Chi phí kinh doanh & các biện pháp hạ thấp chi phí tại Công ty Vận chuyển khách 16A - Nguyễn Công Trứ

Phần mở đầu. Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở, nhất thể hoá và theo định hướng XHCN ở nước ta đã, đang và sẽ thường xuyên đặt ra những thách thức cùng những cơ hội phát triển cho tất cả các doanh nghiệp khác nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp Quốc Doanh khi phấn đấu bảo đảm vai trò của chúng. Vận hành theo cơ chế thị trường cũng đồng thời có nghĩa là các doanh nghiệp phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy luật khách quan của thị trường, trong đó có quy

doc48 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chi phí kinh doanh & các biện pháp hạ thấp chi phí tại Công ty Vận chuyển khách 16A - Nguyễn Công Trứ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luật cạnh tranh - động lực của thị trường. Hậu quả tất yếu của động thái cạnh tranh này là một nhóm các doanh nghiệp do không hoà nhập hoặc xác lập không đúng các thủ pháp cạnh tranh nên bị suy thoái, thậm chí phá sản và bị gạt ra khỏi thị trường; Một nhóm các doanh nghiệp khác thích ứng được và vận dụng được đồng bộ các thủ pháp cạnh tranh hợp lý, hữu hiệu thì không ngừng tăng trưởng và phát triển . Do vậy, các doanh nghiệp luôn phải đặt ra cho mình các mục tiêu để tồn tại và phát triển là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được điều đó, vấn đề hạ thấp chi phí kinh doanh dịch vụ luôn là mục tiêu mà doanh nghiệp phải phán đấu và đạt được. Chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp dịch vụ biểu hiện hao phí lao động cá biệt mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ. Đồng thời nó là căn cứ để xác định số phải bù đắp từ thu nhập của doanh nghiệp. Vì thế, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến việc quản lý chi phí bởi lẽ mỗi đồng chi phí không hợp lý đều làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Vấn đề quan trọng đặt ra cho những người quản lý của doanh nghiệp là phải kiểm soát được tình hình chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, phát hiện và động viên mọi khả năng tiềm tàng trong doanh nghiệp để không ngừng giảm bớt chi phí tăng lợi nhuận nhằm đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng và cải thiện đời sống của công nhân viên chức trong doanh nghiệp. Nhằm mục đích hoàn thiện lý luận và thực tiễn về quản lý chi phí kinh doanh, đồng thời được sự giúp đỡ của thầy giáo và các cô chú trong Công ty vận chuyển khách em đã chọn đề Tài: “Chi phí kinh doanh và các biện pháp hạ thấp chi phí kinh doanh tại Công ty vận chuyển khách 16A Nguyễn Công Trứ – Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp. Đề tài nghiên cứu lý luận về chi phí kinh doanh dựa trên cơ sở của môn khoa học kinh tế : Tài chính doanh nghiệp, thống kê học, kinh tế chính trị, kinh tế học…kết hợp với tình hình thực tế tại Công ty vận chuyển khách để hoàn thiện quá trình quản lý chi phí kinh doanh tại Công ty, tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả chi phí kinh doanh. Mục tiêu của khoá luận tốt nghiệp này là trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp trong thời gian qua, đề ra các giải pháp nhằm hạ thấp chi phí kinh doanh, nâng cao hiệu quả chi phí kinh doanh của Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phạm vi nghiên cứu đề Tài: Chi phí kinh doanh tại Công ty vận chuyển khách 16A – Nguyễn Công Trứ – Hà Nội. Kết cấu đề tài gồm 2 Chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung về chi phí kinh doanh và các giải pháp hạ thấp chi phí kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Chi phí kinh doanh và tình hình quản lý chi phí kinh doanh tại Công ty vận chuyển khách du lịch. Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm hạ thấp chi phí kinh doanh tại công ty xe khách 16A Nuyễn Công Trứ – Hà Nội. Chương I Những vấn đề lý luận chung về chi phí kinh doanh Các giải pháp hạ thấp chi phí kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Khái niệm, phạm vi của chi phí kinh doanh dịch vụ. Khái niệm chi phí kinh doanh dịch vụ. Hoạt động kinh doanh dịch vụ là hoạt động chuyên cung cấp những sản phẩm, lao vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt và thoả mãn nhu cầu đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Hiện nay, hoạt động kinh doanh dịch vụ rất phong phú, đa dạng. Có thể kể ra hàng loạt các ngành nghề kinh doanh dịch vụ ở nước ta như: vận tải, bưu điện, ăn uống công cộng, may mặc, sửa chữa, khách sạn du lịch, trang trí nội thất, dịch vụ mỹ phẩm… Nhưng chung quy lại thì có thể chia thành hai loại hình dịch vụ chủ yếu: Loại hình dịch vụ có tính chất sản xuất và loại hình dịch vụ đơn thuần (không có tính chất sản xuất), gắn với các hoạt động kinh doanh dịch vụ này là các khoản chi phí phát sinh tương ứng. Đối với doanh nghiệp dịch vụ có tính chất sản xuất thực chất là doanh nghiệp vừa cung cấp sản phẩm hàng hoá, vừa đáp ứng nhu cầu về dịch vụ của khách hàng. Mục đích của doanh nghiệp này là sản xuất ra những sản phẩm nhất định và bằng những loại hình dịch vụ của mình để tiêu thụ được sản phẩm của mình ra thị trường nhằm thu được lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định, đó là chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm…Ngoài ra còn có các khoản chi phí phát sinh, nếu có hoạt động đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp. Chi phí sản xuất là biểu hiện toàn bộ hao phí về tư liệu sản xuất và tiền công trả cho người lao động liên quan đến quy trình sản xuất sản phẩm mà doanh nghiệp phải chi ra trong một thời kỳ nhất định. Chi phí tiêu thụ sản phẩm là những chi phí phát sinh trong khâu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp như: chi phí vận chuyển, chi phí tuyên truyền, quảng cáo, chi phí bảo hành … Các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp như kinh doanh, mua cổ phíếu, trái phíếu và đầu tư vào hệ thống tín dụng. Những khoản chi phí này được bù đắp bằng thu nhập của các hoạt động đó. Chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp mang tính chất sản xuất do các bộ phận chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm và các chi phí phát sinh do đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp hợp thành, chi phí kinh doanh này được bù đắp từ thu nhập của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp dịch vụ không có tính chất sản xuất như: cho thuê đồ dùng khách sạn du lịch…thì chi phí chủ yếu là chi phí phục vụ như: tiền lương, khấu hao trang thiết bị, đồ dùng phục vụ sinh hoạt… Chi phí kinh doanh ở các doanh nghiệp dịch vụ không có tính chất sản xuất, chủ yếu là chi phí phục vụ khách hàng. Nếu các doanh nghiệp dịch vụ này đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp cũng có thể phát sinh một số chi phí nhất định như các doanh nghiệp khác. Như vậy, chi phí kinh doanh trong các doanh nghiệp dịch vụ là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động sống (bao gồm tiền lương và các khoản trích theo lương như: BHYT, BHXH, CPCĐ), lao động vật hoá (bao gồm chi phí nhiên liệu, khấu hao tài sản cố định) và các chi phí khác trong một thời kỳ nhất định. Đồng thời nó là căn cứ để xác định số phải bù đắp từ thu nhập của doanh nghiệp. Chỉ có trên cơ sở tiết kiệm chi phí kinh doanh, bù đắp đầy đủ, kịp thời chi phí đó thì mới đủ cho doanh nghiệp mới tồn tại và phát triển được. 2.Phạm vi chi phí kinh doanh dịch vụ: Chi phí kinh doanh là một chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc tiết kiệm chi phí kinh doanh còn có tác dụng góp phần cải thiện, nâng cao đời sống lao động của doanh nghiệp. Về mặt lý luận chung thì chi phí kinh doanh dịch vụ được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả các khoản chi bằng tiền được hạch toán vào chi phí kinh doanh. Để giúp cho việc thống nhất cách xác định tính hạch toán chi phí kinh doanh phục vụ cho công tác hạch toán cần thiết phải quy định những khoản mục chi phí nào đưa vào chi phí kinh doanh, những khoản mục chi phí nào không đưa vào chi phí kinh doanh. Xác định rõ phạm vi chi phí kinh doanh nói chung và chi phí kinh doanh dịch vụ nói riêng sẽ làm cho công tác hạch toán kế toán và quản lý chi phí kinh doanh chính xác hơn, chặt chẽ hơn, giúp các nhà quản lý lập kế hoạch lưu chuyển hàng hoá, kế hoạch lợi nhuận một cách chính xác, khoa học. Chi phí kinh doanh trong các doanh nghiệp dịch vụ đảm bảo yêu cầu chi phí đó phát sinh trong một thời kỳ nhất định liên quan đến quá trình hoạt động kinh doanh dịch vụ mà chúng được bù đắp từ thu nhập của doanh nghiệp, còn các chi phí khác không liên quan đến hoạt động kinh doanh dịch vụ và các nguồn vốn riêng để bù đắp thì không được phép hạch toán vào chi phí kinh doanh dịch vụ. Theo quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước thì không được tính vào chi phí kinh doanh khoản mục phí sau : Chi phí đầu tư dài hạn : Là những khoản chi phí phát sinh cấn thiết để tạo ra các yếu tố của quy trình kinh doanh sản xuất theo mục tiêu đầu tư phục vụ cho những phương hướng kinh doanh sản xuất trong tương lai của doanh nghiệp . Nhóm chi phí này bao gồm : Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản; Mua sắm tài sản cố định; Bổ sung tài sản cố định cần thiết hoặc hình thành tài sản lưu động cần thiết ban đầu; Chi phí đào tạo dài hạn đội ngũ các cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật; Chi phí nghiên cứu khoa học . Các khoản chi về phúc lợi , xã hội của doanh nghiệp : Bao gồm chi phí về học tập, văn hoá, thể dục thể thao, y tế vệ sinh, chi phí cho tham quan nghỉ mát, chi phí cho nhà ăn, nhà trẻ, chi trợ cấp khó khăn cho người lao động. Các khoản đã được tính vào chi phí hoạt động tài chính và hoạt động khác như các khoản lỗ do liên doanh, liên kết, lỗ từ các hoạt động đầu tư khác . ... Các khoản thiệt hại được chính phủ trợ cấp hoặc cho phép giảm vốn và các khoản thiệt hại được bên gây thiệt hại và công ty bảo hiểm bồi thường . Chi phí đi công tác nước ngoài vượt định mức do nhà nước quy định . Các khoản chi mang tính chất thưởng từ quỹ tiền thưởng trích lập từ lợi nhuận sau thuế như thưởng năng suất, thưởng sáng kiến, thưởng thi đua.. . Các khoản tiền phạt như tiền phạt vi phạm hợp đồng, vi phạm hành chính ... Xác định đúng đắn phạm vi của chi phí kinh doanh có ý nghĩa kinh tế lớn đối với công tác quản lý chi phí kinh doanh nói riêng và quản lý kinh tế nói chung của doanh nghiệp được biểu hiện ở các mặt cơ bản sau : Làm cơ sở cho việc tập hợp các chi phí của doanh nghiệp phát sinh trong kỳ vào chi phí kinh doanh thương mại phát sinh trong kỳ đó. Từ đó, xác định được giá vốn hàng hoá phục vụ cho chiến lược bán hàng của doanh nghiệp trong điều kiện có sự cạnh tranh mạnh mẽ trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời là căn cứ để doanh nghiệp phải bù đắp từ doanh thu kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ đó, giúp doanh nghiệp xác định chính xác được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế của mình. Làm cơ sở cho doanh nghiệp phấn đấu hạ thấp chi phí kinh doanh thương mại trên cơ sở thực hiện tốt nhất kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của mình và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp . Xác định đúng đắn phạm vi chi phí kinh doanh thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với công tác lập kế hoạch, kiểm tra, phân tích kinh tế của doanh nghiệp và cơ quan thuế cũng như cấp quản lý trực tiếp tránh việc ghi tăng chi phí kinh doanh thương mại, làm sai lệch lợi nhuận của doanh nghiệp . II. Phân loại chi phí kinh doanh dịch vụ : Phân loại theo nội dung kinh tế : Theo tiêu thức này chi phí được chia ra thành : Chi phí nguyên vật liệu : Nguyên vật liệu chính là những nguyên vật liệu sau quá trình gia công chế biến sẽ cấu thành nên thực thể vật chất chủ yếu của sản phẩm. Tuy nhiên trên thực tế , trong quá trình sản xuất nguyên vật liệu chính còn bao gồm cả bán thành phẩm mua ngoài để tiếp tục chế biến . Vật liệu phụ là những vật liệu chỉ có tác dụng phụ trợ trong sản xuất, được sử dụng kết hợp với vật liệu chính để làm thay đổi màu sắc, hình dáng, mùi vị hay dùng để bảo quản phục vụ hoạt động của các tư liệu lao động hay phục vụ cho lao động của công nhân viên chức trong doanh nghiệp. Vật liệu phụ ở đây bao gồm có dầu nhờn, hồ keo, thuốc nhuộm, tẩy … Nhiên liệu : Bao gồm những thứ dùng để cung cấp nhiệt lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh như : Xăng dầu, khí đốt … Ngoài ra, chúng ta còn có thể phân loại chi phí nguyên vật liệu thành chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nguyên vật liệu gián tiếp. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phản ánh toàn bộ chi phí về nguyên vật liệu chính , nguyên vật liệu phụ , nhiên liệu … tham gia trực tiếp vào việc sản xuất chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao vụ , dịch vụ . Chi phí nguyên vật liệu gián tiếp là những loại vật liệu được sử dụng để kết hợp với nguyên vật liệu chính để tăng thêm chất lượng của sản phẩm cũng như vẻ đẹp bên ngoài của sản phẩm để sản phẩm đó có thể tồn tại và cạnh tranh được với các sản phẩm ngoại trên thị trường hoặc để tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được thuận lợi. Giá trị của nguyên vật liệu bao gồm cả chi phí thu mua, vận chuyển và hao hụt định mức trong quá trình vận chuyển. Đối với doanh nghiệp dịch vụ, chi phí vật liệu gồm cả chi phí mua ngoài và các công cụ nhỏ thuộc tài sản cố định phụ tùng thay thế mua ngoài để thay thế tài sản cố định . Chi phí nhân công : Bao gồm tiền lương chính, lương phụ của người lao động, công nhân viên trong doanh nghiệp do quỹ tiền lương của sản xuất kinh doanh chi trả và khoản bảo hiểm xã hội tính theo tỷ lệ phần trăm (%) theo quy đinh trên cơ sở tiền lương được hưởng Tiền lương được tính theo lương cấp bậc, theo chức vụ, theo ngạch bậc lương, theo đúng quy định 26/CP hoặc là tiền lương tính theo kết quả hoạt động của doanh nghiệp … tiền lương trả cho công nhân trực tiếp có thể là lương khoán theo doanh thu, khoán theo khối lượng hàng hoá tiêu thụ, lương thời gian. Tuỳ từng doanh nghiệp khác nhau mà có các hình thức trả lương khác nhau cho phù hợp với tình hình và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp. Trả lương theo thời gian có thể kết hợp với chế độ tiền thưởng để khuyến khích người lao động hăng say làm việc; Lương tháng là tiền lương trả cho công nhân viên theo tháng hoặc theo bậc lương đã sắp xếp, người hưởng lương sẽ nhận được tiền lương theo cấp bậc và các khoản phụ cấp đều có; Lương ngày là tiền lương tính trả cho người lao động theo mức lương tháng và số ngày làm việc trong tháng . Lương cấp bậc Đơn giá tiền lương = theo thời gian Số ngày lao động định mức Lương theo thời = Đơn giá tiền lương ´ Số ngày làm việc thực tế gian từng người Hình thức trả lương theo thời gian đơn giản dễ tính, ít tốn thời gian tính toán và các chi phí khác phát sinh. Xong hình thưc này lại không khuyến khích người lao động tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả công tác. Bên cạnh chế độ tiền lương, tiền thưởng được hưởng trong quá trình sản xuất, người lao động còn được hưởng các khoản trợ cấp thuộc quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế … trong các trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động … Các quỹ này được hình thành một phần do người lao động đóng góp, phần còn lại được tính vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Quỹ bảo hiểm y tế được hình thành bằng cách trích theo tỷ lệ quy định trên tổng quỹ lương cấp bậc và các khoản phụ cấp của người lao động thực tế phát sinh trong tháng theo chế độ hiện hành; tỷ lệ trích bảo hiểm xã hội là 20% trên cơ sở quỹ lương của doanh nghiệp trong đó: 15% là do đơn vị chủ sử dụng lao động nộp được tính vào chi phí kinh doanh, 5% tiền lương do người lao động đóng góp và được trích trừ vào lương tháng của người lao động; Quỹ chi phí công đoàn được ding để hỗ trợ người lao động duy trì cho các hoạt động công đoàn trong doanh nghiệp nhằm giúp đỡ nhau phát triển chuyên môn, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động và được phép trích 2% trên cơ sở quỹ tiền lương tính vào phí theo lương của bộ phận sử dụng lao động để hình thành quỹ kinh phí công đoàn (KPCĐ). Chi phí khấu hao tài sản cố định ( TSCĐ ) : Trong quá trình bảo quản và sử dụng, tài sản cố định luôn bị hao mòn. Hao mòn là sự giảm dần giá trị tài sản cố định do tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do hao mòn tự nhiên và do tiến bộ của khoa học kỹ thuật …Căn cứ vào nguyên nhân gây ra sự hao mòn đó, người ta chia hao mòn tài sản cố định thành hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất do quá trình sử dụng tài sản cố định hoặc những bộ phận chi tiết của chúng không còn nguyên trạng thái ban đầu mà bị hư hỏng dần. Giá trị sử dụng chúng giảm đi theo thời gian sử dụng . Hao mòn vô hình là do tiến bộ của khoa học kỹ thuật, khoa học kỹ thuật phát triển dẫn đến năng suất lao động tăng lên, giá thành sản xuất giảm xuống. Từ đó, trên thị trường xuất hiện những tài sản cố định mới tuy có cùng thông số kỹ thuật nhưng giá bán lại thấp hơn hay có thông số kỹ thuật tiến bộ hơn nhưng giá bán lại không cao hơn … Nói chung hao mòn vô hình liên quan đến sự mất giá của tài sản cố định và không liên quan đến sự hao mòn vật chất của nó, vì thế có những tài sản cố định do chậm đem ra sử dụng đã bị hao mòn vô hình. Khi tài sản cố định được sử dụng vào sản xuất kinh doanh thì sự chuyển dịch giá trị hao mòn của nó vào chi phí của đối tượng sử dụng tài sản cố định được gọi là khấu hao . Khấu hao là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của tài sản cố định vào chi phí kinh doanh qua thời gian sử dụng của tài sản cố định. Tuy nhiên không phải bất cứ tài sản cố định nào của doanh nghiệp cũng được phép trích khấu hao mà chỉ có những tài sản cố định có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh thì mới được phép trích khấu hao, mức trích khấu hao được hoạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ . Chi phí khấu hao là khoản tiền trích ra tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sử dụng dùng để tái sản xuất vốn cố định của đơn vị theo đặc điểm của sự hình thành và sử dụng quỹ khấu hao. Việc tính khấu hao có thể tiến hành theo nhiều phương pháp khác nhau, việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao là tuỳ thuộc vào quy định của nhà nước về chế độ quản lý tài chính đối với doanh nghiệp và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. . Phương pháp khấu hao được lựa chọn phải đảm bảo thu hồi vốn nhanh, đầy đủ và phù hợp với khả năng chi phí của doanh nghiệp. Trên thực tế hiện nay, phương pháp khấu hao đều theo thời gian đang được áp dụng rất phổ biến. Phương pháp này thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tuy nhiên theo phương pháp khấu hao này thì việc thu hồi vốn chậm không theo kịp mức hao mòn thực tế, nhất là hao mòn vô hình nên doanh nghiệp không có điều kiện để đầu tư trang bị tài sản cố định mới . Mức khấu hao được xác định như sau : Mức khấu hao = Nguyên giá tài ´ tỷ lệ = Nguyên giá tài sản cố định sản cố định khấu hao sản cố định Số năm sử dụng bình quân năm Nguyên giá tài sản cố định làm căn cứ tính khấu hao, là toàn bộ lượng giá trị đã đầu tư vào TSCĐ tính đến thời điểm TSCĐ chính thức phục vụ sản xuất kinh doanh bao gồm giá mua, chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử. Nguyên giá tài sản cố định là toàn bộ chi phí thực tế đã chi ra để có tài sản cố định cho tới khi đưa tài sản cố định vào hoạt động bình thường. Nguyên giá = Giá mua + Chi phí + Chi phí lắp đặt + Chi phí khác TSCĐ thực tế vận chuyển chạy thử Riêng tài sản cố định tự làm không được tính tiền thưởng và lãi bằng giá trị cố định mà nguyên giá của nó phải thấp hơn hoặc bằng giá trị thị trường . Quỹ khấu hao được trích ra với hai mục đích : Tiền khấu hao cơ bản dùng để đổi mới tài sản cố định và tiền khấu hao sửa chữa lớn dùng để khôi phục lại giá trị hao mòn tài sản cố định . Riêng ở một số ngành, do tính chất kinh doanh có trích trước khoản trích về sửa chữa tài sản cố định và chi phí sản xuất kinh doanh, mức tính tối đa không vượt quá tỷ lệ quy định. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải làm sao xác định được khoản khấu hao hợp lý vừa để đảm bảo thu hồi vốn nhanh, vừa để đảm bảo chi phí khấu hao, không đội mức chi phí lên, làm ảnh hưởng đến tầm chi phí của doanh nghiệp. Đó là mâu thuẫn trong cùng một vấn đề đòi hỏi doanh nghiệp phải biết kết hợp hài hoà để quay nhanh vòng quay tài sản. Chi phí dịch vụ mua ngoài : Là các khoản chi phí mua ngoài phục vụ cho khách hàng như chi phí thuê ngoài sửa chữa tài sản cố định, tiền thuê kho, tiền thuê bốc vác, vận chuyển hàng hoá để tiêu thụ, hoa hồng cho các đại lý bán hàng, cho đơn vị nhận uỷ thác xuất khẩu … Chi phí =Trọng lượng hàng hoá ´ quãng đường ´ Đơn giá vận chuyển phải tính cước vận chuyển vận chuyển bình quân Cước phí vận chuyển là khoản chi trả cước phí vận chuyển thuê ngoài và toàn bộ chi phí về tiền lương, bảo hiểm xã hội, khấu hao, nhiên liệu cho phương tiện vận chuyển chuyên dùng của doanh nghiệp. Các phương tiện vận chuyển ngoài thì khoản tiền phải trả cho chủ phương tiện như sau : Chi phí thuê bốc dỡ , khuân vác là khoản chi phí về tiền thuê công nhân bốc dỡ, khuân vác hàng hoá lên phương tiện vận chuyển hoặc sang phương tiện vận chuyển khác về thuê phương tiện, dụng cụ bốc dỡ . Chi phí bốc dỡ = Trọng lượng hàng hoá ´ Số lần bóc dỡ ´ Đơn giá Khuân vác phải bốc dỡ khuân vác khuân vác bình quân Tạp phí vận tải là số tiền chi phí thuê bao, bến bãi tạm thời, tiền thuê đò, phà các khoản chi phí cần thiết để bảo quản hàng hoá trong quá trình vận chuyển và được tính theo tỷ lệ phần trăm cước phí vận chuyển trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp dịch vụ. Phí vận chuyển thường chiếm tỷ lệ lớn trong chi phí kinh doanh . Chi phí hoa hồng : Là khoản tiền mà doanh nghiệp phải trả cho tập thể hoặc cá nhân bán hàng đại lý cho doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải thì chi phí hoa hồng là khoản tiền doanh nghiệp trả cho người môi giới dẫn khách thuê dịch vụ của doanh nghiệp. Khoản hoa hồng này có thể tính phần trăm trên giá bán; tính phần trăm trên hợp đồng thuê xe hoặc theo sự thoả thuận của doanh nghiệp với đại lý môi giới. Tiền thuê kho, bãi: Có thể tính theo ngày thuê, cũng có thể tính theo diện tích mặt bằng hoặc theo sự thoả thuận giữa doanh nghiệp và người thuê . Chi phí khác bằng tiền : Là khoản chi phí khác các khoản chi phí kể trên phát sinh trong quá trình kinh doanh như : Chi phí tiếp khách, quảng cáo, hội nghị … Những chi phí này phát sinh thực tế nên khó có thể định mức quản lý. Người quản lý phải quản lý sao cho hợp lý để đem lại lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp. 2.Phân loại theo sự biến đổi của chi phí với khối lượng dịch vụ. Đây là cách phân loại căn cứ vào mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng sản xuất sản phẩm để chia thành chi phí khả biến (chi phí biến đổi) và chi phí bất biến (chi phí cố định). Chi phí bất biến(chi phí cố định) :Là những khoản chi phí phát sinh trong kỳ không thay đổi hoặc thay đổi không đáng kể khi mức lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp thương mại thay đổi. Bao gồm các chi phí: khấu hao tài sản cố định, tiền thuê nhà, thuê đát, lương theo thời gian … Tổng chi phí cố định là không đổi nhưng định phí cho một đơn vị đo lường mức lưu chuyển hàng hoá lại thay đổi theo mối quan hệ: khi mức lưu chuyển hàng hoá tăng lên thì nó giảm đi và ngược lại. Chi phí biến đổi(chi phí khả biến): là những chi phí phát sinh trong kỳ thay đổi cùng chiều với sự thay đổi của mức lưu chuyển hàng hoá trong kỳ. Các khoản chi phí này bao gồm: chi phí vận chuyển, vật liệu đóng gói, vận chuyển, bảo quản hàng hoá, lương theo sản phẩm… Tổng chi phí khả biến thay đổi nhưng chi phí khả biến cho một đơn vị kết quả lại không thay đổi. Phân loại chi phí kinh doanh theo tiêu chuẩn này có tác dụng tốt trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư, giá cả hàng hoá và kế hoạch lợi nhuận của doanh nghiệp thương mại. Mặt khác, qua cách phân loại này đã chỉ rõ rằng: đẩy mạnh mức lưu chuyển hàng hoá là một trong những biện pháp quan trọng để giảm tỷ suất chi phí kinh doanh hay tiết kiệm chi phí kinh doanh. Điều này xuất phát từ mối quan hệ giữa chi phí cố định và chi phí khả biến trên đồ thị như sau: { Vẽ Hình } Doanh thu Doanh thu CP “Lãi” CP khả biến CP cố định Q’ Sản lượng 3.Phân loại theo các khâu kinh doanh. Theo cách phân loại trên, chi phí được chia thành chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ và chi phí quản lý. 3.1.Chi phí sản xuất: Theo cách phân loại, toàn bộ chi phí sản xuất của một doanh nghiệp có thể chia thành các yếu tố sau: Nguyên vật liệu chính mua ngoài: là toàn trị giá nguyên vật liệu chính dùng vào sản xuất mà doanh nghiệp phải mua từ bên ngoài bao gồm: giá mua nguyên vật liệu, chi phí vận chuyển về kho, hao hụt định mức… Vật liệu phụ mua ngoài: Bao gồm các loại nhiên liệu như than, củi,điện…mua từ bên ngoài dùng cho sản xuất của doanh nghiệp. Tiền lương: Bao gồm lương chính, lương phụ của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. BHXH, BHYT:Là số tiền tính theo một tỷ lệ quy định trên quỹ lương để hình thành quỹ BHXH, BHYT nhằm trợ cấp về mất sức lao động tạm thời hay vĩnh viễn, hưu trí, ốm đau, tai nạn…của công nhân sản xuất. Khấu hao tài sản cố định: là số tiền khấu hao những tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các chi phí khác bằng tiền: Bao gồm những chi phí về tiền mặt mà theo tính chất kinh té thì không thể sắp xếp vào các yếu tố kể trên như tiền công tác phí, văn phòng phí, chi phí về bưu điện… 3.2.Chi phí tiêu thụ sản phẩm. Chi phí tiêu thụ sản phẩm hay còn gọi là chi phí lưu thông của một doanh nghiệp dịch vụ có tính chất sản xuất bao gồm chi phí liên quan trực tiếp đến việc tiêu thụ sản phẩm, chi phí cho việc mở rộng thị trườngvà nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp ra thị trường. Chi phí trực tiếp tiêu thụ sản phẩm là những chi phí trực tiếp liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, phát sinh trong quá trình chuyển sản phẩm từ doanh nghiệp sản xuát đến người mua gồm các chi phí: Chi phí đóng gói sản phẩm để tiêu thụ;Chi phí vận chuyển sản phẩm đến kho của người mua;Chi phí bảo quản sản phẩm kể từ lúc xuất kho gửi đi bán; Chi phí bốc dỡ ở ga, bến tàu; Tiền thuê kho, thuê bãi… Chi phí nhằm nâng cao khả năng tiêu thụ sản phẩm là những chi phí cho việc nghiên cứu thị trường, làm cho việc sản xuất của doanh nghiệp dịch vụ phù hợp với nhu cầu tiêu dùng và những chi phí khác cho hoạt động nhằm mở rộng thị trường… Chi phí cho công tác điều tra, nghiên cứu thị trường gồm những chi phí cho công việc điều tra; thu nhập thông tin thị trường và phân tích thị trường phục vụ cho việc ra các quyết định kinh doanh. Chi phí quảng cáo: Là những chi phí cho hoạt động quảng cáo, nhằm thu hút người mua để mở rộng thị trường và đẩy mạnh tiêu thụ như: chi phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin tuyên truyền, làm áp phích panô… 3.3. Chi phí quản lý : Chi phí quản lý doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá phát sinh ở bộ máy quản lý chung của doanh nghiệp . Đây là chỉ tiêu tương đối quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp kinh doanh nào nên để hoạt động và tồn tại các doanh nghiệp buộc phải có bộ máy quản lý để điều hành hoạt động kinh doanh của mình. Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm : Chi phí nhân viên quản lý : Là khoản tiền mà doanh nghiệp phải trả cho cán bộ công nhân viên quản lý như tiền lương , phụ cấp và các khoản tính theo lương. Chi phí vật liệu quản lý : Là toàn bộ giá trị vật liệu sản xuất dùng trong công tác quản lý như giấy, mực, bút, … vật liệu sửa chữa TSCĐ, công cụ, dụng cụ để sử dụng trong công tác quản lý . Chi phí khấu hao TSCĐ : Là biểu hiện bằng tiền phần giá trị hao mòn TSCĐ dùng chung cho doanh nghiệp như văn phòng làm việc, phương tiện, máy móc thiết bị truyền dẫn . Chi phí công cụ lao động nhỏ dùng cho công tác quản lý . Chi phí dịch vụ mua ngoài : Là khoản chi phí thanh toán cho các dịch vụ như điện nước, điện thoại, thuê nhà … Chi phí khác bằng tiền : Là các khoản chi phí không thuộc các loại chi phí đã kể trên, phát sinh tại bộ phận quản lý chung của doanh nghiệp như chi phí hội nghị, tiếp khách, công tác phí … Chi phí dự phòng : Là các khoản chi phí về dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng phải thu khó đòi … Thuế phí và lệ phí : Là các khoản như thuế môn bài, thuế nhà đất, lệ phí giao thông, chước bạ . Việc phân loại chi phí kinh doanh một cách khoa học, hợp lý có ý nghĩa to lớn trong công tác quản lý kinh tế của doanh nghiệp, là cơ sở quan trọng để nhận thức các hiện tượng kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh. Phân loại chi phí kinh doanh theo các tiêu thức khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí, xác định hướng phấn đấu, tiết kiệm chi phí kinh doanh và yêu cầu quản lý chi phí, từ đó có biện pháp thích hợp để tiết kiệm được chi phí, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Kết cấu của chi phí kinh doanh chịu sự tác động của nhiều nhân tố khác nhau như : Đặc điểm ngành nghề kinh doanh, trình độ trang bị kỹ thuật, công nghệ, công tác quản lý và phụ thuộc vào từng thời kỳ khác nhau. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ , xu hướng biến đổi chung là tỷ trọng các chi phí về lao động vật hoá ngày càng tăng lên trong khi tiền lương lại có xu hướng giảm xuống một cách tương đối trong tổng số chi phí kinh doanh của doanh nghiệp dịch vụ . ý nghĩa của việc phân loại chi phí kinh doanh : Như trên dã nêu, phân loại chi phí kinh doanh theo những tiêu thức phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh và các mục tiêu qủn lý kinh tế của doanh nghiệp sẽ giúp cho các doanh nghiệp thương mại xác định được xu hướng hình thành kết cấu của chi phí kinh doanh trong từng thời kỳ khác nhau. Đồng thời làm cơ sở cho công tác kế hoạch hoá, kiểm tra, phân tích , đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi phí kinh doanh của doanh nghiệp ; nhờ đó mà tìm ra được các biện pháp quản lý chi phí tốt, giảm chi phí kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Kết cấu của chi phí kinh doanh được biểu hiện qua tỷ trọng hình thành phần trăm (%) của từng loại chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Kết cấu chi phí kinh doanh thương mại chịu tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau như : Đặc điểm công nghệ , công tác quản lý…vào từng thời kỳ khác nhau… . Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, xu hướng biến đổi chung là tỷ trọng các chi phí về lao động vật hoá ngày càng tăng lên trong khi tiền lương lại có xu hướng giảm xuống một cách tương đối trong tổng số chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu kết cấu chi phí kinh doanh trong doanh nghiệp có ý nghĩa : Cho phép biết được tỷ trọng các bộ phận cấu thành chi phí kinh doanh của doanh nghiệp, từ đó nhận biết được xu hướng vận động của các bộ phận chi phí trong tổng chi phí kinh doanh thương maị của doanh nghiệp tạo tiền đề tốt cho công tác lập kế hoạch chi phí kinh doanh của doanh nghiệp . Tạo tiền đề tốt cho việc kiểm tra, phân tích, đánh giá việc thực hiện kế hoạch chi phí kinh doanh thương mại, xác định đúng đắn giá thành sản phẩm hàng hoá kinh doanh dịch vụ để tiêu thụ, xác định chính xác các biện pháp phấn đấu hạ thấp chi phí kinh doanh thương mại giảm giá thành toàn bộ sản phẩm, hàng hoá, dich vụ Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của chi phí kinh doanh dịch vụ : Các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của chi phí kinh doanh dịch vụ bao gồm 6 ._.chỉ tiêu như sau : Tổng chi phí kinh doanh dịch vụ, tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ, mức độ giảm hoặc tăng tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ, tốc độ giảm hoặc tăng lợi tỷ suất kinh doanh dịch vụ, mức độ tiết kiệm ( hay vượt chi ) chi phí kinh doanh dịch vụ, lợi nhuận / chi phí . 1.Tổng chi phí kinh doanh dịch vụ (F). Tổng chi phí kinh doanh dịch vụ là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh toàn bộ chi phí đã phát sinh và được phân bố cho khối lượng hàng hoá dịch vụ được xác định là tiêu thụ trong một thời kỳ nhất định. Chỉ tiêu tổng mức chi phí kinh doanh mới chỉ phản ánh quy mô tiêu dùng vật chất, tiền vốn và sức lao động để phục vụ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp dịch vụ và xác định số phí bù đắp từ thu nhập trong kỳ của doanh nghiệp mà chưa phản ánh được chất lượng của công tác quản lý chi phí của doanh nghiệp trong thời kỳ đó . Ngoài ra, tổng chi phí kinh doanh dịch vụ được dùng làm cơ sở để tính các chỉ tiêu tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ, mức độ giảm hoặc tăng tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ, tốc độ giảm hoặc tăng tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ, được sử dụng để xác định mức thu nhập, lợi nhuận của doanh nghiệp dịch vụ. 2.Tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ (F’): Tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ là chỉ tiêu tương đối phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa tổng chi phí kinh doanh dịch vụ và tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hoặc lao vụ trong kỳ. Tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ của từng doanh nghiệp dịch vụ được tính theo tỷ lệ phần trăm giữa mức chi phí kinh doanh dịch vụ so với mức tiêu thụ sản phẩm hoặc lao vụ thuần tuý . Chỉ tiêu này được xác định như sau : Trong đó : F’ : Tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ . F : Tổng chi phí kinh doanh dịch vụ M : Tổng mức tiêu thụ sản phẩm hoặc lao vụ thuần tuý . Chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị mức tiêu thụ sản phẩm hoặc lao vụ thì chi phí kinh doanh dịch vụ hết bao nhiêu tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ có thể được dùng để so sánh trình độ quản lý chi phí của các doanh nghiệp dịch vụ ( kể cả các doanh nghiệp khác nhau về quy mô ). Ngoài ý nghĩa này, tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ phản ánh được tổng số chi phí kinh doanh và tổng mức tiêu thụ sản phẩm hoặc lao vụ, nên ngoài việc đánh giá trình độ hoàn thành kế hoạch quản lý chi phí, thông qua tình hình thực hiện kế hoạch tỷ suất phí bình quân còn có thể so sánh thành tích phấn đấu tiết kiệm chi phí của một doanh nghiệp qua những thời kỳ khác nhau. Từ đó rút ra quy luật phát triển của chi phí kinh doanh nói chung và từng yếu tố của chi phí nói riêng. 3.Mức độ giảm ( hoặc tăng ) tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ ( DF’): Mức độ giảm ( hoặc tăng ) tỷ suất chi phí kinh doanh là mức chênh lệch của tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ báo cáo ( hoặc thực hiện ) so với tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ gốc ( kỳ kế hoạch ) . Chỉ tiêu này được xác định như sau : DF’=F1’- F0’ Trong đó : DF’ : Mức độ giảm ( tăng )tỷ suất chi phí kinh doanh . F1’ : Tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ báo cáo ( thực hiện ) . F0’ : Tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ gốc ( kế hoạch ) Mức độ giảm ( tăng) tỷ suất chi phí kinh doanh nói lên mức chênh lệch của tỷ suất chi phí kinh doanh giữa các thời kỳ. Không thể so sánh các thành tích phấn đấu giảm chi phí kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau khi hai đơn vị đó có cùng một mức độ giảm tỷ suất chi phí kinh doanh như nhau. Mặt khác, vì tỷ suất chi phí kỳ gốc (F0’ ) của các doanh nghiệp thường là khác nhau nên càng không thể so sánh thành tích giảm chi phí kinh doanh giữa các doanh nghiệp được. Ví dụ tỷ suất chi phí của các doanh nghiệp vận tải đường bộ khác tỷ suất chi phí của các doanh nghiệp vận tải đường thuỷ . Để so sánh thành tích phấn đấu giảm chi phí kinh doanh phải dùng chỉ tiêu tốc độ tăng ( giảm ) tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ . 4. Tốc độ giảm hoặc tăng tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ (TF’) Tốc độ tăng (giảm) tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ là tỷ lệ phần trăm của mức độ giảm tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ với tỷ suất chi phí kinh doanh dịch vụ kỳ gốc. Chỉ tiêu này được xác định như sau : Trong đó : TF’: Tốc độ tăng ( giảm ) tỷ suất chi phí kinh doanh . DF’ : Mức độ giảm tỷ suất chi phí kinh doanh . F0’ : Tỷ suất chi phí kinh doanh kỳ gốc ( kế hoạch ) 5. Mức tiết kiệm ( hay vượt chi ) chi phí kinh doanh dịch vụ (DF) : Mức tiết kiệm (hay vượt chi ) của chi phí kinh doanh được tính bằng tích số của mức độ tăng ( giảm ) tỷ suất chi phí kinh doanh với doanh thu tiêu thụ sản phẩm hoặc lao vụ kỳ báo cáo . Ta có công thức : DF = DF’´M1 Trong đó : DF : Mức tiết kiệm (hay vượt chi ) chi phí kinh doanh. DF’: Mức độ giảm ( tăng ) tỷ suất chi phí kinh doanh. M1 : Doanh thu tiêu thụ sản phẩm hoặc lao vụ kỳ báo cáo. 6. Lợi nhuận / chi phí kinh doanh : Chỉ tiêu này dùng để phản ánh phản lợi nhuận thu được của doanh nghiệp khi bỏ ra một đồng chi phí . Chỉ tiêu này thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận và tổng chi phí kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp trong một thời kỳ . Công thức biểu diễn : Lợi nhuận / chi phí kinh doanh = Tổng lợi nhuận Tổng chi phí kinh doanh dịch vụ Đây là chỉ tiêu quan trọng vì nó đánh giá được kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là có lãi hay không có lãi. Đồng thời căn cứ vào khả năng này doanh nghiệp đề ra các biện pháp quản lý chi phí nhằm góp phần tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Một số biện pháp chủ yếu hạ thấp chi phí kinh doanh . Các nhân tố ảnh hưởng tới chi phí kinhdoanh . 1.1.Nhân tố khách quan : Là những nhân tố bên ngoài doanh nghiệp, thuộc môi trường hoạt động của doanh nghiệp . Mục tiêu định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước là đưa đất nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Song đây là giai đoạn khá dài và chúng ta cũng không thể phủ nhận được những tiến bộ, ưu điểm của nền kinh tế thị trường trong xã hội tư bản. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn phương hướng phát triển nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết của Nhà nước. Nhà nước có vai trò là người hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết hoạt động kinh doanh ở tầm vĩ mô thông qua các luật lệ, chính sách và các biện pháp kinh tế. Nhà nước tạo môi trường và hành lang pháp lý cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào những ngành nghề có lợi cho đất nước, cho doanh nghiệp đồng thời cũng hạn chế hoạt động của doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực có ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, chính trị của xã hội, quốc gia . Để quản lý được như vậy Nhà nước ra quyết định về chủ trương, đường lối, chính sách, chế độ quản lý kinh tế áp dụng cho các thời kỳ, các chế độ kế toán tài chính, chế độ tiền lương, thuế … Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải tuân thủ các chủ trương, đường lối do Nhà nước đề ra và các quy định, chế độ đó là chỗ dựa cho công tác quản lý chi phí kinh doanh, là điều kiện cơ bản cho việc áp dụng chế độ kiểm tra, phân tích hạch toán chi phí kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn kinh doanh theo mục tiêu “Khách hàng là thượng đế “ vì vậy thị trường và khách hàng là những nhân tố ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự biến động của thị trường dẫn đến giá cả hàng hoá tiêu thụ cũng luôn biến động. Sự thay đổi giá cả hàng hoá tiêu thụ làm cho tổng mức chu chuyển thay đổi dẫn đến sự thay đổi cuả tỷ suất lưu thông. Nếu giá cả các loại vật liệu, lao vụ tăng thì chi phí kinh doanh sẽ tăng lên và ngược lại giá cả vật liệu, lao vụ hạ thấp thì sẽ tạo điều kiện cho việc hạ thấp chi phí kinh doanh. Đây là nhân tố khách quan tồn tại ngoài ý muốn chủ quan của doanh nghiệp, doanh nghiệp vận động theo cơ chế thị trường phải tuân thủ theo qui luật giá cả cạnh tranh và sự điều tiết của nền kinh tế thị trường. Từ sự biến động của thị trường doanh nghiệp phải tính toán và vận dụng giá cả hợp lý không những có thể hạ thấp được chi phí và vẫn đảm bảo được chất lượng công tác kinh doanh của doanh nghiệp. Để tính mức độ ảnh hưởng của giá cả hàng hoá ta tính theo công thức : Trong đó : DF’PM : Mức độ ảnh hưởng của giá cả hàng hoá tiêu thụ đến tỷ suất phí F1 : Tổng mức chi phí kinh doanh thực hiện M1 : Doanh số bán ra thực hiện theo giá trị thực hiện M01 : Doanh số bán ra thực hiện theo giá kỳ gốc . Các doanh nghiệp kinh doanh hoạt động đều phải chịu sự ảnh hưởng rất lớn của thị trường nhưng có lẽ doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ là chịu ảnh hưởng lớn hơn . bởi những khoản mục về chi phí của doanh nghiệp có rất nhiều khoản mục chi phí chịu ảnh hưởng của yếu tố khách quan hơn là những khoản mục chi phí chịu ảnh hưởng của yếu tố chủ quan doanh nghiệp. Các khoản mục luôn có sự biến động, nhất là chi phí về giá cước vận chuyển, tiền lương, tiền lãi vay, chi phí nhiên liệu, tiền thuê nhà cửa, bãi đậu xe … Sự thay đổi này có ảnh hưởng trực tiếp đến tổng mức chi phí và tỷ suất chi phí của doanh nghiệp. Việc xác định mức độ ảnh hưởng của giá cả chi phí đến tổng mức phí và tỷ suất phí được thực hiện trên cơ sở tính toán chi tiết các khoản mục chi phí. Căn cứ vào những thời điểm có thay đổi giá phí để tính toán số chênh lệch đối với từng khoản mục theo công thức sau : DF(PF) =SDF1(PF1) Trong đó: DF’(PF),DF(PF) : Mức độ ảnh hưởng của giá trị chi phí đến tổng mức và tỷ suất chi phí. Ngoài ra nhiều phát sinh sáng chế khoa học kỹ thuật ra đời đã góp phần không nhỏ trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, quá trình hoàn thiện các quy trình công nghệ mới áp dụng trong quy trình bảo quản, giao nhận, xếp dỡ, cân đong, đo đếm…là nhân tố góp phần hạ thấp chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật còn kéo theo sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá trong nước, làm cho hàng hoá tăng lên về cả quy mô và chất lượng. Từ đó có ảnh hưởng rất lớn tới khối lượng và cơ cấu tiêu dùng hàng hoá mà chi phí kinh doanh cũng phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp. Từ những phân tích trên đây, chúng ta thấy rõ những nhân tố khách quan thuộc môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần nhận biết được nhân tố đó để tìm cách hạn chế việc tăng chi phí kinh doanh, hạn chế những mặt tiêu cực, thúc đẩy các nhân tố tích cực góp phần hạ thấp chi phí kinh doanh là một trong những mục tiêu của doanh nghiệp. 1.2.Nhân tố chủ quan. Bên cạnh những nhân tố khách quan còn có những nhân tố chủ quan ảnh hưởng tới chi phí sản xuất kinh doanh nghiệp như sự thay đổi của cơ cấu ngành kinh doanh, quy mô của doanh nghiệp, đặc điểm sản xuất kinh doanh nghiệp, trình độ tổ chức quản lý lao động…Ngoài ra chi phí kinh doanh còn chịu sự ảnh hưởng của nhân tố khác như: tổ chức mạng lưới kinh doanh, khai thác các nguồn hàng, tổ chức vận động hàng hoá hợp lý, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong kinh doanh và quản lý kinh tế. Những nhân tố này là nhân tố chủ quan mang tính chất bên trong doanh nghiệp hay doanh nghiệp có thể tác động vào chúng để giảm chi phí kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm. Quy mô loại hình doanh nghiệp lớn hay nhỏ, kinh doanh chuyên doanh hay tổng hợp cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chi phí kinh doanh, xu hướng nói chung của doanh nghiệp chuyên doanh lớn là tính chuyên môn hoá cao, có khả năng tiết kiệm chi phí kinh doanh hơn các doanh nghiệp tổng hợp, kinh doanh đa mặt hàng vì khả năng áp dụng các phương tiện kỹ thuật dễ dàng hơn, năng suất lao động tăng lên. Mỗi nhóm hàng, mặt hàng hay ngành hàng kinh doanh đòi hỏi mức độ chi phí kinh doanh khác nhau. Khi thay đổi kết cấu hàng hoá tiêu thụ sẽ ảnh hưởng tới tổng mức chi phí và tỷ suất chi phí kinh doanh. Trong doanh nghiệp dịch vụ, để hoạt động kinh doanh, ngoài vốn, nhân lực còn có phương tiện vận chuyển(ô tô), nhà xưởng, đất bãi…là những cơ sở vật chất giúp cho doanh nghiệp thực hiện quá trình kinh doanh dịch vụ của mình. Nếu hệ thống bãi để xe của đội xe được sấp xếp hợp lý, tiện cho việc vận chuyển hàng hoá thì sẽ góp phần giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết, tiết kiệm được chi phí. Sự hoàn thiện của cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp sao cho phù hợp với nhu cầu, nhiệm vụ kinh doanh sẽ tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động. Việc nâng cao năng suất lao động có ảnh hưởng rất lớn tới chi phí kinh doanh, nếu năng suất lao động của người lao động cao thì sẽ tiết kiệm được quỹ tiền lương, giảm bớt chi phí tiền lương trong một đơn vị sản phẩm tiêu thụ, làm cho tổng mức chi phí kinh doanh giảm. Đồng thời việc tổ chức phân công quản lý lao động tại doanh nghiệp một cách khoa học, hợp lý cũng góp phần tiết kiệm chi phí kinh doanh. Sử dụng lao động ở các bộ phận tiếp nhận, vận chuyển…sao cho hiệu quả đáp ứng yêu cầu công việc, tổ chức tốt nơi làm việc sẻ nâng cao được năng suất lao động. Ngoài những nhân tố trên đây, việc thực hiện các chỉ tiêu tổng mức chi phí và tỷ suất chi phí kinh doanh, doanh nghiệp dịch vụ còn chịu tác động của các nhân tố sau: Khai thác các nguồn khách đi du lịch trong và ngoài nước để ký hợp đồng, nghiên cứu và ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công tác quản lý kinh tế, công tác quản lý nhân sự … Việc khai thác nguồn khách đi du lịch trong và ngoài nước được nhiều và đồng đều sẽ tạo được doanh thu cho doanh nghiệp. Từ đó, lượng xe hoạt động nhiều lên sẽ làm giảm những loại chi phí như: chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí thuê mặt bằng, bãi để xe, chi phí tiền lương cho công nhân lái xe,…Đó là những loại chi phí cố định mà xe không hoạt động thì doanh nghiệp vẫn phải chi trả cho những chi phí đó Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác quản lý kinh tế, công tác đưa đón khách là nhân tố quan trọng để đẩy mạnh và tăng nhanh lượng khách thuê xe, góp phần năng cao năng suất lao động, giảm chi phí kinh doanh. Doanh nghiệp cũng phải chủ động tìm nguồn khách hàng và tìm hiểu thị hiếu của khách hàng để tổ chức vận chuyển hợp lý, giảm bớt chi phí hao hụt và những chi phí không cần thiết khác để mục đích cuối cùng là giảm được chi phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Xác nhận đúng đắn các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh, tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đó để tìm ra biện pháp nhằm phấn đấu hạ tiếp chi phí kinh doanh luôn là vấn đề mà các doanh nghiệp quan tâm. 2.Các biện pháp nhằm hạ thấp chi phí kinh doanh trong doanh nghiệp. Tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh và tình hình thực tế của doanh nghiệp ta có thể đưa ra các biện pháp khác nhau để nhằm tiết kiệm chi phí. Song qua nghiên cứu các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh có thể đưa ra các biện pháp chung nhất sau: Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường: Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển, sản phẩm của doanh nghiệp phải được thị trường chấp nhận, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của xã hội thì nhu cầu, thị hiếu của con người cũng thường xuyên thay đổi. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Nhờ việc nắm bắt tốt nhu cầu thị trường thông qua nghiên cứu thị trường đã góp phần trực tiếp hạ thấp chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp . Tổ chức lao động hợp lý , khoa học: Việc tổ chức lao động hợp lý sẽ tránh được tình trạng lãng phí lao động, có tác dụng lớn trong việc nâng cao năng suất lao động. Nhưng điều quan trọng hơn và có ý nghĩa to lớn hơn trong việc tổ chức quản lý lao động là ở chỗ phải biết sử dụng “yếu tố con người “; biết khơi dậy tiềm năng cho doanh nghiệp . Doanh nghiệp phải thường xuyên chăm lo đời sống vật chất, văn hoá cho người lao động, không ngừng nâng cao tay nghề, trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn, khuyến khích họ phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, thực hiện tốt chế độ tiền lương, tiền thưởng nhằm tăng hiệu suất công tác tiết kiệm quĩ lương. Việc tiết kiệm quĩ lương không có nghĩa là giảm tiền lương của cán bộ công nhân viên mà phải làm cho tiền lương tăng lên, song mức tăng này phải nhỏ hơn tốc độ tăng năng suất lao động mà họ đạt được. Mặt khác, tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự phân phối kết hợp nhịp nhàng ăn khớp các bộ phận trong doanh nghiệp, từ đó sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp. Tổ chức việc cung ứng vật liệu cho vận chuyển : Là một doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải, chi phí về nhiên liệu là rất lớn. Chi phí về nhiên vật liệu phụ thuộc vào các khâu như: khâu mua, vận chuyển, kiểm nhận, bảo quản .. Doanh nghiệp phải biết tiết kiệm hợp lý nhiên liệu, vật liệu trong toàn bộ các khâu bắt đầu từ khâu mua, khâu dự trữ, khâu bảo quản cho đến khâu sản xuất để tiêu dùng. Đối với yếu tố lượng nguyên vật liệu tiêu hao: Các nhà quản lý doanh nghiệp phải tham gia vào việc xây dựng định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho một Km vận chuyển trên đường. Đồng thời cần có biện pháp kiểm tra, theo dõi, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp bội chi so với mức và hạn mức . Đối với yếu tố giá nguyên vật liệu: Các nhà quản lý cần phải quan tâm đến việc lựa chọn nguồn cung ứng, địa điểm giao hàng, thời hạn cung cấp, phương tiện vận chuyển … Cần phải dự đoán những biến động về cung cầu, giá nhiên liệu trên thị trường để có biện pháp thích ứng. Thông qua việc thanh toán cần kiểm tra lại giá mua nguyên vật liệu, số lượng, chủng loại, chi phí vận chuyển bốc dỡ, tình hình thực hiện hợp đồng của người bán xem có hợp lý không. Nếu xẩy ra trường hợp khác với hợp đồng ký kết, người quản lý tài chính doanh nghiệp phải cùng với các bên hữu quan tìm nguyên nhân, qui trách nhiệm và có biện pháp khắc phục kịp thời Tóm lại, các biện pháp trên chỉ mang tính chất chung cho các doanh nghiệp, vì vậy doanh nghiệp khác không thể áp dụng triệt để mà phải tuỳ thuộc vào tình hình thực tế của mình để lựa chọn biện pháp sao cho có hiệu quả nhất, phù hợp với khả năng của mình nhằm mục tiêu tiết kiệm chi phí và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp 3. ý nghĩa việc hạ thấp chi phí . Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải vượt qua được những bỡ ngỡ, khó khăn ban đầu để bước vào hoạt động kinh doanh trong môi trường mới chịu sự điều tiết bởi các qui luật khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường. Trước sự cạnh tranh gay gắt đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải linh hoạt, chủ động trong việc kinh doanh buôn bán để mang lại hiệu quả kinh tế xã hội, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, tạo được hiệu quả kinh doanh cao… không những giúp cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển mạnh mẽ trên thương trường mà còn nâng cao dược vị thế của doanh nghiệp đối với đối thủ cạnh tranh . Một trong những nhân tố tác động không nhỏ tới hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp là chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Càng hạ thấp chi phí kinh doanh của doanh nghiệp một cách hợp lý bao nhiêu thì càng góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh bấy nhiêu. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng cho bất cứ doanh nghiệp nào bởi chi phí là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận. Vì vậy các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh phải cố gắng quản lý tốt chi phí, từ đó có những biện pháp để hạ thấp chi phí một cách hợp lý nhất nhằm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Việc giảm chi phí sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp đẩy nhanh hơn nữa quá trình mở rộng qui mô kinh doanh. Hơn thế nữa, việc hạ thấp được chi phí sẽ tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp, từ đó nâng cao được đời sống cho cán bộ công nhân viên, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách. Trong nền kinh tế hiện nay, khách hàng là yếu tố quyết định cho sự sống còn của doanh nghiệp mà mối quan tâm lớn nhất của khách hàng là giá cả dịch vụ và chất lượng dịch vụ. Trong điều kiện chất lượng hàng hoá và dịch vụ như nhau thì giá cả sẽ là yếu tố quyết định tới việc mua hay không mua của khách hàng. Trong trường hợp này thì doanh nghiệp phải tìm cách hạ thấp được chi phí, nếu chi phí càng thấp thì giá bán hàng hoá dịch vụ sẽ hạ thấp và giúp cho doanh nghiệp có thể cạnh tranh được trên thị trường. Việc giảm chi phí kinh doanh sẽ góp phần tiết kiệm vốn và chi phí của nền kinh tế là điều kiện để tăng lợi nhuận, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp là điều kiện để doanh nghiệp hạ thấp giá cả, tăng khả năng cạnh tranh . Tóm lại ta có thể nói rằng chi phí kinh doanh có vai trò hết sức quan trọng đối với bất cứ một doanh nghiệp nào, nó có ảnh hưởng rất lớn tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tới sự tồn tại của doanh nghiệp trên thương trường. Việc giảm chi phí kinh doanh là mục tiêu mà các doanh nghiệp luôn đề cập tới. Tuy nhiên việc tiết kiệm chi phí không có nghĩa là cắt xén các khoản chi phí cần thiết phục vụ cho quá trình kinh doanh mà hạ thấp chi phí kinh doanh luôn gắn liền với nguyên tắc tiết kiệm, hiệu qủa của doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo được chất lượng hàng hoá, dịch vụ cho người tiêu dùng . chương II. Chi phí kinh doanh và tình hình chi phí kinh doanh tại công ty vận chuyển khách du lịch I- Một số nét về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty : 1- Quá trình hình thành và phát triển Công Ty. Công ty vận chuyển khách du lịch là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo quyết định số 89/TCCB ngày 27/3/1993 của Tổng cục trưởng Tổng Cục Du Lịch, hoạt động theo phương thức lấy thu bù chi, có con dấu, tài khoản tiền Việt Nam và ngoại tệ tại Ngân Hàng Công Thương Việt Nam. Trụ sở của Công ty đặt tại 16A-Nguyễn Công Trứ-Hai Bà Trưng-Hà Nội. Sự hình thành và phát triển của Công ty gắn liền với sự hình thành và phát triển của ngành Du Lịch. Từ ngày 9/7/1960 Công ty còn là bộ phận của Tổng Cục Du Lịch chuyên trách nhiệm vụ đưa đón khách của Cơ quan nên còn gọi là ban điều hành đưa đón khách. Sau đó, nhờ được bổ sung vốn mua sắm thêm TSCĐ, đội xe phát triển thành đoàn xe du lịch vào năm 1967. Cùng với sự tăng trưởng về qui mô và địa bàn hoạt động, năm 1981, đoàn xe du lịch chuyển thành xí nghiệp xe ô tô du lịch. Lúc này, xí nghiệp có khoảng trên 50 xe các loại cùng cơ cấu nhà xưởng rộng rãi. Cho đến năm 1987, theo quyết định số 57/QĐ/TCCB, xí nghiệp ô tô du lịch được thực hiện chế độ hạch toán độc lập và có tư cách pháp nhân. Từ năm 1993 đến nay công ty có tên chính thức là Công ty vận chuyển khách du lịch. Hoạt động chủ yếu của công ty là dịch vụ vận chuyển khách đi tham quan du lịch các miền đất nước . 2. Chức năng , nhiệm vụ và hoạt động kinh doanh của Công ty : 2.1.Chức năng , nhiệm vụ của Công ty : Chức năng : Công ty vận chuyển khách du lịch có chức năng thực hiện các hoạt động kinh doanh trên cơ sở các thế mạnh về vị trí, thiết bị,cơ sở vật chất và lao động nhằm phục vụ có chất lượng và hiệu quả nhu cầu tham quan du lịch của khách, góp phần giáo dục văn hoá, tư tưởng truyền thống và nâng cao hiểu biết của nhân dân. Thực hiện tốt chế độ nộp thuế theo quy định của nhà nước, tăng trưởng vốn tạo nguồn thu ngày càng cao cho cán bộ công nhân viên của Công ty. Nhiệm vụ : + Thực hiện đầy đủ các chỉ thị của giám đốc Việt Nam Tourism về nhiệm vụ vận chuyển khách du lịch. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các kế hoạch đã được Tổng Cục giao. + Tăng cường xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, từng bước hiện đại hoá phương pháp phục vụ xây dựng đội ngũ nhân viên có trình chuyên môn cao, đáp ứng nhu cầu phát triển của doanh nghiệp trong điều kiện mới. + Mở rộng các mối quan hệ, phát triển thị trường, đảm bảo cân bằng thu chi, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà Nước, nâng cao đời sống của người lao động. 2.2.Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty : Do đặc trưng của ngành dịch vụ nói chung và dịch vụ du lịch nói riêng, hoạt động kinh doanh của Công ty vận chuyển khách du lịch rất đa dạng, gồm nhiều hoạt động. Nhưng hoạt động chủ yếu và cũng là nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty là vận chuyển khách đi tham quan du lịch. Đối tượng vận chuyển là cá nhân, tập thể không hạn chế số lượng. Thị trường hoạt động chủ yếu của Công ty là nội địa, tại các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử và thành phố đẹp trong nước. Phối hợp với hoạt động vận chuyển khách, Công ty kinh doanh dịch vụ khách sạn Hướng Dương nhằm đáp ứng nhu cầu lưu trú của khách du lịch dài ngày. Ngoài ra khách sạn còn đáp ứng các dịch vụ ăn uống, giặt là, vui chơi giải trí... Điều này giúp cho Công ty có được nguồn khách hàng thuờng xuyên, ổn định và góp phần tăng nhanh doanh thu dịch vụ của công ty. Bên cạnh đó, trung tâm lữ hành Thăng Long được mở ra với mục đích môi giới và tổ chức các Tour du lịch cho các tập thể. Đơn vị này cũng phải chịu sự quản lý và điều hành trực tiếp của Công ty Như vậy, cơ cấu hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của Công ty là khá hoàn chỉnh với 3 đơn vị hoạt động song song, ăn khớp với nhau. Công ty đã thực sự đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của khách hàng và tạo dựng vị thế cuả mình trên thị trường. 3.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và bộ máy kế toán của Công ty : 3.1.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý : Việc tổ chức quản lý kinh doanh tại Công ty được tổ chức theo quy mô trực tiếp từ ban giám đốc xuống các phòng ban và đơn vị trực thuộc . Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý: Giám Đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Phòng T.C-H.C Phòng T.C-K.T Phòng KH-KD Phòng KT-VT Ta có sơ đồ bộ máy quản lý của Công ty như sau: Ban giám đốc gồm 3 người : 1 giám đốc và 2 phó giám đốc. Trong đó: Giám đốc là người điều hành toàn bộ hoạt động của Công ty, chịu trách nhiệm trước cán bộ công nhân viên, Uỷ ban nhân dân thành phố và Sở Du Lịch. Giúp việc cho giám đốc có các phó giám đốc phụ trách các đơn vị trực thuộc và các phòng ban chức năng do giám đốc dề nghị và được Sở Du lịch bổ nhiệm ; Phó giám đốc phụ trách đội xe và phó giám đốc phụ trách khách sạn chịu trách nhiệm quản lý chung tình hình của đội xe và khách sạn , tham mưu cho giám đốc để lãnh đạo hoạt động kinh doanh của toàn Công ty . Phòng tổ chức hành chính : Tổ chức hoạt động nhân sự, lao động trong Công ty. Thực hiện các chế độ với người lao động theo bộ luật lao động và luật pháp quy định như : Lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các công tác quản lý hành chính khác . Phòng kế hoạch kinh doanh có nhiệm vụ lập, đề xuất các phương án sản xuất kinh doanh theo tháng, quý, năm; Thực hiện kiểm tra, đôn đốc hoàn thành các báo cáo để trình lãnh đạo; Tiếp thị, dẫn khách và ký kết hợp đồng thuê xe; Thống kê, theo dõi doanh số của khách sạn và của đội xe . Phòng tài chính kế toán có nhiệm vụ thực hiện ghi chép, phân loại, cân đối hoạt động tài chính, hạch toán lỗ lãi , đề ra phương pháp giúp ban giám đốc trong các kế hoạch quản lý kinh tế tài chính của Công ty. Phòng kỹ thuật , vật tư có nhiệm vụ mua sắm các trang thiết bị vật tư, phục vụ sửa chữa, bảo dưỡng xe, giám sát các chỉ tiêu kỹ thuật đội xe. 3.2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và bộ máy kế toán của công ty : Với đặc điểm hoạt động kinh doanh đa dạng và phức tạp, công ty luôn coi trọng công tác tổ chức , sắp xếp đội ngũ kế toán phù hợp với chức năng , nhiệm vụ, phát huy hết vai trò của kế toán nói chung và khả năng của từng nhân viên kế toán nói riêng . Từ tình hình thực tế của Công ty, phòng kế toán của Công ty được tổ chức như sau : Một kế toán trưởng : Chịu trách nhiệm hướng dẫn, chỉ đạo về mặt nghiệp vụ cho các nhân viên kế toán. Chấp hành chế độ báo cáo thống kê định kỳ, tổ chức bảo quản hồ sơ tài liệu kế toán theo chế độ lưu trữ. Vận dụng sáng tạo và cải tiến hình thức, phương thức kế toán chặt chẽ, phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty. Một kế toán tổng hợp : Có nhiệm vụ theo dõi các khoản phải thu, chi tạm ứng đồng thời tập hợp các số liệu của các thành phần kế toán khác, lập bảng kê, bảng phân bổ, tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm, lập báo cáo kế toán định kỳ, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước . Một kế toán quỹ tiền mặt : Theo dõi các khoản phải thu, chi tiền mặt và tồn quỹ tiền mặt tại doanh nghiệp. Theo dõi doanh thu của các hoạt động và bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty theo từng kỳ kinh doanh. Mỗi bộ phận kế toán tuy có chức năng nhiệm vụ riêng song lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong công tác kế toán chung toàn Công ty . Kế toán trưởng Kế toán Tổng hợp Kế toán quỹ tiền mặt Thủ quỹ Trưởng ban kế toán các đ.v trực thuộc Sơ đồ bộ máy của Công ty : Hình thức tổ chức kế toán của Công ty là phân tán. Theo đó, ngoài phòng kế toán của Công ty, ở các bộ phận, đơn vị trực thuộc còn tổ chức các tổ kế toán với nhiệm vụ kiểm tra, thu thập xử lý chứng từ ban đầu, hạch toán chi tiết các hoạt động của bộ phận mình tuỳ theo sự phân cấp quản lý trong doanh nghiệp. Để thuận tiện trong việc phân công công tác và cơ giới hoá công tác kế toán sổ sách kế toán theo hình thức chứng từ ghi sổ. Đây là hình thức kế toán tương đối đơn giản, dễ đối chiếu, kiểm tra, tạo điều kiện cho việc tập hợp chi phí sản xuất. Hệ thống sổ sách ở công ty tương đối đầy đủ và đúng với chế độ kế toán hiện hành. 4.Những thành tích đã đạt được và những mặt còn tồn tại của toàn Công ty qua một số chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh của Công ty sau đây : Biểu 1 : Kết quả hoạt động kinh doanh toàn Công ty ( năm 2000 – 2001 ) Đơn vị:đồng. Chỉ tiêu Năm 2000 năm 2001 So sánh 2000/2001 Số tiền Tỷ trọng (%) S Doanh thu 3777175952 3038119521 -739056431 -19.57 Các khoản giảm trừ : 622456266 Giá vốn hàng bán 485919324 636571080 150651756 31.00 Chi phí bán hàng 3005549803 3004367148 -1182655 -0.04 Chi phí QLDN 423663075 468236770 44573695 10.52 Lợi tức từ HĐKD -760412516 -1071055477 -310642961 2. Thu nhập HĐTC 7656266 12216984 4560718 59.57 Chi phí HĐTC Lợi nhuận HĐTC 7656266 12216984 4560718 59.57 3. Thu nhập bất thường 614800000 863691677 248891677 40.48 Chi phí bất thường 105320000 5916849 -99403151 -94.38 Lợi nhuận bất thường 509480000 857774828 348294828 68.36 4. Lợi nhuận trước thuế -243276250 -201063665 42212585 -17.35 5. S Quỹ lương 1140051328 1187890505 47839177 4.20 Tiền lương bình quân công nhân 5816588 6060666 244078 4.20 6. Các khoản nộp ngân sách 549113496 454158465 -94955031 -17.29 Qua số liệu trên biểu 1 , ta thấy tổng doanh thu của Công ty năm 2000 là 3.777.175.952 ( đồng ) và của năm 2001 là 3.038.119.521 ( đồng ). Như vậy, so với năm trước, năm nay doanh thu đã giảm đi 739.056.431 ( đồng ) tương ứng với tỷ lệ giảm là 19.57% . Tuy doanh thu có giảm n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0186.doc
Tài liệu liên quan