Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết - Kinh nghiệm quốc tế & chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam

Lời mở đầu Sự hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế tăng lên không những làm cho trao đổi hàng hóa trong nước gia tăng mà còn làm cho trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước phát triển. Trên cơ sở phát triển của các mối quan hệ kinh tế giữa các nước, sự liên hệ về chính trị và văn hóa giữa các nước ngày càng phát đạt. Những mối quan hệ thường xuyên về mặt kinh tế, chính trị và văn hóa giữa các nước đã làm nảy sinh những quan hệ tiền tệ của nước này đối với nước kia. Quan hệ so sánh đồ

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1801 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết - Kinh nghiệm quốc tế & chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tiền của các quốc gia với nhau được gọi là tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái giữ một vai trò quan trọng đến tình hình ngoại hối của các nước và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế của một quốc gia, nó sẽ đảm bảo tính ổn định trong nền kinh tế, ổn định giá cả tạo ra môi trường an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là hoạt động ngoại thương. Vì vậy, việc áp dụng một chính sách tỷ giá đúng đắn là một điều kiện tiên quyết để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tất nhiên chưa hẳn là một tỷ giá là ưu việt đối với nước này thì đã là phù hợp với các nước khác, bởi vì mỗi nước có một điều kiện kinh tế cụ thể khác nhau. Thậm chí ngay trong một quốc gia, việc áp dụng cố định một chế độ tỷ giá khi các điều kiện kinh tế - chính trị trong nước và quốc tế đã thay đổi cũng không thể đem lại một kết quả tốt như mong đợi. Điều quan trọng là phải biết trong trường hợp nào thì cố định tỷ giá phát huy tác dụng tối đa ưu điểm của mình, từ đó sẽ quyết định lựa chọn việc áp dụng cố định tỷ giá một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện khách quan và mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước. Không dễ dàng về mặt lý thuyết cũng như thực tế khi lựa chọn một hệ thống tỷ giá thích hợp. Trên thực tế có nhiều tranh luận về lợi thế cũng như bất lợi của hai chính sách tỷ giá đặc biệt: tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi. Nhưng có nhiều lập luận ủng hộ sự kết hợp giữa hai chế độ tỷ giá trên, đó là tỷ giá thả nổi có điều tiết. Nó cho phép tận dụng lợi thế, đồng thời hạn chế những bất lợi của cả hai chế độ. Vì thế, trên thực tế, một nước có thể có nhiều lựa chọn các kết hợp khác nhau tùy thuộc vào các đặc điểm cấu trúc, những cú sốc bên ngoài có thể xảy ra và môi trường kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh Việt Nam đang tham gia vào hội nhập kinh tế - tài chính - tiền tệ quốc tế, việc hình thành một chính sách tỷ giá linh hoạt và sát với những biến động của thị trường là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung cũng như thị trường chứng khoán còn non trẻ của nước ta nói riêng.Tuy nhiên, khả năng tận dụng nhân tố này cho sự thành công của công cuộc hội nhập cũng như công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến đâu thì còn phụ thuộc vào khả năng hoạch định chính sách, sức mạnh kinh tế của nước ta và đặc biệt là sự phối hợp linh hoạt, đúng đắn, mềm dẻo giữa hai chế độ tỷ giá để phát huy ưu điểm, hạn chế nhược điểm của chúng, sao cho đạt được mục tiêu một cách hiệu quả nhất. Xuất phát từ những nhận định đó, em đi sâu vào phân tích đề tài: " Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết - Kinh nghiệm quốc tế và chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam " Đề án này được chia làm 3 chương: Chương I. Khái quát chung về tỷ giá hối đoái và hoạt động của tỷ giá thả nổi có điều tiết Chương II. Chính sách điều hành tỷ giá của Việt Nam trong thời gian vừa qua - Thành tích và những mặt còn hạn chế Chương III. Những chính sách cho một tỷ giá phù hợp ở Việt Nam trong thời gian tới Do trình độ và hiểu biết thực tế còn hạn chế nên đề án này không thể tránh khỏi những sai sót. Kính mong thầy giáo và các bạn đóng góp ý kiến, quan tâm và chỉ bảo thêm. Em xin chân thành cảm ơn. Hà Nội tháng 5/ 2002 Chương I : Khái quát chung về tỷ giá hối đoái và hoạt động của chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết I - Tỷ giá hối đoái 1. Khái niệm Có hai khái niệm về tỷ giá hối đoái: - Các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và bán trên thị trường hối đoái bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định. Vì vậy, giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ nước kia được gọi là tỷ giá hối đoái. Ví dụ: Một người nhập khẩu ở Đức phải bỏ ra 142.000 DEM để mua một tờ séc có mệnh giá100.000 GBP để trả tiền nhập khẩu từ Anh. Như vậy giá 1GBP là 1,42DEM, đây là tỷ giá hối đoái giữa GBP và DEM. - Tỷ giá hối đoái còn được định nghĩa ở khía cạnh khác, đó là quan hệ so sánh giữa tiền tệ của hai nước với nhau. Trong chế độ bản vị vàng, tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh hai đồng tiền vàng của hai nước với nhau hoặc là so sánh hàm lượng vàng của hai đồng tiền hai nước với nhau. Trong chế độ lưu thông tiền giấy, ngang giá vàng không còn là cơ sở hình thành tỷ giá hối đoái. Việc so sánh hai đồng tiền với nhau được thực hiện bằng so sánh sức mua của hai tiền tệ với nhau, gọi là ngang giá sức mua của tiền tệ. Ví dụ: Một hàng hoá A ở Mỹ mua với giá là 1USD, nhưng ở Việt nam lại được mua với giá là 15.000VND. Ngang giá sức mua là: 1USD = 15.000 :1 = 15.000 VND Đây là tỷ giá hối đoái giữa đô la Mỹ và đồng Việt nam. Từ khi ra đời cho đến nay, lịch sử phát triển của tỷ giá hối đoái trải qua rất nhiều giai đoạn. Trước thế chiến thứ I (1914) nền kinh tế thế giới hoạt động theo chế độ bản vị vàng. Trong chế độ này, vàng được coi là tiền tệ thế giới và được dùng như một công cụ dự trữ và tiền tệ thanh toán cuối cùng giữa các quốc gia. Đồng tiền của hầu hết các nước đều được đổi ra vàng, hình thành nên tỷ giá hối đoái cố định. Tuy nhiên, đầu thế chiến thứ II, chế độ này tan rã, nhường chỗ cho một chế độ tỷ giá hối đoái mới, đó là hệ thống tỷ giá cố định - hệ thống Bretton Woods (1945-1971). Theo chế độ này, thì các nước phải quy định hàm lượng vàng riêng cho đồng tiền của mình và so sánh với hàm lượng vàng của USD để có một tỷ giá chính thức với biên độ giao động không vượt quá 1%. Một nhược điểm của chế độ tỷ giá này là sự biến động của USD sẽ tác động trực tiếp đến tỷ giá của tất cả các nước, vì vậy, vào năm 1971, hệ thống Bretton Woods sụp đổ hoàn toàn. Năm 1970, các nước thuộc tổ chức IMF đã thành lập một cơ chế tiền tệ tín dụng mới để điều tiết cán cân TTQT thông qua SDR (Special Drawing Right). Mục đích là giúp các nước thuộc tổ chức này có thêm phương tiện TTQT mà không phải dùng đến dự trữ vàng và ngoại tệ. Các nước được tự do lựa chọn chế độ tỷ giá của nước mình cho phù hợp với điều kiện thực tiễn về kinh tế và mục tiêu phát triển của mỗi nước trong từng thời kỳ: cố định, thả nổi tự do hay thả nổi có quản lý. 2. ưu nhược điểm của chế độ tỷ giá thả nổi và chế độ tỷ giá cố định Samuelson đã mô tả như sau: “Chế độ tỷ giá cố định cung cấp cho chúng ta một cái neo, nhưng một con tầu bỏ neo nhiều khi lại nguy hiểm hơn con tàu đang đi, và nếu để các đồng tiền theo giá cả thị trường tự do thì chúng ta lang thang, quanh quẩn giống như vị thuỷ thủ say khướt”. Tất nhiên chưa hẳn là một tỷ giá là ưu việt đối với nước này thì đã là phù hợp với các nước khác, bởi vì mỗi nước có một điều kiện kinh tế cụ thể khác nhau. Thậm chí ngay trong một quốc gia, việc áp dụng cố định một chế độ tỷ giá khi các điều kiện kinh tế - chính trị trong nước và quốc tế đã thay đổi cũng không thể đem lại một kết quả tốt như mong đợi. Điều quan trọng là phải biết trong trường hợp nào thì cố định tỷ giá phát huy tác dụng tối đa ưu điểm của mình, từ đó sẽ quyết định lựa chọn việc áp dụng cố định tỷ giá một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện khách quan và mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển đất nước. 2.1 Chế độ tỷ giá cố định a. Ưu điểm - TGCĐ sẽ đảm bảo tính ổn định trong nền kinh tế, ổn định giá cả tạo ra môi trường an toàn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh mà đặc biệt là hoạt động ngoại thương. Các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu không do dự về khả năng mất vốn, thua thiệt trên mỗi khoản phải đòi hay phải trả do rủi ro của biến động tỷ giá; tạo niềm tin không những cho dân chúng mà còn cho các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Việt nam. - Chế độ tỷ giá cố định cũng làm giảm bớt ảnh hưởng của các cú sốc kinh tế từ bên ngoài tới nền kinh tế trong nước. Điều này có ý nghĩa lớn đối với những nền kinh tế nhỏ vốn tự nó không thể chống đỡ được các tác động ngoại lại mạnh mẽ. - Hạn chế sự bất ổn về lợi nhuận đầu tư nước ngoài và lợi nhuận trong ngoại thương và quản lý hành chính, công nợ nước ngoài và dự trữ ngoại tệ trong nước. - Chế độ tỷ giá cố định trong đó tỷ giá được gắn với một ngoại tệ hay một rổ tiền tệ có xét đến ưu thế, tỷ trọng thương mại và nợ nước ngoài của nước này với các nước tương ứng. Điều này sẽ giúp ổn định cán cân thanh toán thương mại cũng như các khoản nợ nước ngoài. b. Nhược điểm - Chế độ tỷ giá cố định chỉ phát huy được trong điều kiện chế độ này được áp dụng phổ biến trên toàn thế giới và nền kinh tế thế giới cũng đang ổn định, không có biến động mạnh mẽ về giá cả. Nhưng kinh tế chính trị thế giới luôn luôn vận động và phát triển theo xu thế đi lên, vậy một nước áp dụng và duy trì chế độ tỷ giá cố định trong điều kiện nói trên là rất khó. - Chế độ tỷ giá cố định đòi hỏi một quốc gia phải có quỹ dự trữ ngoại tệ đủ lớn để ổn định tỷ giá trước những biến động của cung cầu ngoại tệ, lạm phát và lãi suất… Điều này không phải quốc gia nào cũng đạt được. - Chế độ tỷ giá này không khả thi trong điều kiện dự trữ eo hẹp do thâm hụt cán cân thương mại và cán cân TTQT, nợ nước ngoài cao. - Trên thực tế không phải quốc gia nào cũng có đủ khả năng nắm bắt và cung cấp chính xác các số liệu thống kê có liên quan trong việc xác định tỷ giá nên sự lựa chọn mức tỷ giá hối đoái cố định chịu sai số lớn. Sai số này có thể gây ảnh hưởng không tốt cho nền kinh tế. 2.2 Chế độ tỷ giá thả nổi Sau khi hệ thống Bretton Woods sụp đổ hầu hết các nước đều áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi. Có hai loại chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi: 2.2.1 Chế độ tỷ giá thả nổi tự do Là chế độ tỷ giá hối đoái mà không có sự can thiệp nào của Chính phủ, hoàn toàn do quan hệ cung cầu quyết định. Chế độ này thường được áp dụng ở những nước có nền kinh tế phát triển cao. * Ưu điểm - Phản ánh kịp thời các biến động, các xu thế kinh tế thế giới làm cho nền kinh tế quốc gia hoà nhập vào tiến trình vận động chung của nền kinh tế thế giới. - Tạo điều kiện tiền tệ cho cạnh tranh bình đẳng, buộc mọi nhà kinh doanh, người làm kinh tế phải năng động trước thời cơ, thường xuyên học hỏi, động não để đánh giá các xu thế kinh tế và đưa ra những quyết định đúng đắn kịp thời, có lợi nhất cho kinh doanh. - Do tỷ giá thả nổi hoàn toàn do cung cầu ngoại tệ trên thị trường quyết định, các chính phủ không hề có ý định can thiệp tỷ giá nên không cần phải có một quỹ bình ổn hối đoái, tiết kiệm ngoại tệ phục vụ cho những mục đích khác. * Nhược điểm - Nền kinh tế trong nước luôn chịu ảnh hưởng của những cú sốc kinh tế thế giới, gây ra những biến động lớn trong tỷ giá, tác động xấu tới sản xuất nội địa cũng như hoạt động ngoại thương, làm mất lòng tin trong dân chúng về chế độ kinh tế chính trị trong nước. - Nếu việc quản lý ngoại hối trong nước không chặt chẽ có thể gây ra những cú sốc về cung cầu ngoại thương giả tạo (do hoạt động đầu cơ). Điều đó không phản ánh đúng bản chất kinh tế trong một giai đoạn phát triển gây thiệt hại đến lợi ích chung. - Độ rủi ro về biến động tỷ giá là rất cao đối với các nguồn thu nhập từ đầu tư nước ngoài, nợ nước ngoài… Điều này gây trở ngại cho việc thiết lập một môi trường ổn định, đáng tin cậy để thu hút đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là đối với những nhà kinh doanh xuất khẩu, những người thường xuyên có những khoản thu chi ngoại tệ, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của họ. - Mức biến động tỷ giá khó xác định trước trong chế độ tỷ giá này có thể gây ra những quy định vĩ mô sai lầm ảnh hưởng đến mức tăng trưởng kinh tế. b. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý Là chế độ tỷ giá trong đó có sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường hối đoái thông qua việc mua bán các đồng tiền để can thiệp vào mức cung và cầu tiền tệ. Qua đó, một tỷ giá hối đoái được hình thành và phản ánh được phần nào quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, đồng thời thoả mãn được các mục tiêu phát triển của nền kinh tế quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. * Ưu điểm - Tỷ giá thả nổi có quản lý phần nào khắc phục được những nhược điểm của chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn vì nhờ có sự can thiệp đúng mức và kịp thời của NHNN sẽ giúp cho thị trường ngoại hối trong nước bị ảnh hưởng và biến động ít hơn trước những cú sốc về kinh tế trên thế giới. - Cơ chế can thiệp vào tỷ giá thả nổi này sẽ phát huy được vai trò của công cụ giá trong nền kinh tế, không thể để tỷ giá bị trôi nổi trước những hoạt động đầu cơ ngoại tệ, mà thực sự biến nó thành công cụ khuyến khích các hoạt động xuất khẩu, ngăn cấm nhập khẩu… cải thiện cán cân thương mại. - Ngày nay với nền kinh tế thị trường, đa số các nước đều áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Do đó, tỷ giá hối đoái đã trở thành công cụ tài chính vô cùng quan trọng trong quá trình quản lý kinh tế vĩ mô. Chính phủ không còn sử dụng công cụ tỷ giá theo kiểu ấn định nó một cách chủ quan như trong chế độ tỷ giá cố định nữa, mà chỉ tác động đến nó bằng cách can thiệp vào thị trường hối đoái thông qua việc mua bán ngoại tệ và các phương pháp điều tiết khác. Các nước đều thực thi chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý nhưng có sự khác nhau về mức độ thả nổi và hình thức can thiệp. Một nước có nền kinh tế thị trường tương đối phát triển và hoàn hảo về một thị trường ngoại hối, thường áp dụng chế độ tỷ giá thả nổi với sự can thiệp rất ít của nhà nước. Một thị trường hối đoái hoàn chỉnh với các quy chế quản lý ngoại hối chặt chẽ và các thành viên có đủ khả năng tham gia trên thị trường sẽ góp phần hình thành nên một mức tỷ giá hợp lý thể hiện đúng tương quan sức mạnh của các đồng tiền trên thế giới. * Nhược điểm Các nước đang phát triển còn thiếu kinh nghiệm điều tiết thị trường, nền kinh tế còn chưa đủ mạnh để có thể đứng vững trước các biến động lớn trên thị trường thế giới thì phải thường xuyên theo dõi và chủ động can thiệp vào thị trường ngoại hối để đảm bảo đạt được một mức tỷ giá thích hợp với tiến trình phát triển kinh tế của đất nước. Qua việc phân tích hoạt động của các chế độ tỷ giá và phân tích những hạn chế của chúng, ta thấy rằng: để ổn định (đối nội hay đối ngoại) và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thì ổn định trong lĩnh vực tỷ giá đóng vai trò quan trọng. ổn định không có nghĩa là cố định tỷ giá, mà chủ động linh hoạt điều chỉnh (can thiệp) tỷ giá đi theo hướng có lợi trong những điều kiện cụ thể và theo mục tiêu được đặt ra. II - Hoạt động điều hành tỷ giá của NHNn 1. Mục đích can thiệp Mặc dù đều nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế đề ra, nhưng mục đích can thiệp của NHNN không hoàn toàn giống nhau giữa các quốc gia. Nó phụ thuộc vào tình hình thực tế và ý đồ chiến lược của mỗi nước trong mỗi thời kỳ khác nhau. ở những nước có nền kinh tế phát triển, mục đích can thiệp là để duy trì một cách hợp lý các quan hệ tiền tệ có tổ chức và khắc phục những biến động lớn của thế giới. Trong khi đó ở nhiều nước khác, đặc biệt là những nước đang phát triển, mục đích can thiệp là tạo ra một chế độ tỷ giá hối đoái phù hợp, đáp ứng các mục tiêu ổn định, phát triển kinh tế đất nước và giảm đến mức thấp nhất rủi ro, thiệt hại do biến động tỷ giá gây ra. Đối với các nước này vai trò điều tiết vĩ mô của chính phủ là rất quan trọng. 2. Các hoạt động can thiệp của NHNN 2.1 Nghiệp vụ thị trường mở Là biện pháp tác động vào thị trường hối đoái. NHNN hay các cơ quan hối đoái của nhà nước dùng nghiệp vụ trực tiếp mua bán ngoại hối để điều chỉnh tỷ giá. Khi tỷ giá hối đoái tăng, NHNN bán ngoại tệ ra để kéo tỷ giá xuống. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, NHNN sẽ dùng nội tệ để mua ngoại tệ vào nhằm kéo tỷ giá xuống. Nhằm mục đích duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, nhiệm vụ mua bán ngoại tệ được thực hiện trên cơ sở cung tiền tệ, diễn biến giá cả ngoại tệ trên thị trường và ý đồ can thiệp mang tính chủ quan của nhà nước. Việc can thiệp này không có tính chất áp đặt một cách máy móc và vi phạm các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường, mà đây là hoạt động có cân nhắc tính toán kỹ lưỡng những nhân tố của thực tại cũng như chiều hướng phát triển trong tương lai của toàn bộ nền kinh tế. Do vậy, việc lựa chọn các thời điểm cần mua, cần bán ngoại tệ trên thị trường với tỷ giá nào để đạt được mục tiêu đề ra - chính là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định. 2.2 Chính sách chiết khấu Là chính sách mà NHNN dùng cách thay đổi tỷ suất chiết khấu để điều chỉnh lãi suất trên thị trường tín dụng, do đó ảnh hưởng gián tiếp đến tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái lên cao đến mức nguy hiểm, muốn làm cho tỷ giá hạ xuống thì NHNN nâng lãi suất chiết khấu lên làm cho lãi suất trên thị trường tăng lên. Kết quả là, vốn ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ chạy vào nước mình để thu lãi cao. Lượng vốn chạy vào sẽ làm dịu căng thẳng của cầu ngoại hối, do đó tỷ giá hối đoái có xu hướng hạ xuống. Chính sách chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có hạn đối với tỷ giá hối đoái bởi giữa tỷ giá hoạt động và lãi suất không có quan hệ nhân quả. Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình hình các nước đều đại thể như nhau thì phương thức đầu tư ngắn hạn vẫn hướng vào những nước có lãi suất cao. Do đó hiện nay chính sách chiết khấu cũng có ý nghĩa của nó. 2.3 Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái là hình thức biến tướng của chính sách hối đoái, mục đích của nó là chủ động tạo ra một lượng dự trữ ngoại hối để ứng phó với sự biến động của tỷ giá hối đoái thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Về nguyên tắc thì NHNN các nước không chịu trách nhiệm điều tiết sự thay đổi của tỷ giá hối đoái thả nổi. Song do khủng hoảng ngoại hối trầm trọng, tiền tệ của các nước ngày một mất giá và tỷ giá thay đổi mãnh liệt đã ảnh hưởng đến sản xuất và lưu thông hàng hoá, các nước đã thành lập quỹ bình ổn hối đoái để điều tiết tỷ giá của đồng tiền nước mình. Kinh nghiệm đã cho thấy tác dụng của quỹ bình ổn rất có hạn, vì một khi đã bị khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng ngoại hối, thì lượng dự trữ theo quỹ đó cũng giảm và không đủ sức để điều tiết tỷ giá. Quỹ này chỉ có tác dụng khi khủng hoảng ngoại hối ít nghiêm trọng và có nguồn tín dụng hỗ trợ. 2.4 Phá giá tiền tệ Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối, khi mà sức mua của tiền tệ giảm sút mạnh và không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó, khi mà trong suốt một thời gian dài tỷ giá hối đoái biến động mạnh thì vấn đề xác định lại tỷ giá hối đoái là một điều không thể tránh khỏi. Song phải phá giá tiền tệ lúc nào? mức độ ra sao? lại phụ thuộc vào mục đích kinh tế chính trị của từng quốc gia. Hiện nay phá giá tiền tệ đã trở thành một chính sách kinh tế tài chính của các chính phủ để tác động đến tỷ giá hối đoái và cán cân thanh toán quốc tế. Vì vậy, phá giá tiền tệ có thể hiểu là sự đánh tụt sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ hay là nâng cao tỷ giá hối đoái của một đơn vị ngoại tệ. Tác dụng của phá giá tiền tệ đối với nước tiến hành phá giá có thể là: - Khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, do đó có tác dụng khôi phục lại sự cân bằng của cán cân ngoại thương, phần nào cải thiện được cán cân thanh toán quốc tế. - Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế xuất khẩu vốn ra bên ngoài cũng như là chuyển tiền ra ngoài nước, do đó làm tăng khả năng cung ngoại hối, giảm nhu cầu về ngoại hối, nhờ đó tỷ giá hối đoái sẽ giảm xuống. - Khuyến khích du lịch vào trong nước, hạn chế du lịch ra nước ngoài. Tác dụng chủ yếu của biện pháp phá giá tiền tệ là nhằm cải thiện tình hình của cán cân ngoại thương. Tuy vậy, tác dụng cải thiện cán cân ngoại thương có trở thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của nước tiến hành phá giá tiền tệ và năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của nước đó. 2.5 Nâng giá tiền tệ Là việc nâng giá chính thức đơn vị tiền tệ của nước mình so với ngoại tệ. ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đến ngoại thương của một nước hoàn toàn ngược lại với phá giá tiền tệ. Nâng giá tiền tệ trong điều kiện hiện nay có thể xảy ra dưới áp lực của các nước khác khi mà các nước này muốn tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước mình vào các nước có cán cân thanh toán và các cân thương mại thặng dư. Ngoài ra, một số nước có nền kinh tế phát triển quá nóng, muốn làm lạnh nền kinh tế để tránh khủng hoảng thì sẽ dùng biện pháp này để giảm đầu tư vào trong nước, tăng xuất khẩu vốn, giảm xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài. Chương II : Chính sách điều hành tỷ giá của Việt nam trong thời gian qua Thành tựu và những mặt còn hạn chế I - Chính sách tỷ giá của Việt nam giai đoạn 1986-1989 1. Thực trạng tình hình kinh tế trong giai đoạn 1986 - 1989 Năm 1986 đã đi vào lịch sử Việt nam - đánh dấu một thời kỳ phát triển mới của đất nước: “thời kỳ đổi mới và mở cửa”. Đường lối “đổi mới và mở cửa” do Đảng cộng sản Việt nam khởi xướng tại Đại hội lần thứ VI tháng 12/1986. Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chính sách điều hành tỷ giá của NHNN từng bước cũng được cải thiện để phù hợp với từng thời kỳ phát triển kinh tế, tài chính đất nước. Nền kinh tế vẫn đang trong tình trạng trì trệ kéo dài, lưu thông tiền tệ rối loạn, lạm phát tăng nhanh và kéo dài trong nhiều năm. Hiện tượng “đô la hoá” diễn ra nhanh chóng trong khi chính sách tiền tệ không có khả năng điều chỉnh vĩ mô, khống chế lạm phát. Nợ nước ngoài ngày càng tăng, lại không có khả năng thanh toán, thâm hụt cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế nặng nề. Dự trữ ngoại tệ trong giai đoạn này hầu như không có. Ngoài ra, Việt nam còn phải đứng trước những thách thức lớn. Khủng hoảng chính trị ở Đông Âu đã tác động dữ dội vào chính sách kinh tế – xã hội đất nước; nguy cơ mất ổn định xã hội xuất hiện; niềm tin vào uy tín của Nhà nước bị suy giảm, thậm chí người ta còn nghi ngờ vào đường lối đổi mới của Đảng; tiến trình đổi mới của Việt nam bị bao vây cấm vận kinh tế từ phía Mỹ và các nước là đồng minh của Mỹ. Trước tình hình đó, Việt nam phải mạnh dạn, chủ động và sáng tạo trong cải cách kinh tế. Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái cũng cần được đổi mới và thực hiện. 2. Đặc điểm của chính sách tỷ giá Giai đoạn 1986 - 1989, quan hệ kinh tế đối ngoại của Việt nam chủ yếu với các nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô (cũ). Quan hệ tỷ giá của VND cũng chủ yếu là đối với đồng Rup, và các đồng tiền của các nước XHCN khác. Nhà nước lúc này thực hiện chế độ độc quyền về ngoại thương và quản lý ngoại hối. Nhà nước can thiệp trực tiếp vào việc xác định tỷ giá mà không xét tới quan hệ cung cầu trên thị trường. Đây là chế độ “tỷ giá cố định” và “đa tỷ giá”. Có ba loại tỷ giá được xác định theo các phương pháp khác nhau: - Tỷ giá chính thức (tỷ giá mậu dịch): Tỷ giá do NHNN chính thức công bố được áp dụng trong tính toán chuyển đổi hàng đổi hàng giữa Việt nam và các nước XHCN khác. - Tỷ giá phi mậu dịch: Tỷ giá này được áp dụng trong thanh toán phi mậu dịch giữa Việt Nam và các nước XHCN như việc thanh toán trong ngoại giao, học tập của sinh viên, tính lương cho các chuyên gia Liên Xô ở Việt Nam …Tỷ giá này được tính toán dựa trên sức mua đối nội của đồng tiền VND với sức mua đối nội của đồng tiền các nước XHCN khác. - Tỷ giá kết toán nội bộ: là tỷ giá được dùng để chuyển đổi các khoản thu chi ngoại tệ ra tiền VND trong tính toán nội bộ giữa các đơn vị kinh tế trong nước và NHNT Việt nam. Do Nhà nước thực hiện chính sách độc quyền về quản lý ngoại hối, toàn bộ số thu ngoại tệ qua hoạt động xuất khẩu cũng như các nguồn thu khác đều phải kết hối 100% vào quỹ ngoại tệ chung của Nhà nước. Còn các đơn vị xuất khẩu thu VND về tương ứng với số ngoại tệ thu được tính theo tỷ giá kết toán nội bộ. Đối với các đơn vị nhập khẩu khi vay ngoại tệ của ngân hàng cũng tính chi phí bằng VND chuyển đổi theo tỷ giá kết toán nội bộ. Chính vì vậy mà tỷ giá này là một thành phần quan trọng gắn với giá cả, thu nhập của các đơn vị sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. 3. ảnh hưởng của chính sách tỷ giá đến hoạt động quản lý kinh tế vĩ mô và hoạt động ngoại thương 3.1 Đối với hoạt động quản lý vĩ mô Hoạt động quản lý của Nhà nước trên thị trường ngoại hối bị mất dần tác dụng. Tỷ giá hối đoái giữ vai trò thụ động, là phương tiện để ngân hàng theo dõi tình hình xuất nhập khẩu hàng hoá. Do vậy sự chênh lệch giữa tỷ giá thị trường và tỷ giá chính thức là rất lớn. Chính vì tỷ giá của nhà nước quy định ở mức thấp nên các tổ chức và cá nhân có ngoại tệ sẽ sử dụng ngoại tệ trực tiếp trên thị trường. Ngoại tệ hầu như bị thả nổi, tự do mua bán trên thị trường. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho các khoản thu của Nhà nước mà còn làm phát sinh nhiều tiêu cực trong xã hội. Nó sẽ có tác động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ làm cho diễn biến tỷ giá trên thị trường càng thêm phức tạp. Nhà nước đã không phát huy được vai trò điều tiết giá cả trên thị trường ngoại hối. Kết quả là hoạt động mua bán trao đổi ngoại tệ trên thị trường chợ đen càng tăng, vượt khả năng kiểm soát của Chính phủ. Điều này cũng ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình thu chi và hạch toán ngân sách. Cùng với việc bù lỗ cho các doanh nghiệp do trượt giá, việc bù lỗ qua thanh toán bằng tỷ giá kết toán nội bộ đã làm cho NSNN bị ảnh hưởng nghiêm trọng. 3.2 Đối với hoạt động ngoại thương Vì nhà nước can thiệp trực tiếp vào việc xác định tỷ giá mà không xét tới quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường nên đã gây rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động ngoại thương. Tỷ giá hoạt động cố định với thời gian tương đối dài trong bối cảnh lạm phát ở mức cao là một trở ngại lớn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Trong khi đó, chi phí sản xuất trong nước tăng nhanh. Hàng hoá xuất khẩu của ta vốn ít lợi thế cạnh tranh lại càng khó đứng vững trên thị trường thế giới. Trong một chế độ điều hành tỷ giá như vậy, VND đã được đánh giá cao so với đồng USD và một số ngoại tệ khác do TGHĐ chính thức do NHNN công bố không phản ánh đúng diễn biến tình hình thực tế trên thị trường. Điều này không những gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu mà còn kích thích nhập khẩu. Nhập khẩu tăng đã đe dọa sự phát triển và đứng vững của các doanh nghiệp vốn đang bỡ ngỡ bước vào kinh tế thị trường. Hơn nữa, lý thuyết và thực tế cho thấy việc định giá cao đồng bản tệ sẽ gây thiệt hại lớn cho các hoạt động xuất khẩu, nếu tình trạng này kéo dài trong khi năng lực tài chính ốm yếu thì sớm muộn những bất ổn sẽ xuất hiện khi toàn cầu hóa ngày càng tăng. Với những đặc điểm nêu trên, trong nền kinh tế mở theo hướng thị trường, Nhà nước cần phải để công cụ tỷ giá giữ đúng vai trò của nó và chính sách điều hành tỷ giá cần phải tuân theo những quy luật khách quan nhất định. II - Chính sách tỷ giá của Việt nam giai đoạn 1989-1996 Giai đoạn 1989-1996 được coi là giai đoạn cải cách trong điều hành chính sách tỷ giá. Cùng với sự hoàn thiện từng bước chính sách kinh tế, việc điều hành tỷ giá của Chính phủ cũng được cải cách để phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước. * Đối với hoạt động ngoại thương, chính phủ chủ trương: Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thông qua hai biện pháp “phá giá” vá “tự do hoá” một bộ phận đáng kể xuất khẩu vì xuất khẩu gia tăng có tác động tốt đối với việc điều hành tỷ giá. Hoạt động nhập khẩu cũng được nới lỏng hơn nhưng có quản lý thông qua việc quy định hạn ngạch và chính sách thuế nhập khẩu. Mặt khác, chính phủ còn tiến hành cải cách thuế, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu. * Đối với lĩnh vực tiền tệ - tín dụng: - Nhà nước thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp điều chỉnh chính sách tiền tệ, cải cách hệ thống ngân hàng. Để ngăn chặn xu thế lạm phát cao đang hoành hành, NHNN đã nâng lãi suất tiết kiệm lên có thời kỳ tới 12%/ tháng; đồng thời cắt giảm hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế, nhất là đối với khu vực kinh tế quốc tế quốc doanh; giảm mức phát hành tiền tệ cho chi tiêu ngân sách. Các biện pháp này cũng gián tiếp góp phần hạn chế tốc độ mất giá của đồng nội tệ. - Chính phủ thực hiện việc cắt giảm chi tiêu cho các công trình đầu tư chưa cấp thiết hoặc không quan trọng; cắt giảm, xoá bỏ tình trạng bao cấp, bù lỗ thông qua ngân sách; tăng cường các khâu tài chính. Những biện pháp này có tác dụng làm giảm cầu hàng hoá và tiền mặt. - Bắt đầu từ năm 1990, chính phủ chuyển dần cơ chế bù đắp thâm hụt NSNN bằng vay dân, vay nước ngoài thay vì phát hành tiền để trang trải như trước đây. Điều này đã làm tăng khả năng kiểm soát lạm phát của chính phủ, hỗ trợ quá trình thống nhất tỷ giá trên thị trường tự do. - Để phù hợp với tình hình mới, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và hoạt động đầu tư nước ngoài, chính phủ đã có những cải cách về chế độ quản lý ngoại hối theo hướng: giảm các thủ tục hành chính, nới dần các hạn chế, tăng cường quản lý bằng các công cụ kinh tế. - Để hạn chế tác động của yếu tố tâm lý, đầu cơ, đặc biệt là sau sự kiện Liên xô sụp đổ năm 1991, khủng hoảng tín dụng 1990-1991, Chính phủ Việt nam đã kịp thời công khai hoá các chỉ số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường tốc độ lạm phát, chỉ số biến động của vàng. Để thuận lợi cho việc đánh giá, phân tích cơ chế điều hành tỷ giá của Chính phủ, chia giai đoạn 1989 - 1996 làm hai thời kỳ: 1 - Thời kỳ 1989-1992 1.1 Cơ sở của việc lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái Mục tiêu quan trọng nhất của thời kỳ này là: “ Đẩy lùi, kiềm chế lạm phát; ổn định kinh tế vĩ mô; tìm lối thoát ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái bởi khủng hoảng kéo dài cho nền kinh tế “ Các quan điểm chủ đạo: Thứ nhất: Chúng ta không thể duy trì chế độ tỷ giá cũ vì nó quá phức tạp lại không có khả năng quản lý ngoại hối, cản trở hoạt động xuất khẩu, và đặc biệt nó không còn ý nghĩa thực tế khi tình trạng đối nội và đối ngoại có nhiều thay đổi. Thứ hai: Để thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, nâng cao dự trữ ngoại tệ của Chính phủ và ổn định tiền tệ thì trong tình hình lúc đó không có cách nào khác hơn là phải phá giá đồng nội tệ. Thứ ba: Mức độ phá giá phải hợp lý để thực hiện được các mục tiêu đề ra. Thứ tư: Việc điều chỉnh tỷ giá phải gắn với ngoại tệ mà đại đa số dân chúng và các doanh nghiệp ít nhiều có hiểu biết về nó. Xuất phát từ những quan điểm đó, Chính phủ đã lựa chọn phương án “phá giá, thả nổi có quản lý, gắn với đồng USD”. Phương án này vừa sử dụng được lợi thế của các yếu tố thị trường và sự can thiệp hợp lý của Nhà nước, vừa là tối ưu cho nền kinh tế Việt nam thời kỳ đó. Cơ chế điều hành và xác định tỷ giá cũng theo hướng mới. Phương pháp đồng giá sức mua được loại bỏ. Thay vào đó, việc xác định tỷ giá chính thức được tiến hành trên cơ sở như sau: - Biến động của chỉ số giá cả - Tình hình cán cân thanh toán - Mục tiêu ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0963.doc