Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chế độ tài sản của vợ chồng bao gồm các qui định về vấn đề sở hữu tài sản của vợ chồng; căn cứ xác lập tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với các loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng... Những qui định về chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) và hệ thống pháp luật Việt Nam đã có từ lâu; được nhà làm luật lựa chọn, "rút tỉa" theo
209 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 7940 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Chế độ tài sản của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời gian, phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, tập quán... mà ngày càng thêm hoàn thiện.
Theo hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay đã có nhiều qui định về chế độ tài sản của vợ chồng: Từ chế độ cộng đồng toàn sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1959, đến chế độ cộng đồng tạo sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 1986 và 2000. Pháp luật điều chỉnh về chế độ tài sản của vợ chồng vừa mang tính khách quan, vừa thể hiện ý chí chủ quan của Nhà nước. Kế thừa và phát triển các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam, Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta (các điều 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 95) đã qui định chế độ cộng đồng tạo sản của vợ chồng tương đối cụ thể và có nhiều điểm mới. Thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng những năm qua góp phần vào sự ổn định các quan hệ HN&GĐ, tạo cơ sở pháp lý thực hiện các quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được của pháp luật điều chỉnh vấn đề tài sản của vợ chồng, quá trình thực hiện và áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 về chế độ tài sản của vợ chồng cho thấy còn khá nhiều bất cập và vướng mắc. Mặc dù, đã có khá nhiều văn bản của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền qui định, hướng dẫn áp dụng về chế độ tài sản của vợ chồng, nhưng do tính chất phức tạp và rất "nhạy cảm" từ các quan hệ HN&GĐ nói chung, trong đó có các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng. Thực tiễn áp dụng đã có nhiều quan điểm, nhận thức, đánh giá khác nhau, chưa có sự thống nhất từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cá nhân thực thi pháp luật, liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Trong báo cáo tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử của ngành Tòa án hàng năm, hầu như đều có các vấn đề về xác định và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ chồng. Điều đó cho thấy các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng luôn là loại việc phức tạp, thường gặp nhiều khó khăn, vướng mắc khi áp dụng, hạn chế và có nhiều bất cập trong công tác thi hành án liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Nguyên nhân có nhiều, trong đó phải kể đến một số qui định của Luật HN&GĐ về chế độ tài sản của vợ chồng mới chỉ dừng lại ở tính chất định khung, nguyên tắc chung; các văn bản qui định chi tiết thi hành và hướng dẫn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng còn thiếu, chưa cụ thể, chưa theo kịp với sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Bằng đề tài: "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam", luận án làm sáng tỏ những qui định của pháp luật điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng; cơ sở lý luận và thực tiễn của việc qui định về chế độ tài sản của vợ chồng và chỉ rõ những nội dung (điểm) mới, hợp lý và bất hợp lý, không thống nhất, chưa cụ thể của pháp luật điều chỉnh về chế độ tài sản của vợ chồng. Từ đó, luận án có các kiến nghị xác đáng nhằm hoàn thiện chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý từ trước đến nay, ở nước ta, chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về chế độ tài sản của vợ chồng. Theo thời gian, bên cạnh những văn bản hướng dẫn áp dụng Luật HN&GĐ, mới chỉ có một số bài viết trên các Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND), Tạp chí Nhà nước và pháp luật... nghiên cứu, đề xuất kiến nghị một số vấn đề liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Trong các giáo trình giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta những năm qua (giáo trình Luật dân sự Việt Nam, giáo trình Luật HN&GĐ Việt Nam, giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự...) cũng mới chỉ đề cập đến một lượng kiến thức cơ bản và khái quát về chế độ tài sản của vợ chồng trong chương trình đào tạo cử nhân luật hoặc cán bộ pháp lý. Một số sách tham khảo liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng (Hỏi đáp về Luật HN&GĐ của một số tác giả như Nguyễn Thế Giai, Nguyễn Ngọc Điệp hoặc Trần Văn Sơn...) cũng mới chỉ đề cập một lượng kiến thức cơ bản, phổ thông hoặc trích đăng phụ lục các văn bản liên quan đến vấn đề HN&GĐ.
Hàng năm, tại các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta, đã có một số khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật hoặc luận án cao học luật nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng (Nguyễn Văn Huyên: "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986"; Nguyễn Hồng Hải: "Xác định tài sản của vợ chồng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn"). Song, các khóa luận và luận án này mới chỉ chủ yếu đề cập nghiên cứu một số vấn đề về chế độ tài sản của vợ chồng dựa theo các văn bản hướng dẫn áp dụng Luật HN&GĐ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền: Nội dung cơ bản của các qui định của Luật HN&GĐ về chế độ tài sản của vợ chồng, nguyên tắc và căn cứ xác định tài sản của vợ chồng… Đã có một số cuốn sách tham khảo: "Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời kỳ Pháp thuộc" của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp; "Chế độ hôn sản và thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam" của Nguyễn Mạnh Bách ... có liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng ở góc độ lịch sử phát triển và hệ thống hóa nội dung chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam, cho đến trước ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực thi hành (01/01/2001).
Vừa qua, tác giả cùng với thạc sĩ Ngô Thị Hường viết cuốn sách tham khảo "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000"; "Bình luận Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" công trình khoa học đề tài cấp Viện (Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp) đã được nghiệm thu. Tuy vậy, những công trình này cũng mới chỉ dừng lại ở việc giải thích nội dung các điều của Luật HN&GĐ năm 2000 qui định về vấn đề tài sản của vợ chồng.
Luận án là một công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu riêng và chuyên sâu về chế độ tài sản của vợ chồng một cách toàn diện, có tính hệ thống trong kho tàng khoa học pháp lý Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các qui định của luật thực định về chế độ tài sản của vợ chồng, tìm hiểu thực tiễn áp dụng luật thực định để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó, tìm hiểu những qui định bất cập, chưa cụ thể, trên cơ sở đó có những nhận xét, kiến nghị về hướng hoàn thiện pháp luật dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000, với mục đích trên, luận án được thực hiện với các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng. Với nhiệm vụ này, chúng tôi xây dựng một số khái niệm khoa học trong nội hàm chế độ tài sản của vợ chồng; các đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng đối với sự tồn tại và phát triển của gia đình và xã hội; tìm hiểu một cách có hệ thống và đầy đủ về chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam và pháp luật về HN&GĐ của một số nước trên thế giới. Từ đó, khẳng định tính tất yếu và cần thiết của chế độ tài sản của vợ chồng được qui định trong pháp luật;
- Nghiên cứu các qui định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng. Với nhiệm vụ này, luận án đi sâu phân tích nội dung các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000 và những ngành luật có liên quan (Luật Dân sự, Luật Đất đai...); tìm hiểu về mục đích, cơ sở của việc qui định các điều luật điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng; phân tích tính kế thừa và phát triển, cũng như những điểm mới qui định về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000 để có cách hiểu đúng nhất, phù hợp với khoa học pháp lý về chế độ tài sản của vợ chồng và thực tiễn đời sống xã hội trong lĩnh vực HN&GĐ. Đồng thời, qua việc phân tích nội dung chế độ tài sản của vợ chồng trong luật thực định, luận án cũng đưa ra những điểm bất cập, chưa hợp lý, thiếu tính khoa học của các qui định đó, để làm cơ sở cho các kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000;
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng qua hoạt động xét xử của ngành Tòa án giải quyết các tranh chấp từ quan hệ HN&GĐ liên quan trực tiếp về vấn đề tài sản giữa vợ và chồng. Qua đó, đánh giá về những thành công và hạn chế của việc áp dụng pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng;
- Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo luật thực định, luận án nêu một số kiến nghị đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung các qui định trong Luật HN&GĐ năm 2000 nhằm hoàn thiện chế độ tài sản của vợ chồng.
Từ những nhiệm vụ trên đây, luận án được nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi luật thực định qui định về chế độ tài sản của vợ chồng.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối liên hệ biện chứng. Pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, được hình thành từ một cơ sở hạ tầng phù hợp. Pháp luật được coi là tấm gương phản chiếu xã hội, còn về phần mình, xã hội được coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật. Về lý thuyết và thực tiễn cho thấy, các qui định của pháp luật phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thì mới có tính khả thi trong quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật; từ đó tạo cơ sở cho xã hội ổn định và phát triển.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu chế độ tài sản của vợ chồng qua các thời kỳ ở Việt Nam;
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề liên quan đến chế độ tài sản của vợ chồng và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận án;
+ Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu qui định của pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam cũng như pháp luật của một số nước khác qui định về chế độ tài sản của vợ chồng. Qua đó, phân tích nét tương đồng và đặc thù của pháp luật Việt Nam qui định về chế độ tài sản của vợ chồng, phù hợp với điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội và tập quán của gia đình truyền thống Việt Nam;
+ Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn hoạt động xét xử của ngành Tòa án, với các số liệu cụ thể giải quyết các tranh chấp từ quan hệ HN&GĐ liên quan đến tài sản giữa vợ và chồng. Tìm ra mối liên hệ giữa các qui định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chưa? Các lý do? Từ đó mà xem xét nội dung qui định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng, với thực tiễn của đời sống xã hội nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
5. Những điểm mới của luận án
Luận án là công trình đầu tiên phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam. Ngoài những điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2000 qui định về chế độ tài sản của vợ chồng, với đề tài này, luận án được trình bày với những điểm mới sau đây:
- Xây dựng và phân tích khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng. Từ trước đến nay trong khoa học pháp lý nói chung và Luật HN&GĐ nói riêng, ở nước ta, chưa có một khái niệm thống nhất về chế độ tài sản của vợ chồng. Theo chúng tôi, chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu đối với tài sản của vợ, chồng, với các qui định của pháp luật về căn cứ, nguồn gốc xác lập tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với những loại tài sản này; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng theo luật định.
- Phân tích sự cần thiết pháp luật phải qui định chế độ tài sản của vợ chồng (tính khách quan). Các đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng đối với sự ổn định, phát triển của gia đình và xã hội.
- So sánh chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước khác để thấy rõ nét tương đồng và đặc thù, mang bản sắc dân tộc của pháp luật Việt Nam điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng.
- Khi phân tích nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật thực định, luận án chỉ rõ các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng; đặc biệt, phải xác định "thời kỳ hôn nhân" là căn cứ chung để xác lập tài sản chung của vợ chồng trong các trường hợp cụ thể:
+ Khi một bên vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố mất tích;
+ Khi một bên vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố là đã chết trở về;
+ Khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân: chế độ tài sản của vợ chồng được hiểu và áp dụng như thế nào, sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng;
+ Xác lập tài sản chung của vợ chồng đối với quan hệ "hôn nhân thực tế" theo pháp luật hiện hành.
- Các loại nghĩa vụ chung và nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng được hiểu và áp dụng như thế nào? Bao gồm cụ thể các loại nghĩa vụ nào?
- Những đặc điểm khác biệt về tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng đối với sở hữu chung theo phần.
- Luận giải tại sao Luật HN&GĐ của Nhà nước ta (từ năm 1945 đến nay) không qui định về loại chế độ tài sản ước định (dựa theo sự thỏa thuận của vợ chồng) và không qui định vấn đề ly thân giữa vợ và chồng.
- Qua việc phân tích thực tiễn áp dụng luật về chế độ tài sản của vợ chồng, luận án chỉ rõ những vấn đề bất cập, không hợp lý, chưa bảo đảm được tính khoa học về những qui định của luật thực định khi điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng; từ đó, nêu các kiến nghị hoàn thiện các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hiện hành.
6. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Hoàn thành luận án này, chúng tôi hy vọng rằng, những kiến thức khoa học trong luận án được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta; đặc biệt, đối với chuyên ngành luật HN&GĐ.
Nội dung của luận án có ý nghĩa thiết thực cho mọi cá nhân, đặc biệt là cho các cặp vợ chồng tìm hiểu các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng; biết được cơ sở pháp lý tạo lập các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ cụ thể của vợ, chồng đối với những loại tài sản này; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản của vợ chồng... Từ đó, góp phần thực hiện pháp luật, xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc, bền vững.
Chúng tôi tin tưởng rằng, những kiến nghị khoa học trong luận án được sử dụng trong công việc pháp điển hóa Luật HN&GĐ của Nhà nước ta; bởi lẽ, việc sửa đổi, bổ sung những qui định của Luật HN&GĐ (trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng) là rất cần thiết, tạo cơ sở pháp lý vững chắc và thống nhất trong quá trình thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 3 chương, 8 mục.
Chương 1
Những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng
Gia đình là tế bào của xã hội, thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Trong xã hội có giai cấp, Nhà nước luôn bằng pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, xây dựng mô hình (kiểu gia đình) phù hợp với thiết chế xã hội. Gia đình có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong gia đình, vợ, chồng, cha, mẹ, con vừa là thành viên trong gia đình, vừa là thành viên của xã hội; hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh sôi nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình… Để cho gia đình tồn tại và phát triển, cần phải có các điều kiện vật chất - cơ sở kinh tế của gia đình, nuôi sống gia đình. Do vậy, chế độ tài sản của vợ chồng luôn được nhà làm luật quan tâm xây dựng như là một trong các chế định cơ bản, quan trọng nhất của pháp luật về HN&GĐ.
Vợ, chồng trước hết với tư cách là công dân, có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Tài sản của vợ, chồng thuộc phạm trù tài sản riêng của công dân đã được Hiến pháp (Điều 58 Hiến pháp năm 1992) và Bộ luật dân sự (BLDS) năm 1995 ghi nhận. Tài sản theo nghĩa từ điển học là "của cải, vật chất dùng vào mục đích sản xuất và tiêu dùng", còn theo Điều 172 BLDS qui định, tài sản "bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản". Xét về lý thuyết, có thể áp dụng các qui định chi phối tài sản của vợ chồng như những người khác không phải là vợ chồng của nhau. Ví dụ: Tài sản của bên nào, bên đó có quyền sử dụng, quản lý, định đoạt. Những thu nhập hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng... Tuy nhiên, lý thuyết này không thể áp dụng cho hai vợ chồng trong thực tiễn. Do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân được xác lập - tính cộng đồng, sau khi kết hôn, hai vợ chồng ở vào tình trạng "ăn chung, đổ lộn", cùng chung sức, chung ý chí trong việc tạo dựng tài sản, xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc vì sự ổn định và phồn vinh của xã hội. Tính chất và mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập đòi hỏi cần phải có một qui chế pháp lý đặc biệt nhằm điều chỉnh vấn đề tài sản của vợ chồng. Do vậy, Nhà nước bằng pháp luật phải qui định về chế độ tài sản của vợ chồng.
Sở dĩ nhà lập pháp phải dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng là bởi những lý do sau:
- Trước hết, do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập - tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân. Kể từ khi nam, nữ kết hôn trở thành vợ chồng, họ cùng chung sống, gánh vác chung công việc gia đình, cùng nhau tạo dựng nên tài sản chung..., muốn bảo đảm những nhu cầu thiết yếu của gia đình, thỏa mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của vợ chồng; để thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con... thì cần phải có tài sản, tiền bạc, sản nghiệp của vợ chồng. Vì thế, bên cạnh đời sống tình cảm, sự thương yêu gắn bó giữa vợ chồng, không thể không nói đến vấn đề tài sản của vợ chồng. Mặt khác, để đảm bảo đời sống chung của gia đình, đáp ứng các nhu cầu về vật chất, tinh thần của vợ chồng, nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục con cái... thì trong suốt thời kỳ hôn nhân (khoảng thời gian quan hệ vợ chồng tồn tại, tính từ khi kết hôn cho đến khi hôn nhân chấm dứt); vợ chồng không thể chỉ bó hẹp trong quan hệ gia đình, mà cần thiết phải có sự trao đổi, quan hệ giao dịch với rất nhiều người khác. Có thể nói, chế độ tài sản của vợ chồng được áp dụng thường xuyên, hàng ngày, từ việc người chồng mua bao thuốc lá, người vợ "xách làn" đi chợ mua lương thực, thực phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình... đến những việc kinh doanh, buôn bán, mua sắm các tài sản chung có giá trị lớn như nhà ở, quyền sử dụng đất, ôtô, tàu thuyền, xe máy, ti vi, tủ lạnh... đều "đụng chạm" đến tài sản của vợ chồng. Nếu nhà làm luật không dự liệu "cách xử sự" theo qui định chung thì khó lòng kiểm soát, định hướng trong việc điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng trong các giao dịch dân sự. Pháp luật cần phải qui định rõ khi sử dụng tài sản, tiền bạc của vợ chồng nhằm đáp ứng nhu cầu chung của gia đình thì trường hợp nào giao dịch đó phải có sự đồng ý thỏa thuận của vợ chồng (kể cả bằng văn bản có chữ ký của hai vợ chồng như hợp đồng mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất...); trường hợp nào được coi là đã có sự thỏa thuận mặc nhiên của cả hai vợ chồng khi chỉ một bên vợ, chồng trực tiếp sử dụng, định đoạt tài sản của vợ chồng ký kết hợp đồng với người khác (như vợ chồng sử dụng tiền bạc, tài sản nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình, bảo đảm các nhu cầu về ăn, ở, học hành, chữa bệnh...). Vả lại, tính chất của sự sống chung giữa vợ chồng đã dẫn tới có sự hỗn hợp tất nhiên về tài sản của vợ chồng. Người ta không thể bỏ qua những hậu quả tất nhiên về tài sản của sự sống chung đó. Trong suốt thời kỳ hôn nhân có thể phát sinh các quyền lợi và nghĩa vụ của vợ chồng. Vậy mà, cứ mỗi lần vợ, chồng sử dụng tiền bạc, tài sản của mình nhằm đáp ứng nhu cầu chung của gia đình khi ký kết các hợp đồng với người khác (mà các hợp đồng do vợ chồng ký kết với những người khác đó lại quá nhiều; có thể nói là không một cặp vợ chồng nào trong quá trình chung sống ở thời kỳ hôn nhân, nhiều khi là suốt đời, lại biết rõ mình đã ký kết bao nhiêu hợp đồng với người khác vì lợi ích của cá nhân và gia đình); nhờ có chế độ tài sản của vợ chồng được qui định, tạo điều kiện cho vợ, chồng và người thứ ba tự do tham gia các giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng trong khuôn khổ luật định, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
- Thứ hai, pháp luật có dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng mới là cơ sở để vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình liên quan đến tài sản của vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân; như việc luật qui định các căn cứ, nguồn gốc, phạm vi các loại tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của vợ, chồng. Theo đó, vợ, chồng thực hiện quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) đối với từng loại tài sản theo luật định nhằm bảo đảm lợi ích chung của gia đình hoặc nhu cầu của bản thân vợ, chồng. Đồng thời, xác định rõ các quyền lợi, nghĩa vụ của vợ chồng liên quan đến tài sản của mình.
Ví dụ: anh T và chị H kết hôn với nhau năm 2000. Trong thời kỳ hôn nhân, anh T đã vay của anh X 20.000.000 đồng. Món nợ 20.000.000 đồng này sẽ do cả hai vợ chồng anh T và chị H cùng chịu trách nhiệm liên đới và được thanh toán bằng tài sản chung của vợ chồng khi anh X có yêu cầu, nếu việc vay của anh T nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Ngược lại, nếu khoản nợ 20.000.000 đồng được vay vì mục đích riêng của anh T, thì anh T có nghĩa vụ trả khoản nợ trên bằng tài sản riêng của mình, chị H không phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ trong trường hợp này.
- Thứ ba, khi vợ, chồng sử dụng, định đoạt tài sản của mình nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình... luôn có liên quan đến quyền lợi của những người khác - người thứ ba ký kết các hợp đồng liên quan đến tài sản của vợ chồng. Theo luật định, người thứ ba tham gia giao dịch cần phải biết rằng trường hợp nào hợp đồng đó được bảo đảm thực hiện từ tài sản chung của vợ chồng hoặc bằng tài sản riêng của vợ, chồng nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Vì vậy, pháp luật của một số nước thường qui định chế độ tài sản của vợ chồng phải được niêm yết, thông báo tại nơi cư trú của vợ chồng khi đăng ký kết hôn. Vợ chồng có thể lựa chọn chế độ tài sản ước định (theo sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng từ trước khi kết hôn); hoặc lựa chọn chế độ tài sản pháp định (nếu vợ chồng không ký kết hôn ước từ trước khi kết hôn thì pháp luật cho rằng cặp vợ chồng đó đã mặc nhiên lựa chọn chế độ tài sản theo luật định). Tùy theo phong tục, tập quán, điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia mà luật pháp các nước có qui định về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định là khác nhau. Nhà làm luật có thể lựa chọn chế độ cộng đồng toàn sản, chế độ cộng đồng động sản và tạo sản, chế độ tạo sản... với những căn cứ, nguồn gốc, phạm vi tài sản khác nhau để qui định chế độ pháp định về tài sản của vợ chồng trong luật.
Thứ tư, việc qui định chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật là cơ sở pháp lý để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và với người khác.
Ví dụ: Việc giải quyết những món nợ mà vợ chồng vay chung vì lợi ích chung của gia đình hoặc mỗi bên vợ, chồng vay riêng, sử dụng vào mục đích riêng. Tùy theo từng trường hợp cụ thể mà áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng qui kết theo trách nhiệm (nghĩa vụ) chung của vợ chồng hay nghĩa vụ riêng của vợ, chồng phải thanh toán trả món nợ đó.
Cũng theo luật định, các trường hợp cần phải chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước (Điều 31 Luật HN&GĐ năm 2000); khi vợ chồng ly hôn (Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000); chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân còn tồn tại (Điều 29, 30 Luật HN&GĐ năm 2000); theo từng trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi có yêu cầu, Tòa án áp dụng các nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng, bảo đảm quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ, chồng, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của những người có quyền lợi liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng được nhà làm luật dự liệu do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập, thể hiện như là yếu tố khách quan; phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa để Nhà nước qui định trong pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các qui phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các qui định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng.
Trong pháp luật của Nhà nước ta, cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng được qui định trong một văn bản cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chế độ tài sản của vợ chồng được qui định trong pháp luật như là một tất yếu khách quan, nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng, góp phần ổn định các quan hệ xã hội.
Pháp luật ở mỗi quốc gia đều có qui định về chế độ tài sản của vợ chồng, có thể là khác nhau. Ngay trong một quốc gia, theo từng giai đoạn phát triển của đất nước, chế độ tài sản của vợ chồng được pháp luật qui định cũng có thể là khác nhau (Pháp, Việt Nam...), phụ thuộc vào quan điểm, chính sách pháp lý của nhà nước và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, tập quán, truyền thống của mỗi nước.
1.1.2. Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng
Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu tài sản của vợ chồng. Xuất phát từ tính chất và mục đích đặc biệt của quan hệ hôn nhân được xác lập - tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân. Vợ, chồng với tư cách là công dân, vừa là chủ thể của quan hệ HN&GĐ, vừa là chủ thể của quan hệ dân sự khi thực hiện quyền sở hữu của mình, tham gia các giao dịch dân sự. Vì vậy, chế độ tài sản của vợ chồng có những đặc điểm riêng biệt sau đây:
Thứ nhất, xét về chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này, thì các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của nhau (đây là đặc điểm chỉ tồn tại trong loại chế độ tài sản này). Do vậy, để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài việc có đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, còn đòi hỏi họ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được qui định trong pháp luật HN&GĐ (ví dụ, các điều kiện về tuổi kết hôn, điều kiện về sự tự nguyện, không vi phạm các điều cấm kết hôn).
Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, Nhà nước bằng pháp luật khi qui định về chế độ tài sản của vợ chồng đều xuất phát từ mục đích trước tiên và chủ yếu nhằm bảo đảm quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ, chồng; từ đó, theo luật định, dù vợ chồng lựa chọn loại chế độ tài sản nào thì cũng đều phải có nghĩa vụ đóng góp tiền bạc, nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình, nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau và nuôi dưỡng, giáo dục các con. Hình thức sở hữu đối với tài sản chung của vợ, chồng là sở hữu chung hợp nhất, với những đặc điểm riêng: các tài sản do vợ, chồng, tạo ra, những thu nhập hợp pháp của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân đều được tính thuộc khối tài sản chung của vợ, chồng (trừ nguồn gốc là tài sản riêng của mỗi bên). Công sức tạo ra tài sản của người chồng đã hàm chứa cả công sức của người vợ trong đó và ngược lại.
Thứ ba, căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản này phụ thuộc vào sự kiện phát sinh và chấm dứt của quan hệ hôn nhân. Hay nói cách khác, chế độ tài sản của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân. Từ đó, tài sản chung của vợ chồng chỉ có thể phát sinh khi quan hệ hôn nhân được xác lập và chấm dứt khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc vợ chồng ly hôn;
Thứ tư, chế độ tài sản của vợ chồng cũng mang những đặc thù riêng trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Đối với tài sản chung của vợ chồng, bắt buộc vợ chồng khi tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. Thông thường, khi vợ chồng sử dụng tài sản chung để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình thì pháp luật luôn coi là có sự thỏa thuận đương nhiên của cả hai vợ chồng, trừ những tài sản chung có giá trị lớn. Đối với tài sản riêng (nếu có), thông thường người có tài sản có quyền tự mình định đoạt không phụ thuộc ý chí của người khác. Tuy nhiên, với chế độ tài sản của vợ chồng trong một số trường hợp quyền năng này của họ bị hạn chế (ví dụ, nếu tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của cả gia đình, khi định đoạt liên quan đến tài sản này thì phải có thỏa thuận của hai vợ chồng...).
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng
1.1.3.1. Vai trò của chế độ tài sản của vợ chồng
Xuất phát từ vị trí quan trọng của gia đình đối với xã hội, gia đình là nền tảng cơ bản, thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Hôn nhân lại là cơ sở để tạo lập gia đình - tế bào của xã hội. Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nước, bằng pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, trong đó có quan hệ hôn nhân, quan hệ vợ chồng. Trong mỗi chế độ xã hội cụ thể đều xây dựng một mô hình (kiểu) gia đình phù hợp với tính chất, kết cấu của chế độ xã hội đó. Lịch sử xã hội đã ghi nhận nhiều hình thái gia đình tương ứng với chế độ chủ nô, phong kiến, tư sản và gia đình XHCN với những đặc điểm và nội dung khác nhau, do các điều kiện kinh tế - xã hội chi phối.
Trong quan hệ gia đình (dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng), quan hệ vợ chồng có vai trò đặc biệt quan trọng. Quan hệ hôn nhân thường có tính chất bền vững "trăm năm", vợ chồng chung sống với nhau suốt đời, sinh đẻ, giáo dục, chăm sóc và nuôi dưỡng các con vì quyền lợi của gia đình và lợi ích của xã hội. Bên cạnh đời sống tình cảm, yêu thương gắn bó giữa vợ chồng, không thể không quan tâm tới đời sống vật chất, tiền bạc, tài sản của vợ chồng. Cuộc sống chung của vợ chồng, tính chất của quan hệ vợ chồng được xác lập đòi hỏi phải ._.có khối tài sản chung của vợ chồng; bởi tài sản là cơ sở kinh tế của gia đình, đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình, bảo đảm cho gia đình thực hiện được các chức năng xã hội của nó.
Trước hết, chế độ tài sản của vợ chồng được pháp luật của Nhà nước ghi nhận (dù là chế độ tài sản theo thỏa thuận - chế độ tài sản ước định, hay theo các căn cứ pháp luật - chế độ tài sản pháp định) đều thực hiện vai trò nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ chồng, tạo điều kiện để vợ chồng có những cách thức "xử sự" theo yêu cầu của pháp luật và phù hợp với đạo đức xã hội;
Thứ hai, trong lĩnh vực HN&GĐ, Luật HN&GĐ điều chỉnh các quan hệ về nhân thân và tài sản phát sinh giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình; trong đó, Luật HN&GĐ điều chỉnh trước tiên và chủ yếu nhóm các quan hệ nhân thân, nó quyết định tính chất và nội dung của nhóm quan hệ tài sản (ví dụ, khi quan hệ vợ chồng được xác lập, lúc đó mới phát sinh các quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ chồng như quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau, quyền đối với sở hữu chung hợp nhất, quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng). Tuy vậy, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản giữa các chủ thể là thành viên của gia đình có tác dụng vô cùng quan trọng, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ nhân thân được thực hiện trên thực tế. Ví như vợ, chồng thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản chung nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống chung của gia đình, từ đó nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc lẫn nhau giữa vợ chồng, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con mới được thực hiện phù hợp với đạo đức xã hội và qui định của pháp luật. Trên cơ sở đó xây dựng, củng cố chế độ HN&GĐ XHCN; xây dựng gia đình XHCN thực sự dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc, bền vững - là tế bào, nền tảng của xã hội, tạo điều kiện cho xã hội bình ổn và phát triển. Hiện nay, ở nước ta đang tiến hành chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN; bên cạnh những thành tựu đã đạt được, do ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, đạo đức trong gia đình và xã hội bị xuống cấp nghiêm trọng; ở một số gia đình đã nảy sinh các hành vi giữa vợ chồng, cha mẹ và con không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, ngược đãi, hành hạ nhau, do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về kinh tế. Thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng góp phần củng cố, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng với nhau và giữa các thành viên trong gia đình;
Thứ ba, chế độ tài sản của vợ chồng góp phần điều tiết, ổn định quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại. Trong suốt thời kỳ hôn nhân, nhằm đáp ứng lợi ích cá nhân vợ, chồng, quyền lợi của gia đình; vợ chồng phải ký kết rất nhiều hợp đồng dân sự với những người khác. Nhờ có chế độ tài sản của vợ chồng, các giao dịch đó được bảo đảm thực hiện, quyền lợi của vợ chồng, của người tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng được bảo vệ. Chế độ tài sản của vợ chồng định rõ về thành phần tài sản của vợ chồng và quyền hạn, nghĩa vụ của vợ, chồng đối với những tài sản mà vợ, chồng có được trước hoặc trong thời kỳ hôn nhân; quyền sở hữu của vợ chồng đối với từng loại tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Từ đó, khi vợ chồng thực hiện quyền sở hữu của mình, vì lợi ích chung của gia đình, của cá nhân vợ, chồng hay vì lợi ích của người khác được ổn định trong một trật tự pháp lý. Các kết ước liên quan đến tài sản do vợ, chồng thực hiện theo những mục đích cụ thể đối với từng loại tài sản đều phát sinh các hậu quả pháp lý nhất định. Trong đó, quyền lợi của người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng cũng được pháp luật bảo vệ. Pháp luật về HN&GĐ của nhiều nước đều qui định vấn đề này. Theo Điều 220 BLDS Cộng hòa Pháp (Luật số 65-570 ngày 13/7/1965): "Mỗi bên vợ, chồng có thể một mình ký kết hợp đồng nhằm mục đích duy trì đời sống gia đình hoặc giáo dục con cái; bên kia có trách nhiệm liên đới đối với nghĩa vụ do việc ký kết này...". BLDS Nhật Bản tại Điều 761 cũng qui định: "Đối với các vấn đề chi tiêu hàng ngày, nếu chồng hoặc vợ thực hiện giao kết pháp lý với người thứ ba, thì cả vợ lẫn chồng đều phải chịu trách nhiệm liên đới và theo phần đối với các nghĩa vụ phát sinh từ đó...".
Bởi tính chất cộng đồng của hôn nhân, tài sản chung của vợ chồng được sử dụng nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình. Nếu tài sản chung của vợ chồng không đủ chi dùng, thì vợ, chồng nếu có tài sản riêng phải có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng, bảo đảm cho các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Các hợp đồng do một bên vợ, chồng ký kết với người khác vì nhu cầu thiết yếu của gia đình được coi là có hiệu lực, bên kia (chồng hoặc vợ) phải chịu trách nhiệm liên đới. Nói cách khác, pháp luật suy đoán rằng, luôn có sự thỏa thuận "mặc nhiên" của cả hai vợ chồng, dù hợp đồng đó chỉ do một bên vợ, chồng thực hiện. Những qui định này đều xuất phát từ việc bảo đảm đời sống chung của gia đình, vì lợi ích của vợ, chồng, của con cái. Như vậy, chế độ tài sản của vợ chồng bảo đảm được "trật tự" trong giao lưu dân sự, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng liên quan đến tài sản của vợ chồng được thực hiện. Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta tại Điều 25 đã qui định: "Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình". Đây là một trong những qui định mới của Luật HN&GĐ năm 2000 so với Luật HN&GĐ năm 1959 và Luật HN&GĐ năm 1986 của Nhà nước ta trước đây.
1.1.3.2. ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng
- Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật về HN&GĐ được Nhà nước qui định dựa trên sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội. Nó thể hiện tính giai cấp, bản chất của chế độ chính trị - xã hội cụ thể. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về HN&GĐ, trong xã hội có giai cấp, các quan hệ HN&GĐ (trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng) được điều chỉnh bằng pháp luật của Nhà nước. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được qui định trong pháp luật của Nhà nước, người ta (có thể) nhận biết được trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội (tính khách quan) và ý chí của Nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó (tính chủ quan). Rõ ràng, tương ứng với mỗi chế độ xã hội cụ thể là một chế độ HN&GĐ do Nhà nước qui định bằng pháp luật hoặc thừa nhận bằng tập quán (trong đó có các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng). Trong xã hội phong kiến, tư sản, nơi mà sự đối lập, đối kháng giai cấp, chế độ tư hữu, chế độ người bóc lột người được thừa nhận và bảo vệ, thể hiện ý chí của giai cấp phong kiến, tư sản, thì trong các quan hệ gia đình, quan hệ vợ chồng phản ánh sự bất công, bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng mà pháp luật công khai bảo vệ hay tập quán "mặc nhiên" thừa nhận. Trong gia đình, cha mẹ có "toàn quyền" gia trưởng đối với con; trong quan hệ vợ chồng, người vợ phụ thuộc người chồng về mọi phương diện, cả các quan hệ nhân thân và tài sản. Người chồng là gia trưởng, là "chúa tể" trong gia đình. Người vợ ở đâu, làm gì, đều phải được chồng cho phép. Người vợ chỉ được hành xử nghề nghiệp riêng biệt trừ phi chồng không phản kháng. BLDS Pháp năm 1804 ở những năm đầu thực hiện đã đặt người vợ ở vào tình trạng "vô năng cách" (không có năng lực pháp lý). Hệ thống pháp luật dưới chế độ phong kiến, thực dân ở nước ta trước đây đều thực hiện theo quan niệm "người vợ là nô lệ trong gia đình", "thuyền theo lái, gái theo chồng", "phu xướng, phụ tùy", "của chồng, công vợ"... Điều 96 Bộ luật dân sự Bắc Kỳ năm 1931 (DLBK) tuyên bố: "Chồng là người chủ trương đoàn thể vợ chồng"; vợ chính, cùng vợ thứ phải được chồng cho phép mới được thưa kiện cùng giao ước.. .(Điều 98). Người chồng có quyền "mặc nhiên" đại diện cho quyền lợi của gia đình, có quyền ký kết bất kỳ hợp đồng nào liên quan đến tài sản của vợ chồng, dù có giá trị hay không, đều đương nhiên được coi là có hiệu lực. Vả lại, người vợ chỉ được "thay mặt" chồng, chỉ được đại diện trong những nhu cầu gia vụ hoặc chỉ được kết ước nếu được chồng cho phép (ủy quyền). Như vậy, bản chất của chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật phong kiến, tư sản đã phản ánh tính chất, kết cấu của xã hội phong kiến, tư sản. Quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng, trước hết được tập trung vào tay người chồng - là chủ gia đình. Không thể có quan hệ bình đẳng thực sự giữa vợ chồng trong các quan hệ nhân thân và tài sản của vợ chồng. Theo C.Mác, Ph.Ăngghen, "giai cấp tư sản đã xé toang tấm màn tình cảm bao phủ những quan hệ gia đình và làm cho những quan hệ ấy chỉ còn là những quan hệ tiền nong đơn thuần thôi" [39, tr. 42]. Theo các ông, chế độ tài sản của vợ chồng trong gia đình tư sản cũng phản ánh quan hệ bất bình đẳng giữa vợ chồng: trong gia đình tư sản, người chồng ở vào vị trí của người tư sản, còn người vợ ở vào vị trí của người vô sản. Vậy nên, không thể có và không thể đạt được quyền "tự do", quyền "bình đẳng" thực sự giữa vợ chồng trong hôn nhân tư sản. Theo V.I. Lênin, bất cứ người nào dẫu chỉ hiểu sơ lược luật pháp của các nước tư sản về hôn nhân, về ly dị và về con hoang, cũng như hiểu biết sơ lược về tình hình thực tế trong lĩnh vực ấy, mà quan tâm đến vấn đề thì đều thấy rằng về phương diện đó, chế độ dân chủ tư sản ngày nay, ngay trong những nước cộng hòa dân chủ nhất, cũng đều tỏ ra có một thái độ thật sự mang tính chất nông nô đối với phụ nữ và con hoang. Ông khẳng định rằng:
Không thể có, không có và sẽ không bao giờ có "tự do" thực sự, chừng nào phụ nữ còn chưa được giải phóng khỏi những đặc quyền mà luật pháp đã dành riêng cho nam giới, chừng nào công nhân còn chưa thoát khỏi ách tư bản, chừng nào nông dân lao động còn chưa thoát khỏi ách của bọn tư bản, địa chủ và con buôn [31, tr. 324-325].
Cùng với quan điểm này, nhằm xây dựng chế độ XHCN trên đất nước ta thành công, một trong những điều kiện tiên quyết mà sự nghiệp cách mạng nước ta phải thực hiện là phải "giải phóng phụ nữ". Vì "nếu không giải phóng phụ nữ thì xây dựng chủ nghĩa xã hội mới chỉ một nửa" [42, tr. 728-729]. Hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước XHCN, khi qui định về chế độ tài sản của vợ chồng đều ghi nhận trước hết quyền bình đẳng của vợ chồng về tài sản, bảo đảm quyền sở hữu của vợ chồng đối với các loại tài sản giữa vợ chồng. Bởi lẽ, để thực hiện và đạt được các quyền tự do, bình đẳng trong các quan hệ nhân thân giữa vợ chồng (họ, tên, tôn giáo, dân tộc, quốc tịch, chỗ ở, nghề nghiệp...) thì trước hết phải có bình đẳng thực sự trong quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng - cơ sở vật chất bảo đảm cho các quyền nhân thân của vợ chồng.
Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng với nhau về mọi phương diện là một trong các nguyên tắc cơ bản theo hệ thống pháp luật về HN&GĐ của Nhà nước XHCN.
Luật hôn nhân của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ghi nhận: "Thực hiện chế độ hôn nhân tự do, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng" (Điều 3); trong gia đình, "vợ chồng có địa vị bình đẳng" (Điều 9); "Đối với tài sản chung của vợ chồng, cả hai đều có quyền bình đẳng" (Điều 13). Các nước XHCN ở Đông Âu trước đây (Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Bungari...), Luật gia đình (LGĐ) của Cộng hòa Cu Ba và hệ thống pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay, đều thực hiện nguyên tắc vợ chồng bình đẳng khi qui định về chế độ tài sản của vợ chồng, không bên nào được áp đặt, phụ thuộc bên nào.
- Chế độ tài sản của vợ chồng được qui định trong pháp luật có ý nghĩa nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi hai bên nam, nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng được dự liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản ước định hay chế độ tài sản theo luật định, dù là chế độ tài sản cộng đồng hay theo tiêu chuẩn phân sản... thì các loại tài sản của vợ chồng luôn được pháp luật qui định rõ.
Ví dụ: Theo chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng toàn sản, hay chế độ cộng đồng bao gồm các tài sản là động sản và tạo sản hoặc chế độ cộng đồng tạo sản, thì tiền lương, tiền thưởng hoặc những thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng ở trước thời kỳ hôn nhân (trước khi kết hôn) theo nguyên tắc là tài sản riêng của vợ, chồng, nhưng sau khi kết hôn, nó luôn được coi là tài sản chung của vợ chồng, được sử dụng để bảo đảm đời sống chung của gia đình.
BLDS Pháp tại Điều 1401 qui định: Tài sản của vợ chồng bao gồm những thu nhập chung của hai vợ chồng hoặc thu nhập riêng của từng người trong thời kỳ hôn nhân và có nguồn gốc từ công việc làm ăn của họ, cũng như từ những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi, lợi tức của tài sản riêng của họ... Luật hôn nhân của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1980) cũng dự liệu: "Tài sản của vợ chồng làm ra trong suốt thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, ngoài ra mỗi bên có thể có tài sản riêng ngoài qui định trên" (Điều 13)...
- Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng của chế độ tài sản còn nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng. Với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có), vợ, chồng thực hiện quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt) đối với các loại tài sản này vì quyền lợi của gia đình hay lợi ích cá nhân vợ, chồng theo qui chế pháp lý dành cho từng loại tài sản.
Ví dụ: Đối với tài sản chung của vợ chồng, vợ, chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt vì quyền lợi của gia đình. Vợ, chồng là đồng chủ sở hữu đối với tài sản chung của họ. Vì vậy, một bên vợ, chồng không thể tự ý định đoạt tài sản chung, nếu không có sự thỏa thuận đồng ý của bên chồng, vợ kia; đặc biệt liên quan đến những tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn như nhà ở, giá trị quyền sử dụng đất....
Điều 1422 BLDS Pháp (Luật số 85-1372 ngày 23/12/1985) qui định: Một mình vợ hoặc chồng không thể đem tài sản chung tặng cho người khác mà không có ý kiến của bên kia...
Điều 1479, Điều 1487 BLDS và Thương mại Thái Lan cũng qui định: "Không người vợ hoặc người chồng nào có thể chiếm đoạt hoặc sát nhập bất cứ tài sản nào của người kia trong thời gian hôn nhân...".
- Chế độ tài sản của vợ chồng được sử dụng với ý nghĩa là cơ sở pháp lý giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau hoặc với những người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản cho các bên vợ, chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Trong thực tế, để đáp ứng quyền lợi của gia đình, nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục các con... trong suốt thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng phải ký rất nhiều hợp đồng với những người khác liên quan đến tài sản của vợ chồng. Nhiều tranh chấp về tài sản phát sinh giữa vợ chồng, liên quan tới quyền lợi của những người khác. Nhờ có chế độ tài sản của vợ chồng được pháp luật qui định, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng luật giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng (khi vợ chồng ly hôn, một bên vợ, chồng chết trước cần phải chia tài sản chung hoặc giải quyết các món nợ của vợ chồng đối với những người khác...) theo từng trường hợp cụ thể, chế độ tài sản của vợ chồng sẽ cho ta những nguyên tắc, căn cứ để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng.
1.2. Nội dung các loại chế độ tài sản của vợ chồng
Nhà làm luật ở mỗi quốc gia đều lựa chọn chế độ tài sản để áp dụng cho các cặp vợ chồng, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, tập quán, truyền thống của nước mình. Trong đó thể hiện rõ ý chí của Nhà nước khi điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Vì suy cho đến cùng, tổng hợp các qui phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng phản ánh điều kiện vật chất của xã hội đó, bảo đảm phù hợp với ý chí, quyền lợi của giai cấp thống trị xã hội. Bên cạnh việc qui định về căn cứ, nguồn gốc thành phần các loại tài sản của vợ chồng, luật qui định về quyền hạn, nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản đó; cũng như các nguyên tắc phân chia và quyền lợi được hưởng từ tài sản đó của vợ, chồng.
Trong xã hội còn duy trì đối kháng giai cấp, duy trì quan hệ người bóc lột người, khó có thể có được quyền bình đẳng thực sự giữa vợ và chồng về vấn đề tài sản trong quan hệ gia đình. Bởi lẽ, khi các quyền nhân thân của người vợ bị phụ thuộc, do người chồng định liệu, người chồng là gia trưởng, là chủ gia đình theo luật định; bắt buộc người vợ phải phụ thuộc chồng về vấn đề tài sản trong gia đình. Ngược lại, khi chế độ tư hữu, người bóc lột người bị thủ tiêu, mối quan hệ bình đẳng về mọi mặt giữa vợ chồng được xác lập, quyền lợi và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng được bảo đảm, không những về mặt pháp luật mà còn được thực hiện trọn vẹn trong đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật của kiểu Nhà nước XHCN đã chứng minh điều đó.
1.2.1. Chế độ tài sản dựa trên sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định)
Theo quan điểm thuần túy pháp lý của các nhà làm luật tư sản, hôn nhân thực chất là một hợp đồng, một khế ước do hai bên nam, nữ thỏa thuận, xác lập trên nguyên tắc tự do, tự nguyện. Các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được phát sinh và thực hiện trong thời kỳ hôn nhân cũng giống như các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đó. Cần phải tôn trọng các quyền tự do cá nhân của công dân, của vợ chồng khi thiết lập quan hệ hôn nhân, trong đó có quan hệ tài sản giữa vợ chồng. Vì vậy, pháp luật cho phép trước khi kết hôn, hai bên được quyền tự do ký kết hôn ước (hay còn gọi là khế ước). Thực chất là một hợp đồng do hai bên thỏa thuận; miễn sao không trái với các qui định của pháp luật và đạo đức xã hội (trật tự công cộng), Điều 1465 BLDS và Thương mại Thái Lan qui định:
Khi vợ chồng không có sự thỏa thuận đặc biệt về tài sản của họ trước khi kết hôn, thì quan hệ giữa họ về tài sản sẽ được điều chỉnh bởi những qui định của chương này.
Bất cứ điều khoản nào trong thỏa thuận trước khi thành hôn trái với trật tự công cộng, với đạo đức, hoặc qui định là quan hệ giữa hai vợ chồng về tài sản đó sẽ được điều chỉnh bởi luật pháp nước ngoài thì vô hiệu.
Điều 1387 BLDS Cộng hòa Pháp cũng có nội dung như trên.
Trong hôn ước này, vợ chồng có thể thỏa thuận lựa chọn một chế độ tài sản phù hợp để duy trì và bảo đảm thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân. Có thể lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo chế độ cộng đồng hay chế độ phân sản (không có tài sản chung giữa vợ và chồng). Tùy theo chế độ tài sản mà vợ chồng lựa chọn thỏa thuận trong hôn ước, các quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng được thực hiện theo chế độ cộng đồng (tài sản chung của vợ chồng) hoặc theo chế độ phân sản (không có tài sản chung).
- Nếu lựa chọn chế độ tài sản cộng đồng, vợ chồng thỏa thuận trong hôn ước về các vấn đề: thành phần tài sản chung của vợ chồng, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung; tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng (nếu có); các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng và quyền lợi của mỗi bên vợ, chồng được hưởng từ việc chia tài sản chung đó; giải quyết các món nợ phát sinh từ đời sống chung của gia đình; thỏa thuận để lại thừa kế cho một bên vợ, chồng hưởng từ phần tài sản chung của bên kia...;
- Nếu lựa chọn chế độ phân sản, giữa hai vợ chồng không có khối tài sản chung, vợ, chồng phải thỏa thuận tùy theo tư lực của mỗi bên đóng góp bảo đảm đời sống chung của gia đình, nghĩa vụ chu cấp lẫn nhau, giáo dưỡng các con...
Đặc điểm của hôn ước phải do hai bên thỏa thuận và được ký kết từ trước khi kết hôn. Hôn ước có tính chất "bất di bất dịch", không được thay đổi sau khi hôn nhân đã được xác lập và nó được bảo đảm thực hiện trong suốt thời kỳ hôn nhân. Khi có những tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau và với người khác, theo yêu cầu, Tòa án dựa trên hôn ước (hợp đồng) này để giải quyết. Chế độ tài sản ước định được ghi nhận trong hầu hết các BLDS của Nhà nước tư sản phương Tây.
Ngày nay, do các điều kiện kinh tế - xã hội và yêu cầu từ cuộc sống chung giữa vợ chồng, pháp luật của một số nước đã qui định về việc hạn chế tính "bất di bất dịch" của chế độ tài sản ước định. Sau một thời gian nhất định, vì lợi ích của vợ chồng, của gia đình mà hai vợ chồng có thể thỏa thuận về việc thay đổi chế độ tài sản theo hôn ước được ký kết trước khi kết hôn. Bên cạnh đó, luật cũng qui định các thủ tục và điều kiện pháp lý chặt chẽ cho việc thay đổi hôn ước, vì quyền lợi của những người thứ ba liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Ví dụ: Theo qui định tại Điều 1397 BLDS Cộng hòa Pháp (Luật số 65-570 ngày 13/7/1965 và Luật số 89-18 ngày 13/1/1989) thì: "Sau hai năm áp dụng chế độ tài sản trong hôn nhân theo thỏa thuận hoặc theo luật định, hai vợ chồng có thể vì lợi ích của gia đình, xin sửa đổi hoặc thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản trong hôn nhân bằng một chứng thư có chứng thực của Công chứng viên và được Tòa án nơi cư trú phê chuẩn".
Theo BLDS Nhật Bản, thì những căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng được qui định trong hôn ước cũng có thể được thay đổi cho phù hợp với thực tế tạo lập, chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của vợ chồng (Điều 758, 759 BLDS Nhật Bản).
Theo Điều 1467 BLDS và Thương mại Thái Lan qui định:
Sau khi kết hôn, bản thỏa thuận trước khi thành hôn không thể bị sửa đổi, trừ trường hợp Tòa án cho phép. Khi có quyết định cuối cùng của Tòa án cho phép tiến hành sửa đổi hoặc hủy bỏ bản thỏa thuận trước khi thành hôn, thì Tòa án phải thông báo cho viên chức đăng ký kết hôn nội dung quyết định đó để ghi nội dung đó vào Sổ đăng ký kết hôn
Hoặc Điều 1469 cũng của Bộ luật này qui định rõ:
Bất cứ một thỏa thuận nào giữa vợ chồng trong thời gian hôn nhân cũng có thể bị vợ hoặc chồng bác bỏ vào bất cứ lúc nào trong thời gian hôn nhân đó; hoặc trong vòng một năm kể từ ngày hủy bỏ cuộc hôn nhân, với điều kiện là điều đó không ảnh hưởng gì đến quyền của người thứ ba hành động có thiện chí.
Như vậy, theo chế độ tài sản ước định, hai bên vợ chồng tự nguyện thỏa thuận về vấn đề tài sản. Hôn ước thực chất là một hợp đồng về tài sản giữa vợ chồng, được bảo đảm thực hiện trong thời kỳ hôn nhân. chế độ tài sản ước định đã quá chú trọng tới lợi ích cá nhân vợ, chồng mà xem nhẹ lợi ích của gia đình. Điều đó đã dẫn tới những "xung đột" giữa tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân với trách nhiệm, nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình. Vì vậy, nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước theo hệ thống pháp luật XHCN, thường không dự liệu chế độ tài sản ước định (trong đó có Việt Nam, trừ các văn bản luật dưới chế độ cũ đã dựa nhiều vào BLDS Pháp mà dự liệu chế độ tài sản ước định của vợ chồng). Hệ thống pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta từ năm 1945 đến nay, không qui định chế độ tài sản ước định (dựa trên sự thỏa thuận bằng văn bản) của vợ chồng.
1.2.2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ qui định của pháp luật (còn gọi là chế độ tài sản pháp định)
Theo chế độ tài sản pháp định, pháp luật đã dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc, thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan tới các khoản nợ chung hay nợ riêng của vợ, chồng.
Chế độ tài sản của vợ chồng theo qui định của pháp luật được tất cả các nước dự liệu trong hệ thống pháp luật của mình, nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản giữa vợ chồng. ở các nước tư bản, chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ luật định được coi như một giải pháp dành cho các cặp vợ chồng khi xác lập quan hệ hôn nhân mà không lập hôn ước, thỏa thuận về tài sản của vợ chồng. Cũng có thể với mục đích tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản áp dụng cho họ trong hôn ước, trước khi xác lập quan hệ vợ chồng cho phù hợp với điều kiện nghề nghiệp, hoàn cảnh cuộc sống chung của vợ chồng (nó được thể hiện phổ biến trong pháp luật ở các nước tư bản chủ nghĩa như Pháp, Canada, Australia,...). Theo Điều 1400 BLDS Cộng hòa Pháp dự liệu: "Chế độ cộng đồng tài sản được thiết lập khi không có hôn ước hoặc khi vợ chồng tuyên bố kết hôn theo chế độ cộng đồng tài sản".
Tất cả các văn bản pháp luật dưới chế độ ngụy quyền Sài Gòn cũng đều có những qui định tương tự. Điều 150 BLDS Sài Gòn năm 1972 qui định: "Chế độ cộng đồng tài sản là chế độ phu phụ tài sản thường luật trong trường hợp vợ chồng không lập hôn ước hoặc khai kết hôn dưới chế độ cộng đồng tài sản. Chế độ này khởi đầu từ ngày lập hôn thú, không ai có thể định một ngày nào khác cho khởi điểm này".
Đối với những cặp vợ chồng khi kết hôn mà không lập hôn ước thỏa thuận về tài sản của họ, nhà làm luật cho rằng, những cặp vợ chồng đó đã "mặc nhiên" lựa chọn chế độ tài sản của họ theo các căn cứ mà pháp luật đã dự liệu từ trước. Và đương nhiên, chế độ tài sản này sẽ được áp dụng nhằm điều chỉnh vấn đề tài sản giữa vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với nhau và với những người khác có quyền lợi liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Pháp luật của một số nước khi không dự liệu chế độ tài sản ước định, đã lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ luật định như là "duy nhất" để áp dụng cho tất cả các cặp vợ chồng khi kết hôn. Theo hệ thống pháp luật về HN&GĐ của các nước XHCN ở Đông Âu trước đây, Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam... đều lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo các căn cứ pháp luật đã dự liệu từ trước. Theo Điều 29 LGĐ Cộng hòa Cu Ba thì "chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản chung theo qui định của Bộ luật này. Chế độ tài sản này áp dụng kể từ ngày việc kết hôn được chính quyền công nhận hoặc từ ngày có cuộc sống chung...; chế độ tài sản này chấm dứt khi quan hệ hôn nhân chấm dứt không kể vì lý do gì".
Theo Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta: "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân..." hoặc Điều 32 của Luật này qui định: "Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân...".
Để thiết lập một chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, truyền thống, tập quán và thực tế cuộc sống trong lĩnh vực HN&GĐ; nhà làm luật thường dựa trên hai quan niệm sau:
- Đời sống chung của vợ chồng đòi hỏi cần thiết phải có khối tài sản cộng đồng (tài sản chung của vợ chồng). Theo quan niệm này, thì chế độ tài sản của vợ chồng được thiết lập theo tiêu chuẩn cộng đồng;
- Trong quan hệ vợ chồng không bắt buộc và không cần thiết phải có một khối tài sản chung. Cần phải tôn trọng và bảo vệ quyền sở hữu riêng của vợ, chồng; tài sản của bên này phải được độc lập và biệt lập với bên kia. Theo quan niệm này, thì chế độ tài sản của vợ chồng được dự liệu theo tiêu chuẩn phân sản (không có tài sản chung của vợ chồng).
Tuy nhiên, để pháp luật được bảo đảm thực hiện, áp dụng thuận lợi trong cuộc sống (tính khả thi), nhà làm luật vẫn có thể dung hòa hai quan điểm trên để thiết lập một chế độ tài sản của vợ chồng cho phù hợp. Các chế độ tài sản của vợ chồng theo hai quan niệm trên đây không có tính cách tương phản nhau một cách tuyệt đối, vì xét về học lý và thực tiễn thì nhà làm luật vẫn dự liệu có những chế độ tài sản của vợ chồng có tính cách cộng đồng nhiều hay ít, có tính cách phân sản nhiều hay ít; chế độ tài sản này có thể kết hợp với chế độ tài sản kia (ví dụ: trong chế độ tài sản của vợ chồng theo tiêu chuẩn cộng đồng, nhà làm luật tùy theo tình hình thực tế mà "thiết kế" chế độ tài sản chung của vợ chồng với các căn cứ, thành phần tài sản chung rất rộng như chế độ cộng đồng toàn sản; hoặc thành phần tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hẹp hơn theo chế độ cộng đồng tạo sản...).
* Chế độ tài sản của vợ chồng theo tiêu chuẩn cộng đồng:
- Chế độ cộng đồng toàn sản: Theo chế độ tài sản này, thì tất cả các tài sản mà vợ, chồng có được đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng, Luật không thừa nhận vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Đối với những tài sản mà một bên vợ, chồng có được từ trước khi kết hôn do công sức của vợ, chồng tạo dựng, hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng; những tài sản mà vợ chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân, không kể nguồn gốc, công sức đóng góp của vợ, chồng; những tài sản mà vợ chồng được tặng cho riêng, được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung của vợ chồng. Chế độ tài sản này thường phù hợp với loại gia đình truyền thống, luôn đặt lợi ích chung của gia đình, nghĩa vụ giáo dưỡng các con lên hàng đầu.
Chế độ tài sản này thường không được phổ thông, không được các cặp vợ chồng lựa chọn theo hôn ước hoặc không được nhà làm luật "thiết kế" thành chế độ tài sản pháp định, bởi các lẽ sau:
+ Theo chế độ cộng đồng toàn sản sẽ dẫn tới sự bất công khi một bên vợ, chồng không có tài sản, không có công sức tạo ra tài sản chung của vợ chồng nhưng vẫn được hưởng quyền lợi về tài sản từ chế độ cộng đồng toàn sản này;
+ Không bảo đảm được quyền lợi chính đáng về tài sản cho mỗi bên vợ, chồng đối với loại tài sản riêng có được từ trước khi kết hôn hoặc được tặng cho riêng, được thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân. Vì những tài sản này theo chế độ cộng đồng toàn sản đều được tính thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng;
+ Không bảo đảm quan hệ độc lập về tài sản của mỗi bên vợ, chồng khi tham gia các giao dịch dân sự nhằm bảo đảm lợi ích của cá nhân hoặc nghĩa vụ thanh toán các món nợ riêng của vợ, chồng đối với người khác. Và như vậy, luôn buộc người vợ, chồng kia phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các giao dịch do một bên người chồng, vợ thực hiện mà không phải vì lợi ích chung của gia đình;
+ Không bảo đảm được quyền tự định đoạt của vợ, chồng đối với những tài sản mà theo bản chất thuộc tài sản riêng của vợ, chồng; cũng như quyền tự định đoạt của người thứ ba khi lấy tài sản thuộc quyền sở hữu của mình tặng cho riêng, hoặc để lại thừa kế riêng cho người vợ, chồng được hưởng. Bởi lẽ dù được chủ sở hữu tặng cho riêng, để lại thừa kế riêng cho một bên vợ, chồng thì theo chế độ cộng đồng toàn sản, tất cả những tài sản này đều được coi l._.ản là đồ dùng, tư trang cá nhân bao gồm những gì thuộc tài sản riêng của vợ, chồng (xem mục 2.2.1.3). Theo chúng tôi, đồ dùng, tư trang cá nhân là tài sản riêng với nguồn gốc phát sinh từ tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân, phục vụ trực tiếp cho công việc, nghề nghiệp và nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của cá nhân vợ, chồng. Mặt khác, khi có tranh chấp về loại tài sản này, theo từng trường hợp cụ thể mà xem xét đồ dùng, tư trang cá nhân có nguồn gốc và giá trị như thế nào so với khối tài sản chung của vợ chồng và mức thu nhập thực tế của vợ, chồng để xác định chính xác và hợp lý tài sản riêng của vợ, chồng. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ của một số nước thường liệt kê cụ thể vấn đề này. Theo Điều 1404 BLDS Pháp thì:
Quần áo, đồ dùng cá nhân của vợ hoặc chồng, những việc kiện đòi bồi thường thiệt hại vật chất hoặc tinh thần, những món tiền nợ hoặc trợ cấp không được chuyển nhượng và nói chung, mọi tài sản mang tính chất cá nhân và mọi quyền gắn với con người đều là những tài sản riêng do bản chất, dù rằng những thứ có được trong thời kỳ hôn nhân. Cũng coi là tài sản riêng do bản chất nhưng nếu cần thì có thể được đền bù, những dụng cụ lao động cần thiết cho nghề nghiệp của vợ hoặc chồng…
Tại Điều 1471 BLDS và Thương mại Thái Lan, cũng dự liệu tài sản riêng của vợ, chồng gồm có "... tài sản dùng cho cá nhân, quần áo hoặc đồ trang sức phù hợp với điều kiện sống, hoặc những dụng cụ cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của vợ hoặc chồng...".
- Đối với những đồ nữ trang mà cha mẹ cho con trong ngày cưới (vàng, bạc, kim khí quí, đá quí…) thì cần xác định theo nguyên tắc: Nếu cha mẹ tuyên bố cho riêng thì cũng được coi là tài sản riêng của vợ, chồng; nếu cha mẹ tuyên bố cho chung cả hai vợ chồng thì đó là tài sản chung. Nếu giữa vợ chồng có tranh chấp, thì chia cho người đang sử dụng những đồ nữ trang đó. Qui định này là cần thiết và bảo đảm được tính nhất quán khi Tòa án giải quyết các tranh chấp về tài sản là những đồ nữ trang mà cha mẹ tuyên bố cho con trong ngày cưới.
- Đối với những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân, theo qui định của Luật HN&GĐ năm 2000, các loại tài sản này có nguồn gốc khác nhau khi xác định thuộc tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng (Xem mục 2.1.1.3; mục 2.1.3.1).
Về nguyên tắc, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân, theo Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000, được tính thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Qui định này được pháp luật của hầu hết các nước và hệ thống pháp luật về HN&GĐ ở nước ta từ trước đến nay dự liệu. Khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta cần cụ thể hóa vấn đề này.
Đối với trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, theo Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000 và Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản mà vợ, chồng được chia từ tài sản chung, kể cả hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia đó, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên là tài sản riêng của vợ, chồng. Trừ trường hợp, vợ chồng có thỏa thuận khác. Cần phải khẳng định những qui định này không phải là gián tiếp chấp nhận chế định ly thân và chế độ biệt sản trong Luật HN&GĐ năm 2000. Bởi lẽ, chế định ly thân và chế độ biệt sản có nguồn gốc từ tôn giáo, không bảo đảm quyền lợi của gia đình và không phù hợp với gia đình truyền thống ở Việt Nam. Từ đó, chúng tôi kiến nghị: Luật và những văn bản hướng dẫn cần qui định cụ thể về hậu quả pháp lý sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (xem mục 3.2.1.1); cần khẳng định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Hiện nay, trong Mục 8 Điểm a2 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP vẫn sử dụng cụm từ "vợ chồng sống ly thân" khi giải thích về nội dung căn cứ ly hôn. Theo chúng tôi, nên bỏ cụm từ này nhằm bảo đảm cách hiểu thống nhất trong thực tiễn áp dụng điều luật này (Điều 29 và Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000).
- Theo khoản 3 Điều 33, nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng được thanh toán từ tài sản riêng của người có nghĩa vụ. Tuy nhiên, qui định này còn quá chung chung, chưa có căn cứ cụ thể để xác định loại nghĩa vụ tài sản này. Theo chúng tôi, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng bao gồm các nghĩa vụ sau:
+ Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác từ trước khi kết hôn mà không vì nhu cầu đời sống chung của gia đình;
+ Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong thời kỳ hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng, không đáp ứng các nhu cầu thiết yếu và lợi ích chung của gia đình;
+ Nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản riêng. Trừ trường hợp nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành khai thác các hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng không có thỏa thuận những hoa lợi, lợi tức đó vẫn thuộc tài sản riêng của vợ, chồng;
+ Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lý di sản thừa kế mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán, phá tán hoặc làm hư hỏng, mất mát di sản (khoản 3 Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP);
+ Các khoản nợ phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân vợ, chồng như các khoản chi phí cho con riêng của mình; các chi phí cho người mà vợ, chồng là người giám hộ của người đó theo qui định của pháp luật dân sự và Luật HN&GĐ;
+ Nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện liên đới đối với các thành viên trong gia đình theo qui định tại Chương V và Chương VI của Luật HN&GĐ năm 2000;
+ Nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng mà vợ, chồng là người được giao quản lý nhưng đã làm tiêu tán hoặc sử dụng không đúng mục đích;
+ Nghĩa vụ phải trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ, chồng đã có hành vi tự mình tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình (vi phạm khoản 3 Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2000);
+ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của vợ, chồng (xem mục 2.2.2.2).
3.2.1.3. Biện pháp quản lý tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn
Theo Luật HN&GĐ năm 2000 và pháp luật tố tụng dân sự, các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo quản tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng có yêu cầu ly hôn, chưa được qui định rõ ràng. ở nước ta, những năm qua tình hình ly hôn có chiều hướng gia tăng với nhiều nguyên nhân, lý do đa dạng và phức tạp. Các án kiện ly hôn thường chiếm trên 90% trong tổng số các loại tranh chấp từ quan hệ HN&GĐ. Một thực tế cho thấy, khi vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc, tình nghĩa giữa vợ và chồng đã hết, ly hôn là tất yếu. Bản thân vợ, chồng thường có những "toan tính" về vấn đề tài sản. Nhiều trường hợp, người vợ, chồng đã lợi dụng sự kém hiểu biết pháp luật của phía bên kia hoặc điều kiện, hoàn cảnh của gia đình mà vợ, chồng thực hiện các hành vi tẩu tán, giấu giếm tài sản chung, mưu cầu lợi ích cá nhân không chính đáng; ảnh hưởng đến quyền lợi của phía bên kia và các con.
Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ chồng về tài sản, nhất là quyền lợi của người vợ và các con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; Luật HN&GĐ và pháp luật tố tụng dân sự của Nhà nước ta cần thiết phải qui định các biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong đó dự liệu về vấn đề quản lý tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng có yêu cầu ly hôn. Việc quản lý tài sản chung khi vợ chồng có yêu cầu ly hôn do vợ chồng thỏa thuận hoặc Tòa án quyết định giao tài sản chung cho vợ, chồng quản lý, bảo quản; hoặc có thể niêm phong tài sản chung của vợ chồng nhằm bảo đảm được tình trạng tài sản, giá trị, công dụng của tài sản để chia cho vợ, chồng khi ly hôn. Đồng thời, Luật cần dự liệu cụ thể đối với các giao dịch do vợ, chồng thực hiện liên quan đến tài sản chung của vợ chồng trong thời gian vợ, chồng có yêu cầu ly hôn: Trường hợp nào vợ, chồng được thực hiện hoặc không được thực hiện những giao dịch. Bởi lẽ, ngoài mục đích bảo vệ quyền lợi tài sản của vợ, chồng đối với tài sản chung, còn bảo đảm được quyền lợi chính đáng của những người khác đã tham gia giao dịch liên quan trực tiếp đến tài sản chung của vợ chồng.
Pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ của nhiều nước đều có qui định cụ thể về vấn đề này. Theo Điều 257 BLDS Pháp, "ngay khi nhận được đơn đầu tiên, thẩm phán có thể ấn định các biện pháp khẩn cấp tạm thời… để bảo đảm các quyền của vợ, chồng, thẩm phán có thể ra lệnh thi hành các biện pháp bảo quản như niêm phong tài sản chung. Những qui định tại Điều 220-1 (điều luật qui định biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản chung của vợ chồng vì quyền lợi của gia đình) và các qui định bảo vệ khác do chế độ tài sản trong hôn nhân đặt ra vẫn được áp dụng".
Trước đây, BLDS năm 1972 áp dụng ở miền Nam nước ta trước ngày giải phóng cũng dự liệu về biện pháp bảo quản tài sản chung của vợ chồng và các giao dịch mà vợ, chồng được thực hiện hoặc bị cấm đoán liên quan đến tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn. Theo qui định tại Điều 183 của BLDS này, "Ngay từ lúc có án lệnh đầu tiên, vợ hay chồng dù dưới chế độ hôn sản nào cũng có thể xin thi hành những biện pháp bảo thủ để bảo vệ quyền lợi riêng, nhất là xin niêm phong tài sản chung hoặc tài sản riêng do người hôn phối hưởng thụ hay quản trị. Thẩm phán sẽ ra án lệnh cho phép niêm phong..." và "mọi sự cam kết do người chồng có phương hại cho khối tài sản chung sau khi có án lệnh cho ở riêng sẽ vô hiệu, nếu đủ chứng cứ là đã cam kết gian tình để làm hại quyền lợi của người vợ" (Điều 185 BLDS năm 1972). Vợ hay chồng đều có thể xin giải tỏa sự niêm phong để lập bản kê khai và trị giá các tài sản; sau đó, tài sản sẽ giao cho người phối ngẫu hiện chấp hữu coi giữ, trừ phi thẩm phán quyết định khác (Điều 184 BLDS năm 1972).
3.2.2. Một số kiến nghị về tổ chức thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 2000
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, pháp luật HN&GĐ hiện hành đã có sự phát triển cao hơn, đáp ứng được tốt hơn các yêu cầu khách quan trong sự phát triển của xã hội và gia đình (chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những chế định của Luật HN&GĐ phản ánh rõ nét nhất vấn đề này). Tuy nhiên, thực tiễn pháp lý cho thấy, các qui định nói chung, chế độ tài sản của vợ chồng nói riêng trong pháp luật HN&GĐ hiện hành còn chưa thực sự đi vào đời sống xã hội, chưa thành những chuẩn mực pháp lý trong xử sự của các thành viên trong gia đình. Nguyên nhân thì có nhiều, song theo chúng tôi, nguyên nhân cơ bản nhất không phải là do thiếu các qui định pháp luật, hay các qui định pháp luật chưa cụ thể mà là do còn quá nhiều hạn chế trong công tác tổ chức và áp dụng Luật HN&GĐ. Sự yếu kém trong công tác tổ chức và áp dụng Luật HN&GĐ, trong đó có chế độ tài sản của vợ chồng xuất phát từ những lý do chủ quan hoặc khách quan khác nhau và để khắc phục hiện tượng này, theo chúng tôi cần tiến hành đồng bộ những giải pháp sau:
Thứ nhất, xuất phát từ đặc thù của quan hệ HN&GĐ, các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng cũng mang những đặc điểm riêng biệt so với các tranh chấp tài sản khác. Song trong tổ chức và hoạt động của Tòa án, Tòa dân sự giải quyết cả hai loại việc dân sự và HN&GĐ. Do đó, kỹ năng xét xử các vụ việc dân sự thường áp dụng chung cho cả các tranh chấp HN&GĐ và tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng. Thực tế này cũng tạo nhiều thuận lợi trong công tác tổ chức và hoạt động của Tòa án, tuy nhiên trong nhiều vụ việc lại không phù hợp với đặc thù của tranh chấp từ các quan hệ HN&GĐ. Để nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết các loại tranh chấp này, theo chúng tôi, ngành Tòa án cần xây dựng một đội ngũ thẩm phán chuyên trách cả về chuyên môn và nghiệp vụ xét xử về các vụ việc HN&GĐ và thành lập Tòa án HN&GĐ.
Thứ hai, một trong những khó khăn mà TAND các cấp thường gặp trong xét xử các vụ việc này là do các qui định của pháp luật hoặc thiếu hoặc không cụ thể. Để khắc phục tình trạng này, Tòa án cần đa dạng hóa việc áp dụng pháp luật, đặc biệt vận dụng các phong tục, tập quán truyền thống tốt đẹp trong đời sống xã hội về HN&GĐ. Ngoài ra, cũng cần thiết phải công nhận hình thức án lệ áp dụng cho các quan hệ mới phát sinh khi chưa có qui định pháp luật điều chỉnh hoặc đã có qui định pháp luật nhưng việc điều chỉnh không còn phù hợp với thực tế. Trên thực tế, TANDTC hàng năm đều có các công văn hoặc báo cáo công tác ngành để tổng kết rút kinh nghiệm, hướng dẫn công tác xét xử cho Tòa án các cấp. Đây là hoạt động rất cần thiết song chưa đủ, bên cạnh những hoạt động đó, TANDTC cần định kỳ ban hành các tập hợp án lệ điển hình để Tòa án các cấp học tập và rút kinh nghiệm trong hoạt động xét xử, cũng như phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, tiến tới xây dựng các Tập án lệ về HN&GĐ.
Thứ ba, việc xác định chủ quyền hoặc định giá tài sản đang là đối tượng của tranh chấp (đặc biệt đối với tài sản tranh chấp là bất động sản) hiện còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Có thể do giá cả thị trường luôn biến động, sự phối hợp không hiệu quả giữa Tòa án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Vì vậy, cần thành lập một cơ quan định giá tài sản chuyên nghiệp và thống nhất làm chức năng tham mưu cho các hoạt động quản lý nhà nước nói chung và hoạt động xét xử của Tòa án nói riêng; cũng như đáp ứng các yêu cầu của xã hội về định giá tài sản. Ngoài ra, cần làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc phối hợp với Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng;
Thứ tư, tăng cường và đổi mới công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật HN&GĐ của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể. Việc nâng cao sự hiểu biết của nhân dân về pháp luật HN&GĐ nói chung và chế định tài sản của vợ chồng nói riêng được Nhà nước rất quan tâm, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 15/2000/CT-TTg ngày 9/8/2000 về việc tổ chức thi hành Luật HN&GĐ năm 2000, trong đó xác định: "Công tác phổ biến, tuyên truyền Luật HN&GĐ phải được tiến hành thường xuyên, sâu rộng trong cán bộ, công chức, viên chức, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang nhân dân và trong nhân dân..." [14].
Qua thực tiễn áp dụng Luật HN&GĐ qui định trên đã được thực hiện nghiêm túc. Tuy nhiên, việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục Luật HN&GĐ chưa toàn diện, hầu như mới chỉ tập trung vào các qui định về kết hôn, quyền và nghĩa vụ về nhân thân của vợ chồng, của cha mẹ và con, ly hôn... Theo chúng tôi, bên cạnh việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục các qui định trên cần chú trọng đến việc phổ biến, tuyên truyền, giáo dục các qui định của pháp luật về quyền sở hữu trong gia đình, quyền của người vợ, người phụ nữ liên quan đến tài sản. Nếu làm tốt việc này mới hạn chế các tranh chấp về tài sản trong gia đình, sự công bằng, bình đẳng, tiến bộ giữa vợ và chồng về sở hữu mới được nhân dân "nắm bắt" và thực hiện.
Kết luận chương 3
1. Chế độ tài sản của vợ chồng là một chế định quan trọng của Luật HN&GĐ. Từ khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực, bên cạnh những thuận lợi, kết quả đã đạt được với việc góp phần ổn định các quan hệ HN&GĐ, bảo vệ quyền lợi chính đáng về tài sản của vợ chồng và các thành viên trong gia đình, các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng luôn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực tế áp dụng. Bởi lẽ, các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng thường nảy sinh khi tình cảm yêu thương giữa vợ và chồng đã hết, mâu thuẫn giữa vợ chồng rất sâu sắc, khó hòa giải, vợ chồng thường có mâu thuẫn gay gắt về tài sản, tiền bạc.
2. Bảo đảm các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng được thực hiện và áp dụng thống nhất, tháo gỡ những bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng, vấn đề sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các qui định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng là tất yếu.
Qua nghiên cứu nội dung chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000, chúng tôi xin nêu một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật nội dung về chế độ tài sản của vợ chồng. Bao gồm căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng dựa vào "thời kỳ hôn nhân", các trường hợp cụ thể xác định tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng bị tuyên bố mất tích, bị tuyên bố là đã chết mà sau đó lại trở về, khi vợ chồng đã ly hôn mà kết hôn lại với nhau, khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mà sau đó lại khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng; tài sản chung của vợ chồng trong quan hệ "hôn nhân thực tế" theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 và về nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng theo các trường hợp luật định.
Đối với tài sản riêng của vợ, chồng, Luật cần sửa đổi, bổ sung về căn cứ xác lập tài sản riêng liên quan tới những đồ nữ trang mà cha mẹ, gia đình tuyên bố cho con trong ngày cưới; cụ thể hóa tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân thuộc tài sản riêng của vợ, chồng; nghĩa vụ tài sản riêng của vợ, chồng (khoản 3 Điều 33).
3. Do nhiều nguyên nhân, các án kiện ly hôn ở nước ta những năm qua phát sinh nhiều (chiếm trên 90% trong tổng số các tranh chấp về HN&GĐ), luật cần dự liệu các biện pháp nhằm bảo đảm tài sản chung của vợ chồng để chia khi ly hôn (biện pháp khẩn cấp tạm thời: niêm phong tài sản, hạn chế hành vi của vợ chồng sử dụng tài sản chung trong các giao dịch với người khác...).
Kết luận
Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu đối với tài sản của vợ chồng, có những đặc điểm riêng, với ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của gia đình, xã hội. Bởi lẽ, bên cạnh đời sống tình cảm, thương yêu gắn bó suốt đời giữa vợ chồng, phải có tài sản, tiền bạc, sản nghiệp của vợ chồng - cơ sở kinh tế nuôi sống gia đình; tạo điều kiện để vợ chồng thực hiện các quyền, nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, quí trọng, giúp đỡ lẫn nhau; nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc các con và nghĩa vụ chăm sóc, cấp dưỡng cho các thành viên trong gia đình, cho xã hội phát triển bền vững. Bởi vì, gia đình là tế bào của xã hội, "gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt" (Hồ Chí Minh).
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển thịnh vượng của xã hội, theo thời gian, Đảng và Nhà nước ta luôn giành sự quan tâm đặc biệt trong công cuộc xây dựng chế độ HN&GĐ mới XHCN. Các văn bản pháp luật HN&GĐ là những văn bản pháp luật đầu tiên được Nhà nước ta ban hành từ ngày đầu thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam); cho đến nay, hệ thống pháp luật về HN&GĐ ngày càng phát triển dần hoàn thiện.
Với đề tài "Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam", luận án được hoàn thành với những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Xây dựng khái niệm chế độ tài sản của vợ chồng theo khoa học pháp lý Việt Nam. Phân tích các đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng đối với sự tồn tại và phát triển của gia đình và xã hội;
2. Phân tích các loại chế độ tài sản giữa vợ chồng theo hệ thống pháp luật về HN&GĐ của một số nước trên thế giới và pháp luật Việt Nam, trên cơ sở đó so sánh, đối chiếu để thấy được nét tương đồng và đặc thù, mang bản sắc dân tộc về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam. Qua đó, khẳng định và lý giải tại sao Luật HN&GĐ của Nhà nước ta không qui định về chế độ tài sản ước định (theo sự thỏa thuận của vợ chồng) và không qui định về chế định ly thân, chế độ biệt sản giữa vợ chồng;
3. Hệ thống hóa sự phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh chế độ tài sản giữa vợ chồng. Theo nguyên lý chung, tính tất yếu, sự cần thiết nhà nước bằng pháp luật phải qui định về chế độ tài sản của vợ chồng; phù hợp với sự phát triển của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội mà pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta đã dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng với nội dung, đặc điểm khác nhau ở từng giai đoạn phát triển của sự nghiệp cách mạng ở nước ta;
4. Phân tích các qui định của luật thực định về nội dung chế độ tài sản của vợ chồng. Luật HN&GĐ năm 2000 của Nhà nước ta dự liệu chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ cộng đồng tạo sản. Loại chế độ tài sản này vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại, vừa phù hợp với điều kiện về kinh tế, văn hóa, xã hội, tập quán, truyền thống đạo đức của gia đình Việt Nam; bảo đảm được lợi ích chung của gia đình và lợi ích cá nhân của vợ, chồng về tài sản;
Luận án đi sâu phân tích các căn cứ, nguồn gốc xác lập tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản này; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ chồng: khi một bên vợ, chồng chết trước, khi vợ chồng ly hôn và khi có yêu cầu của vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân;
5. Phân tích tính kế thừa và phát triển của Luật HN&GĐ năm 2000 về chế độ tài sản của vợ chồng. Nêu rõ những điểm mới về chế độ tài sản của vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 2000 so với các văn bản pháp luật về HN&GĐ trước đó;
6. Với việc khảo sát, nghiên cứu thực tiễn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng trong hoạt động xét xử của ngành Tòa án, bằng các số liệu thực tế cho thấy: Các tranh chấp từ quan hệ HN&GĐ ở nước ta những năm qua xảy ra nhiều với những nguyên nhân, lý do đa dạng, phức tạp. Trong đó, các án kiện ly hôn, tranh chấp tài sản giữa vợ chồng khi ly hôn (chiếm trên 90% các án kiện về HN&GĐ hàng năm) luôn là loại việc khó khăn, có nhiều hạn chế và vướng mắc trong thực tiễn xét xử;
7. Trên cơ sở nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000, luận án chỉ rõ những qui định còn bất cập, chưa hợp lý, không bảo đảm được tính khoa học của luật thực định. Trên cơ sở đó, luận án có một số kiến nghị đề xuất hướng hoàn thiện các qui định về chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hiện hành, cũng như tổ chức thực hiện những quy định đó, bảo đảm hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với chế độ tài sản của vợ chồng ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Các công trình khoa học đã công bố liên quan đến luận án
Nguyễn Văn Cừ (1995), "Một số suy nghĩ về Điều 18 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1986", Luật học, (1).
Nguyễn Văn Cừ (1997), "Về việc sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986", Luật học, (3).
Nguyễn Văn Cừ (1997), "Vấn đề ly thân có được qui định trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1986", Luật học, (6).
Nguyễn Văn Cừ (2000), "Vấn đề hôn nhân thực tế theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam", Luật học, (5).
Nguyễn Văn Cừ (2000), "Chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại", Tòa án nhân dân, (9).
Nguyễn Văn Cừ (2002), "Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000", Luật học, (6).
Nguyễn Văn Cừ (2003), "Quyền bình đẳng của vợ chồng đối với tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", Nhà nước và pháp luật, (5).
Danh mục tài liệu tham khảo
I.L. Anđrêép (1987), Về tác phẩm của Ph. ăngghen "nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước", Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
Ph. ăngghen (1972), Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Mạnh Bách (1993), Chế độ hôn sản và thừa kế trong luật Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
Bộ luật dân sự Bắc Kỳ 1931.
Bộ luật dân sự Nhật Bản.
Bộ luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật dân sự Sài Gòn năm 1972.
Bộ luật dân sự Trung Kỳ năm 1936.
Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883.
Bộ Tư pháp (1998), Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Hà Nội.
Các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo công tác ngành Tòa án tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa X.
Chỉ thị số 15/2000/CT-TTg ngày 9/8/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Chính phủ (1960), "Tờ trình về Dự Luật Hôn nhân và gia đình", Công báo, (1)
Chính phủ (1998), Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10 về đăng ký hộ tịch.
Chính phủ (2001), Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Chính phủ (2001), Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10 quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH 10 của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Chính phủ (2001), Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình.
Chính phủ (2002), Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài.
Chính phủ (2002), Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3 quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình đối với các dân tộc thiểu số.
Bùi Tường Chiểu (1975), Dân luật, Cuốn II, Khoa Luật Đại học Sài Gòn.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1978), Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nguyễn Thế Giai (1987), Chủ nghĩa Mác - Lênin với vấn đề hôn nhân và gia đình, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980.
Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1959.
Hoàng việt luật lệ năm 1812.
Lê Hương Lan (1996), "Tìm hiểu các qui định của pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam trong thời kỳ phong kiến", Tòa án nhân dân, (6).
V.I. Lênin (1977), "Chính quyền Xô viết và địa vị của phụ nữ", Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.
Luật đất đai (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Luật Gia đình của chế độ Sài Gòn cũ năm 1959.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1959.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1986.
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.
Phan Trung Lý (2000), "Vấn đề tài sản giữa vợ và chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình", Người đại biểu nhân dân, (114).
Phan Trung Lý (2000), "Vấn đề tài sản giữa vợ và chồng trong Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình sửa đổi", Nhà nước và Pháp luật, (3).
C. Mác - Ph. ăngghen (1983), Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Vũ Văn Mẫu, Lê Đình Chân (1968), Danh từ và Tài liệu Dân luật và Hiến luật, Tủ sách Đại học Sài Gòn.
Vũ Văn Mẫu (1970), Cổ luật Việt Nam lược khảo, Sài Gòn.
Hồ Chí Minh (1959), "Bài nói chuyện ngày 10/10/1959 tại Hội nghị cán bộ thảo luận Dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959", Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV (1978), Nxb Sự thật, Hà Nội.
Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nghị quyết số 03/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 7.
Nhà pháp luật Việt - Pháp (1998), Bộ luật dân sự của Cộng hòa Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989.
Quốc triều Hình luật (1991), Viện Sử học Việt Nam, Nxb Pháp lý, Hà Nội
Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10/1945.
Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950.
Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1950.
Sắc luật 15/64 Sài Gòn ngày 23/07/1964.
Thu Tâm (2001), "Nợ của ai?", Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày 16-1, tr. 6.
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2001), Số chuyên đề về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Đinh Văn Thanh, Trần Hữu Biền (1996), Hỏi đáp về pháp luật thừa kế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/1/2001.
Tòa án nhân dân tối cao (1972), Thông tư số 112/NCPL ngày 19/8.
Tòa án nhân dân tối cao (1978), Thông tư số 60/DS ngày 22/2.
Tòa án nhân dân tối cao (1998), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 1998.
Tòa án nhân dân tối cao (1999), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 1999.
Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 2000.
Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 2001.
Tòa án nhân dân tối cao (2002), Các văn bản hướng dẫn, giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, hành chính, lao động và tố tụng, Hà Nội.
Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 2002.
Trung tâm Từ điển học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (1998), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Từ điển Luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2002), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Trường Đào tạo các Chức danh tư pháp (2001), Giáo trình kỹ năng giải quyết các vụ án dân sự, tập 1, 2, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Đinh Trung Tụng, Nguyễn Bình, Lê Hương Lan, Võ Thị Thành (2000), Giới thiệu một số nội dung cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
Đinh Trung Tụng (2001), "Khái quát một số điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về Luật Hôn nhân và gia đình.
Đinh Trung Tụng (2001), "Những quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000", Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề về Luật Hôn nhân và gia đình.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, Hà Nội
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1996), Thông tin chuyên đề về Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp (1998), Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc, Nxb, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
In Sun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA2750.doc