Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON

LỜI MỞ ĐẦU Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO sau 8 năm đàm phán. Để chuẩn bị tham gia và chấp nhận những luật lệ chung cho hầu hết các nước trên thế giới, luật pháp Việt Nam đã có những thay đổi căn bản nhằm làm thu hẹp khoảng cách giữa luật Việt Nam và luật quốc tế, tạo sân chơi bình đẳng cho tất cả các bên tham gia vào hoạt động thương mại tại Việt Nam. Đáp ứng các yêu cầu đó, năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nhiều đạo luật mới

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong đó có bao gồm Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 thay thế cho Bộ luật dân sự và Luật thương mại cũ đồng thời chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Đây là một thay đổi lớn đối với toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về hợp đồng nói riêng. Hợp đồng mua bán hàng hóa là quan hệ trao đổi hợp pháp mà hầu hết các cá nhân tổ chức kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển. Việc kí kết, thực hiện hợp đồng phải tuân theo đúng các quy định của pháp luật mới có thể giúp gắn chặt mối quan hệ hợp tác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đồng thời góp phần tăng cường hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế. Với sự ra đời của các đạo luật nêu trên, quy định về pháp luật hợp đồng hiện nay đã khá đầy đủ và có hệ thống. Tuy nhiên việc áp dụng các chính sách mới trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng vẫn đang có nhiều vấn đề cần bàn luận. Bài viết “Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON” dưới đây trình bày một cách khái quát về tình hình áp dụng pháp luật trong việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa ở Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON. Bài viết này bao gồm ba phần chính: Chương I: Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa Chương II: Thực tiễn áp dụng chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON CHƯƠNG I: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA I. Khái quát chung về hợp đồng 1. Khái niệm Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. (Điều 388 Bộ luật dân sự 2005). Để quan hệ hợp đồng được xác lập một cách có hiệu lực, cần tồn tại các điều kiện sau: - Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; - Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; - Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện. - Trong trường hợp pháp luật có quy định về hình thức giao dịch thì phải tuân theo đúng hình thức đã quy định đó. (Điều 122 Bộ luật dân sự 2005) 2. Nội dung của hợp đồng Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa cụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng. Điều 402 Bộ luật dân sự quy định: “Tùy theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây: Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm; Số lượng, chất lượng; Giá, phương thức thanh toán; Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; Quyền, nghĩa vụ của các bên; Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; Phạt vi phạm hợp đồng; Các nội dung khác.” Trong tất cả các điều khoản nói trên, có những điều khoản mà ở hợp đồng này các bên không cần thỏa thuận nhưung ở một hợp đồng khác, các bên lại buộc phải thỏa thuận thì hợp đồng mới được coi là giao kết. Mặt khác, ngoài những nội dung cụ thể này, các bên còn có thể thỏa thuận để xác định với nhau thêm một số nội dung khác. Vì vậy, có thể phân chia các điều khoản trong nội dung của hợp đồng thành ba loại: 2.1. Điều khoản cơ bản Các điều khoản cơ bản xác định nội dung chủ yếu của hợp đồng. Đó là những điều khoản không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng. Nếu không thỏa thuận được những điều khoản đó, thì hợp đồng không thể giao kết được. Điều khoản cơ bản có thể do tính chất của từng hợp đồng quyết định hoặc do pháp luật quy định. Tùy theo từng loại hợp đồng mà điều khoản cơ bản có thể là đối tượng, giá cả, địa điểm… có những điều khoản đương nhiên là điều khoản cơ bản, vì không thỏa thuận tới nó sẽ không thể hình thành hợp đồng. Chẳng hạn, điều khoản về đối tượng luôn là điều khoản cơ bản trong hợp đồng mua bán tài sản. Ngoài ra, có những điều khoản mà vốn dĩ không phải là điều khoản cơ bản nhưng các bên thấy cần phải thỏa thuận được điều khoản đó mới giao kết hợp đồng thì những điều khoản này cũng là điều khoản cơ bản của hợp đồng sẽ giao kết. 2.2. Điều khoản thông thường Là những điều khoản được pháp luật quy định trước. Nếu khi giao kết hợp đồng, các bên không thỏa thuận những điều khoản này, thì vẫn coi như hai bên đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện như pháp luật đã định. Khác với điều khoản cơ bản, các điều khoản thông thường không làm ảnh hưởng tới quá trình giao kết hợp đồng, các bên có thể không cần thỏa thuận và không cần ghi vào văn bản hợp đồng những điều khoản mà pháp luật đã quy định nhưng các bên vẫn phải thực hiện các điều khoản đó. Vì vậy, nếu có tranh chấp về những nội dung này, thì quy định của pháp luật sẽ là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Ví dụ: Địa điểm giao tài sản là động sản (đối tượng của hợp đồng mua bán) là tại nơi cư trú của người mua (nếu trong hợp đồng, các bên không thỏa thuận về địa điểm giao tài sản). 2.3. Điều khoản tùy nghi Ngoài những điều khoản phải thỏa thuận vì tính chất của hợp đồng và những điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao kết hợp đồng các bên còn có thể thỏa thuận để xác định thêm một số tài khoản khác nhằm làm cho nội dung của hợp đồng được cụ thể hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Các điều khoản này được gọi là điều khoản tùy nghi. Điều khoản tùy nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng tự ý lựa chọn và thỏa thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên. Thông qua điều khoản tùy nghi, bên có nghĩa vụ được phép lựa chọn một trong những cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng, sao cho thuận lợi mà vẫn bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia. Như vậy, một điều khoản trong nội dung của hợp đồng có thể là điều khoản cơ bản, có thể là điều khoản thông thường nhưng cũng có thể là điều khoản tùy nghi. Chẳng hạn, địa điểm giao vật trong hợp đồng mua bán tài sản sẽ là điều khoản cơ bản, nếu lúc giao kết, các bên đã thỏa thuận cụ thể về nơi giao vật. Ngược lại, nó là điều khoản thông thường nếu các bên không thỏa thuận mà mặc nhiên thừa nhận và thực hiện theo quy định của pháp luật. Mặt khác, địa điểm trong hợp đồng mua bán sẽ là điều khoản tùy nghi nếu các bên đã thỏa thuận cho phép bên có nghĩa vụ được lựa chọn một trong nhiều nơi để thực hiện nghĩa vụ giao vật. Dựa vào tính chất của các điều khoản tùy nghi, người ta còn có thể phân chúng thành hai loại khác nhau: tùy nghi ngoài pháp luật và tùy nghi khác pháp luật. II. Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa 1. Khái niệm Hàng hóa theo nghĩa rộng được hiểu là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thỏa mãn những nhu cầu mang tính xã hội. Nhu cầu của con người phong phú và biến thiên liên tục vì vậy hàng hóa cũng luôn phát triển phong phú và đa dạng. Dựa vào đặc trưng từng loại mà hàng hóa được phân thành bất động sản (bao gồm: đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai) và động sản (là những tài sản không phải là bất động sản) hay phân thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình(quyền tài sản). Hàng hóa có thể là vật, là lao động của con người, là các quyền tài sản mang tính vô hình. Luật thương mại 2005 quy định, hàng hóa bao gồm: a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; b) Những vật gắn liền với đất đai. Khái niệm này đã được mở rộng so với quy định trong Luật thương mại 1997, và đã bao gồm hầu hết các đối tượng thực tế được mua bán trên thị trường. Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận(Khoản 8 điều 3 Luật Thương mại 2005). Pháp luật hợp đồng, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là bộ phận quan trọng của pháp luật thương mại ở bất kỳ quốc gia nào. Trước khi có Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 ra đời, pháp luật về hợp đồng của Việt Nam nằm rải rác trong rất nhiều văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao thấp khác nhau, thiếu tính hệ thống. Năm 2005 với sự ra đời của Bộ luật dân sự, Luật thương mại cùng một số văn bản pháp luật quan trọng khác đã tạo được sự thống nhất trong pháp luật hợp đồng, giải quyết các vấn đề chồng chéo giữa các văn bản pháp luật, cụ thể là: Các hoạt động có tính chất thương mại, nếu được quy định tại một luật riêng thì sẽ được điều chỉnh bởi luật đó; Các hoạt động không được quy định trong luật riêng khác thì sẽ được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự. (Điều 4 Luật thương mại 2005) Để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực, người tham gia giao kết hợp đồng phải là đại diện hợp pháp của các bên liên quan. Đại diện hợp pháp có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền (bằng văn bản), được quy định chi tiết trong Bộ luật dân sự 2005, điều 139 - 148 và trong các văn bản liên quan đến từng loại chủ thể kinh doanh. Luật thương mại 1997 quy định chủ thể của quan hệ mua bán hàng hóa phải là thương nhân hoặc có một bên là thương nhân. Điều luật này đã được bỏ vì nó trái với khái niệm hoạt động thương mại và mua bán hàng hóa của Luật thương mại 2005. 2. Ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa 2.1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng Khi xác lập một quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên tham gia phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. (Điều 389 Bộ luật dân sự 2005, điều 10, điều 11 Luật thương mại 2005) Thứ nhất là nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại. Trong quá trình xác lập quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên tham gia đều bình đẳng, không được lấy bất cứ một lý do nào về sự khác biệt để đối xử không bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng về năng lực pháp luật, bình đẳng giữa các hình thức sở hữu. Sự bình đẳng được thể hiện ở các điểm: - Bình đẳng trong việc tham gia vào quan hệ hợp đồng không phụ thuộc vào giới tính và các địa vị xã hội khác; - Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi hợp đồng được xác lập. Các bên phải thực hiện nghĩa vụ đối với những người có quyền; - Bình đẳng về trách nhiệm dân sự nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm tài sản đối với bên có quyền. Thứ hai là nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận: Các bên tham gia có quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại; các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. Mọi cam kết, thỏa thuận không có sự tự nguyện của các bên có thể bị coi là vô hiệu. 2.2. Hình thức hợp đồng Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Việc lựa chọn hình thức giao kết hợp đồng là do các bên giao kết hợp đồng tự lựa chọn trừ trường hợp đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 24 Luật thương mại 2005). 2.3. Thủ tục ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa 2.3.1. Đề nghị giao kết hợp đồng: * Khái niệm: Ðề nghị giao kết hợp đồng là sự bày tỏ ý chí của một người về việc mong muốn giao kết hợp đồng với một người khác trên một đối tượng và trong những điều kiện đã được người đề nghị xác định rõ. Ðề nghị được gửi đến một người đối tác xác định cụ thể.     * Hình thức đề nghị: Luật Việt Nam hiện hành không có quy định riêng về hình thức đề nghị. Vậy, việc đề nghị tuân thủ các quy định chung về hình thức giao dịch: đề nghị có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Ngay cả trong trường hợp hợp đồng phải được giao kết theo một hình thức nhất định, thì đề nghị giao kết cũng có thể được ghi nhận dưới hình thức khác  * Tính chất của đề nghị giao kết hợp đồng: Ðề nghị giao kết hợp đồng sẽ trở thành hợp đồng một khi người được đề nghị chấp nhận giao kết theo các điều kiện được đưa ra trong đề nghị đó. Bởi vậy:  - Ðề nghị giao kết hợp đồng phải chắc chắn, nghĩa là phải thể hiện ý chí dứt khoát của người đề nghị: hợp đồng sẽ phải được người đề nghị giao kết nếu lời đề nghị được chấp nhận. Không có tính chất này, thì cái gọi là đề nghị giao kết hợp đồng thực ra chỉ là một lời mời thương lượng - Ðề nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng và đầy đủ, nghĩa là phải ghi nhận tất cả các nội dung chủ yếu của hợp đồng để hợp đồng có thể được giao kết chỉ trên cơ sở tuyên bố chấp nhận giao kết của người được đề nghị.   * Hiệu lực của đề nghị giao kết trong thời gian chưa có sự chấp nhận đề nghị: Chừng nào đề nghị giao kết hợp đồng chưa được chấp nhận, thì hợp đồng chưa được giao kết. Tuy nhiên, theo Bộ luật dân sự 2005 - Ðiều 390, khi một bên đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ nội dung chủ yếu của hợp đồng và thời hạn trả lời, thì không được mời người thứ ba giao kết trong thời hạn chờ trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình. Trường hợp người được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị, thì coi như người này đã đưa ra đề nghị mới (Bộ luật dân sự 2005 Ðiều 395). Ðiều đó có nghĩa rằng đề nghị được đưa ra trước không còn hiệu lực.   2.3.2. Chấp nhận đề nghị * Khái niệm: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.      * Sự im lặng: Sự im lặng cũng được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp thuận (Bộ luật dân sự 2005 Ðiều 404 khoản 2). Cần lưu ý câu chữ của luật: nếu có thỏa thuận.... Một người gửi một đề nghị cho người khác và ghi rõ trong đề nghị rằng nếu người nhận đề nghị im lặng, thì hết thời hạn trả lời, người này coi như chấp nhận giao kết hợp đồng. Ðiều kiện đó hoàn toàn vô nghĩa nếu người nhận được đề nghị, trong thời hạn trả lời, không xác nhận với người đề nghị về việc chấp nhận điều kiện. Một người nhận được một đề nghị có ghi rõ thời hạn trả lời và báo cho người đề nghị biết rằng nếu hết thời hạn đó mà người nhận đề nghị vẫn im lặng, thì coi như người này chấp nhận đề nghị: trong trường hợp này, sự im lặng trở thành hình thức diễn đạt sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, theo sự thỏa thuận giữa hai bên liên quan.   * Hệ quả của việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: Việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, cũng như việc đề nghị, không ràng buộc người bày tỏ ý chí chừng nào ý chí được bày tỏ chưa được thông tin cho người đối tác: người chấp nhận đề nghị có quyền rút lại lời chấp nhận trong trường hợp người đề nghị chưa nhận được lời chấp nhận. Nhưng, khác với đề nghị, chấp nhận đề nghị, một khi đã được người đề nghị tiếp nhận, sẽ không thể được rút lại hay thay đổi theo ý chí đơn phương của người chấp nhận đề nghị, trừ trường hợp chấp nhận đề nghị được gửi trễ hạn và trở thành một đề nghị mới (Ðiều 397 khoản 1). Sự chấp nhận đề nghị, được thông tin cho người đề nghị trong thời hạn trả lời có tác dụng thiết lập sự ưng thuận của các bên về việc xác lập hợp đồng.       2.4. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa Luật thương mại 1997 quy định “Hợp đồng mua bán hàng hoá phải có các nội dung chủ yếu sau đây: - Tên hàng; - Số lượng; - Quy cách, chất lượng; - Giá cả; - Phương thức thanh toán; - Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng. Ngoài các nội dung chủ yếu quy định tại Điều này, các bên có thể thoả thuận các nội dung khác trong hợp đồng.” Luật thương mại 2005 đã bỏ quy định này do không cần thiết phải bắt buộc các bên phải thỏa thuận những nội dung nhất định. Hơn nữa, quy định này có thể gây ra nhiều hợp đồng vô hiệu ngoài mong muốn của các bên. Điều này cũng cho thấy Luật thương mại 2005 đã thực hiện nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại. Quyền tự do giao kết và thỏa thuận hợp đồng được pháp luật Việt Nam ghi nhận tại điều 57 Hiến pháp 1992, điều 4, điều 388 Bộ luật dân sự 2005. Như vậy, không những được tự do lựa chọn bạn hàng, các chủ thể kinh doanh còn được tự do thỏa thuận những nội dung trong hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật, được thỏa thuận tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Tùy thuộc vào từng loại hàng hóa, quy mô của quan hệ mua bán cũng như các điều kiện khác mà các bên thỏa thuận chi tiết những quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng cụ thể. Các quy định của pháp luật thương mại liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ có chức năng xác định những chuẩn mực chung nhất trong quan hệ giữa người mua, người bán và các bên liên quan, dựa vào đó các bên cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp không có thỏa thuận, cơ quan tài phán có thể dựa vào đó mà xác định quyền và nghĩa vụ cho các bên. Tuy vậy, để Hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực thì mục đích và nội dung các thỏa thuận trong Hợp đồng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Ví dụ: hàng hóa mà các bên mua bán không phải là hàng cấm kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam. Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh hiện nay được quy định trong Nghị định 11/1999/NĐ-CP ngày 03/3/1999 của Chính phủ. III. Chế độ thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa 1. Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa Sau khi được giao kết hợp pháp, hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực bắt buộc đối với các bên (Điều 4 Bộ luật dân sự 2005). Hợp đồng khi đó trở thành “luật”, các bên phải tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận, nếu không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện theo quy định của pháp luật (Điều 7 Bộ luật dân sự 2005). Trong quá trình thực hiện Hợp đông mua bán hàng hóa, các bên phải tuân thủ những nguyên tắc sau: * Thực hiện hợp đồng một các trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau. Tham gia hợp đồng là tự nguyện ràng buộc vào các nghĩa vụ. Các nghĩa vụ càng phức tạp và mang tính tổng thể thì cách thỏa thuận càng chi tiết nhằm dự liệu việc điều chỉnh các tình huống có thể xảy ra. Song dù có thỏa thuận chi tiết đến đâu, vào thời điểm ký kết, người soạn thảo hợp đồng cũng không thể lường trước được tất cả những tình huống có thể xảy ra, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện hợp đồng sau này. Do vậy, để việc thực hiện hợp đồng diễn ra phù hợp với lợi ích của các bên đối tác, các bên cần có nghĩa vụ thông báo cho nhau những thông tin liên quan, hợp tác chặt chẽ, thương lượng, hòa giải tìm các biện pháp thỏa đáng đế giải quyết những vấn đề mới xuất hiện (ví dụ điều chỉnh lại thời điểm giao hàng, điều chỉnh lại giá, xử lý hàng kém phẩm chất…). * Thực hiện hợp đồng đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác. Hợp đồng sau khi được giao kết hợp pháp thì phải được thực hiện. Người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận tiền, người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng theo thỏa thuận. Các nghĩa vụ này phải được thực hiện đúng và đầy đủ. * Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 412 Bộ luật dân sự 2005). Các bên không những có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ các thỏa thuận trong Hợp đồng mua bán hàng hóa, mà khi thực hiện các nghĩa vụ đó không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên thứ ba. Trong mua bán hàng hóa, nguyên tắc này được thể hiện ở chỗ, bên bán có nghĩa vụ đảm bảo quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba; Hàng hóa đó phải hợp pháp; Việc chuyển giao hàng hoá là hợp pháp (Điều 45 Luật thương mại 2005). 2. Quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa 2.1. Nghĩa vụ giao hàng của người bán Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng (Điều 24 Luật thương mại 2005). Nói một cách khái quát nhất, nghĩa vụ giao hàng của người bán được thực hiện, nếu người bán đã thực hiện tất cả các hành vi cần thiết để hàng hóa được chuyển sang cho người mua tự do định đoạt. 2.1.1 Giao đúng loại hàng: Người bán không được giao các loại hàng khác hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác thay thế các loại hàng đã thỏa thuận, nếu bên mua không chấp nhận. Để tránh tranh chấp về loại hàng, điều khoản tên hàng trong Hợp đồng mua bán hàng hóa cần được soạn thảo chi tiết: Tên hàng thường được ghi bằng một danh từ thông dụng và rõ nghĩa nhất, nếu có nguy cơ danh từ đó có thể hiểu theo nhiều nghĩa không đồng nhất, thì kèm theo tên hàng cần ghi thêm tên khoa học, công dụng, chức năng và mục đích sử dụng, nơi sản xuất, nguồn gốc, nhãn hiệu của hàng hóa. Nếu hàng hóa được giao không đúng chủng loại, không phù hợp với hợp đồng, hầu quả pháp lý được quy định tại Điều 68 Luật thương mại 1997, điều luật này (đáng ra là một quy định cụ thể, phù hợp với những đặc thù của quan hệ mua bán thương mại) lại chung chung hơn cả Điều 430 của Bộ luật dân sự 1995. Bất cập này đã được sửa chữa bằng Điều 40 Luật thương mại 2005. Theo quy định đó, khi hàng hóa được giao không đúng chủng loại: “Trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác, trách nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp với hợp đồng được quy định như sau: - Bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hoá nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về những khiếm khuyết đó; - Trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, trong thời hạn khiếu nại theo quy định của Luật này, bên bán phải chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuyết nào của hàng hoá đã có trước thời điểm chuyển rủi ro cho bên mua, kể cả trường hợp khiếm khuyết đó được phát hiện sau thời điểm chuyển rủi ro; - Bên bán phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết của hàng hóa phát sinh sau thời điểm chuyển rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên bán vi phạm hợp đồng.” Giao hàng đúng số lượng: Tùy theo đặc điểm của hàng hóa, các bên thỏa thuận cụ thể số lượng, đơn vị đo lường, cách thức đo lường (ví dụ trọng lượng tịnh, trọng lượng cả bì), mức độ dung sai, mức độ hao hụt tự nhiên. Hậu quả pháp lý của việc giao hàng thừa hoặc giao hàng thiếu được quy định tại Điều 41, 43 Luật thương mại 2005: “Trường hợp bên bán giao thừa hàng thì bên mua có quyền từ chối hoặc chấp nhận số hàng thừa đó; Trường hợp bên mua chấp nhận số hàng thừa thì phải thanh toán theo giá thoả thuận trong hợp đồng nếu các bên không có thoả thuận khác.” 2.1.2. Giao hàng đúng địa điểm: Việc giao hàng có thể được tiến hành tại cửa hàng, tại nơi sản xuất, tại trụ sở của người bán, tại trụ sở của người mua hay một địa điểm bất kỳ nào mà các bên thỏa thuận. “Trường hợp không có thoả thuận về địa điểm giao hàng thì địa điểm giao hàng được xác định như sau: a) Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hoá đó; b) Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hoá thì bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên; c) Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên bán phải giao hàng tại địa điểm đó; d) Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng tại địa điểm kinh doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại nơi cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng mua bán.” (Điều 35 Luật thương mại 2005) Điều luật này đã xóa bỏ phần nào sự cứng nhắc của Luật thương mại 1997 quy định nếu không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng thì hợp đồng được coi như là chưa giao kết. 2.1.3. Giao hàng đúng thời hạn: Tương tự như vậy thời hạn giao hàng theo quy định của Luật thương mại 1997 cũng thuộc những nội dung chủ yếu của Hợp đồng mua bán hàng hóa, mà nếu thiếu thỏa thuận về nó trong hợp đồng sẽ được coi như là chưa giao kết, Điều 50 Luật thương mại 1997. Luật thương mại 2005 quy định trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết hợp đồng(Điều 37). Tùy theo từng loại hàng, các bên có thể thỏa thuận hàng được giao toàn bộ hoặc từng phần theo lịch trình nhất định. Nếu người bán hàng giao hàng sau thời hạn thỏa thuận, tùy vào từng loại hàng khác nhau mà hậu quả pháp lý cũng khác nhau. Nếu hàng hóa được dùng cho một thời điểm nhất định mà sau thời điểm đó trở nên không cần thiết nữa (ví dụ bánh kẹo, đồ chơi phục vụ trực tiếp cho trẻ em dịp Tết Trung Thu, hàng hóa đặc biệt phục vụ cho lễ Noel, cho Tết Nguyên Đán); bên mua có quyền từ chối tiếp nhận hàng giao chậm và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong những trường hợp khác, bên mua thường gia hạn hợp lý để bên bán có thể thực hiện được nghĩa vụ giao hàng và yêu cầu bên bán đền bù thiệt hại hoặc trả phạt hợp đồng theo quy định liên quan đến trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng. 2.1.4. Giao hàng đúng phương thức: Tùy theo tính chất, quy mô và các điều kiện cụ thể mà các bên thỏa thuận cụ thể về phương thức giao hàng. Hàng có thể được giao trực tiếp cho người mua tại trụ sở, nơi bán hoặc nơi sản xuất của người bán, được giao cho người vận chuyển là chủ phương tiện vận chuyển như đường sắt, đường thủy, đường bộ, đường hàng không. Phương thức giao hàng (bằng phương tiện gì, bên nào chịu cước phí vận chuyển và rủi ro khi hàng hóa thất thoát hư hỏng) là một trong những điều kiện cơ sở giao hàng, quyết định trực tiếp đến giá bán hàng hóa, cho nên thường được bên bán ấn định trước hoặc thỏa thuận chi tiết với bên mua. 2.1.5. Giao hàng đúng chất lượng: Người bán có nghĩa vụ giao hàng cho người mua đúng chất lượng đã thỏa thuận. Giao hàng đúng quy cách, bao bì: Tuy không phải là chất lượng song quy cách, bao bì ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phảm và khả năng tiêu thụ của hàng hóa. Nếu không được quy định cụ thể thì người bán phải giao hàng với bao bì thường dùng cho loại hàng này, đảm bảo an toàn, có tính đến khả năng chuyển tải trong điều kiện bốc dỡ vận chuyển thông thường phù hợp với thời gian và phương tiện vận tải. 2.2. Quyền kiểm tra và “trách nhiệm” thông báo về hàng hóa không phù hợp với hợp đồng của người mua Người mua hoặc đại diện của người mua có quyền tham dự việc kiểm tra chất lượng hàng hóa trước khi giao hàng, nêu các bên có thỏa thuận. Sau khi được thông báo mời dự kiểm tra mà người mua vắng mặt thì người bán có quyền giao hàng theo thỏa thuận. Sau khi hàng được vận chuyển đến nơi giao hàng, người mua có quyền kiểm tra hàng trong một thời hạn hợp lý. Tùy theo đặc tính của từng loại hàng mà thời hạn và cách thức kiểm tra cũng khác nhau. (điều 44 Luật thương mại 2005) Người mua phải khẩn trương kiểm tra hàng trong một thời gian hợp lý, nếu phát hiện thấy hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì kịp thời thông báo cho người bán. Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khiếm khuyết của hàng hoá mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã biết hoặc phải biết nhưng không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi kiểm tra hàng hoá. 2.3. Chuyển quyền sở hữu và chuyển rủi ro Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác, quyền sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển giao. (Điều 62 Luật thương mại 2005) Về nguyên tắc, địa điểm và thời gian quyền sở hữu hàng hóa được chuyển từ người bán sang người mua do các bên tự do thỏa thuận. Bên bán thường ràng buộc việc chuyển giao quyền sở hữu với điều kiện bên mua đã thanh toán đầy đủ tiền hàng. Trong trường hợp này thời điểm chuyển quyền sở hữu có thể không đồng nhất với thời điểm giao hàng. Chỉ khi các bên không thỏa thuận và pháp luật không quy định thì quy định của điều 62 Luật thương mại 2005 mới được áp dụng. Khi đó thời điểm chuyển quyền sở hữu là thời điểm giao hàng. Gắn liền với thời điểm chuyển quyền sở hữu là trách nhiệm gánh chịu rủi ro đối với hàng hóa (ví dụ hàng thất thoát, hư hỏng, tiêu hao trên đường vận chuyển hoặc lưu kho). Vấn đề chuyển rủi ro được quy định từ điều 57 đến điều 61 Luật thương mại 2005. Nếu hàng hóa đã sẵn sàng để chuyển giao, song người mua chậm thực hiện nghĩa vụ nhận hàng, thì phải bồi thường thiệt hại cho người bán và phải chịu mọi rủi to xảy ra kể từ thời điểm chậm tiếp nhận hàng, nếu trong hợp đồng các bên không có thỏa thuận khác. Trường hợp này được gọi là rủi ro chuyển sớm, tương tự như quy định của điều 69 Công ước Viên 1980. 2.4. Nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán của người mua Nếu việc giao hàng và chuyển quyền sở hữu hàng hóa là nghĩa vụ cơ bản của người bán thì nhận hàng và thanh toán tiền mua hàng là nghĩa vụ cơ bản tương xứng của người mua. Nhận hàng là một nghĩa vụ pháp lý của người mua mà việc vi phạm nghĩa vụ đó có thể kéo theo một số hậy quả pháp lý được quy định trong Luật thương mại. Nếu người bán đã sẵn sàng giao hàng mà người mua không nhận thì người bán phải có nghĩa vụ áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo quản tài sản và yêu cầu bên mua thanh toán chi phí hợp lý. Người mua phải chịu rủi to từ thời điểm chậm tiếp nhận hàng. Luật thương mại 2005 đã bổ sung điều 56 về nghĩa vụ nhận hàng của bên mua nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên bán: “Bên mua có nghĩa vụ nhận hàng theo thoả thuận và thực hiện những công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng.” Người mua phải thanh toán tiền mua hàng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu người mua chậm thanh toán tiền thì người bán có quyền đòi tiền lãi trên số tiền trả chậm theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả. Nếu các bên không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không quy định khác. 2.5. Quyền ngừng thực hiện nghĩa vụ của người bán, người mua Nếu có bằng chứng về việc một bên có hành vi lừa dối hoặc không có khả năng thực tế để thực hiện nghĩa vụ, thì ._.bên kia có quyền đình chỉ việc thực hiện nghĩa vụ tương ứng của mình. (Điều 415 Bộ luật dân sự 2005) Điều 51 Luật thương mại quy định cụ thể về quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng của bên mua: “Trừ trường hợp có thoả thuận khác, việc ngừng thanh toán tiền mua hàng được quy định như sau: 1. Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh toán; 2. Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết; 3. Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán đã khắc phục sự không phù hợp đó; 4. Trường hợp tạm ngừng thanh toán theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này mà bằng chứng do bên mua đưa ra không xác thực, gây thiệt hại cho bên bán thì bên mua phải bồi thường thiệt hại đó và chịu các chế tài khác theo quy định của Luật này.” IV. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa Trách nhiệm pháp lý thường được hiểu là sự áp dụng chế tài cho một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng một nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ hợp đồng, nếu vi phạm nghĩa vụ, bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi mang tính vật chất, chính vì vậy thuật ngữ trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng được sử dụng rộng rãi. Điều kiện để xuất hiện trách nhiệm vật chất trước hết là sự vi phạm hợp đồng, được hiểu là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng. Căn cứ để xác định trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng đó là hành vi vi phạm hợp đồng; thiệt hại; mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra; lỗi. Xác định thiệt hại: việc xác định thiệt hại là nhiệm vụ của bên bị vi phạm.Bên bị vi phạm phải có nhiệm vụ xác định xem bên vi phạm đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nội dung hợp đồng như thế nào và phải chứng minh là đã có thiệt hại xảy ra đối với mình. Thiệt hại xảy ra đối với bên bị vi phạm phải là thiệt hại về tài sản và là thiệt hại có thực, có thể tính toán được. Cụ thể hơn, những thiệt hại có thực tức là những thiệt hại cho bên bị vi phạm được tính toán dựa trên: - Tổn thất: mất mát có thực về mặt tài sản do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra - Chi phí: những chi phí hay những khoản bên bị vi phạm đã phải chi thêm ra để ngăn ngừa hạn chế thiệt hại (chi phí hợp lý). - Thất thu: những khoản đáng lẽ thu được nhưng bị bỏ lỡ và những mất mát trực tiếp ( bên bị vi phạm phải chứng minh được thiệt hại một cách xác đáng). Bên bị vi phạm cần phải chứng minh mình đã tiến hành những biện pháp cần thiết mà mình có thể làm được để ngăn ngừa hạn chế thiệt hại. Bên bị vi phạm cũng được tính vào thiệt hại những khoản bồi thường thiệt hại cho bên thứ ba mà vốn là hậu quả trực tiếp của việc vi phạm hợp đồng này gây ra. Mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra: hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân tất yếu của thiệt hại và thiệt hại phải là hậu quả tất yếu của hành vi vi phạm hợp đồng. Tức là hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại phải có mối quan hệ nhân quả với nhau Lỗi: Lỗi là trạng thái tâm lý của chủ thể đã thực hiện đối với hành vi bị coi là trái pháp luật cũng như đối với hậu quả của hành vi đó. Lỗi có thể là lỗi vô ý hoặc cố ý. Lỗi trong các quan hệ thương mại cũng giống như lỗi trong các quan hệ pháp luật dân sự là lỗi suy đoán. Khi một bên vi phạm hợp đồng đã kí kết thì pháp luật suy ra bên vi phạm là có lỗi, muốn được coi là không có lỗi, không phải chịu trách nhiệm thì bên vi phạm phải tự chứng minh được là mình không có lỗi. Tùy theo từng loại nghĩa vụ hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận hoặc bên bị vi phạm có thể lựa chọn các loại chế tài sau đây: 1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm. Trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều này thì bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác để thay thế theo đúng loại hàng hoá, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải trả khoản tiền chênh lệch và các chi phí liên quan nếu có; có quyền tự sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ và bên vi phạm phải trả các chi phí thực tế hợp lý. Bên bị vi phạm phải nhận hàng, nhận dịch vụ và thanh toán tiền hàng, thù lao dịch vụ, nếu bên vi phạm đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp bên vi phạm là bên mua thì bên bán có quyền yêu cầu bên mua trả tiền, nhận hàng hoặc thực hiện các nghĩa vụ khác của bên mua được quy định trong hợp đồng và trong Luật này. 2. Phạt vi phạm Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm đã được quy định. Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. 3. Bồi thường thiệt hại Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: - Có hành vi vi phạm hợp đồng; - Có thiệt hại thực tế; - Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Để được bồi thường thiệt hại, bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được. Một điểm khác biệt quan trọng của Luật thương mại 2005 so với Luật thương mại 1997 là mối quan hệm giữa chế tài bồi thường thiệt hại và chế tài phạt vi phạm. Luật thương mại 1997 quy định “Trong trường hợp các bên không có thoả thuận khác thì bên có quyền lợi bị vi phạm được lựa chọn một trong hai chế tài là phạt vi phạm hoặc buộc bồi thường thiệt hại đối với cùng một vi phạm.” Luật thương mại 2005 bổ sung thêm: “1. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. 2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.” Theo quy định mới, chế tài bồi thường thiệt hại luôn được áp dụng khi có vi phạm hợp đồng còn chế tài phạt vi phạm chỉ áp dụng khi có thỏa thuận phạt vi phạm và mức phạt không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. 4. Tạm ngừng thực hiện, đình chỉ thực hiện, hủy hợp đồng (Điều 308 - 315 Luật thương mại 2005) Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng; - Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện thì hợp đồng vẫn còn hiệu lực và bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật này. Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: - Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng; - Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Khi hợp đồng bị đình chỉ thực hiện thì hợp đồng chấm dứt từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp đồng: Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng; Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực. Chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây (Điều 312 Luật thương mại 2005): - Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng; - Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Trường hợp có thoả thuận về giao hàng, cung ứng dịch vụ từng phần, nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc giao hàng, cung ứng dịch vụ và việc này cấu thành một vi phạm cơ bản đối với lần giao hàng, cung ứng dịch vụ đó thì bên kia có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với lần giao hàng, cung ứng dịch vụ. (Điều 313 Luật thương mại 2005) Sau khi huỷ bỏ hợp đồng, hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau khi huỷ bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp. Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời; trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền. Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật (Điều 314 Luật thương mại 2005) Bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc tạm ngừng, đình chỉ hoặc huỷ bỏ hợp đồng. Trong trường hợp không thông báo ngay mà gây thiệt hại cho bên kia thì bên tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng phải bồi thường thiệt hại.(Điều 315 Luật thương mại 2005) V. Giải quyết tranh chấp Khi có vi phạm hợp đồng đối với nhau các bên có thể căn cứ vào các quy định chung của pháp luật để tự giải quyết, khi không tự giải quyết được với nhau thì có nghĩa là xuất hiện tranh chấp hợp đồng. Khi đó hai bên sẽ đưa ra pháp luật giải quyết tại các cơ quan tổ chức tài phán. Cụ thể hơn, để giải quyết tranh chấp hợp đồng thì có thể có các hình thức giải quyết sau: Thương lượng trực tiếp giữa các bên Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc một cá nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải. Giải quyết tại trọng tài hoặc tòa án Chỉ khi các bên không tự thương lượng hoặc không hòa giải được thì khi đó mới đưa ra các cơ quan tài phán giải quyết. Pháp luật nước ta hiện nay phù hợp với hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, phù hợp với các thông lệ quốc tế có hai thủ tục giải quyết tranh chấp trong kinh doanh đó là giải quyết tại tòa án hoặc giải quyết tại trọng tài. Ý nghĩa của của nó là nhằm giữ gìn trật tự ổn định trong hoạt động kinh doanh, môi trường kinh doanh và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong họat động kinh doanh. 1. Thương lượng trực tiếp giữa các bên Thương lượng trực tiếp là việc các bên đương sự cùng nhau trao đổi, đấu tranh, nhân nhượng và thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Thương lượng trực tiếp có thể tiến hành bằng cách 2 bên gặp nhau để thỏa thuận, thương lượng hoặc một bên gửi đơn khiếu nại cho bên kia và bên kia trả lời đơn khiếu nại. 2. Hòa giải Hòa giải là phương pháp giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự thông qua người thứ ba gọi là hòa giải viên. Hòa giải viên đóng vai trò là người trung gian, tiến hành họp kín với riêng từng bên hoặc họp chung với cả hai bên để hiểu kỹ nội dung tranh chấp, lý giải phân tích cho các bên thấy rõ lợi ích của mình và lợi ích của bên kia nhằm giúp các bên tìm ra một giải pháp tốt nhất giải quyết tranh chấp một cách hợp lý, hợp tình. 3. Trọng tài - Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài khuôn khổ tòa án, theo đó các bên lựa chọn đưa vụ tranh chấp cho người thứ ba trung lập giải quyết. Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi chính bản thân các bên có liên quan tôn trọng và thừa nhận quyền phán quyết của nó. Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài.Quyết định của trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ trường hợp tòa án hủy quyết định của trọng tài theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, nếu một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. - Thỏa thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản, thỏa thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên, giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản. 4. Tòa án Việc giải quyết các tranh chấp còn được tiến hành bằng cách đi kiện ra tòa án, người có quyền lợi bị vi phạm sau khi thương lượng không thành công hoặc bỏ qua bước thương lượng, có thể đi kiện ra tòa để nhờ tòa án xét xử tranh chấp nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình. Từ đó có thể gọi đi kiện là phương pháp giải quyết tranh chấp bằng xét xử tại tòa án. CHƯƠNG II: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN KỸ THUẬT NỀN MÓNG VÀ CÔNG TRÌNH NGẦM FECON I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON 1. Giới thiệu chung Tên công ty : Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm Tên giao dịch đối ngoại : Foundation Engineering and Underground Construction Joint-stock Company Tên giao dịch viết tắt : FECON.,JSC Người đại diện : Phạm Việt Khoa (chủ tịch hội đồng quản trị) Trụ sở công ty : Số 112 B1 Thành Công, phường Thành Công, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Điện thoại : (844) 7721979 Fax : (844) 7723211 Email : Fecon@fpt.com Số ĐKKD : 0103004661 Mã số thuế : 0101502599 Công ty Cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON được thành lập ngày 18 tháng 06 năm 2004 dưới hình thức là công ty trách nhiệm hữu hạn với số vốn điều lệ là 5.000.000.000 đồng. Sau hai năm hoạt động một cách có hiệu quả, Hội đồng thành viên Công ty đã quyết định đăng ký thay đổi chuyển hình thức hoạt động của Công ty sang công ty cổ phần và tăng số vốn điều lệ lên tới 10.000.000.000 đồng. 2. Hình thức sở hữu Công ty Cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON được thành lập theo Luật doanh nghiệp với nguồn vốn 100% ngoài quốc doanh huy động từ các cổ đông. Hiện nay tổng số vốn điều lệ của Công ty là 10.000.000.000đ (mười tỷ đồng). Vốn điều lệ của Công ty được chia thành 10.000 cổ phần phổ thông do các cổ đông sáng lập nắm giữ. Số cổ phần của từng thành viên sáng lập góp cụ thể như sau: Trần Trọng Thắng góp 993.000.000 đồng, chiếm 993 cổ phần. Hà Thế Lộng góp 1.410.000.000 đồng, chiếm 1410 cổ phần. Nguyễn Chí Công góp 426.000.000 đồng, chiếm 426 cổ phần. Hà Thế Phương góp 1.380.000.000 đồng, chiếm 1380 cổ phần. Hà Cửu Long góp 935.000.000 đồng, chiếm 935 cổ phần. Hà Thị Bích góp 851.000.000 đồng, chiếm 851 cổ phần. Bùi Thanh Tùng góp 149.000.000 đồng, chiếm 149 cổ phần. Phạm Quốc Hùng góp 492.000.000 đồng, chiếm 492 cổ phần. Hà Thị Bốn góp 365.000.000 đồng, chiếm 365 cổ phần. Nguyễn Quang Hải góp 427.000.000 đồng, chiếm 427 cổ phần. Hà Thị Chín góp 355.000.000 đồng, chiếm 355 cổ phần. Phạm Việt Khoa góp 1.706.000.000 đồng, chiếm 1706 cổ phần. Việc tăng giảm vốn điều lệ do đại hội đồng cổ đông quyết định theo quy định của pháp luật và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận. 3. Cơ cấu tổ chức của Công ty FECON 3.1. Đại hội đồng cổ đông Đại hội đồng cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của Công ty, gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết. Đại hội đồng cổ đông họp thường niên mỗi năm một lần vào quý I hàng năm. Đại hội đồng cổ đông quyết định các vấn đề quan trọng nhất của công ty như: quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán 3.2. Hội đồng quản trị Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Hiện nay, Hội đồng quản trị của công ty gồm có 5 thành viên: - Ông Trần Trọng Thắng - Ông Hà Thế Lộng - Ông Nguyễn Chí Công - Ông Hà Thế Phương - Ông Phạm Việt Khoa (chủ tịch hội đồng quản trị) 3.3. Ban kiểm soát Ban kiểm soát có 3 thành viên do Đại hội đồng cổ đông bầu ra, có nhiệm kỳ 4 năm. Ban kiểm soát có nhiệm vụ kiểm tra các hoạt động quản lý, điều hành các hoạt động kinh doanh của công ty và báo cáo với Đại hội đồng cổ đông về các vấn đề trên. 3.4. Tổng Giám đốc Tổng giám đốc là đại diện theo pháp luật của công ty, do Hội đồng quản trị bổ nhiệm, là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. 3.5. Các bộ phận khác * Phòng Kế toán - Tài chính có nhiệm vụ phối hợp với các Phòng Kinh doanh, Phòng Kỹ thuật, Phòng Kế hoạc và thiết bị trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty; Căn cứ vào giá trị thanh, quyết toán hàng tháng của các công trình do Phòng Kinh doanh lập để tính toán và thu hồi công nợ. Đề xuất phương án giải quyết đặc biệt đối với trường hợp nợ khó đòi; Kiểm tra các khoản chi phí của các phòng ban khác; Theo dõi và kiểm tra sổ sách kế toán một cách hợp lệ, theo đúng chế độ và luật pháp do nhà nước ban hành; Chịu trách nhiệm về tình hình thu chi tài chính cũng như việc cung cấp chính xác các thông tin tài chính cho các bộ phận quản lý cấp trên. * Phòng Kinh doanh có nhiệm vụ tổ chức thực hiện, quản lý, điều hành các hoạt động kinh doanh của công ty; Phối hợp với các Phòng Kế toán tài chính, Phòng Kỹ thuật, Phòng Kế hoạch và thiết bị trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty; Lập báo giá, dự toán, soạn thảo Hợp đồng kinh tế (Trừ các hợp đồng thuê thiết bị và thầu phụ); Lập bảng thanh toán, quyết toán và thanh lý hợp đồng (dựa trên các biên bản nghiệm thu hoặc bản tổng hợp khối lượng thực hiện do phòng Kỹ thuật cung cấp); Tính toán giá trị sản lượng 6 tháng đầu năm và 6 tháng cuối năm. * Phòng Kỹ thuật có nhiệm vụ tổ chức điều hành và quản lý kỹ thuật công trình tại hiện trường và nội nghiệp; Lập các biện pháp tổ chức thi công, đề cương thí nghiệm, đề cương khảo sát; Quản lý kỹ thuật hiện trường, nghiệm thu xác nhận khối lượng; Lập báo cáo kết quả thí nghiệm, báo cáo kết quả khảo sát, hồ sơ nghiệm thu, hồ sơ hoàn công; Chuyển biên bản nghiệm thu hoặc bảng tổng hợp khối lượng thực hiện của các công trình cho Phòng kinh doanh để lập bảng thanh toán. * Phòng kế hoạch và thiết bị có nhiệm vụ tổ chức thực hiện, quản lý, điều động thiết bị của công ty và nhà thầu phụ, an toàn lao động và bảo hộ lao động; Quản lý thời gian làm việc và khối lượng thực hiện của các thiết bị thi công trên cơ sở số liệu cung cấp của các Tổ trưởng, Xe trưởng hoặc Chủ nhiệm công trình; Lập bảng theo dõi, thống kê chi tiết các thiết bị của công ty, báo cáo kiểm kê thiết bị 6 tháng một lần; Thương thảo hợp đồng với nhà thầu phụ, soạn thảo Hợp đồng thầu phụ hoặc hợp đồng giao khoán; Tổng hợp khối lượng thực hiện, lập bảng thanh toán-quyết toán, thanh lý hợp đồng cho các nhà thầu phụ; Căn cứ vào khối lượng thực hiện và quy chế trả lương của công ty để lập bảng thanh toán lương khoán cho Chủ nhiệm công trình và các Tổ - Đội thi công trực tiếp. * Ban thư ký & VP: Giúp việc cho Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc về các công việc và thủ tục hành chính; Tổ chức, quản lý các hoạt động thăm viếng, vui chơi giải trí thuộc phạm vi công ty; Chuẩn bị phòng họp, thông báo họp, lập thông báo nội dung các cuộc họp cấp công ty; Chịu trách nhiệm quản lý, cung ứng, kiểm soát sử dụng các thiết bị văn phòng và văn phòng phẩm; Biên dịch tài liệu và phiên dịch. * Các Tổ - Đội thi công trực tiếp bao gồm: 5 đội thi công xử lý nền đất yếu. 5 đội thi công đóng cọc. 10 đội thi công ép cọc. Xưởng sản xuất cọc BTCT/ 3 đội khảo sát. Trung tâm thí nghiệm công trình được Bộ xây dựng công nhận khả năng thực hiện các phép thử theo quyết định số 1087/QĐ-BXD ngày 31 tháng 7 năm 2006. SƠ ĐỒ HỆ THỐNG QUẢN LÝ Đại hội đồng cổ đông Ban Thư ký & VP Tổng giám đốc Ban Kiểm soát Giám đốc Tài chính Giám đốc Kinh doanh và Kỹ thuật Giám đốc sản xuất Các chuyên gia: kỹ thuật, tài chính, kinh doanh Phòng Kế toán tài chính Phòng Kinh doanh Phòng Kỹ thuật Phòng Kế hoạch & Thiết bị Hội đồng quản trị Các tổ - đội thi công trực tiếp 4. Lĩnh vực hoạt động của công ty FECON Ngành nghề kinh doanh: Thi công xây dựng nền móng và công trình ngầm phục vụ xây dựng nhà cao tầng, công trình công nghiệp, công trình giao thông, công trình thuỷ lợi; Xử lý nền đất yếu các công trình giao thông, công nghiệp, thuỷ lợi. Thi công hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp và khu đô thị; Thí nghiệm khả năng chịu tải nền móng công trình bằng phương pháp tải trọng tĩnh và tải trọng biến dạng lớn (PDA); Thí nghiệm kiểm tra tính nguyên dạng và tính đồng nhất của các móng và các cấu kiện bê tông cốt thép bằng phương pháp siêu âm (sonic) và phương pháp va đập biến dạng nhỏ (PIT); Khảo sát địa chất, khảo sát địa hình,khảo sát địa chất thuỷ văn công trình; Thực hiện các thí nghiệm địa kỹ thuật phục vụ khảo sát thiết kế, quản lý chất lượng và quan trắc trong thi công nền móng và công trình ngầm (không bao gồm dịch vụ thiết kế công trình); Sản xuất và buôn bán các loại cấu kiện bê tông cốt thép, thép phục vụ xây dựng nền móng và công trình ngầm; Sản xuất và buôn bán vật liệu xây dựng; Ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới xây dựng nền móng và công trình ngầm vào thực tế xây dựng tại Việt Nam; Buôn bán: vật tư, vật liệu, thiết bị, công nghệ thuộc hai lĩnh vực xây dựng và công nghiệp; Vận tải hàng hóa và vận chuyển hành khách; Kinh doanh dịch vụ cho thuê xe ô tô./ Hiện tại, công ty đã kinh doanh hầu hết các ngành nghề đã đăng ký kinh doanh. 5. Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty FECON Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty (đơn vị: đồng) Trích báo cáo kết quả kinh doanh năm 2004 - 2005 Năm Chỉ tiêu 6 tháng đầu năm 2004 Năm 2005 Doanh thu bán hàng & cung cấp dịch vụ 1 375 576 968 11 109 242 186 Lợi nhuận trước thuế 12 473 802 102 150 700 Thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp 3 492 665 28 602 196 Lợi nhuận sau thuế 8 981 137 73 548 504 Tỷ suất sinh lời của Công ty1 Năm Chỉ tiêu 2004 2005 Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên doanh thu 0.9% 0.92% Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu 0.6% 0.66% Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tài sản 0.2% 0.78% Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tài sản 0.1% 0.56% Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên VCSH 0.1% 1.45% * Khối lượng công việc đã thực hiện trong hai năm 2004 - 2005: Thi công cọc bê tông cốt thép cho 13 công trình. Thi công xử lý nền đất yếu cho 8 công trình. Khảo sát địa chất và địa hình của 12 công trình. Thực hiện thí nghiệm kiểm tra sức chịu tải của cọc cho 19 công trình Nhìn chung, từ khi thành lập đến nay, tình hình hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng đi lên. Ngay từ khi mới thành lập, hoạt động của công ty đã sớm đi vào quỹ đạo và sinh lời. Doanh thu của năm 2005 đã tăng lên đáng kể so với năm 2004. II. Thực tiễn ký kết và thực tiễn áp dụng hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON 1. Các nguyên tắc ký kết và thực hiện hợp đồng 1.1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng Nguyên tắc ký kết hợp đồng của FECON căn cứ theo Bộ luật dân sự 2005, Luật Thương mại 2005, Luật xây dựng 2003 và một số các văn bản quy phạm pháp luật khác. - Nguyên tắc tự nguyện: Công ty và đối tác ký kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận cam kết của các bên. Khi xác lập quan hệ hợp đồng, các bên tự nguyện thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí nhằm đạt tới mục đích nhất định. - Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi: hai bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng dựa trên nguyên tắc bình đẳng và đảm bảo lợi ích của cả hai bên. - Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản và không trái pháp luật: Khi tham gia quan hệ hợp đồng mỗi bên phải tự mình gánh vác trách nhiệm về tài sản gồm phạt hợp đồng và bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm chế độ hợp đồng. Việc ký kết hợp đồng phải hợp pháo không được trái pháp luật, mọi thỏa thuận trong hợp đồng phải hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam 1.2. Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng Sau khi hợp đồng được ký kết và có giá trị pháp luật, các bên có trách nhiệm chấp hành các nghĩa vụ của mình theo những thỏa thuận trong hợp đồng. Khi chấp hành các nghĩa vụ đó phải tuân theo các nguyên tắc sau: Nguyên tắc chấp hành thực hiện: Nguyên tắc này có nghĩa vụ hợp đồng về mặt đối tượng, không được thay thế việc thực hiện đó bằng việc trả một khoản tiền nhất định. Nguyên tắc chấp hành đúng: Là việc thực hiện đầy đủ các điều khoản đã cam kết. Chấp hành thực hiện đúng là thực hiện toàn bộ, đúng và đầy đủ các nghĩa vụ đã cam kết như: chất lượng công trình, thời gian, tiến độ hoàn thành… 2. Căn cứ để ký kết hợp đồng Khi tiến hành ký kết các hợp đồng, các đơn vị kinh tế phải căn cứ vào những quy định của pháp luật, những yêu cầu khách quan và khả năng chủ quan để xác lập mối quan hệ kinh tế một cách hợp pháp, có đầy đủ điều kiện để thực hiện nhằm mang lại hiệu quả kinh tế thiết thực cho đơn vị mình và cho xã hội. Để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và hiệu quả trong việc xây dựng nội dung của hợp đồng, Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON ký kết hợp đồng dựa trên các căn cứ pháp lý và căn cứ thực tiễn. Đầu năm 2006, một số hợp đồng của công ty vẫn còn căn cứ vào Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 29/09/1989 do Hội đồng Nhà nước ban hành. Đến cuối năm 2006, doanh nghiệp mới áp dụng Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 vào làm căn cứ để ký kết hợp đồng. Điều này cho thấy doanh nghiệp đã có ý thức chấp hành các quy định của pháp luật tuy nhiên còn chưa chú trọng đúng mức để nhận biết được kịp thời và đầy đủ. 3. Các loại hợp đồng công ty đã ký kết 3.1. Hợp đồng lao động Nhân viên công ty FECON khi vào làm việc tại công ty đều phải kí hợp đồng lao động theo đúng quy định của pháp luật. Theo đó, người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc tự do tự nguyện. - Nguyên tắc bình đẳng - Nguyên tắc không trái pháp luật về thỏa ước lao động tập thể Căn cứ vào lĩnh vực họat động của mình, công ty áp dụng cả 3 loại hợp đồng theo quy định của Bộ luật lao động là: - Hợp đồng không xác định thời hạn - Hợp đồng có thời hạn. - Hợp đồng lao động theo mùa vụ Nội dung của hợp đồng lao động: - Các bên tham gia ký kết - Thời hạn làm việc (nếu có) - Công việc phải làm bao gồm: thời gian thử việc, địa điểm làm việc, chức danh chuyên môn, chức vụ, công việc phải làm. - Chế độ làm việc bao gồm: thời giờ làm việc. - Nghĩa vụ của người lao động: hoàn thành những công việc đã cam kết; chấp hành lệnh điều hành sản xuất - kinh doanh, nội quy kỷ luật lao động, an toàn lao động…; Nếu để xảy ra sai sót về mặt kỹ thuật hoặc an toàn trên công trường sẽ phải bồi thường thiệt hại - Quyền lợi của người lao động: được hưởng lương tháng và phụ cấp ăn trưa, thời điểm trả lương, chế độ nâng lương, tiền thưởng, bảo hộ lao động, chế độ nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế… - Nghĩa vụ của người sử dụng lao động: đảm bảo việc làm và thực hiện đầy đủ các cam kết trong hợp đồng lao động; thanh toán đầy đủ, đúng hạn các chế độ và quyền lợi cho người lao động theo hợp đồng lao động. - Quyền hạn của người sử dụng lao động: Điều hành người lao động hoàn thành công việc theo hợp đồng; tạm hoãn, chấm dứt hợp đồng lao động, kỷ luật người lao động theo quy định của pháp luật, nội quy lao động của doanh nghiệp. - Điều khoản chung: Các vấn đề khác không được quy định trong hợp đồng thì được áp dụng theo quy định của pháp luật lao động. 3.2. Hợp đồng mua bán hàng hóa Hợp đồng mua bán hàng hóa là chủng loại hợp đồng được ký chủ yếu khi công ty FECON nhận cung cấp vật tư cho công trình hoặc khi Công ty mua vật tư để sản xuất bê tông cốt thép. Nội dung hợp đồng sẽ được đề cập cụ thể ở phần sau. 3.3. Hợp đồng thuê khoán tài sản Hợp đồng thuê khoán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê khoán giao tài sản cho bên thuê để khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản đó và có nghĩa vụ trả tiền thuê. Ngành xây dựng, một trong những ngành nghề kinh doanh chủ yếu của công ty, đòi hỏi phải sử dụng rất nhiều loại máy móc thiết bị khác nhau, mà do điều kiện chưa cho phép, công ty chưa thể mua sắm loại thiết bị đó để phục vụ cho hoạt động thi công tại công trình. Vì vậy việc Công ty ký kết các hợp đồng thuê máy là điều tất yếu. Nội dung hợp đồng: - Căn cứ ký kết hợp đồng: Bộ luật dân sự 2005. - Các bên tham gia ký kết. - Chủng loại và số lượng tài sản. - Thời gian thuê máy và giá cả. - Điều kiện vận hành máy móc, sử dụng tài sản bao gồm: số giờ máy chạy trung bình mỗi ngày, nếu chạy quá số giờ đó thì phải tính thêm cước phí; thời gian máy ngừng sử dụng do bên A yêu cầu được khấu trừ theo đơn giá như trong ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32009.doc
Tài liệu liên quan