Chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa Kỳ - Sự hình thành và phát triển

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoa Kỳ tuy là quốc gia trẻ so với nhiều quốc gia có bề dày lịch sử như Anh, Pháp, Đức, ý, Trung Quốc... nhưng Hoa Kỳ đã thu hút được sự quan tâm của nhiều nước, nhiều nhà khoa học muốn nghiên cứu quốc gia này: "Mỹ là nước lớn, giàu và mạnh hàng đầu thế giới, có trình độ phát triển rất cao về nhiều mặt, đã dính mũi vào nhiều nước, gây ra nhiều cuộc chiến tranh và cũng có vai trò to lớn trong việc giải quyết nhiều vấn đề quốc tế" [34, tr. 50]. Hay như tác giả

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1875 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa Kỳ - Sự hình thành và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cuốn "Văn minh Hoa Kỳ", Jean-Pierre Fichou viết: "Trong vòng ba thế kỷ, đất nước này đã được gán vai trò là một mô hình mẫu hoặc là vật đối chứng cho toàn cầu, nó đã sáng tạo ra một chế độ độc đáo bằng cách dựng nên một quan niệm khác về cuộc sống" [32, tr. 3]. Hoa Kỳ đặc biệt vì là một trong những nước giàu hàng đầu thế giới, tổng thu nhập GDP của Hoa Kỳ bằng cả của Nhật Bản và Tây Âu cộng lại. Đặc biệt, vì Hoa Kỳ là nước tư bản phát triển nhất, kinh tế Hoa Kỳ được coi là đầu tàu của kinh tế thế giới. Khi nghiên cứu về mô hình nhà nước Cộng hòa Tổng thống, chúng ta không thể không tìm hiểu chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Tại sao vậy? Vì chế độ Tổng thống Hoa Kỳ là mô hình xuất hiện đầu tiên của chính thể cộng hòa Tổng thống, là "nơi đầu tiên dạng cầm quyền này được thiết lập" [50, tr. 106], là "hình thức chính thể cộng hòa Tổng thống lần đầu tiên trong lịch sử được thiết lập ở Mỹ vào cuối thế kỷ 18" [2, tr. 44] đồng thời là mô hình đặc trưng, tiêu biểu của chính thể cộng hòa Tổng thống. Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ cũng là mô hình áp dụng điển hình nhất học thuyết phân quyền trong tổ chức quyền lực nhà nước, hay như PGS.TS Nguyễn Đăng Dung nhận xét tại Giáo trình luật hiến pháp các nước tư bản: "Loại hình này được áp dụng một cách tương đối phổ biến ở các nước tư bản châu Mỹ, mà khuôn mẫu của nó là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ" [9, tr. 131]. Vì những lý do trên tác giả đã chọn "Chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa Kỳ - sự hình thành và phát triển" làm đề tài nghiên cứu. Trong tình hình hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng ta đang rất cần kinh nghiệm, cần lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền của các nước trên thế giới. Chúng ta không phải học tập để sao chép máy móc mà học tập với tinh thần cầu thị, học tập để chúng ta tìm ra và vận dụng những ưu điểm như tác giả Thái Vĩnh Thắng viết trong Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, đó là những "hạt nhân hợp lý trong tổ chức và hoạt động của chính phủ tư sản" [51, tr. 26] vào hoàn cảnh Việt Nam, để xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân do dân và vì dân. Khi nghiên cứu Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ tác giả mong muốn làm phong phú thêm kiến thức lý luận về nhà nước và pháp luật đồng thời cố gắng tìm những điểm hợp lý và chưa hợp lý của mô hình này để có thể vận dụng một phần nào đó vào Việt Nam: "Chúng ta có thể học hỏi được gì từ quá trình soạn thảo Hiến pháp Mỹ trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền; xây dựng một chính quyền mạnh và có hiệu quả" [21, tr. 9]. Riêng với Hoa Kỳ, Đảng và Nhà nước đã thực hiện chính sách: "Việt Nam mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị và xã hội, trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi" (Điều 14 Hiến pháp 1992), vì vậy Việt Nam và Hoa Kỳ đã bình thường hóa quan hệ và ký Hiệp ước thương mại Việt - Mỹ. Việc tìm hiểu bộ máy nhà nước Hoa Kỳ cũng như pháp luật Hoa Kỳ là công việc rất cần thiết để bảo vệ lợi ích của quốc gia vì khi chúng ta giao lưu với đối tác nào, với quốc gia nào, chúng ta phải biết người biết ta "tri bỉ tri kỷ, bách phát bách trúng". Ngoài ra, khi chúng ta nghiên cứu những định chế nhà nước Hoa Kỳ là chúng ta đã tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và qua đó, thúc đẩy quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ càng tiến triển theo hướng có lợi cho hai nước, cũng như cho khu vực và quốc tế. 2. Tình hình nghiên cứu Trước đây do Mỹ và Việt Nam ở hai bên trận tuyến của cuộc chiến tranh kéo dài hai mươi năm, tiếp theo là chính sách bao vây cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam, nên việc tìm hiểu nghiên cứu về chế độ Tổng thống Hoa Kỳ không được giới nghiên cứu luật học Việt Nam quan tâm nhiều. Sau khi Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ thì việc tìm hiểu nghiên cứu về nhà nước Mỹ được quan tâm nhiều hơn. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã xuất bản một số sách về nhà nước Mỹ do các tác giả Việt Nam dịch như Khái quát về chính quyền Mỹ của TS. Trần Thị Thái Hà và đồng sự dịch năm 1999; Khái quát về lịch sử nước Mỹ, Nguyễn Chiến và đồng sự dịch năm 2000; Lịch sử mới của nước Mỹ, Diệu Hương và đồng sự dịch năm 2003; Quốc hội và các thành viên, Trần Xuân Danh và đồng sự dịch năm 2002... Nhà xuất bản Văn hóa thông tin xuất bản cuốn Lịch sử nước Mỹ do Lê Minh Đức và đồng sự dịch năm 1994; cuốn Bốn hai đời Tổng thống Hoa Kỳ do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam dịch năm 1998. Các học giả Việt Nam cũng công bố một số công trình nghiên cứu về chính trị và chính quyền Mỹ như Hệ thống chính trị Mỹ do TS. Vũ Đăng Hinh chủ biên; Hoa Kỳ tiến trình văn hóa chính trị do PGS.TS Đỗ Lộc Diệp chủ biên; Thể chế chính trị thế giới đương đại do PGS.TS Dương Xuân Ngọc chủ biên. Luật hiến pháp đối chiếu của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung. Một số luận án, luận văn viết về chế độ Tổng thống Hoa Kỳ như Luận văn thạc sĩ luật học "Hệ thống kiềm chế đối trọng trong hiến pháp Mỹ" năm 1998 của tác giả Nguyễn Thị Hiền. Cũng trong năm 1998 sinh viên Hoàng Trung nghĩa làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Quốc tế học với đề tài "Chế độ Tổng thống Hoa Kỳ". Năm 2001 sinh viên Trương Thị Thùy Dung, khoa Luật trường Đại học Quốc gia Hà Nội làm luận văn tốt nghiệp chuyên ngành luật với đề tài "Chế độ Tổng thống Hoa Kỳ". Ngoài ra, có một số bài viết liên quan đến chế độ Tổng thống Mỹ như "Vai trò của Tổng thống trong quá trình hoạch định chính sách đối Mỹ" của tác giả Lê Linh Lan trong tạp chí Nghiên cứu quốc tế, tháng 12/2002; bài "Hệ thống cơ quan tư pháp của nhà nước tư sản" của tác giả Thái Vĩnh Thắng trong Tạp chí Luật học, số 3, số 5 năm 1996. Các tác phẩm, các công trình khoa học và các bài viết trên đã nghiên cứu một cách khái quát và tương đối toàn diện về nhà nước Mỹ trên các mặt chính trị, văn hóa, lịch sử, thể chế nhà nước, tuy nhiên nghiên cứu sâu và đi riêng về chế độ Tổng thống Hoa Kỳ quá trình hình thành và phát triển thì chưa có. Hai bản luận văn về chế độ Tổng thống Hoa Kỳ mới chỉ dừng lại ở mức độ nhất định trình bày về đặc điểm của chế độ Tổng thống Hoa Kỳ, chưa đi sâu phân tích quá trình hình thành, đặc điểm và sự phát triển của chế độ Tổng thống Hoa Kỳ, chưa lý giải tại sao Mỹ lại chọn chế độ Tổng thống khi xây dựng mô hình chính quyền. Từ tình hình và lý do trên tác giả luận án mạnh dạn tiếp thu kế thừa các kết quả nghiên cứu trên và đi sâu vào tìm hiểu nghiên cứu quá trình hình thành, những đặc điểm nổi bật và sự phát triển của chế độ Tổng thống Hoa Kỳ. Mục đích của luận văn - Trình bày quá trình hình thành và phân tích các đặc điểm chế độ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Xem xét quá trình phát triển của chế độ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thông qua ba ngành quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp. - Từ những nghiên cứu trên, rút ra một số khuyến nghị với mong muốn đóng góp chút ít vào kiến thức về nhà nước Mỹ để có thể vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, dựa trên các học thuyết chính trị pháp lý về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn dùng các phương pháp chứng minh, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, diễn giải, quy nạp, quan sát để tiến hành xem xét đánh giá các tài liệu, sự kiện. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là chế độ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ trên cơ sở lịch sử phát triển và trên cơ sở Hiến pháp Mỹ. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chính thể cộng hòa Tổng thống Mỹ mà chủ yếu hệ thống cơ quan quyền lực ở trung ương theo chiều ngang. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Sự hình thành chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Chương 2: Đặc điểm của chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Chương 3: Sự phát triển của chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Chương 1 sự hình thành chế độ Tổng thống hợp chúng quốc hoa kỳ 1.1. Sự hình thành mười ba bang nguyên khai đầu tiên Sau khi nhà hàng hải Côlông (1450-1506) tìm ra châu Mỹ năm 1492, các nước Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Hà Lan liên tục gửi các đoàn thám hiểm và tiến hành những cuộc khai thác tài nguyên, buôn bán, và đưa người đến khai phá và định cư ở vùng đất mới Tân thế giới này. Trong số các nước trên, Anh quốc có thể với vị trí địa lý hoàn toàn bao bọc bởi biển cả nên buộc họ phải phát triển đội tàu thủy và hàng hải vì vậy họ đã có những hạm đội khá mạnh. Cộng vào đó, Anh quốc có thể chế chính trị pháp lý tiến bộ hơn các nước khác nên Anh quốc hùng mạnh hơn và có dã tâm chiếm vùng Tân thế giới làm thuộc địa. Chính vì vậy mà vùng đất mới châu Mỹ đã xuất hiện các thuộc địa Anh và chịu ảnh hưởng bởi Vua Anh cũng như các định chế pháp lý của ông ta. Lịch sử còn ghi lại sự kiện sau khi Vua Jacques đệ nhất kế vị nữ hoàng Elizabeth năm 1603, thì đến năm 1606 ông ta ban Ân chiếu cho công ty Virginia (còn có tên gọi khác là công ty London) [29, tr. 19] được phép xây dựng các khu định cư ở mép bờ Đại Tây Dương thuộc châu Mỹ. Vùng đất định cư ấy được đặt tên là Virginia và sau này trở thành bang đầu tiên trong số mười ba bang nguyên khai để hợp thành quốc gia mới với tên gọi là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Khi vua Jacques đệ nhất ban chiếu ngoài việc cho phép công ty Virginia, xây dựng các khu định cư, buôn bán, chuyển các cư dân từ châu âu sang còn cho phép các cư dân mới định cư vốn là các cư dân Anh quốc được hưởng các quy chế pháp lý tương tự như khi họ còn ở Anh quốc: "Ân chiếu khẳng định rằng, tất cả các di dân đều được hưởng mọi quyền tự do vốn là của họ khi họ còn ở chính quốc như thể họ sinh ra và cư ngụ trong nước Anh, nghĩa là họ phải được bảo vệ của bản Đại hiến Chương và Thông luật" [15, tr. 27] (Đại hiến chương là văn bản có 63 điều, là bản giao kèo giữa nhà vua và thần dân gồm quý tộc, thị dân, nông dân, nhằm hạn chế sự độc đoán của nhà vua, xác nhận quyền tự trị của các thành phố và quyền tự do đi lại buôn bán, được ký dưới thời vua Giôn năm 1215 [55, tr. 168]. Còn Thông luật là luật pháp phát sinh từ những phán quyết của tòa án gọi là phán quyết tư pháp để phân biệt với luật pháp do quốc hội làm ra và ban hành [35, tr. 5]). Việc vua Anh ban Ân chiếu cho công ty Virginia kèm theo các định chế pháp lý mà cư dân ở vùng đất mới này được hưởng là nhằm các mục đích: Khẳng định vai trò của vua Anh với thuộc địa mới, duy trì pháp luật của Anh quốc với các cư dân, động viên các cư dân vượt qua những khó khăn thách thức mà bất cứ cuộc khai phá các vùng đất mới nào cũng gặp phải. Nhưng có điều mà vua Anh không ngờ tới, đó là những định chế pháp lý của Anh quốc đã được người định cư vận dụng và rút kinh nghiệm, để cùng với tư tưởng tìm kiếm tự do đã tạo tiền đề cho những người dân định cư lập ra những định chế pháp lý để hạn chế quyền lực của Mẫu quốc, cũng như tìm kiếm cho mình một mô hình chính quyền giống vua Anh nhưng cũng khác vua Anh: Vào ngày 30 tháng 7 năm 1619 hội nghị đầu tiên các đại biểu người Anh tại châu Mỹ được tổ chức tại nhà thờ của Jamestown (Jamestown là thành phố đầu tiên được người định cư thành lập tại thuộc địa năm 1607). Ngoài vị thống đốc và sáu cố vấn của ông, cơ quan lập pháp này gồm hai hai nhà tư sản. Jamestown bầu ra hai đại biểu và mỗi đồn điền trong số mười đồn điền bắt đầu mọc lên xung quanh Jamestown bầu ra hai đại biểu. Được gọi với cái tên là viện các nhà tư sản, viện lập pháp này chính là mầm mống của ngành lập pháp tương lai của Virginia [15, tr. 30]. Thực tế, trong hội nghị lập hiến 1787, bản kế hoạch của bang Virginia đệ trình về xây dựng mô hình nhà nước Liên bang là nền tảng cho hội nghị này thảo luận và khi Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ra đời, chính bang Virginia đã cung cấp ba Tổng thống nổi tiếng là Thomas Jefferson (1743-1826), James Madison (1751-1826), James Monroe(1758-1834) và được gọi là" triều đại Virginia" [24, tr. 629]. Sự kiện người định cư đến Virginia năm 1606 và nhất là sau khi xây dựng thành phố Jamestown năm 1607 về sau được coi là lịch sử bắt đầu của nước Mỹ: "Lịch sử nước Mỹ bắt đầu từ năm 1607, khi nước Anh thành lập thành phố Jamestown, quản lý thuộc địa bằng luật pháp, bầu chính phủ, thống đốc chịu trách nhiệm trước Nữ hoàng" [25, tr. 159]. Tiếp sau Virginia, lần lượt mười hai vùng đất mới suốt dọc ven Đại Tây Dương đã dần trở thành thuộc địa của Anh quốc. Có nơi được thành lập do vua Anh ban Ân chiếu, có nơi do vua Anh công nhận sự hiện hữu của thuộc địa, có nơi do Anh chiếm của Hà Lan, Pháp hay Tây Ban Nha. Đó là: Tên bang Năm thành lập Virginia 1624 Massachussettes 1691 Rhode Island 1644 New Hampshire 1670 Connecticut 1662 New Jersey 1664 New York 1674 Pennsyvania 1682 Delawre (ghi chú: New Jersey, Delawre chiếm của Hà Lan) 1702 Bắc Carolina 1729 Nam Carolina 1729 Maryland 1729 Georgia 1732 Nguồn: [15]. Như vậy, sau hơn một trăm năm từ 1607 đến 1732, mặc dù Anh quốc đến sau Tây Ban Nha và một số nước khác, nhưng đã xác lập được mười ba thuộc địa trên vùng đất châu Mỹ: "Như thế Pháp không còn mẩu đất nào trên lục địa Bắc Mỹ, một nước Anh thắng trận và mạnh với một nước Tây Ban Nha rất yếu" [15, tr. 67]. Mười ba bang nguyên khai này là tiền đề vật chất tự nhiên cần thiết để hình thành quốc gia Hoa Kỳ sau này. Về cư dân mười ba thuộc địa của Vương quốc Anh Trước tiên, do người châu Âu tìm ra châu Mỹ do đó người đến định cư ở các thuộc địa này là người châu Âu. Người đến định cư ở đây rất đa dạng có người Tây Ban Nha, người Hà Lan, Pháp, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Đức, ý… Nhưng người Anh là đông đảo nhất: "Phần lớn dân định cư tới Mỹ vào thế Kỷ XVII là người Anh, nhưng cũng có cả người Hà Lan, Thụy Điển và Đức, một số tín đồ Tin lành Pháp, và các nhóm rải rác người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ý" [29, tr. 40]. Điều đó cũng là dễ hiểu vì các thuộc địa là của Anh nên người Anh đến đây là thuận lợi nhất và có nhiều giao lưu nhất. Cũng trong thời gian này do vẫn còn duy trì chế độ nô lệ, vì vậy số người định cư còn bao gồm cả số lượng nhân công nô lệ được mang từ châu Phi đến. Nghiên cứu đặc điểm này giúp chúng ta giải thích vì sao các định chế chính trị pháp lý của Nhà nước Hoa Kỳ lại có những nét giống với Anh quốc cũng như giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc đấu tranh để xây dựng chính quyền liên bang giữa các bang có chế độ nô lệ và các bang không có chế độ nô lệ. Chúng ta cùng xem xét bảng thống kê sau: Số người di cư đến vùng thuộc địa Anh ở châu Mỹ đến năm 1780 (Nghìn người) Nhập cư trước năm 1700 Nhập cư từ năm 1700 - 1780 Tổng số Từ châu Âu 395 438 833 Từ châu Phi 344 1.303 1.647 Tổng số 739 1741 2480 Nguồn: [16]. Qua bảng thống kê trên chúng ta có một số nhận xét sau đây: - Thời kỳ này người định cư chỉ gồm người châu Âu và người nô lệ châu Phi, chưa có người châu á và châu úc vì vậy các yếu tố chính trị pháp lý văn hóa chịu ảnh của châu Âu là chủ yếu; - Người định cư lúc đầu không nhiều và tăng dần cho nên để hình thành cộng đồng người Mỹ mất trên một trăm năm; - Số người là nô lệ châu Phi tăng nhanh chóng, điều đó chứng tỏ chế độ nô lệ ở châu Mỹ và châu Phi vẫn tồn tại và đây là một trong những lý do tạo nên cuộc nội chiến 1861-1865 sau này. Về lý do và động cơ của những người nhập cư? Tại sao họ lại từ bỏ quê hương, Tổ quốc vượt đại dương với nhiều hiểm nguy để đến những vùng đất hoàn toàn xa lạ, hoang dại, và nhiều rủi ro? Có thể đối với riêng từng cá nhân thì sẽ có rất nhiều lý do khác nhau, nhưng có thể khái quát những động cơ và lý do để những người định cư tại Mỹ thời kỳ đầu là: - Những cuộc chiến tranh, những cuộc cách mạng, đã tạo ra làn sóng người phải bỏ quê hương, bỏ nhà cửa để chạy lánh nạn: "Sau năm 1680, nước Anh không còn là nguồn cung cấp chính của dòng người nhập cư. Hàng nghìn người di tản đã rời lục địa châu Âu để lánh nạn chiến tranh. Nhiều người rời quê cha đất tổ của họ để thoát cảnh nghèo đói do sự đàn áp của chính phủ cùng nạn chiếm đất vắng mặt gây ra" [29, tr. 40]. - Do đói kém, thất nghiệp, nợ nần, phải từ bỏ quê hương, tổ quốc tìm kế mưu sinh - Do bị đàn áp tôn giáo, truy bức chính trị, áp chế tư tưởng, chán ghét nền cai trị độc tài của vua chúa và trật tự phong kiến, muốn chạy khỏi châu Âu để tìm tự do, mong muốn được hành đạo và truyền đạo, mong muốn được thể hiện các ý tưởng chính trị vì một xã hội mới công bằng tốt đẹp hơn. Từ những động cơ trên, cộng với sự tôi luyện qua thử thách trên những chuyến vượt Đại Dương bão tố, thử thách trong những cuộc chiến với người da đỏ, thử thách trong cuộc khai phá vùng đất hoang dại đã tạo cho những người định cư những tính cách chung. Đó là tinh thần lạc quan,năng động, ý chí tự lập vươn lên, và sự khát khao tự do, công bằng, sự mong muốn thiết lập một xã hội mới an ninh và thịnh vượng: Hầu hết người dân Mỹ cho rằng thời kỳ di cư là giai đoạn anh hùng. Những người đàn ông và đàn bà thường được cổ vũ bởi ý thức về sứ mệnh thần thánh hay sự theo đuổi một cuộc sống trọn vẹn và công bằng hơn với cuộc sống ở châu Âu đã không quản hiểm nguy gian khó vượt Đại Tây Dương, tấn công vào sự hoang dại, dựng nên các khu định cư đông đúc và thịnh vượng, và bằng cách nào đó vẫn có thời gian để tạo ra các thể chế tự do mà thậm chí cho đến ngày nay vẫn là nền tảng của xã hội dân chủ [16, tr. 3]. Tất nhiên, bên cạnh những đức tính tốt đẹp đó, những người định cư còn mang những tâm lý tiêu cực mà cuộc tranh giành vất vả để mưu sinh tạo nên như chủ nghĩa cá nhân, tính tự do thái quá, luôn cạnh tranh để chiến thắng hay những mong muốn về cuộc sống vật chất vô hạn độ: "Hơn một xã hội nào khác, xã hội Mỹ luôn luôn chạy đua để thích nghi, để giành thắng lợi, Kẻ mạnh nuốt chửng kẻ yếu, đời là cánh rừng rậm, trong đó khôn thì sống mống thì chết" [32, tr. 39]. Hay như nhà văn Pháp De Tocqueville trong tác phẩm Luận về nền dân chủ Mỹ viết 1803 đánh giá: ở Mỹ mọi thứ đều dựa vào mặt vật chất của cuộc sống, sự chiếm hữu của cải và sự thành đạt cá nhân được đo bằng mức độ giàu sang, tâm lý ấy rất khó tranh khỏi dẫn đến tham lam vô hạn độ. Nghiên cứu về những động cơ của những người đến định cư ở Mỹ, cũng như biết được tính cách của họ mới giúp chúng ta hiểu được cuộc cách mạng Mỹ, cũng như quá trình những đại biểu của thuộc địa đấu tranh xây dựng hiến pháp Hoa Kỳ. Bởi vì rất nhiều những tư tưởng những tính cách được phán ánh trong quá trình thảo luận xây dựng hiến pháp cũng trong nội dung của hiến pháp.Ví dụ quyền tự chủ của các bang, quyền tự do của người dân được thể hiện ở mười tu chính án đầu tiên. 1.2. Nhu cầu thành lập Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ 1.2.1. Cách mạng Mỹ và sự ra đời của chế độ hợp bang Kể từ năm 1607 đến năm 1829, mười ba thuộc địa của Vương quốc Anh đã hình thành. Cộng đồng xã hội của mười ba thuộc địa này vận hành khác nhau nhưng đều có chung hai đặc điểm lớn: Một là, cộng đồng người định cư phải tuân theo pháp luật của Anh quốc và sự quản lý của Chính phủ Anh: "Mười ba thuộc địa mà người ta thiết lập ở châu Mỹ dưới một hình thức độc lập khác hẳn thuộc địa cũ, coi như một bộ phận tách từ chính quốc ra, hoặc do một công ty thương mại của Chính quốc thiết lập nên" [36, tr. 161]. Còn bộ máy quản lý xã hội ở các thuộc địa thì một số do vua Anh chỉ định, một số do người định cư bầu nên và được Anh quốc thừa nhận: "Mười ba thuộc địa đầu tiên là do người Anh cai trị. Luật pháp, cơ cấu tổ chức chính quyền, đời sống văn hóa xã hội thuộc địa Mỹ chủ yếu mang đặc điểm Anglo - Saxon" [39, tr. 95]. Hai là, các thuộc địa có tính tự quản cao. Đặc điểm này xuất phát từ những lý do đã phân tích ở trên, những người đến định cư ở thuộc địa mong muốn cuộc sống tự do đầy đủ hơn ở châu Âu, muốn thoát khỏi những ràng buộc về chính trị, tư tưởng, tôn giáo của châu Âu, nhất là của Anh quốc. Chính vì vậy, ở vùng đất mới họ đã cố gắng tổ chức nên những định chế chính trị pháp lý mới để bảo vệ quyền tự do của họ, cũng như xu hướng thoát khỏi sự phụ thuộc vào Vương quốc Anh. Hai đặc điểm này tạo ra hai quan điểm, một quan điểm mong muốn sự che chở bảo hộ của Chính quốc chống lại các cuộc đột kích của người da đỏ và sự nhòm ngó của Pháp và Tây Ban Nha, một quan điểm lại muốn vươn lên tự tổ chức chính quyền để giành lấy độc lập. Anh quốc đã áp dụng nhiều chính sách khắt khe của đối với thuộc địa như chính sách cấm thuộc địa phát hành tiền giấy năm 1764: "Cũng trong năm 1764, Nghị viện đã ra lệnh cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy. Nhờ đó các công dân có thể thanh toán đối với các chủ nợ tại Anh. Một số lớn trong các thuộc địa, nhất là tại phía nam, cảm thấy mình là nạn nhân trực tiếp của biện pháp này" [15, tr. 91]. Chính sách về thuế như đạo luật Thuế dán tem (Stemp Atc) năm 1765: "Đạo luật này bắt buộc phải dán các con niêm vào đủ các thứ giấy tờ, văn kiện người dân không thể thiếu. Các con niêm này có giá từ nửa pency tới mười bảng Anh. Đạo luật ban hành đã tạo nên một làn sóng phản đối và kiến nghị với những hành động bất tuân pháp luật kể cả bạo động" [15, tr. 92]. Các chính sách này của chính quyền Anh đã làm cho người dân thuộc địa vô cùng bất mãn và chỉ chờ cơ hội là bùng nổ thành cách mạng: "Các chính quyền nối tiếp nhau tại Luân Đôn đã áp dụng những biện pháp tại chỗ xem là hợp lý, nhưng tại các thuộc địa, chỉ có thể khơi lên ngọn lửa của cuộc nổi dậy. Cho tới lúc này, sự kháng cự chỉ là lẻ tẻ và không có tổ chức" [15, tr. 93]. Trên đây là những mâu thuẫn xã hội là nguyên nhân của cách mạng Mỹ, nhưng sẽ là sai lầm và chưa đầy đủ nếu chúng ta không đề cập đến đến các yếu tố và các điều kiện khác đã trực tiếp khơi nguồn cho cách mạng Mỹ. Đó là sự phát triển về giáo dục, văn hoá, tôn giáo ở thuộc địa, là sự tiếp thu các tư tưởng chính trị pháp lý tiến bộ của Thế kỷ ánh sáng. Những tư tưởng tiến bộ này đã trở thành vũ khí lý luận cho những nhà lập quốc Mỹ, nó đã tạo ra một thế hệ tài năng để sau này trở thành những nhà lập quốc kiến tạo nên một mô hình chính quyền mới ở nước Mỹ: Tuy nhiên yếu tố quan trọng nhất tạo nên khoảng cách mỗi ngày một lớn giữa chính quốc và thuộc địa đó là sự phổ biến một cách hết sức rộng rãi tại các thuộc địa các tư tưởng và học thuyết cộng hòa hoặc đầy nghi kỵ đối với tất cả mọi hình thức độc tài và độc đoán của chủ nghĩa quân chủ. Các tác phẩm của John Milton và John Locke gặp thấy ở đây mảnh đất rất đặc biệt màu mỡ. Hai bộ khảo luận về chính quyền dân sự của J. Locke nhất là tập hai được coi là chất chứa mầm mống của Bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ. Khá nhiều người Mỹ, và cả tầng lớp có học, đã đồng ý với quan điểm táo bạo của nhà tư tưởng người Anh này: nhiệm vụ cao cả của nhà nước là bảo vệ sự sống, tự do và quyền tư hữu của mỗi công dân. quyền lực chính trị thuộc về nhân dân và nhân dân ủy quyền cho chính quyền. Chỉ là cơ quan được ủy nhiệm, chính quyền có phận sự thi hành vì quyền lợi của những người ủy quyền cho mình quyền bính họ đã giao cho mình. Nếu chính quyền vi phạm những quyền tự nhiên của công dân, những người công dân có quyền và bổn phận bãi nhiệm [15, tr. 89]. Những tư tưởng này góp phần chuẩn bị chu đáo cho việc xây dựng một chính quyền về sau : "Một hệ thống chính quyền mà nhà triết học Anh John locke góp phần xây dựng đã được chuẩn bị một cách chu đáo, tỉ mỉ cho thuộc địa mới. Một trong những đặc điểm của nó là xóa bỏ được sự tính toán nhằm tạo ra tầng lớp quý tộc cha truyền con nối" [29, tr. 31]. Do Anh quốc thực hiện nhiều chính sách hà khắc và những đạo luật thuế đánh vào kinh tế của người của người định cư, nên dân chúng thuộc địa đã bất mãn và nhiều lần nổi dậy chống lại mẫu quốc. Để phong trào nổi dậy giành được kết quả cao hơn, những người định cư đã có sáng kiến tổ chức Đại hội thuộc địa lần thứ nhất ngày mùng 5 tháng 9 năm 1774 ở Philadelphia thuộc Pennsylavani. Đại hội có hai quyết định chủ yếu dưới đây: Một là, Đại hội gửi kiến nghị của thuộc địa lên Vua và Nghị viện Anh yêu cầu chấn chỉnh lại các thiệt hại đã gây nên một cách bất công cho các thuộc địa. Kiến nghị của thuộc địa còn đòi quyền về tự do và tài sản cho người lập nghiệp, quyền ấn định thuế của các thuộc địa và trong khi chờ đợi nhà Vua bày tỏ thiện chí của mình, Đại hội ủng hộ việc tái phát động phong trào đòi tẩy chay hàng hóa Anh quốc. Hai là, Đại hội thành lập Hiệp hội lục địa để dẫn dắt phong trào. Hiệp hội chủ trương khích lệ những địa phương xóa bỏ những tàn dư của chính quyền Hoàng gia, chủ trương phát triển kinh tế và công nghiệp, đồng thời chuẩn bị những điều kiện để vũ trang khi cần: "Họ bắt đầu thu thập các trang thiết bị quân sự và động viên binh sĩ. Và họ đã thổi bùng công luận nhằm tạo nên nhiệt tình cách mạng" [29, tr.78]. Tuy Đại hội thuộc địa lần thứ nhất chưa đi đến quyết định thành lập một chế độ độc lập, nhưng rõ ràng đây là một bước chuẩn bị quan trọng về tư tưởng và tổ chức cho một chế độ trong tương lai. Khi biết rằng những kiến nghị đòi quyền tự do không được vua Anh chấp nhận, Đại hội thuộc địa lần thứ hai đã được tổ chức vào ngày 10 tháng 5 năm 1775 tại Philadelphia bang Pennsylavani. Đại hội đã có hai quyết định quan trọng: Một là quyết định tiến hành chiến tranh vũ trang với quân đội Anh; và hai là quyết định thành lập Lực lượng vũ trang lục địa thay cho lực lượng dân quân thuộc địa, đồng thời cử đại tá Geoge Washington (1732 - 1799) làm Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang Mỹ. Dưới sự lãnh đạo của Washington nhiều trận đánh ác liệt đã nổ ra, thắng có, thua có cuộc chiến chưa có hồi kết, nhưng có điều được khẳng định là các thuộc địa đã thực sự tách khỏi Anh quốc và chỉ chờ một tuyên bố chính thức mà thôi: "Vào ngày 10 tháng 5 tức là đúng một năm sau Đại hội thuộc địa lần thứ hai, một nghị quyết đã được thông qua kêu gọi ly khai. Lúc này chỉ cần một bản tuyên ngôn theo đúng thủ tục và nghi thức mà thôi" [29, tr. 81]. Đáp ứng lời kêu gọi đó, một ủy ban gồm năm người do Thomas Jefferson (1743 - 1826) người bang Virginia đứng đầu đã soạn thảo bản Tuyên ngôn và được công bố vào ngày mùng 4 tháng 7 năm 1776, chính thức tuyên bố ra đời một quốc gia mới, độc lập hoàn toàn với Vương quốc Anh. Về sau ngày 4 tháng 7 năm 1776 được coi là ngày quốc khánh của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ: "Trên phạm vi rộng lớn, tác phẩm của Jefferson, Bản Tuyên ngôn độc lập được thông qua ngày 4 tháng 7 năm 1776 không chỉ tuyên bố ra của một quốc gia mới mà còn trình bày một triết lý về tự do của con người, điều đó đã trở thành động lực trong toàn bộ thế giới" [29, tr. 82]. Tiếng vọng về một tư tưởng tự do và độc lập trong Bản tuyên ngôn này, hơn một trăm năm sau, ngày 2 tháng 9 năm 1945, ở bên kia bờ Thái Bình Dương, lại vang lên một lần nữa trong Bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ tịch để khai sinh một quốc gia mới là nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau khi tuyên bố độc lập với Anh, những người định cư ở các thuộc địa đã lập ra nhà nước của mình. Đại hội lục địa lần thứ hai đã hoạt động như một nhà nước liên bang: "Các điều khoản của Hợp bang được thông qua một cách khó khăn vào năm 1777, được phê chuẩn còn khó khăn hơn nữa vào năm 1781, đã là những cố gắng đầu tiên của các thuộc địa trên con đường đi đến một chính quyền trung ương" [15, tr. 121]. 1.2.2. Những yếu kém của chế độ Hợp bang và nhu cầu thành lập Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Sau khi tuyên bố sự ra đời của quốc gia, chính quyền Mỹ vận hành theo Hiến pháp lúc đó với tên gọi là Các điều khoản Hợp bang gồm mười ba điều được phê duyệt và có hiệu lực năm 1781. Theo quy định của Các điều khoản Hợp bang thì Nhà nước liên bang chỉ có cơ quan lập pháp là Quốc hội mà không có điều khoản nào nói về cơ quan hành pháp liên bang, không có Tổng thống và cơ quan tư pháp liên bang. Điều đó nói lên rằng mô hình nhà nước này đã không dựa trên học thuyết chính trị pháp lý nào, hay nói đúng hơn là không được ánh sáng của một lý thuyết nào về tổ chức nhà nước soi đường. Quốc hội gồm đại diện của các tiểu bang cử đến, mỗi bang có từ hai đến bảy thành viên. Quốc hội theo Các điều khoản Hợp bang được trao một số quyền hạn quyết định một số vấn đề đối với liên bang, nhưng để quyết định có hiệu lực thì hiến pháp lại quy định phải được đa số tiểu bang đồng ý, mà đại diện các tiểu bang thì khó lòng đồng thuận, do đó quốc hội rất không hiệu quả: "Hội nghị lục địa (Quốc hội liên bang) có quyền điều khiển các lĩnh vực ngoại giao, chiến tranh, bưu chính, đúc tiền, và bổ nhiệm các sĩ quan trong quân đội liên bang. Các quyết định của Hội nghị lục địa muốn có hiệu lực phải được sự đồng ý của đa số tiểu bang, riêng những quyết định tối quan trọng phải được sự chấp thuận của chín trên mười ba tiểu bang" [25, tr. 12]. Quốc hội lúc đó được nhìn nhận: "Như chỉ là một tổ chức tập hợp các đại sứ của các địa phương mà thôi" [44, tr. 15]. Không có cơ quan hành pháp liên bang nên không ai đứng ra thi hành pháp luật và bảo vệ hiến pháp. Các thống đốc thì chỉ có quyền hạn trong các tiểu bang. Những vấn đề cần giải quyết ngay nhanh chóng và hiệu quả thì không có ai đứng ra lãnh trách nhiệm và thừa hành mà đều chờ đợi quyết định của Quốc hội một cách chậm chạp và thụ động nên thường lỡ thời cơ. Không có cơ quan hành pháp, không có ai đứng ra gánh trách nhiệm cụ thể, mô hình chế độ hợp bang rõ ràng đã để trống vắng một khoảng quyền lực vô cùng cần thiết trong một nhà nước. Còn quyền tư pháp, Chế độ Hợp bang cũng không có một hệ thống tòa án liên bang để có thể tiến hành xét xử các hành vi vi phạm hiến pháp và pháp luật. Điều đó nói lên rằng, chế độ Hợp bang đã chưa có đủ tầm nhìn để thấy được vai trò quan trọng của quyền lực tư pháp. Chế độ hợp bang đã không áp dụng lý thuyết về phân quyền cũng như không thực hiện cơ chế đối trọng kiểm soát cân bằng trong các ngành quyền lực nhà nước. Đây là những thiếu sót to lớn mà sau này các nhà lập quốc Mỹ đã phát hiện ra và đã sửa chữa triệt để trong chế độ cộng hòa Tổng thống sau này. Đối với các tiểu bang, theo Điều II của Các điều khoản Hợp bang quy định: "Mỗi tiểu bang vẫn duy trì chủ quyền, sự tự do và nền độc lập của mình và mọi quyền khác không giao phó cho quốc hội của Hợp chúng quốc", vì thế, mỗi tiểu bang đều coi mình giống như một quốc gia đều không chịu nhường quyền lực cho chính quyền liên bang. Các bang đều đặt quyền lợi trực tiếp của mình lên quyền lợi của liên bang. Các bang đều có hiến pháp có chính quyền và tự phát hành tiền, có nhiều bang tổ chức quân đội: "Chín bang đã tổ chức quân đội riêng, một số bang có hải quân riêng. Còn tồn tại rất nhiều các loại tiền xu và đủ mọi loại tiền giấy của quốc gia và của các tiểu bang, sự đa ._.dạng ấy khiến người ta phải ngạc nhiên, song tất cả các loại tiền đều mất giá nhanh chóng" [29, tr. 96]. Về mối quan hệ của chính quyền liên bang với các bang là vô cùng lỏng lẻo, Liên bang hầu như không thể phối hợp các nỗ lực của các bang với nhau và cũng không thể đảm bảo thống nhất trong lãnh đạo. Chính quyền liên bang không điều hành dân chúng trực tiếp mà thông qua chính quyền bang, nhưng lại không có khả năng buộc chính quyền bang phải tuân theo các quyết định của liên bang. Nhược điểm này đã được Hamilton (1755-1804) một nhà lập quốc nổi tiếng của Hoa Kỳ chỉ rõ: Tuy chính phủ Liên Hiệp có quyền trưng dụng nhân lực và tiền tài, nhưng lại không có thẩm quyền trực tiếp với các cá nhân công dân của Liên Hiệp. Kết quả là tuy trên phương diện lý thuyết, những quyết định của chính phủ Liên Hiệp là những đạo luật mà hiến pháp bắt buộc các tiểu bang phải tuân theo, nhưng trên phương diện thực hành, những quyết định đó chỉ là những đề nghị để tùy ý các chính phủ tiểu bang thi hành hay bác bỏ [44, tr. 55]. Trên đây là mô hình chính quyền tổ chức theo Điều khoản Hợp bang, mô hình này đã tỏ rõ vô vàn yếu kém và không hiệu quả, không tạo ra được một chính quyền trung ương mạnh để đảm bảo an ninh và thịnh vượng chung, cũng không tạo ra được mối liên kết bền chắc giữa liên bang với các bang cũng như các bang với nhau. George Washington với cương vị Tổng tư lệnh quân đội lục địa là người thấy rõ nhất những yếu kém bất cập của chế độ Hợp bang: Suốt tám năm giữ chức Tổng tư lệnh quân đội lục địa, ông đã từng chỉ huy mười ba đạo quân đồng minh của các tiểu bang do các tiểu bang này cung cấp lương thực và trả lương, nhưng chưa bao giờ cung cấp được đầy đủ số lượng mà Quốc hội Đại lục đòi hỏi. Ngay trong thời kỳ khói lửa và trước hiểm họa xâm lăng, các tiểu bang cũng rất chậm chạp trong việc đoàn kết thành một khối thống nhất chính trị [5, tr.11]. Sau này Washington đã thừa nhận: Chính quyền tổ chức theo bộ luật này đã từng thể hiện sự yếu kém và thiếu hiệu quả trong thời chiến. Đến thời hòa bình khi các tiểu bang càng ít phụ thuộc nhau, thì liên minh lỏng lẻo của mười ba tiểu bang thật sự gặp nguy hiểm. George Warhington nhận xét rằng: các bang chỉ được liên kết với nhau bằng một sợi dây bằng cát [21, tr. 18]. Một mô hình tổ chức chính quyền như vậy đã tạo ra tình trạng một liên bang lỏng lẻo, lộn xộn, hỗn loạn và có nguy cơ tan rã: "Tiền giấy tràn ngập khắp đất nước tạo ra sự lạm phát kinh khủng, tới mức nửa cân chè ở một vài vùng có thể phải mua bằng số tiền lớn là một trăm đô la. Tình trạng kinh doanh suy thoái đang lấy đi sinh mệnh của nhiều nông dân và chủ đất nhỏ. Một số phải vào tù vì nợ nần, và rất nhiều ruộng đất bị tịch thu hay phải bán để trả thuế. Uy tín nền cộng hòa bị nghi ngờ và công chúng bắt đầu mất niềm tin vào chính quyền. Hiệp ước với Anh bị cả hai phía phớt lờ và hầu như không có hiệu lực. Chính quyền Hợp bang cũng chẳng có uy tín trong con mắt của các nước châu Âu. Đó là một chính thể cộng hòa đang bị tê liệt. Bất kỳ người dân nào cũng có thể suy đoán về một kết cục thảm hại sẽ xảy ra [21, tr. 17]. Nguy hại cho Liên bang hơn nữa là bắt đầu có sự nổi dậy của dân chúng, mà điển hình là cuộc nổi dậy năm 1876, với sự cầm đầu của một cựu đại úy quân đội lục địa là Daniel Shays. Với tất cả những diễn biến như vậy thì sự sụp đổ của liên bang giống như cơn giông tố đang lấp ló ở chân trời: "Từ trang trại đồng quê Mout Vernon, Washington đã viết cho James Madison: tại thời điểm hiện nay, sự khôn ngoan, sự hiểu biết và các tấm gương tốt là cần thiết để cứu hệ thống chính trị này khỏi cơn bão đang treo lơ lửng… Tại mỗi tiểu bang đều có những mầm cháy, mà chỉ cần một tia lửa cũng có thể bùng lên mầm cháy" [21, tr. 17]. Đến lúc này, thực tế chế độ Hợp bang đang đứng trước hai con đường buộc phải lựa chọn: hoặc là tan rã hoặc là phải thay đổi thì mới tồn tại được. Nhận xét về chế độ Hợp bang: Dưới góc độ lý luận, chế độ hợp bang được xây dựng trên cơ sở hiến pháp 1781 do đó cũng là một điểm cách mạng so với các mô hình nhà nước ở châu Âu, châu á thời kỳ đó các nhà nước này vẫn là cha truyền con nối. Chế độ Hợp bang dựa vào Hiến pháp 1781 cũng đã hạn chế được sự chuyên chế độc tài vẫn thường xuất hiện trong chính quyền bằng cách quy định mọi quyết định quan trọng dựa vào sự đồng thuận của các tiểu bang. Về mô hình nhà nước, do không có hệ thống lý luận soi đường, nên nhà nước Hợp bang không chú ý xây dựng ngành quyền lực hành pháp và tư pháp và do đó luật và các quy định của hiến pháp đã không được các bang tôn trọng và thi hành. Về điểm này Hamliton nhận xét: "Những thất bại mà chúng ta trải nghiệm không phải bắt nguồn từ vài lỗi nhỏ lẻ nào, mà do những sai lầm căn bản, có tính nguyên tắc trong việc hình thành chính quyền, và không thể sửa đổi, nếu không có những thay đổi cơ bản nhất về mô hình chính quyền" [21, tr. 19]. Về mối quan hệ của nhà nước trung ương với các bang đã không quy định rõ ràng, hay có quy định nhưng lại không có gì để bảo đảm nó được tôn trọng và thi hành. Nói tóm lại về lý thuyết, mô hình nhà nước Hợp bang tuy dựa trên hiến pháp, nhưng mô hình đó không áp dụng các lý thuyết phân quyền, không có một lý thuyết tiến bộ nào được áp dụng trong tổ chức quyền lực nhà nước trung ương, cũng như trong việc điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan trong bộ máy đó, mối liên hệ giữa liên bang với tiểu bang cũng không được xử lý tốt. Dưới góc độ thực tế: Mô hình nhà nước Hợp bang đã vận hành không tốt. Nhà nước trung ương đã không đủ quyền, không đủ mạnh, để liên kết sức mạnh của các bang, thiếu sự lãnh đạo tập trung nhanh chóng và thông suốt nên trong thời chiến gặp nhiều khó khăn. Trong thời bình, nhà nước trung ương nợ nần chồng chất mà không thu được thuế, tình trạng một xã hội rối loạn, luật pháp không được thi hành dẫn đến các cuộc nổi loạn của dân chúng, còn các bang mỗi nơi một giang san cát cứ, không tuân thủ hiến pháp liên bang. Về đối ngoại các hiệp ước của Hợp bang với các nước khác không được tôn trọng, có bang còn tiến hành đàm phán riêng với các nước, uy tín của Hợp bang với quốc tế không còn. Hamilton (1755-1804) đánh giá: Chúng ta có những lãnh thổ và những tô giới mà ngoại quốc đã cam kết với chúng ta là sẽ trả lại cho chúng ta và đáng lẽ phải trả lại cho chúng ta từ lâu rồi. Thế mà hiện nay ngoại quốc còn giữ những lãnh thổ và tô giới đó, vừa làm thiệt hại tới quyền lợi của quốc gia chúng ta, vừa xâm phạm tới quyền lực của quốc gia chúng ta. Chúng ta có đủ khả năng để đẩy lùi ngoại xâm không? Nhưng chúng ta không có quân đội, không có tài chính, mà cũng không có cả chính phủ nữa (ý muốn nói Chính phủ Hợp bang). Do vị trí địa lý của quốc gia chúng ta, chúng ta có quyền tự do giao thông trên sông Mississipi hay không? Nhưng Tây Ban Nha không cho chúng ta hưởng quyền giao thông đó [44, tr. 52]. Ngoài ra, chúng ta còn thấy rằng, mô hình chế độ Hợp bang do xây dựng và vận hành trên hiến pháp 1781 là bản hiến pháp rất nhiều yếu kém, không dựa trên một học thuyết nào, không vận dụng những kinh nghiệm, những bài học lịch sử về xây dựng chính quyền của các nước trong lịch sử. Như Hamliton đánh giá: Thứ hiến pháp mà Hamliton, chính trị gia xuất sắc thuộc thế hệ thứ hai của cuộc Cách mạng Mỹ, sau này trở thành một trong những kiến trúc sư cho hệ thống chính quyền và kinh tế Mỹ, gọi là một sự khờ dại … và: Quốc hội Hợp bang chỉ là nhóm chính trị gia có tầm nhìn hạn hẹp, những người dễ dàng hi sinh mạng sống của binh lính và tương lai của toàn bộ dân tộc bằng cách lãng phí thời gian trong những cuộc tranh luận vụn vặt, chứ không phải những nghiên cứu, tranh luận thấu đáo hay suy xét kỹ càng, có tầm nhìn xa, trông rộng, trong quá trình hình thành chính sách. chính quyền tổ chức theo bộ luật này đã từng thể hiện sự yếu kém và thiếu hiệu quả trong thời chiến [21, tr. 18]. Như vậy trên cả phương diện lý luận và thực tiễn nhà nước Hợp bang chưa phải là nhà nước pháp quyền thực thụ, mà là một nhà nước kém hiệu quả và có nguy cơ sụp đổ: "Nhiều người Mỹ coi các điều khoản của Liên bang không phân tách này là một sai lầm" [46, tr. 26]. Hồ Chủ tịch khi nghiên cứu về cách mạng Mỹ cũng đánh giá như sau: Đối với cách mạng Mỹ, Nguyễn ái Quốc cho rằng trong buổi đầu Tuyên ngôn độc lập và các điều khoản của Liên bang về quyền con người là tiến bộ. Song cách mạng Mỹ là cách mạng tư sản, một cuộc cách mạng không triệt để, Tuyên ngôn độc lập và các điều khoản của Liên bang được coi là hiến pháp đầu tiên của nước Mỹ, trong đó nói quyền lực tối cao thuộc về nhân dân nhưng thực tế quyền lực đó rơi vào tay một số ít người, còn đa số công nông vẫn cực khổ [33, tr. 109]. Tình hình đó làm xuất hiện một nhu cầu cấp thiết và cấp bách là cần một mô hình chính quyền liên bang mới, vừa hạn chế được căn bệnh độc tài chuyên chế, vừa hiệu quả, mạnh mẽ, để có thể tạo được an ninh và thịnh vượng chung, cũng như có thể liên minh bền chặt giữa các tiểu bang trong một quốc gia thống nhất. Trước đòi hỏi như thế, một hiến pháp mới đã ra đời, và cùng với các điều kiện khác, một chế độ mới được xây dựng - Chế độ Tổng thống hợp chúng Hoa Kỳ. 1.3. Chế độ Tổng thống Hoa Kỳ là kết quả của sự thỏa hiệp các xu hướng chính trị; tổng kết các tư tưởng chính trị pháp lý và kinh nghiệm về xây dựng chính quyền của các quốc gia 1.3.1. Các xu hướng chính trị về xây dựng nhà nước Như trên đã phân tích, chế độ Hợp bang đã thể hiện rõ ràng tình trạng bất cập, và nhu cầu thành lập một chế độ mới đã ngày càng trở nên cấp bách. Nhưng bỏ chế độ Hợp bang thì xây dựng một chế độ mới như thế nào? Vấn đề này đã diễn ra nhiều cuộc tranh luận giữa các bang, giữa các chính khách và trong công chúng Mỹ. Để giải quyết nhu cầu này, một đại hội gồm năm lăm đại biểu đến từ các bang được triệu tập tại Philadelphia bang Pennsilavani vào thứ sáu, ngày 25 tháng 5 năm 1787. Hội nghị này về sau được gọi là Hội nghị lập hiến. Tại Hội nghị này, ba mô hình chính quyền mới được đệ trình, và xoay quanh ba mô hình này là hai xu hướng chính trị chủ yếu, tiêu biểu cho nguyện vọng của các bang và của công chúng cũng như các nhà lập quốc Mỹ. Tất nhiên thời kỳ này có nhiều xu hướng nhưng có hai xu hướng chính trị chủ yếu là: xu hướng ủng hộ liên bang và xu hướng phản đối liên bang, hai xu hướng này về sau là nền tảng cho việc xuất hiện hai đảng lớn ngự trị trên chính trường nước Mỹ cho đến thời kỳ hiện đại. Ba mô hình chính quyền được đệ trình lên Hội nghị là: * Phương án Virginia Phương án này do bang Virginia đệ trình. Phương án có mười năm điểm, dựa theo Hiến pháp trước đó của bang và có nhiều điểm bổ sung. Trong đó có những điểm chủ yếu như quyền lực của nhà nước sẽ được phân làm ba ngành quyền lực. Đó là quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, mỗi ngành quyền lực sẽ được cấu trúc để kiểm soát và tạo thế cân bằng với hai ngành kia. Quyền lập pháp sẽ giao cho quốc hội gồm hai viện. Quyền hành pháp tức là Tổng thống sẽ được cả hai viện của Quốc hội bầu chọn. Còn bộ máy của cơ quan tư pháp sẽ bao gồm tòa án các cấp, và các cơ quan này cũng do cơ quan lập pháp chọn ra. Chính quyền trung ương sẽ được giao rất nhiều quyền ví dụ chính quyền trung ương có quyền phủ nhận mọi bộ luật mà cơ quan lập pháp tiểu bang ban hành. Nhìn vào mười lăm điểm của kế hoạch Virginia, chúng ta thấy đây là một mô hình chính quyền đã áp dụng học thuyết phân quyền, chính quyền trung ương được tập trung nhiều quyền hành rộng rãi, nhưng quyền hạn của các tiểu bang không được coi trọng, quyền hạn của công dân chưa được đề cập đến. Những điểm này đã gây tranh cãi rất nhiều giữa đại biểu của các bang, giữa bang lớn và bang nhỏ, giữa những người ủng hộ quyền dân chủ của công dân và những người ủng hộ một chính quyền trung ương hùng mạnh. * Phương án New Jersey Phương án do bang New Jersey đưa ra gồm chín điểm. Trong đó những nội dung chính của kế hoạch này là tăng cường thêm quyền lực cho quốc hội. Quốc hội có quyền điều hành thương mại trong toàn quốc, quyền thu thuế. Các đạo luật của quốc hội và những hiệp ước mà quốc hội thông qua sẽ là đạo luật tối cao bắt buộc đối với các bang. Điểm bốn của kế hoạch này quy định quốc hội có quyền thành lập bộ máy hành pháp và các viên chức của bộ máy này: "Quốc hội Liên minh chọn lựa bộ máy hành pháp quốc gia bao gồm một số người giữ chức vụ trong một nhiệm kỳ một số năm, nhận chính xác một lượng tiền nhất định, tại những thời điểm nhất định, bồi thường cho công việc của họ" [21, tr. 87]. Theo phương án này quốc hội chỉ có một viện duy nhất, bộ máy hành pháp sẽ do một nhóm cá nhân lãnh đạo, về quyền tư pháp thì theo điểm ba của kế hoạch này quy định tòa án liên bang chỉ được trao quyền phúc thẩm. Như vậy qua những điểm chủ yếu của phương án New Jersey thì mô hình chính quyền mới, chỉ thay đổi và mở rộng thêm một số quyền mà chính quyền Hợp bang trước chưa có. Phương án này được các bang nhỏ như New jersey, Delaware, Marylan ủng hộ. Về thực chất mô hình chính quyền chỉ sửa đổi mô hình nhà nước Hợp bang mà thôi: "Thay vì đề xuất một mô hình chính quốc gia mới, phương án của Paterson (1745 - 1806) - một đại biểu của bang New Jersey (tức kế hoạch New Jersey) chỉ là một loạt sửa đổi đối với Các điều khoản Hợp bang. Các đại biểu từ bang nhỏ đều tập hợp quanh phương án này" [21, tr. 25]. Nhìn chung phương án Virginia được các bang lớn ủng hộ và cũng được nhiều đại biểu của hội nghị hưởng ứng. Đánh giá về hai phương án, ông John Lansing (1754 - 1829), một đại biểu của bang New York nhận xét: "Kế hoạch này (tức phương án New Jersey) quả thật là một kế hoạch để tu chính lại bản Điều khoản Liên hiệp, còn kế hoạch của Virginia thì nhằm mục tiêu thay thế Liên hiệp bằng một chính phủ quốc gia" [5, tr. 62]. * Phương án Hamilton Đứng trước tình hình, Hội nghị tranh luận gay gắt mà chưa thống nhất để chọn lựa một mô hình chính quyền mới nào, Hamilton (1755-1804) một thư ký và là bạn của Warshington, đại biểu của bang New York đã đưa ra một phương án thứ ba. Những điểm chính của phương án thứ ba là các tiểu bang sẽ không có quyền lực nào ngoài việc quy định những vấn đề thuộc địa phương, những bang này gần với như là một đơn vị tỉnh của một quốc gia thống nhất và hùng mạnh. Quốc hội cũng chia làm hai viện nhưng thượng viện có quyền lực cao hơn hạ viện. Trưởng ngành hành pháp, có một quyền lực to lớn, giống như một vị quân vương nhưng được bầu theo nhiệm kỳ và theo hành vi đúng đắn của ông ta, có thể phủ nhận tất cả các dự án luật của quốc hội. Mô hình mà Hamilton đưa ra, được các đại biểu đánh giá là giống như mô hình chính quyền Anh, ở đó có một ông vua độc đoán chuyên quyền, điều mà mọi người dân Mỹ vẫn còn lo sợ, do vậy phương án Hamilton không được các đại biểu hưởng ứng. Nhưng chính Hamilton lại cho rằng mô hình chính phủ Anh lại là thích hợp ở nước Mỹ: "Ông không lưỡng lự một chút nào mà đề nghị, nhưng chỉ nhân danh ý kiến riêng của ông mà thôi, rằng chính phủ Anh là chính phủ hoàn hảo nhất nước Anh và trên thế giới; và ông tin tưởng là không một chính phủ nào nếu không tương tự với chính phủ Anh lại có thể thích hợp được cho nước Mỹ" [5, tr. 64]. Phương án mà Hamilton đưa ra tuy không được chấp nhận, nhưng những ý tưởng và cách đánh giá của ông về mô hình chính quyền Anh, chứng tỏ Ông có tầm nhìn rộng lớn và sự hiểu biết sâu sắc về các hình thức chính thể. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung đánh giá: "Anh quốc là quê hương của các chính thể". Ngoài ba phương án trên, trong quá trình thảo luận các đại biểu còn đưa ra một số mô hình chính quyền khác như: Chia Liên bang làm mười ba lãnh thổ bằng nhau; hoặc để một số bang tự liên kết với nhau thành một quốc gia; hoặc soạn thảo một hiến pháp để những bang tự động muốn tham gia thì ký kết để hình thành liên minh. Nhưng tất cả các mô hình này đều không được đưa ra thảo luận. Toàn bộ thời gian của hội nghị dành cho phương án của bang Virginia, và của bang New Jersey. Có rất nhiều xu hướng chính trị khi tranh luận về hai phương án này, nhưng tựu trung lại có hai xu hướng chính. Một bên là các bang lớn (Massachusetts, Virginia, Pennsylavania) và một bên là các bang nhỏ (Marylan, Delaware, New Jersey). Một bên là những người ủng hộ một chính quyền liên bang mạnh mà đại diện tiêu biểu là Hamliton, một bên là những người muốn bảo vệ chủ quyền của các tiểu bang và e sợ về một chính quyền mạnh, đe dọa đến quyền của dân chúng và của các bang, tiêu biểu là Thomas Jefferson (1743-1826), người sau này làm Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ. Một bên là các bang miền bắc như, New hampshire, New York, Massachusetts... và những người muốn xóa bỏ chế độ nô lệ, một bên là các bang miền nam như Nam Carolina, Marylan, Delaware và những người muốn duy trì chế độ nô lệ. Hai xu hướng, đã gây rất nhiều khó khăn trong quá trình thảo luận để tìm ra một mô hình chính quyền, một chế độ mới để thay thế chế độ Hợp bang. Hai xu hướng này, mà franklin (1706 -1790) một người được coi là nhà bác học Mỹ, trong một buổi trò chuyện với bạn ông là Cutler franklin so sánh như một con rắn có hai đầu: Ông franklin vừa mới nhận được ngày hôm nay con rắn hai đầu ngâm trong chai rượu. Trong khi hai người nói tới con rắn kỳ lạ này, ông franklin nói rằng con rắn này chắc chắn bị phiền nhiễu vì khi nó bò trong bụi, nếu vướng vào một cành cây nào, nó sẽ không biết theo đầu nào và bò sang phía nào. Chuyện con rắn hai đầu lại làm cho franklin nhớ tới một việc xảy ra ở Hội nghị lập hiến, khiến Ông ví con rắn hai đầu đó như nước Mỹ [5, tr. 77]. Xu hướng phân đôi này, như trên đã nói, đã ảnh hưởng tới việc hình thành các đảng phái chính trị ở Mỹ: "Trong buổi thảo luận, đại biểu Wilson đã thể hiện một kiến thức và trí tuệ về nhà nước đặc biệt xuất sắc về bênh vực một mô hình chính quyền liên bang mạnh. Nhưng Lansing, tiểu bang New York và Paterson tiểu bang New Jersey kiên quyết đấu tranh đòi giữ lại quyền của tiểu bang. Sau này, quyền của tiểu bang là một trong những nguyên nhân chủ yếu hình thành các đảng phái chính trị ở Mỹ" [21, tr. 89]. Hai xu hướng trong thời kỳ hình thành chế độ Cộng hòa Tổng thống Hoa Kỳ xuất hiện hoàn toàn không phải do lợi ích của một cá nhân hay một nhóm người nào, mà hình thành là do thực trạng lúc đó ở nước Mỹ. Các bang không phát triển đồng đều, tình hình kinh tế và phương thức sản xuất ở các bang là khác nhau, vị trí địa lý và tài nguyên của các bang cũng khác nhau, dẫn đến quyền lợi khác nhau và hai phe là đại diện cho những quyền lợi khác nhau đó: Cuộc xung đột hình thành vào những năm 1790 giữa phái ủng hộ chủ nghĩa liên bang và phe chống chủ nghĩa liên bang đã có ảnh hưởng mạnh mẽ tới lịch sử nước Mỹ. Phái ủng hộ chủ nghĩa liên bang do Alexander Hamliton lãnh đạo… đại diện cho những quyền lợi thương mại đô thị của các vùng cảng biển; phe chống chủ nghĩa liên bang do Thomas Jefferson(1743-1826) lãnh đạo ủng hộ những quyền lợi của nông thôn và của miền nam [29, tr.112]. Hai xu hướng này không chỉ diễn ra trong hội nghị mà ảnh hưởng tới toàn thể xã hội: Cũng giống như tại Hội nghị, các chính trị gia và dân chúng trên khắp cả nước cũng chia thành hai phe: chống bản hiến pháp, chống chế độ Liên bang, họ chống báng hiến pháp vì cho rằng Hiến pháp chỉ nói đến phân quyền mà không nói đến nhân quyền và phe ủng hộ bản hiến pháp, ủng hộ chế độ Liên bang. Quan điểm của những người ủng hộ cũng như chống đối Hiến pháp được in đi in lại trên tất cả các tờ báo trong cả nước [21, tr. 36]. Hai xu hướng trên cũng góp phần tạo ra các đảng phái chính trị sau này: "Chính sự ăn thua này dẫn đến sự hình thành trong nước hai mầm mống đầu tiên của các đảng phái chính trị, ủng hộ chế độ liên bang và chống lại chế độ liên bang" [15, tr. 134]. Những người ủng hộ liên bang tập hợp quanh Hamliton thành lập đảng Liên bang, những người chống liên bang tập hợp xung quanh Jefferson, thành lập Đảng Cộng hòa - dân chủ (Đảng này khác với đảng Cộng hòa của Tổng thống Abraham Linconln (1809-1865) lập năm 1854). Cuộc tranh luận của hai phe diễn ra rất gay gắt trong quá trình xây dựng hiến pháp và cũng tác động rất lớn đến việc hình thành Chế độ Tổng thống: "Quá trình thảo luận để đi đến hiến pháp là một quá trình đấu tranh giữa các trường phái tư tưởng đại diện cho những lợi ích khác nhau, giữa những người chủ trương xây dựng một chính quyền trung ương mạnh và những người ủng hộ duy trì chế độ quyền hành chủ yếu nằm trong tay tiểu bang, giữa lợi ích nông nghiệp và lợi ích công nghiệp" [30, tr. 14]. Nội dung chủ yếu của các cuộc tranh luận đó là chọn mô hình hình chính quyền nào? quyền lực của liên bang và tiểu bang như thế nào cho phù hợp, làm thế nào để có được chính quyền trung ương mạnh mà không thôn tính chủ quyền của các bang? Làm thế nào để giữ được các quyền rộng rãi của công dân vừa giành được từ Anh quốc, vừa tránh được tình trạng dân chủ thái quá và sự tiếm quyền của các tiểu bang. Hai phe còn đấu tranh gay gắt về quyền đại diện và cách thức bầu cử hai viện của Quốc hội. Cuộc tranh luận giữa hai phe không chỉ diễn ra trong hội nghị lập hiến mà còn diễn ra tại chính quyền của các tiểu bang và diễn ra trên toàn thể công chúng Mỹ với những bài báo nổi tiếng của các chính trị gia xuất sắc: "Những cuộc tranh luận, lý lẽ của cả hai phe nhóm đã được bày tỏ bằng báo chí, bằng các cơ quan lập pháp và các hội nghị bang" [29, tr. 108]. Lý lẽ của phe chống liên bang là: liệu một chính phủ trung ương hùng mạnh có thể dẫn đến việc chính phủ đó lấn át quyền của các tiểu bang và áp chế người dân bằng các khoản thuế khóa nặng nề giống như chính phủ Anh hay không? Tại sao Hiến pháp là bản văn thiết kế nên mô hình chính quyền, hạn chế quyền của chính phủ, nhưng lại không tuyên bố một cách rõ ràng rằng những quyền tự nhiên cơ bản của dân chúng không thể trao cho chính quyền, giống như hiến pháp của bang Virginia đã từng tuyên bố về quyền của dân chúng, mà những nội dung đó tạo nên tính nhân bản của hiến pháp: "Những luận cứ chống đối Hiến pháp của phe chống Liên bang là việc thiếu vắng Tuyên ngôn về các quyền. Nhiều người Mỹ lo sợ rằng, sau khi thiết lập, chính quyền liên bang sẽ cướp hết mọi quyền tự do của dân chúng và sẽ chèn ép họ, và rồi sẽ biến thành một thứ nhà nước chuyên quyền, hoặc của giới quý tộc" [21, tr. 341]. Một đại biểu của phe chống liên bang là Patrick Henry (1736 - 1799), đã phê phán chủ trương cân bằng đối trọng của phe liên bang: "Những trò cân bằng và đối trọng giả tạo và hào nhoáng kia, cái trò bước đi trên dây đầy mạo hiểm, những vụ huyên náo ầm ĩ, nhưng toan tính kỳ quặc về kiểm soát và cân bằng để làm gì? Ông đòi hỏi một bản hiến pháp cô đọng hơn, chắc chắn hơn, nêu bật được quyền của dân chúng và những giới hạn quyền lực của chính quyền" [21, tr. 45]. Những phản đối của phe chống liên bang không phải là không có có cơ sở. Những luận điểm này đã góp phần trong việc phê chuẩn mười Tu chính án đầu tiên về nhân quyền. Phe ủng hộ liên bang đã nêu những lập luận của mình về việc phải thi hành mô hình nhà nước liên bang trong tác phẩm rất nổi tiếng Những bức thư người liên bang. Tác phẩm này đã được tác giả cuốn "Bàn về nền dân chủ Mỹ" là Tocqueville đánh giá: "Đó là cuốn sách tuyệt vời và có lẽ gần gũi và cần thiết nhất đối với các chính khách của tất cả các nước" [21, tr. 40]. Trong bài phát biểu tại Hội nghị phê chuẩn của bang New York, Alecxander Hamliton (1755 - 1804) đại biểu của phe ủng hộ liên bang lập luận rằng, không phải chính quyền trung ương mạnh thì không cần đến chính quyền tiểu bang, cũng không phải chính quyền trung ương trực tiếp tác động đến dân chúng thì dân chúng sẽ e ngại chính quyền, mà ngược lại chính quyền trung ương mạnh vẫn cần có chính quyền tiểu bang và dân chúng lại càng được bảo vệ hơn, vì đều đó là phù hợp với tâm lý và bản chất con người, ai gần gũi hơn thì có nhiều tình cảm hơn, giống như quy luật của lực học: vật càng xa tâm thì lực hút càng giảm: Có những nguyên tắc mang tính xã hội trong bản chất của loài người giúp chúng ta rút ra những kết luận đúng đắn về tư cách và đạo đức của những cá nhân và của cả cộng đồng. Chúng ta yêu gia đình chúng ta hơn những người hàng xóm và yêu những người hàng xóm hơn những đồng bào. Những tình cảm quyến luyến của con người, cũng giống như sức nóng của mặt trời, càng ra xa trung tâm, sẽ càng mất sức nóng, và lực tác động sẽ tỷ lệ nghịch với phạm vi chịu tác động [21, tr. 362]. Tư tưởng này của Hamliton ta thấy trùng hợp với tư tưởng của Lý Tôn Ngô (1879 - 1944) người Trung Quốc khi ông viết rằng: "Sự biến đổi nhân tâm đều theo quy luật của lực học, các sự tích cổ kim đông tây, việc chính trị ngày nay, việc vặt thường ngày, trong tâm khảm của mình, ở lý hóa số học, ở các thuyết phương tây đều biểu hiện rõ ràng, cảm thấy có thể thông được" [38, tr. 101]. Một lập luận quan trọng khác của phe Liên bang được James Madion (1751 -1836) đưa ra khi ông phê phán chính thể quân chủ, và bất lợi của chính thể cộng hòa bé nhỏ để từ đó khẳng định sự cần thiết phải có chính quyền liên bang: Trong nền quân chủ tuyệt đối, nhà vua hoàn toàn trung lập với các phe phái và tầng lớp khác nhau, nhưng nhà vua có thể hi sinh hạnh phúc của toàn thể dân chúng cho tham vọng, hay mưu đồ cá nhân. Trong nhà nước cộng hòa bé nhỏ, chính quyền sẽ được kiểm soát để không thể hi sinh quyền lợi của toàn thể dân chúng, nhưng chính quyền đó không đủ trung hòa những phe phái cấu thành nhà nước. Trong một nước cộng hòa rộng lớn như Hợp chúng quốc, chính quyền liên bang sẽ đảm bảo được tính trung lập giữa các đảng phái của các tiểu bang, đồng thời cũng tự kiểm soát được chính mình, bởi chính quyền sẽ độc lập với cả cộng đồng, nên không thể phản bội lợi ích chung của dân chúng [21, tr. 298]. Cuộc tranh luận giữa hai phe đã tạo ra Một thỏa hiệp vĩ đại đó là Hiến pháp 1787, dựa vào bản Hiến pháp này chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hòa Kỳ đã được tạo ra. Nội dung chính của những thỏa hiệp đó là: thành lập Quốc hội hai viện để giải quyết mâu thuẫn giữa bang lớn và bang nhỏ. Bang nhỏ được ngang bằng, bình đẳng với bang lớn ở thượng viện, thể hiện ở số lượng hai đại biểu cho mỗi bang không kể bang lớn hay bang nhỏ. Ngược lại, ở bang lớn số dân đông hơn phải có nhiều đại biểu hơn nên số lượng đại biểu ở hạ viện sẽ phụ thuộc vào số lượng dân cư ở mỗi bang. Như vậy, ở bang lớn số đại biểu bao giờ cũng nhiều hơn so với số đại biểu của bang nhỏ. Quy định này có hiệu lực rất nhiều năm cho đến năm 1920 được thay đổi bằng quy định mới là số đại biểu cố định của hạ viện là 435 người. Để tránh cho trường hợp với số lượng đại biểu áp đảo, hạ viện có thể khuynh loát thượng viện, đại biểu các bang cũng thỏa thuận quy định cho hai viện ngang quyền, không có viện nào lãnh đạo viện nào. Một thỏa hiệp khác giữa hai xu hướng chống hiến pháp và phe ủng hộ hiến pháp là phe chống hiến pháp sẽ bỏ phiếu chấp nhận hiến pháp nếu phe ủng hộ hiến pháp chấp nhận ghi trong hiến pháp tuyên ngôn về các quyền. Sau này, ngay trong kỳ họp Quốc hội đầu tiên, mười tu chính án Tuyên ngôn về các quyền đã được phê chuẩn theo yêu cầu của phe chống hiến pháp. Ngoài ra, giữa các bang miền Bắc và miền Nam cũng đạt được thỏa hiệp quan trọng. Các bang miền Bắc chấp nhận cho các bang miền Nam duy trì việc nhập khẩu nô lệ trong một thời gian là hai mươi năm và số nô lệ khi bầu cử sẽ được tính theo tỷ lệ 3/5. Ngược lại, các bang miền Nam chấp nhận cho các bang miền Bắc khi phê chuẩn các dự luật về hàng hải, thương mại chỉ cần sự chấp nhận của đa số quá bán tại nghị viện là được. Sự chấp nhận này tạo điều kiện thuận lợi cho các bang miền Bắc khi ký các hiệp ước hàng hải, thương mại là các thế mạnh của miền Bắc, vì nếu phe miền Nam đòi đủ đa số tuyệt đối 2/3 số phiếu ở nghị viện thì bang miền Bắc khó lòng có được những hiệp ước hàng hải, thương mại mang lại lợi nhuận cho mình. Sự thỏa hiệp cao nhất giữa các xu hướng là tạo ra bản Hiến pháp 1787 - một bản văn tới nay vẫn còn hiệu lực - và dựa trên Hiến pháp này chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa kỳ được xây dựng. 1.3.2. Tổng kết các tư tưởng chính trị pháp lý và kinh nghiệm về xây dựng chính quyền ở các quốc gia Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ra đời là từ sự hình thành mười ba bang nguyên khai, và từ những nhu cầu thực tế của nước Mỹ như đã trình bày ở trên. Nhưng có một lý do nổi bật nữa để tạo thành chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ: đó là sự tổng hợp rút đúc những tư tưởng về xây dựng chính quyền của các nhà tư tưởng trong nền văn minh Hy Lạp - La Mã cổ đại, tư tưởng của các nhà khai sáng ở châu Âu thế kỷ XVII - XVIII; đó là những bài học được rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn xây dựng chính quyền của nhà nước Anh, từ bản thân nước Mỹ, và các quốc gia khác trong lịch sử. 1.3.2.1. Những tư tưởng chính trị pháp lý ảnh hưởng đến chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ - Tư tưởng của các triết gia Hy Lạp cổ đại Trong quá trình tranh luận để lựa chọn một mô hình chính quyền cho nước Mỹ, các nhà lập quốc đã viện dẫn những tư tưởng của các triết gia để soi sáng cho những luận điểm của mình. Tư tưởng về nền cộng hòa và nhà nước liên bang là một trong những tư tưởng chủ đạo của các nhà lập quốc Mỹ. Trong quá trình thảo luận hiến pháp để thiết kế một mô hình chính thể, tư tưởng về một chính thể quân chủ có được nêu ra nhưng đã bị gạt sang một bên. Hầu hết các đại biểu đều tập trung thảo luận về chính thể cộng hòa. Chính thể cộng hòa (Republic) theo tác giả Lê Đình Hồ là: "Hình thức của chính quyền mà trong đó quyền tối thượng thuộc về dân chúng và những đại diện được bầu của họ" [24, tr. 505]. Còn theo tác giả Đào Duy Anh thì: "Chính thể cộng hòa là chính thể trong ấy chủ quyền thuộc về toàn thể nhân dân" [1, tr. 124]. Tác giả Phan Văn Các giải thích: "Cộng hòa là chính thể không có vua, còn gọi là chế độ cộng hòa" [4, tr. 58]. Tư tưởng về chính thể cộng hòa đã được các nhà lập quốc Mỹ sử dụng như một luận điểm quan trọng để tranh luận trong hội nghị lập hiến. Bedford (1747 - 1812) một đại biểu của bang Dlaware, khi bàn về quyền đại diện bình đẳng của các bang trong thượng viện, Ông đề nghị hãy vận dụng những tư tưởng tiến bộ của So Lon (khoảng 638 - 559 TCN) trong việc thành lập cơ quan quyền lực: "Nhưng trong bất cứ trường hợp nào, các bang nhỏ cũng bị thiệt thòi. Chúng ta phải noi theo So Lon" [21, tr. 162]. Theo So Lon thì: "Những cơ quan quyền lực công cộng trọng yếu được tổ chức theo nguyên tắc đại biểu của nhiều đẳng cấp, trong đó có cả đẳng cấp thứ tư là tá điền" [26, tr. 60]. Dựa vào tư tưởng này, Bedf._. sung những vấn đề mà Quốc hội không thể ban hành luật một cách chi tiết và đầy đủ được: Tổng thống có quyền ban hành quy tắc, quy chế, kế hoạch cải tổ. Loại văn bản này ngày càng thông dụng và chiếm ưu thế hơn so với những đạo luật của Quốc hội… Chính phủ ban hành các văn bản có tính quy phạm pháp luật khác nhau nhằm triển khai thực hiện các đạo luật được Quốc hội thông qua. Các văn bản này có hiệu lực pháp lý dưới luật, dựa trên cơ sở luật và để luật được thực hiện trong cuộc sống. Những văn bản này không những chỉ bổ sung mà đôi khi còn thay thế cả pháp luật trong việc điều chỉnh những vấn đề khác nhau của đời sống kinh tế chính trị xã hội nước Mỹ [23, tr. 130]. Xu hướng hiện nay của hành pháp Mỹ là ngày càng mở rộng quyền lực hơn. Xu hướng này là xuất phát từ thực tế khách quan. Trong thời đại khoa học công nghệ các vấn đề xã hội, chính trị, môi trường, được người dân tiếp cận rất nhanh. Chính phủ ngày càng phải trả lời nhiều hơn trước các đòi hỏi của dân chúng, do vậy chính phủ phải tìm cách để tăng cường quyền lực và tự đổi mới để đáp ứng cho việc quản lý xã hội trong thời đại mới như xây dựng chính phủ điện tử, hình thành chính phủ đáp ứng các dịch vụ công. Xu hướng lớn mạnh của hành pháp còn do đặc thù của hành pháp là có được những tiềm lực về con người và vật chất về khả năng tiếp cận được nhiều thông tin nhất, nhanh nhất so với các ngành quyền lực khác: "Sự bí mật, nhanh chóng, thống nhất liên tục, và tiếp cận thông tin - những yếu tố tạo nên một ngành ngoại giao thành công - là tài sản của Tổng thống. Quốc hội không có chút gì trong đó cả" [23, tr. 149]. Sự tập trung quyền lực vào trong tay một người, tạo điều kiện khách quan cho việc Tổng thống có thể giải quyết nhanh nhạy nhiều tình huống xảy ra trong khi quản lý xã hội đem lại những lợi ích cho Quốc gia. Ví dụ trường hợp Tổng thống Jefferson đã mua vùng Louisiana năm 1803 với giá mười lăm triệu đô la của Pháp mà không chờ sự đồng ý của Quốc hội vì sợ rằng Napoleong thay đổi ý kiến. Việc mua vùng lãnh thổ này khiến cho diện tích của Mỹ tăng gấp đôi. Theo đánh giá của các sử gia, đây là thành công quan trọng nhất của ngành hành pháp Mỹ dưới thời Tổng thống Jefferson. 3.3. Sự phát triển của ngành tư pháp Theo điều ba của Hiến pháp quyền tư pháp được trao cho tòa án. Trong quá trình hoạt động của mình Tòa án tối cao Mỹ còn gọi là Tối cao pháp viện đã mở rộng quyền của mình để xứng đáng với vị trí là ngành quyền lực ngang bằng với hai ngành quyền lực khác. Quyền hạn của ngành tư pháp Tối cao pháp viện có quyền độc lập khi xét xử. Nguyên tắc này đã được đảm bảo và củng cố trong hơn hai trăm năm qua, đây là thành công của ngành tư pháp Mỹ. Mặc dù trong Hiến pháp chưa quy định rõ ràng quyền xem xét tính hợp hiến của các đạo luật do Quốc hội ban hành, nhưng với phán quyết của tối cao Pháp viện, mà đại diện là Chánh án Jonh Marshall (1755-1835) trong vụ Marbury và Madison năm 1803 đã khẳng định quyền xem xét lại và tuyên bố một đạo luật nào đó do Quốc hội thông qua là trái Hiến pháp và không có hiệu lực: Ông cho rằng Hiến pháp là đạo luật tối cao không thể thay đổi bằng cách thông thường và do vậy nếu một đạo luật của Quốc hội mà trái với Hiến pháp thì phải bị tuyên bố vô hiệu. Ông cũng khẳng định ngành tư pháp có quyền và nghĩa vụ giải thích một đạo luật là như thế nào. Hiến pháp là đạo luật tối cao nên rõ ràng việc xem xét sự hợp hiến của các đạo luật và các hiệp định thuộc phạm vi trách nhiệm của tòa án. Kể từ sau vụ này, thẩm quyền kiểm soát ngành lập pháp hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp không còn nghi ngờ [23, tr. 184]. Một nguyên tắc quan trọng của Tối cao Pháp viện cũng được hình thành trong thời gian từ 1801-1835 xóa bỏ thông lệ mỗi thẩm phán đều nêu ra ý kiến riêng của mình bằng quy tắc là chỉ chọn một luật gia duy nhất để thay thế cho toàn bộ. Quy tắc này cũng như quyền xem xét các đạo luật của Quốc hội được xây dựng bởi Chánh án Tối cao Pháp viện Jonh Marshall. Với hai nền tảng pháp lý này Jonh Marshall được coi là Chánh án vĩ đại nhất đã: "Có công đưa Tòa án tối cao liên bang trở thành một bộ phận thứ ba, quan trọng trong bộ ba kiểm soát và cân đối mọi vấn đề của đất nước, không bị rơi vào tình trạng cái bóng, tồn tại mà như không tồn tại" [59, tr. 88]. Đến năm 1816 trong vụ Martin và Hunter Tòa án Tối cao Liên bang xác lập quyền của Tòa án Tối cao Liên bang được xem xét lại các quyết định của Tòa án các bang. Ngoài Quyền xem xét lại các đạo luật của Quốc hội, Tòa án tối cao Liên bang còn có quyền xem xét các hành vi của Tổng thống có vi hiến hay không. Quyền này đã được Tòa án Tối cao sử dụng vào năm 1952. Tháng 4 năm 1952 Tổng thống Truman (1884-1972) ra lệnh quốc hữu hóa các nhà máy thép, nhưng đến tháng 6 năm 1952 Tòa án Tối cao đã phủ định mệnh lệnh trên và tuyên bố: "Tổng thống đã vượt quá quyền hạn của mình đã được quy định trong Hiến pháp" [59, tr. 1005]. Quyền của Tòa án Tối cao còn được khẳng định trong vụ nước Mỹ kiện Nixon năm 1974 khi Tòa án tối cao với một trăm phần trăm phiếu (Chú ý rằng bốn trong số chín thẩm phán do chính Nixon bổ nhiệm) trong số chín thẩm phán ra lệnh cho Tổng thống phải trao cuốn băng là chứng cứ để luận tội Tổng thống, và mặc dù có viện dẫn đến đặc quyền của Tổng thống, cuối cùng Nixon vẫn phải giao nộp cuốn băng và phải từ chức. Về cơ cấu tổ chức Không có các tổ chức rộng lớn và số lượng nhân sự cũng có hạn, nhưng ngành tư pháp Mỹ cũng đã dần dần vươn lên để tự tổ chức và quản lý hành chính. Mặc dù việc thành lập các toà án là do cơ quan lập pháp quyết hành định, nhưng kể từ năm 1900 tòa án Mỹ đã vươn lên độc lập trong quản lý hành chính, và thiết lập nên các tổ chức bên trong tòa án để nâng cao chuyên môn cho thẩm phán, cũng như để tạo tiếng nói tập thể có tính tổ chức cho tòa án. Hội đồng Thẩm phán Hoa Kỳ được thành lập năm 1922 bao gồm Chánh án tối cao Pháp viện, Chánh án của các tòa án phúc thẩm lưu động, một số thẩm phán của tòa án khu vực và Chánh án tòa án thương mại quốc tế. Có thể nói đây là tổ chức rất quan trọng của tòa án, hội đồng này không những ảnh hưởng tới các tòa án mà còn ảnh hưởng tới quá trình lập pháp của Quốc hội thông qua các ý kiến của nó: "Hội đồng này chính là nơi lập ra chính sách tư pháp của Liên bang và giám sát cơ quan quản lý hành chính của của các tòa án. Vai trò quan trọng nhất của hội nghị này là đóng góp vào quá trình lập pháp của quốc hội" [23, tr. 197]. Ngoài Hội đồng thẩm phán còn có các ủy ban dự thảo, các ủy ban này sẽ xây dựng các quy định các nguyên tắc về dân sự, hình sự, thương mại, bảo hiểm, rồi đưa ra Hội đồng thẩm phán để Hội đồng này xem xét rồi đóng góp ý kiến trình lên Quốc hội. Để đảm bảo tính độc lập của tòa án, Quốc hội còn thành lập ra Cơ quan quản lý hành chính các tòa án, có nhiệm vụ quản lý ngân sách, nhân sự và các nhiệm vụ khác liên quan tới cơ sở vật chất của Tòa án. Như vậy là tòa án Mỹ thoát ly sự quản lý của các cơ quan hành pháp về cơ sở vật chất (ở Việt Nam trước đây tòa án do cơ quan hành pháp quản lý, nay đã chuyển về cơ quan tòa án quản lý). Đây là một trong các yếu tố giúp cho tòa án tránh được ảnh hưởng đối với các cơ quan chính quyền địa phương. Để bồi dưỡng đào tạo thẩm phán cũng như để nghiên cứu công tác quản lý tư pháp, Quốc hội còn lập ra Trung tâm tòa án Liên bang vào năm 1967 do Chánh án tối cao Pháp viện làm chủ tịch. Đối với các thẩm phán liên bang, việc cách chức phải do Quốc hội thực hiện, nhưng Tòa án tối cao vẫn có thể điều tra và áp dụng các biện pháp như yêu cầu thẩm phán về hưu, khiển trách, công bố quyết định khiển trách theo quy định trong Đạo luật về cải cách các Hội đồng thẩm phán, sự thiếu năng lực và đạo đức tư pháp năm 1980. Với cách tổ chức như trên, ngành tư pháp tuy bản tính là mềm yếu hơn các ngành quyền lực khác, nhưng với cơ chế phân quyền và kiềm chế đối trọng cũng như sự nhìn xa trông rộng về vai trò của tư pháp trong xã hội tương lai mà các nhà Lập pháp Hoa Kỳ đã nhận ra và chú ý củng cố ngay từ đầu nên ngành tư pháp Hoa Kỳ đã không ngừng khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống chính quyền Mỹ. Kết luận chương 3 Xem xét sự phát triển của chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ qua ba ngành quyền lực, chúng ta thấy sự phát triển đó tuân theo quy luật chung là phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ thô sơ đến hiện đại và ngày càng đa dạng phức tạp hơn để đáp ứng những đòi hỏi của xã hội. Từ một mô hình chính quyền chỉ quản lý một diện tích mười ba bang với số dân chưa đến bốn triệu người với một chế độ xã hội thuộc địa tiền tư bản có xen kẽ với chế độ nô lệ, nay chế độ Tổng thống Mỹ quản lý một diện tích lãnh thổ năm mươi bang rộng thứ tư thế giới, với số dân trên hai trăm tám mốt triệu và một xã hội tư bản phát triển nhất. Để thích ứng được sự thay đổi lớn lao đó chế độ Tổng thống Hoa Kỳ đã có sự phát triển về quy mô số lượng về phương thức hoạt động của các ngành quyền lực. Sự phát triển đó là luôn gắn với thực tế, rất mềm dẻo và linh hoạt. Sự phát triển đó là dựa trên những nguyên tắc cơ bản cấu thành nên bộ máy nhà nước, trên những giá trị dân chủ do hiến định và do sự đấu tranh của nhân dân và các lực lượng tiến bộ Mỹ. Nếu so với thời gian hơn hai trăm năm thì sự thay đổi phát triển trong bộ máy nhà nước Mỹ không phải là nhiều so với những nguyên tắc và mô hình nhà nước đã được đề ra ở hội nghị lập hiến. Lý do giải thích cho điều này là ngay từ đầu những nhà lập quốc đã có tầm nhìn xa trông rộng, xây dựng một mô hình chính quyền không chỉ cho hiện tại mà còn cho các thế hệ mãi mãi về sau, ngay từ đầu họ đã tìm được những giá trị hay phù hợp cho nước Mỹ nên chưa cần một mô hình khác một giá trị khác để thay thế. Hơn nữa trong lịch sử hơn hai trăm năm do sự đấu tranh của các lực lượng tiến bộ trong nước Mỹ nên những thay đổi thường tập trung vào việc mở rộng các quyền tự do dân chủ cho nhân dân: Điều quan trọng là phần lớn trong hai bảy lần sửa đổi hiến pháp này là những xuất phát từ những nỗ lực liên tục nhằm mở rộng quyền tự do của thường dân hoặc tự do chính trị, trong khi đó rất ít sửa đổi liên quan tới việc tăng cường cấu trúc chính quyền cơ bản đã được dự thảo tại Philadelphia năm 1787 [10, tr. 351]. Kết luận 1. Sự hình thành của Nhà nước Mỹ một nhà nước tư bản không phải hoàn toàn hình thành từ con đường khởi nghĩa vũ trang của cách mạng tư sản, cũng không phải từ con đường thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản và phong kiến như Đức, Nhật, Tây Ban Nha. Sự hình thành nhà nước tư bản Mỹ trong một hoàn cảnh đặc biệt đó là từ một vùng đất hoàn toàn mới, đó là từ mười ba thuộc địa của Anh quốc ở Bắc Mỹ. Các thuộc địa này giành độc lập trở thành mười ba quốc gia độc lập. Trên cơ sở mười ba vùng lãnh thổ này các đại diện ưu tú nhất của các tầng lớp cư dân đã lựa chọn một mô hình chính quyền hoàn toàn mới chưa hề có trong lịch sử. Đó là mô hình chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Mô hình chính quyền mà về sau các nhà nghiên cứu chính trị pháp lý gọi là Chính thể cộng hòa Tổng thống, chế độ này ra đời là kết quả của nhiều yếu tố. Nhưng những yếu tố chính là từ chế độ Hợp bang; là sự đấu tranh và thỏa hiệp giữa xu hướng chính trị đại diện cho nhiều quyền lợi khác nhau; là tổng kết những kinh nghiệm về xây dựng chính quyền ở tại nước Mỹ, Anh quốc và các quốc gia trong lịch sử; là sự áp dụng các học thuyết chính trị pháp lý một cách mạnh dạn sáng tạo để tạo ra một điển hình về vận dụng học thuyết tư tưởng lý luận vào thực tế. Cuối cùng phải kể đến yếu tố vận nước của Hoa Kỳ, thời điểm đó đã tập trung được những con người có tài ba, đảm lược, có tầm nhìn xa trông rộng, có kiến thức uyên bác, thâm hậu, biết tranh luận, biết thỏa hiệp, biết thuyết phục để cuối cùng xây dựng được một bản thiết kế về chế độ Tổng thống có thể là chưa hoàn chỉnh, nhưng phù hợp với nước Mỹ trong hiện tại và trong tương lai, đã đưa nước Mỹ từ một xứ thuộc địa trở thành cường quốc hàng đầu thế giới. 2. Đặc điểm của Chế độ Tổng thống Hoa Kỳ. Chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa Kỳ có đặc điểm nổi bật về vai trò trung tâm của Tổng thống trong bộ máy nhà nước, một Tổng thống đầy quyền uy do dân bầu tiêu biểu cho nền hành pháp một đầu. Chế độ Tổng thống là nơi áp dụng học thuyết phân quyền một cách điển hình được phối hợp với nguyên tắc kiềm chế đối trọng và liên hệ phối hợp, tạo ra ba ngành quyền lực ở thế cân bằng. Tuy trong quá trình hoạt động, ba ngành quyền lực này có những lúc chống nhau, làm cho việc thực hiện quyền lực nhà nước bị đình trệ, tê liệt, nhưng về cơ bản, phân quyền có những ý nghĩa to lớn trong việc chống độc tài, bảo vệ dân chủ, trong việc phân rõ nhiệm vụ quyền hạn trách nhiệm của các cơ quan quyền lực trung ương, trên cơ sở đó để phân công lao động theo bản tính của từng ngành quyền lực. Do quyền lực nhà nước là thống nhất nên các ngành quyền lực luôn có sự liên hệ phối hợp để thực hiện các chức năng đối nội, đối ngoại của nhà nước. ở chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, hai ngành quyền lực hành pháp và lập pháp đều lấy quyền lực từ nhân dân thông qua bầu cử nên không chịu trách nhiệm lẫn nhau mà cùng chịu trách nhiệm trước nhân dân. Trong Chế độ cộng hoà Tổng thống, lập pháp và hành pháp có chức năng nhiệm vụ riêng, nhân viên riêng, tuy có hình thành quan niệm Quốc hội cũng có thể làm sai nhưng Quốc hội không thể bị giải tán. Tổng thống có đầy uy quyền, một số ý kiến của các nhà nghiên cứu so sánh coi đó là một ông vua nhưng có nhiệm kỳ và có thể bị Quốc hội luận tội và kết án. Nếu Tổng thống bị kết án Phó Tổng thống sẽ lên thay. Trong chế độ Tổng thống Hợp chúng Quốc Hoa Kỳ, do thấy trước được vai trò siêu phàm của tư pháp trong tương lai nên ngành này đã rất được chú trọng. Tư pháp Hoa kỳ được tổ chức độc lập và có nhiều định chế để bảo vệ sự độc lập đó như chế độ bổ nhiệm, lương bổng cao, phương tiện sinh sống chắc chắn, ổn định, không phụ thuộc chính quyền địa phương, nhiệm kỳ dài. Những định chế đó tạo ra thực quyền của tư pháp. Tư pháp có thể tuyên bố đạo luật của Quốc hội, hành vi của Tổng thống là vi hiến, phán quyết của tòa án là cuối cùng đối với cả hệ thống chính trị. Trong tương lai khi khoa học công nghệ phát triển cao, con người có thể hủy diệt toàn bộ trái đất bằng vũ khí nguyên tử, trong lúc đó tranh chấp trong xã hội cũng như tranh chấp giữa các nước vẫn xảy ra, thì phương tiện chủ yếu để giải quyết các tranh chấp không gì khác hơn là vai trò của tư pháp. Vấn đề này Chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã nhận ra trước châu Âu và đã xây dựng nên ngành tư pháp vốn mềm yếu vươn lên có vai trò và quyền hạn cân bằng với các ngành quyền lực khác. Đây là một trong các yếu tố tạo nên nhà nước pháp quyền: "Trong nhà nước pháp quyền, tư pháp có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng bởi nơi đó là sự thể hiện rõ nét nhất nền công lý và sự bình đẳng trước pháp luật" [41, tr. 18]. 3. Hơn hai trăm năm qua, cùng với sự lớn lên về diện tích tự nhiên, về đơn vị hành chính lãnh thổ và dân số, chế độ Tổng thống hợp chúng quốc Hoa Kỳ cũng có sự thay đổi phát triển mềm dẻo và năng hoạt để tương thích với từng giai đoạn phát triển của quốc gia. Sự phát triển của Chế độ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ không tách khỏi quy luật phát triển của các nhà nước tư bản tức là vẫn chứa đựng trong lòng nó những mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chế độ đó vẫn giữ nguyên bản chất của nhà nước tư sản là bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản. Sự phát triển của chế độ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ thể hiện ở sự mềm dẻo năng động linh hoạt của mô hình nhà nước thông qua việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức, quyền hạn nhiệm vụ, phương thức hoạt động của ba ngành quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chính vì có sự thay đổi phát triển này mà Chế độ Tổng thống Mỹ đã vượt qua được những cuộc khủng hoảng, giữ được ổn định, đồng thời vẫn đáp ứng được yêu cầu quản lý một xã hội phát triển từ nông nghiệp, đến công nghiệp, và hiện nay là xã hội hậu công nghiệp trong một đất nước rất đa dạng về chủng tộc, tôn giáo và văn hóa. Một số khuyến nghị 1. Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền vì vậy chúng ta nên xem xét đầy đủ hơn học thuyết phân quyền. Nếu chúng ta cho rằng, học thuyết pháp quyền chỉ tồn tại trong nhà nước tư sản, là sự thỏa hiệp giữa giai cấp tư sản với giai cấp phong kiến trong việc nắm giữ quyền lực nhà nước, còn trong nhà nước vô sản quyền lực nhà nước là thống nhất trong tay giai cấp vô sản nên không có sự phân quyền thì điều đó đúng nhưng chưa thật đầy đủ về ý nghĩa của học thuyết phân quyền. Một trong những ý tưởng của học thuyết phân quyền là nhằm hạn chế sự lạm quyền, tiếm quyền của người cầm quyền bất kể là cá nhân hay viện nguyên lão. Với ý nghĩa đó phân quyền chính là bảo vệ nhân quyền, đằng sau sự phân quyền là tính nhân bản mà nội dung tính nhân bản là nhân quyền và bảo vệ nhân quyền, là chống lại tính xấu của người cầm quyền vốn hay lợi dụng quyền lực và tiếm quyền. Phân quyền cũng có ý nghĩa trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước khi phân định ra chức năng nhiệm vụ trách nhiệm cho từng cơ quan nhà nước ở trung ương theo chiều ngang giữa ngành lập pháp, tư pháp, hành pháp. Việc phân định chức năng này cũng có ý nghĩa trong việc phân công lao động và tạo ra yếu tố cạnh tranh để bộ máy nhà nước có được nguồn nhân lực sung sức, tạo ra động lực thoát khỏi sự trì trệ kém hiệu quả. Hơn nữa yêu cầu về một nhà nước pháp quyền cũng cần có sự phân định một cách tương đối độc lập giữa các cơ quan cũng như phối hợp tương tác giữa các cơ quan đó: "Khởi thủy của tư tưởng nhà nước pháp quyền là sự phân định rạch ròi, sự sắp xếp và phối hợp giữa các thiết chế quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhưng cơ chế phân định, phân công trong tổ chức quyền lực nhà nước không có mục đích tự thân mà nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sự độc đoán, chuyên quyền và vi phạm quyền con người. Cơ chế này sẽ tạo điều kiện cho sự đảm bảo tự do chính trị trong hoạt động nhà nước và xã hội" [41, tr. 18]. Chúng ta cũng biết rằng Chế độ Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ trong buổi đầu xây dựng chính quyền cũng không áp dụng học thuyết phân quyền, sau đó họ đã nhanh chóng nhận thấy ý nghĩa của học thuyết này và đã mạnh dạn áp dụng và gặt hái được những thành công nhất định. Ngày nay nếu chúng ta không nghiên cứu đầy đủ học thuyết phân quyền, nếu chúng ta coi học thuyết phân quyền là sản phẩm chỉ có trong chế độ tư sản thì cách nhìn đó đó có thể là không toàn diện và như vậy đã không học tập được những giá trị mà nhân loại đã tạo ra, là ảnh hưởng không tốt tới sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay. 2. Quốc hội Mỹ lúc đầu không chia làm lưỡng viện, về sau khi xây dựng hiến pháp 1789 họ cho rằng Quốc hội lấy quyền lực từ nhân dân do vậy quyền lực đó rất mạnh dễ khuynh loát các ngành quyền lực khác giống như thời kỳ đầu của nghị viện Anh. Quốc hội là đại diện cho nhân dân mà nhân dân cũng dễ đam mê quyền lực, cũng như dễ bị kích động bị lừa phỉnh. Hơn nữa bản tính của Quốc hội là làm luật không chỉ cho hiện tại mà còn cho tương lai, không chỉ bảo vệ cho một nhóm người mà còn bảo vệ cho nhiều nhóm người có quyền lợi không giống nhau, do đó cần phải soạn thảo thật cẩn trọng, bàn bạc thật thấu đáo vì vậy họ đã chia Quốc hội làm lưỡng viện. Hai viện cùng chức năng lập pháp mà nhiệm vụ không giống nhau, không viện nào lãnh đạo viện nào. Còn Quốc hội Việt Nam theo Hiến pháp 1992 tập trung nhiều quyền lực nhưng thực tế lại không phát huy được và hoạt động không có hiệu quả như mong muốn, các bộ luật làm ra kể cả hiến pháp phải thường xuyên sửa hoặc chậm được ban hành. Một trong những nguyên nhân là cách thức tổ chức của Quốc hội. Nếu quyền lực quốc hội là rất lớn ta nên phân làm lưỡng viện, nhờ có sự phân công này mà các viện đều cạnh tranh để phát huy sức mạnh của mình. Việc phân lưỡng viện như thế không phải là quyền lực nhân dân không còn thống nhất nữa vì quyền lực nhà nước luôn luôn thống nhất. Việc phân lưỡng viện sẽ làm cho quy trình lập pháp cẩn trọng hơn, tăng cường tính chuyên môn của đại biểu. Hơn nữa, Quốc hội lưỡng viện không phải là con đường mò mẫm chưa có ai đi mà nó đã khẳng định được nhưng ưu điểm cũng như phần hạn chế rõ ràng trong kinh nghiệm của nhiều quốc gia, chúng ta không còn mất công thăm dò khảo sát thử nghiệm. Hoặc giả rằng chúng ta không phân lưỡng viện chúng ta cũng nên phân làm hai lần dự thảo, dự thảo đi và dự thảo về. Chất lượng của các đạo luật sẽ góp phần ổn định xã hội. Nếu người làm luật cẩn trọng có tầm nhìn xa trông rộng, có đủ khôn ngoan trong hiện tại và mai sau thì việc ban hành các đạo luật không những giúp cho thực tại phát triển mà còn tránh được bất trắc trong tương lai. 3. Về hành pháp, bao giờ hành pháp cũng có xu hướng trở thành trung tâm quyền lực của bộ máy nhà nước do đó hành pháp nên tập trung và nên nằm trong tay đảng cầm quyền. Điều này có hai lẽ, thứ nhất đảng muốn trở thành đảng cầm quyền thì bao giờ cũng phải nắm được hành pháp, người đứng đầu đảng phải là người đứng đầu hành pháp, lẽ thứ hai vì đảng gắn với người đứng đầu hành pháp nên nó gắn trách nhiệm hành pháp với trách nhiệm đảng cầm quyền. Do đó nếu chúng ta muốn tinh giản bộ máy, xây dựng nhà nước pháp quyền, chúng ta nên gắn chức vụ lãnh đạo đảng với trách nhiệm lãnh đạo hành pháp. 4. Trong bang giao quốc tế quốc hiệu một nước là thể hiện sự trọng thị và chuẩn mực trong quan hệ quốc tế. Vì vậy tên gọi các nước cần thận trọng và thống nhất trong sách báo thư tịch. Hiện nay tên gọi Hợp chúng quốc Hoa Kỳ hay Hợp chủng quốc Hoa Kỳ là khác nhau. Trong bản luận án này tác giả gọi thống nhất là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, ngoại trừ trường hợp trích tài liệu thì để tôn trọng tính chính xác của tài liệu trích nên tác giả giữ nguyên không thay đổi. Việc dùng tên thống nhất là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ là xuất phát từ các nghiên cứu của tác giả và dựa trên các căn cứ dưới đây: - Trong Đại hội thuộc địa lần một năm 1774, Hội nghị thuộc địa lần hai năm 1775, trong Điều khoản Hợp bang 1781 đều nói họ là đại diện của các thuộc địa, đại diện của các bang đến dự đại hội chứ không phải đại diện cho các dân tộc các sắc tộc hoặc chủng tộc. Mục đích họ đến để thành lập một liên minh vĩnh viễn giữa các tiểu bang tức là mười ba quốc gia độc lập lúc đó. Tại Điều bảy Hiến pháp Mỹ 1787 cũng khẳng định Hiến pháp được sự chấp thuận của của các tiểu bang hiện diện có nghĩa là việc chấp thuận của các bang chứ không không phải của các chủng tộc - Nếu nói Mỹ là quốc gia đa chủng tộc là thời kỳ về sau, do Mỹ là nước thực hiện chế độ nhập cư. Còn tại thời điểm lập quốc, dân số lúc đó là hơn ba triệu người chưa đến bốn triệu theo thống kê dân số năm 1790. Trong số hơn ba triệu người lại chủ yếu là người Anh: Năm 1776, Thomas Paine, người phát ngôn cho sự nghiệp cách mạng của các vùng thuộc địa đã viết: châu Âu chứ không phải chỉ một mình nước Anh, là nước Mẹ của nước Mỹ. Câu nói này chỉ những người khai phá không chỉ đến từ nước Anh mà còn đến từ các nước châu Âu khác như Tây Ban Nha, Đức, Pháp…Dù vậy đến năm 1780, ba phần tư người Mỹ vẫn là người gốc Anh hoặc Ai Len [14, tr. 5]. Như vậy dân cư lúc đó đa số là người Anh, chính họ là người đại diện cho các bang còn những người Pháp, Đức, Tây Ban Nha… vì quá thiểu số và phải phụ thuộc vào tiếng Anh do đó họ không hề có đại diện trong các Đại hội lập quốc hoặc có, họ cũng không đáng kể. Vào thời điểm lập quốc còn có người chủng tộc da đen từ châu phi đến nhưng chưa nhiều và chủng tộc họ không được xem là bình đẳng đối với người Anh. Họ chỉ được tính đại diện theo tỷ lệ ba phần năm mà thôi. Do vậy tên quốc gia không thể là đại diện cho chủng tộc được. - Ngoài ra tên Hợp chúng quốc Hoa Kỳ không phải do tác giả nghĩ ra mà tên Hợp chúng quốc Hoa Kỳ đã được viết trong nhiều sách báo, đặc biệt là những tài liệu nghiên cứu ví dụ cuốn "Cuộc sống và các thể chế ở Mỹ", "Luận về Hiến pháp Hoa Kỳ", " Hiến pháp Mỹ đã được làm ra như thế nào"... Các tác giả này chắc chắn họ có lý do để viết tên gọi nước Mỹ như thế. Danh mục tài liệu tham khảo Đào Duy Anh (1931), Giản yếu từ điển Hán Việt, Nxb Minh Tân. Vũ Hồng Anh (1998), "Hình thức chính thể của các nước trên thế giới", Luật học, (4). Arthur M. Schlesinger (2004), Niên giám lịch sử Hoa Kỳ, GS. Lê Quang Long và đồng nghiệp dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phan Văn Các, Sổ tay từ Hán Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Card van Doren (1948), Cuộc chuẩn bị vĩ đại hay là câu chuyện soạn thảo và phê chuẩn hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Cam Ninh dịch, Thư viện Quốc gia, ký hiệu VV265/79. De. Tocquiville, Luận về nền dân chủ Mỹ. PGS.TS Đỗ Lộc Diệp (1999), Hoa Kỳ tiến trình văn hóa chính trị, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Douglas. K stevenson (2003), Cuộc sống và các thể thế ở Mỹ, Lê Linh Lan và đồng sự dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung - PGS.TS Bùi Xuân Đức (2000), Giáo trình hiến pháp các nước tư bản. Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2001), Luật hiến pháp đối chiếu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. PGS.TS Nguyễn Đăng Dung - Chu Khắc Hoài Dương (2002), "Bầu cử và vấn đề dân chủ", Nghiên cứu lập pháp, (5). PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2002), "Một số vấn đề về tư pháp và các mô hình tư pháp phương Tây", Nghiên cứu lập pháp, (10). Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội - Trung tâm Thông tin tư liệu, Bầu cử Mỹ năm 2004. Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội - Trung tâm Thông tin tư liệu, Chân dung nước Mỹ. Lê Minh Đức - Nguyễn Nghị (1994), Lịch sử nước Mỹ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Eric Foner (2003), Lịch sử mới của nước Mỹ, Diệu Hương và đồng sự dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tùng Giang (2002), Một trăm cuốn sách ảnh hưởng khắp thế giới, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, PGS.TS Vũ Minh Giang (2004), "Quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ và bài học lịch sử cho Việt Nam", Kỷ yếu hội thảo: Tiếp cận nghiên cứu Hoa Kỳ học và kinh nghiệm cho Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội. Hoàng Xuân Hãn (1981), Lịch và lịch Việt Nam, Thư viện Quốc gia, Ký hiệu VV407/84. ThS. Nguyễn Thị Hạnh (2004), "Quyền tư pháp trong mối quan hệ với quyền lập pháp, quyền hành pháp theo nguyên tắc phân chia quyền lực", Nghiên cứu lập pháp, (5). Hiến pháp Mỹ được làm ra như thế nào (2003), Nguyễn Cảnh Bình dịch, Nxb Thế giới, Hà Nội. Hiến pháp Việt Nam 1992. TS. Vũ Đăng Hinh (2001), Hệ thống chính trị Mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, Lê Đình Hồ (1995), Từ điển phân giải chính trị và bang giao quốc tế Anh Việt, Xuất bản tại úc. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí tuyên truyền (2003), Thể chế chính trị thế giới đương đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Chính trị (1999), Tập bài giảng Chính trị học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Chính trị (1994), Chính trị học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Hành chính Quốc gia, Hành chính công, Nxb Thống kê, Hà Nội. Howard. Cincotta (2000), Khái quát về lịch sử nước Mỹ, Nguyễn Chiến dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. TS. Vũ Dương Huân (2002), Hệ thống chính trị Mỹ cơ cấu và tác động đối với quá trình hoạch định chính sách đối ngoại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Jay. M. Shafritz (2002), Từ điển về chính quyền và chính trị Hoa Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Jean- Pier Fichou (1998), Văn minh Hoa Kỳ, Nxb Thế giới, Hà Nội. PGS.TS Trần Duy Khang (2001), "Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc tổ chức cơ quan lập hiến và sự ra đời của Quốc hội Việt Nam đầu tiên", Lập pháp, (4), Đặc san. Trịnh Xuân Lãng (2004), "Cái dễ và cái khó trong nghiên cứu giảng dạy về chính trị và đối ngoại của nước Mỹ", Kỷ yếu hội thảo: Tiếp cận nghiên cứu Hoa Kỳ học và kinh nghiệm cho Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội. Phạm Minh (2003), Những điều cần biết về luật pháp Hoa Kỳ, Nxb Lao động, Hà Nội. Montesquies (1999), Tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Ngân hàng thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lý Tôn Ngô (2000), Hậu hắc học, Nguyễn Trình - Huy Sanh dịch, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. Đào Hữu Ngọc (1994), Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS.TS Dương Xuân Ngọc (2001), Lịch sử tư tưởng chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, PGS.TS Hoàng Thị Kim Quế (2004), "Nhận diện nhà nước pháp quyền", Nghiên cứu lập pháp, (5). Quốc hội hoạt động như thế nào (2003), Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Dương Quốc, Quang Anh Phương (2003), G.W Bush người dẫn dắt nước Mỹ, Nxb Lao động, Hà Nội. Ralph H. Gabriel (1959), Luận về hiến pháp Hoa Kỳ, Nguyễn Hưng Vượng dịch, Nxb Như Nguyện, Sài Gòn. Richard C. Schroeder (1999), Khái quát về chính quyền Mỹ, PTS. Trần Thị Thái Hà và đồng sự dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Roger H. Davison và Walter. J.Oleszek (2002), Quốc hội và các thành viên, Trần Xuân Danh và đồng sự dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS.TS Nguyễn Thiết Sơn (2002), Nước Mỹ năm đầu thế kỷ 21, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, Stephen S. Birdsall và John Florin (1999), Khái quát về địa lý Mỹ, PTS. Trần Thị Thái Hà và đồng sự dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. PGS.TS Lê Minh Tâm (2002), "Tư tưởng nhà nước pháp quyền và khai niệm nhà nước pháp quyền", Luật học, (2). TS. Nguyễn Xuân Tế (2002), Nhập môn khoa học chính trị, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. PGS.TS Thái Vĩnh Thắng (2004), "Những hạt nhân hợp lý trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ tư sản", Nghiên cứu lập pháp, (2). GS. Hồ Văn Thông (1998), Hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, Thông tấn xã Việt Nam (2004), Bản Tin tham khảo đặc biệt, ngày 1/8. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia - Khoa Luật (1998), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Trường Đại học luật Hà Nội (1999), Giáo trình Lịch sử nhà nước nhà nước và pháp luật thế giới, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Lão Tử (2001), Đạo đức kinh, Thu Giang - Nguyễn Duy Cần dịch, Nxb Văn học, Hà Nội. "Về cuộc điều trần của Tổng thống Mỹ" (2004), Báo Nhân dân, ngày 1/5. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1991), Thuyết tam quyền phân lập và bộ máy nhà nước tư sản hiện đại, Xưởng in Viện Khoa học thông tin xã hội, Hà Nội. William A. Degregorio (1998), Bốn hai đời Tổng thống Hoa Kỳ, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức dịch, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2731.doc
Tài liệu liên quan