Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở ở tỉnh hà tây thực trạng và giải pháp

Tài liệu Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở ở tỉnh hà tây thực trạng và giải pháp: ... Ebook Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở ở tỉnh hà tây thực trạng và giải pháp

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở ở tỉnh hà tây thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ TÀI CHÍNH HỌC VIỆN TÀI CHÍNH ------ LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP Đề tài : chi ngõn sỏch nhà nước cho sự nghiệp giỏo dục trung học cơ sở ở tỉnh hà tõy thực trạng và giải phỏp LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị. LỜI MỞ ĐẦU Sự nghiệp giáo dục đào tạo luôn có vị trí đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia, nhất là những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trong văn kiện của Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định … “Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá, là điều kiện phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Chính vì tầm quan trọng đó của giáo dục đào tạo cho nên những khoản chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục cũng đặc biệt được coi trọng. Trong những năm gần đây những khoản chi cho ngành giáo dục thường rất lớn, năm1999 là 10335 tỷ đồng. Tuy nhiên, có một thực tế phát sinh là : Mặc dù những khoản chi này rất lớn nhưng vẫn không đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu của ngành giáo dục như : mua sắm đò dùng, trang thiết bị dạy học, tiền lương chi trả cho cán bộ công nhân viên v.v… (hơn nữa, trong tương lai ngân sách Nhà nước có xu hướng giảm các khoản chi thường xuyên để tăng cường cho các khoản chi đầu tư phát triển). Chính vì thế, để sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển, thì bên cạnh các khoản chi ngân sách Nhà nướccần phải có những biện pháp mới thu hút thêm nhiều nguồn vốn đầu tư cho giáo dục, đồng thời cũng phải tăng cường công tác quản lý đối với các nguồn vốn này, tránh tình trạng sử dụng lãng phí kém hiệu quả. Tuy nhiên, do trình độ nghiên cứu chưa sâu rộng và thực tế tích luỹ còn hạn chế cho nên đề tài này của em không thể nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện công tác quản lý chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục đào tạo ở Việt Nam mà chỉ đề cập một phần rất nhỏ tình hình chi và quản lý chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở ở một địa phương mà cụ thể là ở tỉnh Hà Tây. CHƯƠNG I LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH, CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT CHI VÀ QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH CHO GIÁO DỤC. 1.1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH VÀ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ngân sách nhà nước , nếu xét theo hình thức biểu hiện bên ngoài và ở trạng thái tĩnh thì đó là một bảng dự toán thu chi bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định (và thường là một năm). Còn nếu xét về thực chất, và ở trạng thái động, Ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính vĩ mô và là khâu tài chính chủ đạo của hệ thống tài chính nhà nước, được nhà nước sử dụng để phân phối một bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị nhằm thực hiện các nhiệm vụ chức năng của nhà nước. Ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế giữa nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. *Luật “Ngân sách nhà nước” cũng đưa ra một khái niệm về Ngân sách nhà nước là …” Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước …” Những đặc điểm của Ngân sách Nhà nước. Đặc điểm 1 : Các hoạt động tạo lập và sử dụng quỹ Ngân sách nhà nước gắn chặt với quyền lực kinh tế, chính trị của Nhà nước và việc thực hiện các chức năng của Nhà nước. Nói cách khác, quyền lực của nhà nước và các chức năng của nó là nhân tố trực tiếp quyết định đến mức thu chi, nội dung và cơ cấu thu chi của ngân sách nhà nước. Đặc điểm 2 : Các hoạt động thu chi của Ngân sách nhà nước đều được tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định. Đặc điểm 3 : Nguồn tài chính chủ yếu hình thành nên Ngân sách nhà nước là từ giá trị sản phẩm thặng dư của xã hội được hình thành chủ yếu qua quá trình phân phối lại mà trong đó thuế là hình thức thu chủ yếu. Đặc điểm 4 : Ẩn sau các hoạt động thu chi của Ngân sách nhà nước là việc xử lý các mối quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích trong xã hội khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia. *Chi Ngân sách nhà nước là việc phân phối và sử dụng quỹ Ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Nội dung của chi Ngân sách nhà nước bao gồm : Chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển và chi khác. Chi thường xuyên của Ngân sách nhà nước là quá trình phân phối, sử dụng vốn từ quỹ Ngân sách nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về quản ly kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng. Nếu xét theo từng lĩnh vực chi thì nội dung chi thường xuyên của Ngân sách nhà nước bao gồm : -Chi cho các hoạt động thuộc lĩnh vực văn xã. -Chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế của Nhà nước. -Chi cho các hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. -Chi cho quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội. -Chi khác. Còn xét theo đối tượng sử dụng kinh phí thì nội dung chi thường xuyên của Ngân sách nhà nước bao gồm : -Các khoản chi cho con người thuộc khu vực hành chính sự nghiệp. -Các khoản chi về hàng hoá dịch vụ tại cơ quan nhà nước. -Các khoản chi hỗ trợ và bổ xung nhằm thực hiện các chính sách xã hội hay góp phần điều chỉnh kinh tế vĩ mô của nhà nước. -Các khoản chi để trả lãi tiền vay và lệ phí có liên quan đến các khoản vay. -Các khoản chi khác. Chi đầu tư phát triển của Ngân sách nhà nước là quá trình nhà nước sử dụng một phần vốn tiền tệ đã được tạo lập thông qua hoạt động thu của ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, phát triển sản xuất và để dự trữ vật tư hàng hoá nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu ổn dịnh và tăng trưởng của nền kinh tế. Chi đầu tư phát triển của Ngân sách nhà nước, nếu xét theo mục đích bao gồm các nội dung sau : -Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi vốn. -Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, góp vốn cổ phần, liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết và có sự góp mặt của nhà nước theo quy định của pháp luật. -Chi cho quỹ hỗ trợ phát triển để thực hiện tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước. -Chi dự trữ nhà nước. Nếu xét theo nội dung hoạt động đầu tư phát triển thì chi đầu tư phát triển bao gồm các nội dung sau. -Chi đầu tư xây dựng cơ bản. -Chi để hình thành và bổ xung vốn lưu dộng của các doanh nghiệp nhà nước. -Chi bổ xung một phần vốn điều lệ của quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia (nay là quỹ hỗ trợ phát triển) để thực hiện các hoạt động tín dụng đầu tư phát triển. -Chi cho quỹ dự trữ nhà nước. Bên cạnh, chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, Ngân sách nhà nước còn bao gồm chi khác (là những khoản chi không được xếp vào chi thường xuyên hay chi đầu tư phát triển). Thuộc về chi khác bao gồm : -Chi bổ xung quỹ dự trữ tài chính. -Chi trả nợ gốc các khoản vay trong nước cho đầu tư phát triển. -Chi trả nợ gốc các khoản vay ngoài nước để đầu tư phát triển . -Chi trả nợ gốc các khoản vay nước ngoài để cho vạy lại hoặc cho các mục đích khác. -Chi để thực hiện đúng và tham gia góp vốn với các tổ chức như ngân hàng thế giới (WB), ADB, ASEAN. Ngoài ra, ở một số địa phương chưa có điều kiện phân cấp quản lý Ngân sách cho tất cả các xã vì thế chưa tổng hợp thu chi ngân sách xã vào Ngân sách nhà nước. Nên số chi bổ xung ngân sách xã từ ngân sách địa phương (Tỉnh, huyện) được coi như số chi khác của ngân sách cấp đó. 1.2. VAI TRÒ CỦA CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VỚI SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NÓI CHUNG VÀ GIÁO DỤC THCS NÓI RIÊNG. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẦU TƯ CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ. 1.2.1. Vai trò của chi Ngân sách nhà nước với sự nghiệp giáo dục. Ở Việt Nam , 64 tỉnh, thành phố đã cơ bản hoàn thành việc phổ cập giáo dục tiểu học và hướng phấn đấu của ngành giáo dục trong thời gian tới là phổ cấp giáo dục trung học cơ sở. Chính vì lẽ đó, trong những năm tới đây, việc tăng cường chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói chung và giáo dục trung học cơ sở nói riêng là điều tất yếu. Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở là sự thể hiện quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị được thực hiện từ quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm duy trì và phát triển hệ thống giáo dục trung học cơ sở theo những định hướng chung của nhà nước. Trong những năm gần đây, trong các nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp giáo dục Trung học cơ sở, thì nguồn Ngân sách nhà nước vẫn giữ vị trí và vai trò chủ đạo. Điều này được thể hiện. Thứ nhất : Ngân sách nhà nước là nguồn tài chính cơ bản, to lớn để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục trung học cơ sở theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, là bởi : trong những năm gần đây, việc xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trung học THCS ở nước ta mặc dù đã có những bước tiến, song còn nhiều hạn chế. Việc đóng góp của nhân dân cho sự nghiệp giáo dục THCS chưa đáp ứng được các yêu cầu trong giai đoạn mới. Chính vì thế trong thời gian tới, để duy trì và phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung và sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở nói riêng, thì bên cạnh nguồn từ Ngân sách nhà nước, nhà nước ta cần có những chính sách thu hút thêm nguồn tài chính ngoài ngân sách và kêu gọi thêm sự đóng góp của nhân dân cho sự nghiệp giáo dục. Thứ hai : Ngân sách nhà nước là nguồn tài chính cơ bản đảm bảo đời sống cho đội ngũ cán bộ, giáo viên của hệ thống giáo dục, tức là đảm bảo được các điều kiện cần thiết tối thiểu cho cuộc sống. Hơn nữa ngoài việc đảm bảo tiền lương hàng tháng thì Ngân sách nhà nước còn dành riêng một phần để ưu đãi cho ngành giáo dục như phụ cấp giảng dạy, phụ cấp trách nhiệm phụ cấp thâm niên v.v… Thứ ba : Ngân sách nhà nước được sử dụng để xây dựng mới trường, lớp nâng cấp sửa chữa cải tạo, mua sắm trang thiết bị dạy học. Đồng thời, đầu tư của Ngân sách nhà nước được coi như nguồn vốn ban đầu để khuyến khích sự đóng góp của quần chúng nhân dân. Thông qua chi Ngân sách nhà nước bước đầu tạo nên những yếu tố cơ bản hình thành hệ thống trường, lớp v.v… Để hệ thống này duy trì và phát triển thì ngoài nguồn vốn của Ngân sách nhà nước cần có thêm sự đóng góp của các thành phần kinh tế khác, thực hiện đúng phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”… Qua đây, ta thấy, vai trò của chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục nói chung và sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở nói riêng chỉ thực sự đúng nghĩa khi các khoản chi này được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. 1.2.2. Sự cần thiết phải đầu tư cho sự nghiệp giáo dục : Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX có ghi … “phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững…” Qua đó, để thấy được tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục đào tạo trong tiến trình phát triển đất nước. Như ta đã biết, quá trình giáo dục được diễn ra liên tục, trong nhiều năm. Tuy nhiên có một thực tế là, ngành giáo dục đào tạo không trực tiếp làm ra của cải vật chất cũng như không tự mình duy trì được các hoạt động nếu như không có sự đầu tư về kinh phí của nhà nước. Hơn nữa, nguồn kinh phí này cũng phải làm sao tương xứng với vị trí, vai trò của ngành giáo dục, đào tạo, tức là phải đảm bảo đầy đủ để duy trì cho mọi hoạt động thường nhật, cũng như sự phát triển của ngành. Có một thực tế, khi đầu tư cho giáo dục thì vẫn chưa đem lại hiệu quả, lợi ích ngay tức khắc mà phải trải qua nhiều năm, nhiều giai đoạn việc đầu tư đó mới đem lại kết quả - Đó là tạo ra những con người có trình độ, có tri thức là những điều kiện rất tốt, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá của đất nước. Trong những năm gần đây, chi Ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục được coi là một trong những nội dung lớn của chi Ngân sách nhà nước. Hàng năm, Ngân sách nhà nước đầu tư một khoản kinh phí rất lớn cho hệ thống giáo dục đào tạo. Tuy nhiên, có một thực tế là : Mặc dù các khoản chi này rất lớn nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của ngành giáo dục. Chính vì thế trong thời gian tới, để sự nghiệp giáo dục đào tạo phát triển được thì bên cạnh việc tăng chi Ngân sách nhà nước, nhà nước cũng cần có những biện pháp thu hút thêm các nguồn vốn khác của các thành phần kinh tế. Đảm bảo thực hiện đúng phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm. Qua việc phân tích vị trí và vai trò của sự nghiệp giáo dục đào tạo, thêm một lần nữa khẳng định sự cần thiết phải đầu tư và đầu tư hơn nữa cho giáo dục đào tạo nói chung và sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở nói riêng. 1.3 Sự cần thiết phải quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục đào tạo. Chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục đào tạo đóng vai trò rất quan trọng bởi nó là nguồn tài chính cơ bản to lớn để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục đào tạo. Vì là khoản chi lớn của Ngân sách nhà nước cho nên việc quản lý đối với các khoản chi này là cực kỳ phức tạp và cũng rất cần thiết. Lý do để khẳng định sự cần thiết đó chính là những yêu cầu cơ bản đối với việc quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Yêu cầu thứ nhất : Đảm bảo nguồn tài chính cần thiết để thực hiện các chương trình giáo dục đào tạo. Việc quản lý, chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục đào tạo luôn hướng tới mục tiêu chính là đảm bảo nguồn kinh phí cho việc thực hiện nhiệm vụ tại các các trường học. Tuy nhiên trong thực tế việc đảm bảo các yêu cầu này không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trong khi nhu cầu của ngành giáo dục là rất lớn thì nguồn tài chính vẫn chưa đáp ứng được hết các yêu cầu đó. Để giải quyết mâu thuẫn này, trong quản lý chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục cần phải xác lập được thứ tự ưu tiên các khoản chi, đảm bảo đáp ứng hết các nhu cầu thiết yếu. Yêu cầu thứ hai : Quản lý chi Ngân sách nhà nước phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả. Bởi, tiết kiệm hiệu quả là yêu cầu sống còn trong mọi hoạt động kinh tế xã hội. Đặc biệt là trong quản lý chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục. Do vậy, để đạt được yêu cầu này cần thiết phải quản lý chặt chẽ từ khâu xây dựng định mức, xây dựng kế hoạch, thường xuyên đánh giá, phân tích, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục. Trêb cơ sở đó để đổi mới các biện pháp và cơ cấu chi. Để thực hiện các yêu cầu trên, điều quan trọng là phải tìm ra những biện pháp quản lý chi thích hợp đối với chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Những biện pháp đó là : -Thiết lập các định mức chi. Định mức chi vừa là cơ sở để xây dựng kế hoạch chi, vừa là căn cứ để thực hiện việc kiểm soát chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục. Nguyên tắc chung để thiết lập là vừa phải đảm bảo phù hợp với yêu cầu thực tiễn khách quan của các trường trung học cơ sở vừa phải đảm bảo yêu cầu tiết kiệm, hiệu quả. -Xác lập thứ tự ưu tiên của chi Ngân sách nhà nước đảm bảo đáp ứng tốt các nhu cầu thiết yếu nhất. -Xây dựng quy trình cấp phát chi Ngân sách nhà nước chặt chẽ, hợp lý nhằm hạn chế tối đa những tiêu cực nảy sinh trong quá trình cấp phát, tạo điều kiện cho việc kiểm soát chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục. -Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhằm ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trong việc sử dụng kinh phí của nhà nước. Đồng thời qua công tác này để phát hiện những bất hợp lý trong chính sách, chế độ nhằm bổ xung và hoàn thiện hơn nữa các chính sách chế độ này. 1.4. Nội dung chi và quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo nói chung - trung học cơ sở nói riêng : Chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo xét về lâu dài là những khoản chi có tính chất tích luỹ đặc biệt. Bởi lẽ, kết quả việc chi cho giáo dục đào tạo là tạo nguồn nhân lực có tri thức, có thể nắm bắt thành tựu KHCN, cũng như quản lý được các hoạt động kinh tế - xã hội. Giúp cho nền kinh tế phát triển tăng tích luỹ cho nhà nước. Tuy nhiên, nếu xét theo từng niên độ và mục đích sử dụng các khoản chi, thì chi cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo là các khoản chi tiêu dùng xã hội. Vì nó không trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục đào tạo chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố như : Tăng trưởng của nền kinh tế (cụ thể là tăng GNP). -Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh giá trị sản phẩm mới mà nền kinh tế tạo ra trong 1 năm. Việc tạo ra khối lượng tổng sản phẩm quốc nội nhiều hay ít là nhân tố quyết định quy mô nguồn thu ngân sách trong từng thời kỳ từ đó ảnh hưởng đến cơ cấu, nội dung mức độ chi của Ngân sách nhà nước cho các lĩnh vực trong đó có giáo dục đào tạo. -Tốc độ gia tăng dân số : Khi dân số tăng nhanh tức là nhu cầu học tập của nhân dân tăng lên, đòi hỏi quy mô giáo dục phải mở rộng để đáp ứng được nhu cầu học tập của dân cư. Khi đó, buộc nhà nước phải tăng thêm số chi Ngân sách Nhà nước cho giáo dục. -Thực trạng trang thiết bị ở các trường học. Để xác định được các khoản chi này, cần căn cứ vào thực trạng trang thiết bị dạy học ở các trường học. Nếu trang thiết bị, cơ sở trường lớp còn sử dụng được thì mức chi Ngân sách Nhà nước cho nội dung này sẽ giảm đi tạo điều kiện cho các khoản chi cần thiết hơn được đảm bảo đầy đủ và ngược lại… -Mạng lưới tổ chức hoạt động sự nghiệp giáo dục Trung học cơ sở. Mạng lưới tổ chức hoạt động sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở được hiểu là hệ thống trường lớp, cơ cấu tổ chức cán bộ, giáo viên giảng dạy v.v… Nhân tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến nhóm chi cho con người và chi cho quản lý hành chính. Tính hợp lý hay không hợp lý trong việc tổ chức các mạng lưới giáo dục đào tạo sẽ tác động mạnh tới số chi của Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực này. Qua việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến số chi của Ngân sách Nhà nước cho hệ thống giáo dục, đào tạo nói chung và giáo dục Trung học cơ sở nói riêng, giúp ta có cơ sở để phân tích tính hợp lý về nội dung và mức độ chi của Ngân sách cho hệ thống giáo dục ở các năm. Giải thích được mức độ chi khác nhau ở từng năm. Đồng thời từ sự thay đổi của các hiện tượng kinh tế xã hội mà thấy được sự cần thiết phải thay đổi nội dung và mức độ chi cho phù hợp. Khi đó các nhân tố ảnh hưởng tới nội dung và mức độ chi của ngân sách cho giáo dục trở thành cơ sở khoa học để xác định số chi Ngân sách Nhà nước cho giáo dục. Ngoài ra, trong công tác quản lý, khi nhận thức được các ảnh hưởng đó, sẽ có những biện pháp quản lý thích hợp. Nội dung chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp Giáo dục phổ thông, bao gồm : Chi thường xuyên gồm các nhóm sau : Nhóm 1 : Chi cho con người. Thuộc nhóm này gồm có các khoản chi về lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm Y tế v.v… Thường thì nhóm chi này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi Ngân sách Nhà nước cho giáo dục trung học cơ sở. Mục đích của nhóm chi này nhằm đảm bảo được nhu cầu về đời sống sinh hoạt cho cán bộ giáo viên trong hệ thống các trường trung học cơ sở. Đảm bảo sự tồn tại của hệ thống giáo dục trung học cơ sở. Nhóm 2 : Chi cho giảng dạy học tập. Nhóm chi này chủ yếu dành cho các khoản chi mua sắm giáo dục, đồ thí nghiệm, đồ dùng giảng dạy. Đây là khoản chi hết sức cần thiết ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục đào tạo. Do vậycần chú ý nhiều đến khoản chi này. Nhóm 3 : Chi quản lý hành chính : Thuộc nhóm chi này bao gồm các khoản chi về tiền điện, nước tại trường, chi phí văn phòng phẩm để trang bị cho các phòng làm việc, chi cho công tác phí, hội nghị phí. Thực chất đây là khoản chi chung, phục vụ cho công tác quản lý hành chính của các trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ giáo viên trong công tác quản lý hành chính. Mức độ chi nhiều hay ít cho mỗi trường sẽ phụ thuộc vào quy mô của mỗi trường và các công tác quản lý kèm theo. Chi đầu tư phát triển gồm : Chi cho mua sắm, sửa chữa lớn, xây dựng nhỏ. Hàng năm, tong tổng số hạn mức kinh phí, mỗi trường sẽ có một phần dành để mua sắm tài sản cố định, sửa chữa tài sản cố định, xây dựng thêm các công trình phụ khác trong số các công trình đã có sẵn. Đây là khoản chi không thường xuyên, mức độ các khoản chi này thường phụ thuộc tình trạng cơ sở vật chất và trang thiết bị của nhà trường. Nội dung quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo : Thứ nhất : Lập dự toán . *Các căn cứ lập dự toán chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo. -Căn cứ vào phương hướng nhiệm vụ phát triển của ngành : Dựa vào căn cứ này người làm công tác lập kế hoạch có được cái nhìn tổng quát về mục tiêu nhiệm vụ mà kế hoạch chi phải hướng tới. Đây chính là việc cụ thể hoá các chủ trương phát triển sự nghiệp giáo dục Phổ thông cơ sở trong từng giai đoạn thành các chỉ tiêu cho kỳ kế hoạch. -Căn cứ vào khả năng nguồn kinh phí đáp ứng. Để đảm bảo tính khả thi cho kế haọch chi, người ta phải dựa vào cơ cấu thu của kỳ báo cáo và khả năng tăng trưởng nguồn thu kỳ kế hoạch. Từ đó thiết lập quan hệ cân đối tổng quát giữa khả năng nguồn kinh phí và nhu cầu chi. -Căn cứ vào chính sách chế độ, định mức chi tiêu mà nhà nước quy định. Căn cứ này sẽ tạo ra cơ sở pháp lý cho việc tính toán và bảo vệ kế hoạch chi đồng thời tạo điều kiện cho quá trình chấp hành kế hoạch không rơi vào tình trạng hụt hẫng khi các chính sách chế độ thay đổi. -Căn cứ vào kết quả phân tích đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi ngân sách kỳ trước và thực trạng hoạt động giáo dục trung học cơ sở. Kết quả này sẽ cung cấp thông tin giúp người lập kế hoạch thấy được ưu nhược trong kế hoạch chi kỳ trước cũng như thực tế hoạt động của hệ thống giáo dục trung học cơ sở để từ đó có những cải tiến hoàn chỉnh bổ xung nhằm nâng cao tính thực tiễn của kế hoạch chi. Trình tự lập dự toán : 1. Các cơ quan đơn vị có trách nhiệm trong việc thu chi ngân sách phải tổ chức lập dự toán thu, chi ngân sách trong phạm vi nhiệm vụ được giao và gửi cơ quan tài chính cung cấp. 2. Cơ quan tài chính các cấp ở địa phương xem xét dự toán ngân sách của các cơ quan, đơn vị cung cấp và dự toán ngân sách của các cấp chính quyền cấp dưới tổng hợp lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa phương trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp. 3. Thường trực hội đồng nhân dân xem xét dự toán ngân sách do uỷ ban nhân dân cùng cấp lập để báo cáo cơ quan hành chính cấp trên tổng hợp trình Quốc hội. Sau khi dự toán ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định, căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên giao, Uỷ ban nhân dân có trách nhiệm lập dự toán và phương án phân bố nhgân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước và cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Trên đây là mô hình chung của quy trình lập dự toán Ngân sách Nhà nước và lập kế hoạch chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở là một bộ phận không thể thiếu của quá trình lập dự toán Ngân sách Nhà nước chính vì thế mà khâu lập kế hoạch chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở phải tuân thủ nghiêm ngặt, đúng trình tự như lập dự toán Ngân sách Nhà nước . Thứ hai : Chấp hành dự toán : Khi nhận được số phân bổ về ngân sách, các cơ quan nhà nước và các đơn vị dự toán ngân sách giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc đảm bảo đúng với dự toán ngân sách được phân bổ, đồng thời thông báo cho cơ quan tài chính cùng cấp và kho bạc nhà nước nơi giao dịch để theo dõi cấp phát và quản lý. Trong giai đoạn này, cần thực hiện hai nội dung chính là chi Ngân sách Nhà nước cho hoạt động của các đơn vị cơ sở , đồng thời tiến hành kiểm tra giám sát đối với công tác này. Trong việc chi Ngân sách Nhà nước cho các đơn vị cơ sở, để có thể chi được thì khoản chi đó phải đảm bảo các nguyên tắc. -Đã có trong dự toán ngân sách được duyệt. -Đúng chế độ tiêu chuẩn định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. -Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được uỷ quyền chuẩn chi. Tuỳ theo từng lĩnh vực chi tiêu có các phương thức cấp phát vốn Ngân sách Nhà nước khác nhau. Một số phương thức chủ yếu là : -Cấp phát theo hạn mức -Ghi thu ghi chi -Cấp phát theo lệnh chi -Cấp phát uỷ quyền -Phương thức cấp phát theo khối lượng công trình hoàn thành. Bên cạnh việc chi, cấp phát Ngân sách Nhà nước cho các đơn vị cơ sở thì công tác kiểm tra giám sát đối với các hoạt động này cũng rất được coi trọng. Bởi, thông qua công tác này sẽ giúp tránh thất thoát và sử dụng lãng phí Ngân sách Nhà nước. Đồng thời thấy được những bất cập của các khoản chi, từ đó có được những biện pháp mới để hoàn thiện chi Ngân sách Nhà nước. Thứ ba : Quyết toán ngân sách nhà nước. Quyết toán ngân sách nhà nước là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý chi Ngân sách Nhà nước. Đây là quá trình kiểm tra rà soát lại số liệu đã được phản ánh sau một thời kỳ và tình hình chấp hành dự toán chi, nhằm phân tích đánh giá kết quả thực hiện, đồng thời rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết trong thực hiện chi và quản lý chi Ngân sách Nhà nước. Nội dung chính của quá trình này bao gồm các bước để thực hiện lập quyết toán. Với phương pháp lập từ cơ sở, tổng hợp từ dưới lên. Công việc đầu tiên phải làm là ban hành các thông tư hướng dẫn, hệ thống mẫu biểu, đồng thời đôn đốc các cấp tích cực khẩn trương chuẩn bị và thực hiện tốt các khoản thu chi cuối năm, tránh tình trạng nợ nần dây dưa từ năm này sang năm khác. Dau đó tiến hành lập quyết toán năm, các đơn vị có hoạt động thu chi ngân sách tiến hành lập quyết toán thu chi trong phạm vi đơn vị mình và số liệu đó phải được đối chiếu với Kho bạc nhà nước nơi đơn vị giao dịch xác nhận. Các cơ quan cấp trên tiến hành tổng hợp quyết toán các đơn vị trực thuộc thành quyết toán của cấp mình. Bộ Tài chính có trách nhiệm tổng hợp quyết toán Ngân sách Trung ương tổng hợp quyết toán Ngân sách Nhà nước. Bước tiếp theo là thực hiện xét duyệt quyết toán ngân sách. Cơ quan Tài chính các cấp ở địa phương tiến hành xét duyệt quyết toán thu chi ngân sách của các cơ quan cung cấp, thẩm tra quyết toán ngân sách cấp dưới, tổng hợp lập quyết toán ngân sách địa phương trình UBND cùng cấp xem xét trình Hội đồng Nhân dân cùng cấp phê chuẩn, báo cáo cơ quan hành chính nhà nước và cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Bộ Tài chính tiến hành xét duyệt quyết toán thu chi Ngân sách của các cơ quan, tổng hợp lập quyết toán Ngân sách Nhà nước trình Chính phủ xem xét, đưa sang Quốc hội phê chuẩn. Chính phủ cũng chỉ đạo tổ chức việc kiểm toán, quyết toán ngân sách nhà nước trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn. Cuối cùng, bản quyết toán Ngân sách Nhà nước sẽ được Quốc hội xem xét và thông qua. Trong quá trình kiểm tra xét duyệt quyết toán thu chi Ngân sách Nhà nước phải đảm bảo các yêu cầu sau: -Những khoản thu không đúng quy định của pháp luật phải được hoàn trả cho người đã nộp những khoản thu nhưng chưa thu phải truy thu đầy đủ. -Những khoản chi không đúng với quy định của pháp luật phải được thu hồi cho Ngân sách Nhà nước. Việc quyết toán đối với chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung học cơ sở cũng có nội dung tương tự như công tác quyết toán ngân sách nhà nước bởi chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trung họccơ sở là bộ phận không thể thiếu, hay tách rời đối với Ngân sách Nhà nước. Trên đây là những lí luận, cũng như những nhận định chung nhất về giáo dục nói chung, giáo dục trung học cơ sở nói riêng và sự tác động của chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp quan trọng này. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CHI VÀ QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC TRUNG HỌCCƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TÂY. 2.1. KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở HÀ TÂY. 2.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội ở tỉnh Hà Tây. Tỉnh Hà Tây được tái lập từ tháng 10/1991, là tỉnh nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng với diện tích tự nhiên là 2.193 km2 , bao gồm 12 huyện, 2 thị xã, 325 xã phường thị trấn . Hà Tây giáp với các tỉnh (thành phố) : Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hoà Bình, Hà Nội, Hà Nam, Hưng Yên. Dân số của tỉnh tính đến 1.4.1999 là 2.386.770 người. Là địa phương nằm cạnh khu tam giác phát triển kinh tế miền Bắc (là Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh) nên Hà Tây có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế - xã hội. (như có thị trường lớn mạnh để tiêu thụ sản phẩm sản xuất trong tỉnh, v.v...). Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đất nước, tỉnh Hà Tây cũng có những bước chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu quan trọng về các mặt kinh tế, xã hội. Trong gian đoạn 1996 - 2000, mặc dù gặp phải nhiều khó khăn do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu Á, nhưng tỉnh Hà Tây vẫn đạt mức tăng trưởng kinh tế khá đạt 7,3% năm là tỷ lệ tương đối cao trong cả nước. GDP bình quân đầu người đạt 315 USD/người tăng bình quân là 11,1%. Sản xuất nông, lâm ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đều có những bước tiến đáng kể. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, xã hội đạt được nhiều thành tựu mới : công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân có nhiều cố gắng không để dịch bệnh lớn xảy ra. Thực hiện tốt các chương trình trọng điểm như tiêm chủng mở rộng cho trẻ em, xây mới nhiều trạm y tế cơ sở v.v… Thực hiện tố các chính sách đền ơn đáp nghĩa, xoá đói giảm nghèo … Các chương trình văn hoá thông tin có nhiều hoạt động phong phú góp phần nâng cao dân trí và đời sống tinh thần cho nhân dân. Cùng với sự phát triển của tỉnh và được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo nên sự nghiệp giáo dục đào tạo ở tỉnh Hà Tây đều có được những bước tiến mới, đáng khích lệ. Số lượng học sinh khá, giỏi các năm đều tăng. Đã có 13/14 huyện thị xã, 316/325 xã, phường được công nhận hoàn thành phổ cập THCS. 22 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng giáo dục cũng có chuyển biến mới. Hàng năm, tỉnh đều có học sinh giỏi đạt giải quốc gia và quốc tế . Số học sinh đỗ đại học cao đẳng đạt tỷ lệ cao so với các tỉnh thành trong cả nước. Trong tỉnh, đã thành lập được nhiều trường bán công và dân lập. Đội ngũ giáo viên được chuẩn hoá. Công tác hướng nghiệp cho học sinh dần được củng cố. Tuy nhiên, là tỉnh đang trong giai đoạn phát triển, cho nên việc đầu tư cho giáo dục vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ các nhu cầu trong khi công tác xã hội hoá sự nghiệp giáo dục phát triển chưa mạnh. Chất lượng dạy học ở diện đại trà chưa cao. Cơ sở vật chất, trường lớp, trang thiết bị dạy học ở nhiều xã còn khó khăn, đa dạng hoá các loại hình giáo dục còn chậm. Nhưng với sự quan tâm của các cấp chính quyền, cộng với sự cố gắng, khắc phục khó khăn của ngành giáo dục nên sự nghiệp giáo dục ở tỉnh Hà Tây sẽ còn mang lại thêm nhiều kết quả tốt, đáp ứng được những yêu cầu mới trong quá trình phát triển của tỉnh. 2.2. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC TRUNG HỌC CƠ SỞ Ở TỈNH HÀ TÂY TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY : Trong những năm gần đây, sự ngh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLV2182.doc
Tài liệu liên quan