong quản lý chất lượng. Một số doanh nghiệp dệt may đã được cấp chứng chỉ ISO9000 như: công ty Coats Totel phong phú, công ty May 10, công ty may Đức giang, May Chiến Thắng.v.v….Thực tế cho thấy ISO 9000 dã tạo ra cho các doanh nghiệp dệt may một phương pháp quản lý mới, một phong cách làm việc có hiệu quả.
Trong những năm qua để tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới, về mặt chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp dệt may Việt nam đã có một số tiến bộ nhất định . Để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt nam phải lựa chọn mặt hàng với chất lượng và giá cả thích hợp để đẩy mạnh xuất khẩu tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp đã coi chất lượng như là thứ vũ khí cạnh tranh quan trọng nhất vì thế đã đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm trên thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp dệt may đã cố gắng tập trung nỗ lực vào cải tiến mẫu mã đổi mới về mặt hàng, nâng cao các chỉ tiêu chất lượng như: đa dạng, phong phú về chủng loại, kiểu dáng, thẩm mỹ, kết cấu sản phẩm với các chỉ tiêu về tính năng sử dụng, độ bền, an toàn sao cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Nhờ vậy chất lượng sản phẩm dệt may đã đi dần vào thế ổn định và có xu hướng ngày càng tăng cao thoát dần khỏi tình trạng suy giảm và mất ổn định như những năm trước. Chất lượng sản phẩm của các công ty như May 10, May Đức Giang, Loats Total phong phú,…đã được nâng cao rõ rệt, đã lấy lại được thị trường và có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chẳng hạn, công ty may Chiến thắng trong giai đoạn trước những năm 1986 chỉ sản xuất theo pháp lệnh của nhà nước, không phải lo khâu tiêu thụ như thế nào để thu được lợi nhuận cao nhất vì vậy mà chất lượng sản phẩm của công ty rất thấp. Hơn nữa, các sản phẩm may mặc xuất khẩu lúc bấy giờ chủ yếu là găng tay, quần áo bơi, quàn áo bảo hộ lao động, mũ…hầu hết là các đồ đơn giản, yêu cầu kỹ thuật trình độ tay nghề chưa cao. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, công ty kịp thời có những thay đổi để bắt kịp và hoà nhập với nền kinh tế thị trường. Công ty đã đầu tư chú trọng rất nhiều vào sản xuất bằng công tác đổi mới cải tiến công nghệ và tổ chưcs quản lý để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm lấy lại uy tín của mình trên thị trường cạnh tranh. Công ty đã mua sắm thêm một số dây chuyền công nghệ tiên tiến của Nhật, Đức, mở rộng danh mục mặt hàng bằng các sản phẩm mới, củng cố và mở rộng thị trường nguyên vật liệu, hoàn thiện hệ thống kiểm tra chất lượng sản phẩm. Công ty May chiến thắng đã trở thành một trong những doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may có uy tín, khả năng xuất khẩu cao của Việt nam.
Hằng năm kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng từ 20-25%, chiếm khoảng 12 - 13% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nhưng để hội nhập vào thế giới và khu vực, về mặt chất lượng sản phẩm dệt may của nước ta còn phải phấn đấu rất nhiều. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng khá nhan._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV168.doc