Chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn áp dụng tại Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô

LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động kinh doanh du lịch là lĩnh vực có tiềm năng lớn trong các hoạt động thương mại dịch vụ của Việt Nam. Trong "Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001 - 2010", Thủ tưởng Chính phủ đã đề ra mục tiêu tổng quát là phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về điều kiện tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử, huy động tối đa nguồn lực trong nước và tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế, góp phần thực hiện công ngh

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2438 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn áp dụng tại Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Một trong những biện pháp thực hiện chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam là hoàn thiện dần hệ thống pháp luật quy định về các hoạt động kinh doanh du lịch. Trong đó, để đảm bảo tính công bằng, minh bạch trong hoạt động kinh doanh du lịch cần có những quy định chặt chẽ về chế độ giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh du lịch với các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Sau một thời gian học tập, nghiên cứu và thực tập tại Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô, em đã có thời gian tìm hiểu về việc áp dụng hợp đồng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch của đơn vị, và lựa chọn đề tài chuyên đề: “Chế độ pháp lý về hợp đồng dịch vụ và thực tiễn áp dụng tại Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô” Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu các quy định pháp luật điều chỉnh việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh du lịch; - Tìm hiểu thực tế áp dụng hợp đồng kinh doanh du lịch tại Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô; - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hợp đồng du lịch tại Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô. Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, kết cấu của chuyên đề gồm có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh du lịch Chương 2: Thực tiễn áp dụng hợp đồng dịch vụ tại Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ tại Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH DU LỊCH 1.1 Hoạt đồng cung ứng dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân 1.1.1 Khái quát về hoạt động cung ứng dịch vụ 1.1.1.1 Hoạt động thương mại Thương mại là hoạt động trao đổi của cải, hàng hoá, dịch vụ, kiến thức, tiền tệ v.v giữa hai hay nhiều đối tác, và có thể nhận lại một giá trị nào đó (bằng tiền thông qua giá cả) hay bằng hàng hóa, dịch vụ khác như trong hình thức thương mại hàng đổi hàng. Trong quá trình này, người bán là người cung cấp của cải, hàng hoá, dịch vụ... cho người mua, đổi lại người mua sẽ phải trả cho người bán một giá trị tương đương nào đó. Theo Khoản 1, Điều 3, Luật thương mại 2005, “hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Trong đó: - Hoạt động mua bán là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thoả thuận. - Hoạt động cung ứng dịchvụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán - gọi là bên cung ứng dịch vụ; bên sử dụng dịch vụ (khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thoả thuận. - Xúc tiến thương mại là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ, bao gồm hoạt động khuyến mại, quảng cáo thương mại, trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ và hội chợ, triển lãm thương mại. - Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại. Ngoài ra, Luật thương mại 2005 còn quy định chi tiết một số hoạt động thương mại cụ thể khác như gia công thương mại, đấu giá hàng hoá, đấu thầu hàng hoá, dịch vụ, dịch vụ logistics, dịch vụ quá cảnh hàng hoá qua lãnh thổ Việt Nam, dịch vụ giám định, cho thuê hàng hoá và nhượng quyền thương mại. 1.1.1.2 Hoạt động cung ứng dịch vụ Luật thương mại năm 1997 quy định dịch vụ thương mại gồm những hoạt động liên quan đến mua bán hàng hóa. Cụ thể gồm dịch vụ giao nhận hàng hóa và dịch vụ giám định hàng hóa. Trong đó, dịch vụ giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức việc vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự ủy thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc của người làm dịch vụ giao nhận khác (gọi chung là khách hàng). Và người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa là thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa. Còn giám định hàng hóa là hành vi thương mại do một tổ chức giám định độc lập thực hiện để xác định tình trạng thực tế của hàng hóa theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Luật thương mại năm 2005 mở rộng khái niệm dịch vụ thương mại. Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, trong đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Như vậy, cung ứng dịch vụ là một hoạt động thương mại do đó chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại và pháp luật có liên quan. Thực chất của hoạt động cung ứng dịch vụ là loại hoạt động kinh doanh lấy công làm lãi, cung ứng các điều kiện để đáp ứng các nhu cầu trong sản xuất kinh doanh và sinh hoạt xã hội như: bảo trì, bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, nhà cửa, tàu thuyền, may đo quần áo, các công tác vảo hiểm, công tác kiểm dịch, hướng dẫn triển khai áp dụng các tiến bộ KH-KT vào sản xuất, lập các chương trình, phân tích tính toán, xử lý số liệu, thử nghiệm, kiểm nghiệm sản phẩm, biên soạn tài liệu, hướng dẫn kỹ thuật nghiệp vụ. Đây là những hoạt động dịch vụ đang được phát triển mạnh trong đời sống kinh tế xã hội của nước ta. 1.1.2 Vai trò của hoạt động cung ứng dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân Hoạt động dịch vụ là loại hoạt động kinh tế rất quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc thường xuyên tham gia vào các hợp đồng mua bán, các doanh nghiệp luôn chú trọng tham gia vào các quan hệ để bảo đảm cung ứng những điều kiện cần thiết cho sản xuất, vận tải, áp dụng tiến bộ KH-KT và công nghệ mới, tăng năng suất lao động, cải tiến các dây chuyền sản xuất và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt xã hội. Trong thương mại truyền thống thì hoạt động mua bán hàng hóa chiếm vị trí chủ yếu và quan trọng. Nhưng ngày nay, hoạt động dịch vụ cũng chiếm một vị trí đáng kể và nó có xu hướng ngày càng gia tăng. Nhiều tổ chức, cá nhân có uy tín trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ thương mại đã khẳng định vị trí của mình trên thương trường. Và ngành dịch vụ đã ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Cụ thể: Biểu 1.1: Cơ cấu Tổng sản phẩm trong nước (GDP) phân theo 3 khu vực từ 1986 - 2004 (Đơn vị tính: %)  1986 1990 1995 2000 2003 2004 Chung nền kinh tế 100 100 100 100 100 100 - Khu vực I Nông - Lâm - Thuỷ sản 38,06 38,74 27,18 24,53 22,54 21,76 - Khu vực II Công nghiệp - Xây dựng 28,88 22,67 28,76 36,73 39,47 40,09 - Khu vực III Dịch vụ 33,06 38,59 44,06 38,74 37,99 38,165 Biểu 1.2: Tỷ lệ đóng góp của từng khu vực vào tốc độ tăng GDP cả nước (Đơn vị tính: %)  Khu vực kinh tế 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng GDP 4,80 6,79 6,89 7,04 7,26 7,60 - Nông - Lâm nghiệp - Thuỷ sản 1,20 1,10 0,69 0,91 0,72 0,80 - Công nghiệp và xây dựng 2,90 2,72 2,81 3,00 3,21 3,20 - Dịch vụ 1,00 2,23 2,52 2,68 2,68 3,00 Nguồn: Niên giám Thống kê. Năm 2004. NXB Thống kê.2005.Tr.21 1.1.3 Mục tiêu và yêu cầu đối với hoạt động cung ứng dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân Qua khái niệm về hoạt động cung ứng dịch vụ ở trên cho thấy, hoạt động cung ứng dịch vụ là một hoạt động thương mại, và cũng như mọi hoạt động thương mại khác, cung ứng dịch vụ cũng nhằm mục đích sinh lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội. Mỗi doanh nghiệp có những phương thức sản xuất - kinh doanh với những ngành nghề kinh doanh khác nhau. Tuy nhiên mục đích cuối cùng của các doanh nghiệp vẫn là lợi nhuận. Theo quan điểm trước đây, chỉ có hoạt động mua bán hàng hóa mới đem lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên cùng với xu hướng phát triển của nền kinh tế, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay thì hoạt động cung ứng dịch vụ lại được coi là hoạt động đem lại tỷ suất sinh lợi cao, và ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong nền kinh tế. Như vậy, mục đích của hoạt động cung ứng dịch vụ là tạo ra lợi nhuận. Để đem lại lợi nhuận cao trong lĩnh vực này thì các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ cần đảm bảo các yêu cầu: - Tuân thủ các quy định của pháp luật về hoạt động cung ứng dịch vụ Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này cần nắm vững các quy định pháp luật về hoạt động cung cứng dịch vụ, trong đó Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật thương mại 2005 và các Nghị định hướng dẫn thi hạn 2 Luật trên là những văn bản liên quan trực tiếp, điều chỉnh các hoạt động cung ứng dịch vụ hiện nay. Đặc biệt là phải luôn cập nhập thường xuyên các văn bản mới quy định về hoạt động cụ thể của doanh nghiệp. - Hoạt động cung ứng dịch vụ là một hoạt động thương mại, do đó việc tạo lợi nhuận trong lĩnh vực này cũng phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước, cá nhân, tổ chức khác. Không xâm phạm lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác. Không vì lợi ích của chính mình mà xâm phạm lợi ích của Nhà nước. - Hoạt động cung ứng dịch vụ phải bảo đảm việc cung ứng kịp thời các nhu cầu cần thiết cho xã hội. Trong quá trình hội nhập kinh tế như hiện nay, yêu cầu các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này cần chú ý tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật, để tạo ra những hoạt động dịch vụ không ngừng đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. 1.2 Hợp đồng kinh tế trong hoạt động cung ứng dịch vụ 1.2.1 Khái quát về hợp đồng dịch vụ 1.2.1.1 Khái niệm hợp đồng kinh tế Trong đời sống xã hội, nhu cầu trao đổi buôn bán gọi chung là giao dịch dân sự là nhu cầu tất yếu khách quan. Để điều chỉnh cũng như bảo đảm tính hiệu lực của các giao dịch đó, những quy định pháp luật về hợp đồng ra đời và ngày càng chứng tỏ được vai trò đặc biệt quan trọng của mình. Nếu như sự an toàn của con người, tài sản được bảo đảm trên cơ sở những quy định trong Bộ Luật hình sự thì sự an toàn và trật tự trong thế giới kinh doanh lại phụ thuộc vào hợp đồng. Không những chế định hợp đồng là một công cụ pháp lý mà qua đó nhu cầu trao đổi, giao lưu của người được thực hiện, các quyền và nghĩa vụ được bảo đảm, giúp cho luồng lưu thông hàng hóa, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của con người, xã hội và nền kinh tế. Do vậy, hợp đồng ngày càng được xác lập một cách phổ biến hơn, thường xuyên hơn và trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Hợp đồng ra đời từ rất lâu và nó được tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau như khế ước, thỏa thuận… Tuy nhiên, hợp đồng trong hoạt động kinh tế được quy định một cách cụ thể lần đầu tiên trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày 25/9/1989. Theo đó, hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên giao kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ- kỹ thuật và các thỏa thuận khác có mục đích kinh doanh với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế hoạch của mình. Sau khi Ban hành Luật Thương mại (được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14-6-2005, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2006), Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 hết hiệu lực. Việc giao kết, thực hiện và các hoạt động khác có liên quan đến hợp đồng được quy định theo Bộ Luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005. Theo quy định của Nghị quyết số 45/2005/QH11 ngày 14-6-2005 của Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7, về việc thi hành Bộ luật Dân sự và quy định của Luật Thương mại, thì kể từ ngày 1-1-2006, trong quan hệ kinh doanh, thương mại và các hoạt động khác…, khi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức cá nhân ký kết hợp đồng thì không ghi “Hợp đồng kinh tế” hay “Hợp đồng Dân sự” như trước đây, chỉ cần ghi rõ tên hợp đồng cụ thể như: Hợp đồng mua bán hàng hóa hay mua bán tài sản, hợp đồng gia công, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ… Tùy theo quan hệ giao dịch giữa các bên, căn cứ vào phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, phạm vi áp dụng của Luật Thương mại và các văn bản pháp luật liên quan, các bên phải xác định được căn cứ để ký kết hợp đồng theo văn bản pháp luật nào (Luật Thương mại hay Bộ Luật Dân sự) và đây cũng là một trong những cơ sở để Tòa án Nhân dân xem xét giải quyết tranh chấp hợp đồng khi có yêu cầu của các bên. 1.2.1.2 Khái niệm hợp đồng dịch vụ Hoạt động cung ứng dịch vụ ngày càng được chú trọng hơn và bắt đầu được các nhà làm luật chú ý đến và đưa vào từng quy định cụ thể trong luật. Để đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật. Trong đó, các quy định về hoạt động thương mại cũng không ngừng được hoàn thiện hơn, phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và với xu hướng hội nhập. Cụ thể, Bộ Luật dân sự 2005 ra đời thay thế Bộ Luật dân sự 1995, Luật thương mại năm 2005 ra đời thay thế luật thương mại năm 1997. Với hai bộ luật mới này, hoạt động thương mại được quy định một cách cụ thể hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức trong việc giao kết hợp đồng. Theo điều 518 Bộ Luật dân sự 2005 thì, “hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ”. 1.2.2 Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ Hợp đồng dịch vụ có các đặc điểm: Thứ nhất, các bên trong quan hệ hợp đồng dịch vụ có địa vị pháp lý bình đẳng với nhau. Việc bảo đảm bình đẳng giữa các bên là một điều kiện kiên quyết để hình thành hợp đồng. Thứ hai, hợp đồng dịch vụ luôn thể hiện sự thỏa thuận giữa các bên bình đẳng với nhau. Đó là sự thỏa thuận về việc thực hiện một công việc nào đó của một bên đối với bên kia. Quá trình hình thành hợp đồng là quá trình các bên bàn bạc, thương lượng để đi đến thỏa thuận. Quá trình này, các bên được tự do bày tỏ ý chí để đi đến hợp đồng. Hợp đồng thể hiện trung thành ý chí của các bên. Hình thức của hợp đồng được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể tức là ghi nhận lại các điều mà các bên đã thỏa thuận. Đối với những hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Thứ ba, các bên trong hợp đồng dịch vụ luôn có quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng do các bên thỏa thuận mà ra. Tuy nhiên, quyền và nghĩa vụ đó phải không trái pháp luật, đạo đức xã hội, và được pháp luật công nhận và bảo vệ, Cụ thể, chủ thể của hợp đồng dịch vụ là người cung ứng dịch vụ (bên cung ứng dịch vụ) và người thuê dịch vụ (khách hàng). Trong đó: Bên thuê dịch vụ có các nghĩa vụ: cung cấp cho bên cung ứng dịch vụ thông tin, tài liệu và các phương tiện cần thiết để thực hiện công việc, nếu có thoả thuận hoặc việc thực hiện công việc đòi hỏi; trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ theo thoả thuận; và có các quyền: yêu cầu bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và các thoả thuận khác; trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên thuê dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bên cung ứng dịch vụ có các nghĩa vụ : thực hiện công việc đúng chất lượng, số lượng, thời hạn, địa điểm và các thoả thuận khác ; không được giao cho người khác thực hiện thay công việc, nếu không có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ; bảo quản và phải giao lại cho bên thuê dịch vụ tài liệu và phương tiện được giao sau khi hoàn thành công việc; báo ngay cho bên thuê dịch vụ về việc thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện không bảo đảm chất lượng để hoàn thành công việc; giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong thời gian thực hiện công việc, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định; bồi thường thiệt hại cho bên thuê dịch vụ, nếu làm mất mát, hư hỏng tài liệu, phương tiện được giao hoặc tiết lộ bí mật thông tin; và có các quyền: yêu cầu bên thuê dịch vụ cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện; được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ, mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho bên thuê dịch vụ, nhưng phải báo ngay cho bên thuê dịch vụ; yêu cầu bên thuê dịch vụ trả tiền dịch vụ. Đặc điểm khác nhau cơ bản giữa hợp đồng dịch vụ và hợp đồng mua bán chính là đặc điểm của đối tượng hợp đồng. Trong hợp đồng mua bán đối tượng của nó là hàng hoá, còn trong hợp đồng dịch vụ đối tượng là một hoạt động cung ứng những nhu cầu nhất định, là một công việc cụ thể do các chủ thể hợp đồng xác định theo những yêu cầu của bên đạt dịch vụ. 1.2.3 Phân loại hợp đồng dịch vụ Đây là một loại hợp đồng kinh tế đặc thù. Việc giao kết và thực hiện các hợp đồng dịch vụ phải theo những nguyên tắc, những quy định chung của pháp luật. Nhưng do mỗi loại hợp đồng dịch vụ có đặc điểm riêng, vì vậy căn cứ vào đối tượng của hợp đồng có thể chia hợp đồng dịch vụ thành những loại như: Hợp đồng dịch vụ thu công (sửa chữa, vận chuyển….) Hợp đồng dịch vụ bảo hiểm Hợp đồng dịch vụ cho thuê, mướn tài sản Hợp đồng dịch vụ kiểm dịch Hợp đồng dịch vụ khoa học kỹ thuật Hợp đồng dịch vụ tư vấn, thiết kế Nhà nước có những quy định cụ thể điều chỉnh các hoạt động dịch vụ chuyên biệt, nhưng nói chung việc giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ phải tuân theo những quy định chung của pháp luật và các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng kinh tế nói chung và hợp đồng dịch vụ nói riêng. 1.3 Hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh du lịch 1.3.1 Hoạt động kinh doanh du lịch Theo Pháp lệnh Du lịch 1999, du lịch là hoạt động của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thoả mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghĩ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định. (Khoản 1, Điều 10). Hoạt động kinh doanh du lịch là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình hoạt động du lịch hoặc thực hiện dịch vụ du lịch trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. (Khoản 7, Điều 10). Các ngành nghề kinh doanh du lịch gồm có: - Kinh doanh lữ hành nội địa và kinh doanh lữ hành quốc tế; - Kinh doanh cơ sở lưu trú du lịch; - Kinh doanh vận chuyển khách du lịch; - Kinh doanh các dịch vụ du lịch khác. Các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch phải tuân theo các quy định của Pháp lệnh Du lịch 1999 và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Nhà nước Việt Nam xác định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhà nước thống nhất quản lý hoạt động du lịch; bảo đảm phát triển du lịch theo hướng du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.  1.3.2 Pháp luật điều chỉnh hợp đồng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch Theo khoản 1 điều 3 Luật thương mại 2005 thì hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Trong đó, cung ứng dịch vụ là một hoạt động thương mại mà một bên có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán, bên sử dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Như vậy, hoạt động cung ứng dịch vụ là một hoạt động thương mại do đó chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại và pháp luật có liên quan. Tùy từng lĩnh vực cụ thể như dịch vụ tư vấn, dịch vụ du lịch, dịch vụ thiết kế, dịch vụ giám định…chịu sự điều chỉnh của các quy định cụ thể khác nhau. Hoạt động kinh doanh du lịch là một loại dịch vụ hiện đang phổ biến và đang được các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp quan tâm. Hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh du lịch, cụ thể chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại 2005 và Bộ Luật dân sự 2005. Trường hợp Điều ước quốc tế là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế hoặc có quy định khác với quy định của Luật thương mại, Bộ Luật dân sự thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế. Các bên trong giao dịch có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế nếu pháp luật nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Như vậy, hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn thiết kế trang trí nội thất chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại, Bộ Luật dân sự, Điều ước quốc tế và tập quán thương mại quốc tế có liên quan. 1.3.3 Chế độ giao kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh du lịch 1.3.3.1 Chế độ giao kết hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh du lịch Việc ký kết hợp đồng phải được xem xét trên các khía cạnh: nguyên tắc giao kết, căn cứ giao kết, chủ thể của hợp đồng, đối tượng của hợp đồng, hình thức và mục đích của hợp đồng, nội dung hợp đồng. Cụ thể: Nguyên tắc giao kết hợp đồng Nguyên tắc giao kết hợp đồng đó là những tư tưởng chỉ đạo được quán triệt trong những quy phạm pháp luật về hợp đồng, có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể trong khi tiến hành ký kết hợp đồng. Trong nền kinh tế thị trường, việc giao kết hợp đồng, về nguyên tắc không còn là kỷ luật của nhà nước, là nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan và các đơn vị kinh tế nữa. Đó là quyền tự do hợp đồng, một trong những nội dung quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Theo điều 389 Bộ Luật dân sự, thì việc giao kết hợp đồng phải tuân thủ các nguyên tắc: tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái phápluật, đạo đức xã hội; Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Căn cứ giao kết hợp đồng Căn cứ để giao kết hợp đồng đó là: theo định hướng kế hoạch của nhà nước, các chính sách chế độ, các chuẩn mực kinh tế kỹ thuật hiện hành; căn cứ theo nhu cầu thị trường, đơn đặt hàng, đơn chào hàng của bạn hàng; căn cứ vào khả năng phát triển sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của đơn vị mình; căn cứ vào tính hợp pháp của hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng bảo đảm về tài sản của các bên cùng ký kết hợp đồng. Chủ thể của hợp đồng Chủ thể của hợp đồng là các bên tham gia quan hệ hợp đồng bình đẳng, tự nguyện thỏa thuận để xác định những quyền và nghĩa vụ với nhau. Chủ thể của hợp đồng dịch vụ là các thương nhân. Theo điều 6 Luật thương mại 2005 thì thương nhân gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Để trở thành thương nhân các cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều kiện để kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt động thương mại thì cơ quan nhà nước có toàn quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và trở thành thương nhân. Ngoài ra, chủ thể của hợp đồng dịch vụ có thể là chi nhánh của thương nhân nước ngoài. Theo khoản 3 điều 19 Luật thương mại 2005 thì Chi nhánh của thương nhân nước ngoài có quyền giao kết hợp đồng tại Việt Nam phù hợp với nội dung hoạt động quy định trong giấy phép thành lập chi nhánh và theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, chủ thể của hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội thất có thể là những chủ thể hạn chế. Cụ thể đó là các hộ gia đình, tổ hợp tác nếu có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.Theo Luật hợp tác xã thì: hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật. Như vậy, một hợp tác xã, hay hộ gia đình có thể hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội thất và ký hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực này nếu có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Thực tế cho thấy, rất nhiều hộ gia đình, hợp tác xã đã hoạt động và thành công trong lĩnh vực này. Đối tượng của hợp đồng Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được, không bị pháp luật cấm, không trái với đạo đức xã hội. Theo điều 75 Luật thương mại 2005, thưong nhân có quyền cung ứng các dịch vụ sau: cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam; cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại Việt Nam sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam; cung ứng dịch vụ cho người cư trú tại Việt Nam và sử dụng trên lãnh thổ nước ngoài; cung ứng dịch vụ cho người không cư trú tại Việt nam sử dụng trên lãnh thổ nước ngoài. Đối với hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội thất thì đối tượng chủ yếu của hợp đồng là tư vấn, thiết kế các sản phẩm Modun (tức là các sản phẩm vách ngăn văn phòng). Hình thức của hợp đồng Về hình thức của hợp đồng, theo điều 74 Luật thương mại, hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Yêu cầu về hình thức hợp đồng dịch vụ như vậy tương đối phù hợp với thực tiễn kinh tế xã hội hiện nay, khi mọi hình thức giao dịch thông qua các phương tiện kỹ thuật hiện đại mang tính trung gian như internet, điện tử viễn thông đang rất phát triển. Bên cạnh đó, sự phát triển ngày càng đa dạng của các quan hệ quốc gia, quốc tế trong các lĩnh vực dân sự, thương mại, kinh tế đòi hỏi các hình thức giao lưu phải hết sức thuận tiện, nhanh chóng, hiệu quả. Mục đích của hợp đồng Mục đích chủ yếu của hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội thất là nhằm thực hiện các công trình trang trí nội thất. Cụ thể như: việc sản xuất các sản phẩm vách ngăn văn phòng, thực hiện tư vấn, thiết kế trang trí nội thất theo từng yêu cầu của đối tác, … Nội dung của hợp đồng Nội dung của hợp đồng dịch vụ đó là những thỏa thuận của các bên. Các bên có thể thỏa thuận về các nội dung chủ yếu (theo điều 402 Bộ Luật dân sự 2005 ) như: + Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm; + Số lượng, chất lượng; + Giá, phương thức thanh toán; + Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng; + Quyền, nghĩa vụ của các bên; + Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; + Phạt vi phạm hợp đồng; + Các nội dung khác; Sau khi các bên đàm phán và ghi trong hợp đồng, mọi thỏa thuận ghi trong hợp đồng giàng buộc các bên. Hợp đồng thể hiện rõ quyền lợi cũng như nghĩa vụ mà mỗi bên trong hợp đồng có được. Các bên bắt đầu tiến hành thực hiện hợp đồng theo đúng thỏa thuận ghi trong hợp đồng. 1.3.3.2 Thực hiện hợp đồng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch Nguyên tắc thực hiện Sau khi hợp đồng được ký kết và có giá trị pháp lý, các bên phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng. Việc thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng cũng phải tuân thủ một số nguyên tắc nhất định. Hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực tư vấn, thiết kế trang trí nội thất là một loại hợp đồng dân sự, do đó việc thực hiện hợp đồng dịch vụ này phải đảm bảo các nguyên tắc thực hiện hợp đồng dân sự. Cụ thể, theo điều 412 Bộ Luật dân sự 2005 thì việc thực hiện hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc: thực hiện đúng hợp đồng, đúng số lượng, chất lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác; thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau; không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Nguyên tắc thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác thể hiện: bên cung ứng dịch vụ phải cung ứng các sản phẩm đúng theo quy định trong hợp đồng như: về đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, và thời hạn. Bên thuê dịch vụ phải thanh toán đủ các chi phí nhận hàng và thanh toán theo đúng phương thức thanh toán quy định trong hợp đồng hay theo quy định cụ thể trong pháp luật. Nguyên tắc thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau, thể hiện: trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên không được lừa dối nhau, không cung cấp các sản phẩm không đúng yêu cầu của hợp đồng, không sử dụng những thủ đoạn trái pháp luật để thực hiện hợp đồng.Các bên trong quan hệ hợp đồng phải hợp tác trên tinh thần cùng có lợi. Nguyên tắc không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, thể hiện: việc thực hiện hợp đồng không được xâm phạm đến quyền và lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng. Không vì việc thực hiện hợp đồng mà xâm phạm quyền và lợi ích của người khác, lợi ích nhà nước và lợi ích công cộng. Thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên Bên cung ứng dịch vụ sau khi giao kết hợp đồng phải có nghĩa vụ cung ứng các dịch vụ và thực hiện những công việc có liên quan một cách đầy đủ phù hợp những thỏa thuận như thực hiện công việc đúng số lượng, chất lượng, thời hạn, địa điểm và các thỏa thuận khác. Không được giao cho người khác thực hiện thay công việc, nếu không có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ. Sau khi hoàn thành công v._.iệc, bên cung ứng dịch vụ phải bảo quản và giao lại cho khách hàng những tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện dịch vụ. Nếu những thông tin, tài liệu không đầy đủ, phương tiện không bảo đảm để hoàn thành công việc thì phải thông báo ngay cho bên thuê dịch vụ. Trong thỏa thuận có yêu cầu cần giữ bí mật về thông tin mà mình biết thì trong quá trình cung ứng dịch vụ phải giữ bí mật theo đúng thỏa thuận. Trường hợp mất mát, hư hỏng tài liệu, phương tiện được giao hoặc tiết lộ bí mật thông tin thì phải bồi thường thiệt hại. Để thực hiện tốt công việc của mình, bên cung ứng dịch vụ có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin, tài liệu, phương tiện có liên quan. Hoặc được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của khách hàng mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của khách hàng, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho khách hàng, nhưng phải báo ngay cho khách hàng. Theo điều 82 Luật thương mại quy định về thời hạn hoàn thành dịch vụ. Cụ thể: bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp không có thỏa thuân về thời hạn hoàn thành dịch vụ thì bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ trong một thời hạn hợp lý trên cơ sở tính đến tất cả các điều kiện và hoàn cảnh mà bên cung ứng dịch vụ biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng, bao gồm bất kỳ nhu cầu cụ thể nào của khách hàng có liên quan đến thời gian hoàn thành dịch vụ. Trường hợp một dịch vụ chỉ có thể được hoàn thành khi khách hàng hoặc bên cung ứng dịch vụ khác đáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung ứng dịch vụ đó không có nghĩa vụ hoàn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều kiện đó được đáp ứng. Sau khi hết thời hạn hoàn thành việc cung ứng dịch vụ mà dịch vụ vẫn chưa hoàn thành, nếu khách hàng không phản đối thì bên cung ứng dịch vụ phải tiếp tục cung ứng dịch vụ theo nội dung đã thỏa thuận và phải bồi thường thiệt hại, nếu có. Bên cạnh đó, khách hàng phải có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ tiền cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu có yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc thực hiện thì phải cung cấp kịp thời. Trường hợp một dịch vụ do nhiều bên cung ứng dịch vụ cùng tiến hành hoặc phối hợp với bên cung ứng dịch vụ khác, khách hàng có nghĩa vụ điều phối hoạt động của bên cung ứng dịch vụ để không gây cản trở đến công việc của bất kỳ bên cung ứng dịch vụ nào và phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ theo như thỏa thuận trong hợp đồng. Theo tinh thần điều 86 Luật thương mại 2005, khoản 3 điều 524 Bộ Luật dân sự 2005 thì trường hợp có thỏa thuận về giá dịch vụ, không có thỏa thuận về phương pháp tính giá dịch vụ và cũng không có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá dịch vụ thì giá dịch vụ được xác định theo giá của loại dịch vụ đó trong các điều kiện tương tự về phương thức cung ứng, thời điểm cung ứng, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá dịch vụ. Khách hàng phải trả tiền dịch vụ tại thời điểm hoàn thành dịch vụ, nếu không có thỏa thuận khác. Trường hợp dịch vụ được cung ứng không đạt được như thỏa thuận hoặc công việc không được hoàn thành đúng thời hạn thì khách hàng có quyền giảm tiền dịch vụ và yêu cầu bồi thường thiệt hại. 1.3.3.3 Sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực kinh doanh du lịch Sửa đổi hợp đồng Các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa đổi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản, được công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức đó. Chấm dứt hợp đồng Điều 525 Bộ Luật dân sự quy định: trong trường hợp việc thực hiện công việc không có lợi cho khách hàng thì khách hàng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nhưng phải báo ngay cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp lý, khách hàng phải trả tiền công theo phần dịch vụ mà bên cung ứng đã thực hiện và bồi thường thiệt hại. Nếu khách hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận thì bên cung ứng có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Điều 424 Bộ Luật dân sự 2005 quy định, hợp đồng chấp dứt trong các trường hợp: + Hợp đồng đã được hoàn thành + Theo thỏa thuận của các bên + Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện + Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện + Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thể thỏa thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại + Các trường hợp khác do pháp luật quy định Hủy bỏ hợp đồng Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết việc hủy bỏ hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không còn có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả tiền. Và bên có lỗi trong việc hợp đồng bị hủy bỏ phải bồi thường thiệt hại. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng Điều 426 Bộ luật dân sự 2005 quy định chi tiết việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Cụ thể: Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Bên đơn phương chấm dứt hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt tại thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán. Bên có lỗi trong việc hợp đồng bị đơn phương chấm dứt phải bồi thường thiệt hại. 1.3.3.4 Các chế tài áp dụng khi vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại Trong trường hợp vi phạm hợp đồng mà một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng, thì bên vi phạm có thể bị áp dụng một trong các chế tài sau, tùy theo mức độ vi phạm: buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; hủy bỏ hợp đồng; các biện pháp khác. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp: xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận; xảy ra sự kiện bất khả kháng; hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền mà các bên không biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Trong trường hợp bên vi phạm không chứng minh được hành vi vi phạm của mình thuộc trường hợp miễn trách thì bị áp dụng các hình thức chế tài trên. Các hình thức này được quy định cụ thể trong điều 297,300,302,307,308,310,312,Luật thương mại 2005. 1.3.3.5 Tranh chấp và các hình thức giải quyết tranh chấp trong hợp đồng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh du lịch Trường hợp, nếu các bên thực hiện đúng các điều khoản ghi trong hợp đồng thì tranh chấp xảy ra là một điều không thể có. Trong trường hợp nếu xảy ra tranh chấp, các cơ quan quản lý nhà nước sẽ căn cứ vào vào điều khoản ghi trong hợp đồng và những quy định của pháp luật để xác định xem bên nào vi phạm, bên nào bị vi phạm. Từ đó, đưa ra những cách giải quyết có lợi nhất cho cả hai bên. Thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan niêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Các quan hệ kinh tế ngày càng đa dạng, không những được thiết lập giữa các tổ chức trong nước và ngoài nước, tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế đất nước. Trong điều kiện như vậy, việc nảy sinh các tranh chấp là một điều không thể tránh khỏi. Đặc biệt là trong việc thực hiện các hợp đồng dịch vụ. Các tranh chấp phát sinh chứng tỏ quan hệ làm ăn của các chủ thể có vấn đề, tức là đã có bất công, có mâu thuẫn mà nếu không giải quyết kịp thời thì quan hệ làm ăn của họ có thể bị phá vỡ. Điều quan trọng là việc giải quyết các tranh chấp đó hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của các bên, sự can thiệp của Nhà nước có thẩm quyền hay trung gian chỉ là giải pháp cuối cùng. Các quan hệ làm ăn này đều dựa trên sự thỏa thuận ý chí bình đẳng của các bên chủ thể, các quan hệ làm ăn biến đổi theo sự thay đổi của thị trường, thời gian là tiền, nên các tranh chấp cũng cần được giải quyết nhanh chóng, kịp thời. Do vậy, Nhà nước luôn khuyến khích các chủ thể trong quan hệ hợp động sử dụng các biện pháp tự giải quyết với nhau, chỉ khi không giải quyết được thì có thể nhờ chuyên gia có kinh nghiệm giải quyết hoặc thông qua trọng tài thương mại. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các bên tham gia quan hệ thương mại, đầu tư và hợp tác vừa cạnh tranh với nhau nhằm mục đích thu lợi nhuận tối đa cho mình, các tranh chấp xảy ra là một điều không thể tránh khỏi. Trong điều kiện đó, việc giải quyết các tranh chấp phải bảo đảm: giải quyết nhanh, thuận lợi, hạn chế mức tối đa sự gián đoạn của quá trình thực hiện hợp đồng, đảm bảo dân chủ trong quá trình giải quyết tranh chấp, bảo vệ uy tín của các bên trên thương trường, bảo đảm yếu tố bí mật trong kinh doanh, đạt hiệu quả thi hành cao nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả lợi ích hợp pháp của các bên. Trước yêu cầu đó, mục tiêu đặt ra là tạo ra nhiều phương thức giải quyết tranh chấp khác nhau để các nhà kinh doanh có thể thực hiện quyền tự do của mình. Đồng thời, bảo đảm các phương thức đó được xây dựng theo hướng từng bước phù hợp với thông lệ, tập quán quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường cho phép các chủ thể kinh doanh có quyền tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật không cấm. Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh, các chủ thể tự do thỏa thuận và đưa ra các nguyên tắc xử sự, các chủ thể có những lựa chọn khác nhau cho hành vi của mình trên cơ sở các quy phạm pháp luật mang tính tùy nghi, các chủ thể có những hành vi và thỏa thuận mà pháp luật không dự liệu những vẫn không bị xem là trái pháp luật. Đứng trước góc độ Nhà nước thì Nhà nước được quyền chủ động đưa các tranh chấp đó ra xét xử. Tuy nhiên, quyền tự do thỏa thuận của các chủ thể kinh doanh phù hợp với pháp luật là một quyền trong quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ. Vì vậy, các chủ thể kinh doanh có quyền lựa chọn hình thức giải quyết các tranh chấp nhằm bảo vệ lợi ích cho mình mà không chịu sự áp đặt ý chí của Nhà nước. Theo quy định của pháp luật, các phương thức được sử dụng để giải quyết tranh chấp gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài, tòa án. Trong đó, thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không cần đến vai trò của người thứ ba. Đặc điểm cơ bản của thương lượng là các bên cùng nhau trình bày quan điểm, chính kiến, tìm các biện pháp thích hợp và đi đến thỏa thuận thống nhất. Yêu cầu của quá trình thương lượng là: đòi hỏi các bên phải có thiện chí, hợp tác và có đầy đủ những am hiểu cần thiết về chuyên môn. Kết quả của thương lượng là những cam kết, thỏa thuận về những giải pháp cụ thể nhằm tháo gỡ bế tắc hoặc bất đồng phát sinh mà các bên thường không ý thức được trước đó. Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp một cách thân thiện nhằm tiếp tục gìn giữ và phát triển các quan hệ kinh doanh trong một thời gian dài vì lợi ích chung của cả hai bên. Các giao dịch thương mại ngày càng gia tăng với tốc độ phức tạp ngày càng cao, việc các bên không chỉ đạt được thỏa thuận trong một tranh chấp, mà còn gìn giữ các quan hệ làm ăn lâu dài là điều cơ bản và nhạy cảm với các nhà kinh doanh. Để đạt được mục tiêu này, các bên phải có được cơ hội để bộc lộ, giải tỏa, xóa bỏ những hiểu lầm, xác định các lợi ích nền tảng của mình và những lĩnh vực có thể thỏa thuận để tìm ra giải pháp chung. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp tại trung tâm trọng tài trong đó các bên tranh chấp sẽ lựa chọn trọng tài viên cho mình để giải quyết tranh chấp. Hai trọng tài viên được chọn sẽ chọn một trọng tài viên làm chủ tịch hội đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của cơ quan tài phán Nhà nước, nhân danh quyền lực Nhà nước để đưa ra phán quyết buộc các bên phải có nghĩa vụ thi hành, trong trường hợp cần thiết có thể sử dụng sức mạnh cưỡng chế. Đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của Tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi họ không thể giải quyết thông qua cơ chế hòa giải, thương lượng hay không muốn lựa chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Theo điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự 2003 thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:mua bán hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; Phương thức giải quyết thông qua Tòa án hay Trung tâm Trọng tài là những thủ tục giải quyết tranh chấp mang tính chất tài phán. Trong đó, Trọng tài được coi là Tòa án tư trong việc giải quyết tranh chấp. Thẩm quyền của Tòa án và Trọng tài đều là giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại, tuy nhiên thủ tục tố tụng của hai phương thức này được tiến hành khác nhau. Tòa án nhân danh quyền lực của Nhà nước trong việc xét xử, còn trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự. Trong quá trình xét xử tại Tòa án, các bên không có quyền lựa chọn Thẩm phán và Tòa án xét xử, còn trọng tài thì ngược lại, các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, trung tâm trọng tài để giải quyết tranh chấp của mình. Mỗi phương thức đều có những ưu thế cũng như những hạn chế của nó, do đó khi tranh chấp xảy ra các bên có thể thỏa thuận chọn phương thức giải quyết tranh chấp thích hợp nhất. Để tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh, trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, thời gian là vàng là bạc, do đó việc giải quyết tranh chấp cũng phải được tiến hành nhanh chóng thuận lợi cho các bên. CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ TẠI CÔNG TY DLDV QUÂN KHU THỦ ĐÔ 2.1 Tổng quan về Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển * Quyết định thành lập Hàng trăm doanh nghiệp làm nhiệm vụ tạo nguồn thu cho ngân sách Đảng và góp phần phát triển kinh tế – xã hội, giải quyết việc làm cho hàng chục ngàn người. Lợi nhuận của các doanh nghiệp ngày một tăng, đóng góp một phần ngân sách cho Nhà nước, đồng thời tạo nguồn thu bổ sung vốn để mở rộng sản xuất - kinh doanh cho các doanh nghiệp của Đảng. Dưới sự chỉ đạo đó, Ban Thường vụ Thành uỷ Hà nội đã có nghị quyết chỉ rõ công tác tài chính Đảng có vị trí quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng là đảm bảo vật chất cho sự lãnh đạo nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng Bộ. Cụ thể, việc đầu tư vốn cho sản xuất - kinh doanh phải chú trọng vào thực hiện phương hướng chính: kinh doanh bất động sản, quảng cáo, khách sạn kết hợp dịch vụ du lịch chủ yếu trên địa bàn Hà nội các doanh nghiệp làm kinh tế Đảng phải kinh doanh có hiệu quả, gương mẫu thực hiện đường lối chính sách của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. Thực hiện đúng đường lối chỉ đạo của Thường vụ Thành uỷ Hà nội, những năm qua các Doanh nghiệp của Đảng Bộ Hà nội đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu được giao, đóng góp ngân sách cho Nhà nước và một phần quan trọng cho ngân sách của Đảng Bộ Hà nội. Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô - ra đời theo Quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước số 96 QĐ/UB ngày 14/1/1994 của UBND thành phố Hà nội - nhằm đáp ứng mục tiêu bổ sung ngân sách Đảng cho Thành uỷ Hà nội. . Trụ sở chính: Khách sạn ATS - 33B Phạm Ngũ Lão Hà nội. Ngành nghề kinh doanh: + Kinh doanh lữ hành nội địa, quốc tế; kinh doanh vận chuyển hành khách; + Kinh doanh khách sạn, ăn uống; + Kinh doanh du lịch phục vụ khách trong và ngoài nước; + Tổ chức các dịch vụ, thương mại; + Liên doanh, liên kết với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để mở rộng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; + Kinh doanh rượu ngoại, thuốc lá ngoại; + Dịch vụ giải trí. - Cơ quan chủ quản cấp trên: Ban Tài chính Quản trị - Thành uỷ Hà nội. * Lịch sử hình thành và phát triển Công ty Du lịch Dịch vụ Quân khu Thủ đô chính thức đưa khách sạn ATS - 33B Phạm Ngũ Lão vào hoạt động từ tháng 12/1994. Đối tượng khách chủ yếu của khách sạn ATS là khách nước ngoài. Công suất sử dụng buồng phòng 75%. Hàng năm có khoảng 10 nghìn lượt khách đã lưu trú tại khách sạn ATS. Nằm trong khuôn viên cây xanh là 2 toà nhà 4 tầng gồm 56 phòng với đầy đủ tiện nghi hiện đại đạt tiêu chuẩn khách sạn 3 sao (Do Tổng cục Du lịch Việt nam cấp). Khách sạn ATS toạ lạc trên diện tích 2.500 m2 gần Hồ Gươm. Bên cạnh đó là khách sạn ARMY 33C - Phạm Ngũ Lão; Nhà khách Bộ Quốc Phòng chuyên đón khách ngoại giao của Chính Phủ. Hệ thống liên hoàn 3 khách sạn trên cùng một đoạn phố Phạm Ngũ Lão tạo cho khách sạn ATS có một thế mạnh đặc biệt: Một là: An ninh cho khách và tài sản của khách, Khu vực Quân khu Thủ đô có chế độ gác 24/24 giờ. Đoạn phố Phạm Ngũ Lão không có nhiều ôtô đi lại nên rất yên tĩnh, tạo cho khách cảm giác thật là sảng khoái, an toàn trong giấc ngủ sâu sau một ngày đi du lịch mệt mỏi. Hai là: Do cơ chế cạnh tranh để tăng doanh thu, đạt được các chỉ tiêu giao nộp cho Ngân sách và cho cấp trên nên ở khách sạn ATS có một phong cách chăm sóc khách thật sự chu đáo. Khách đến ATS tựa như là về chính nhà mình. Mọi dịch vụ đầy đủ được phục vụ quý khách như: giặt là quần áo, gửi thư ảnh, thư điện tử, mạng internets, xem tivi với đầy đủ các kênh quốc tế, giải trí hát karaoke, bể bơi nước mặn… Nếu khách muốn đi tham quan danh lam thắng cảnh của thủ đô Hà nội thì có đột ngũ hướng dẫn viên du lịch nhiều kinh nghiệm giới thiệu nhiệt tình. Các Tours lữ hành vệ tinh phối hợp nhịp nhàng tạo cho khách một kỳ nghỉ thật thoải mái và hợp lý. * Chức năng,nhiệm vụ Chức năng Công ty du lịch dịch vụ QKTĐ là doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Thành Ủy Hà Nội là một doanh nghiệp hạch toán độc lập. Chức năng chính của công ty bao gồm: - Kinh doanh dịch vụ du lịch, khách sạn phục vụ nhu cầu tiếp đón khách trong nước và quốc tế của các cơ quan thuộc khối Thành Ủy Hà Nội. - Thực hiện các hoạt động thương mại, dịch vụ, chất lượng cao theo hợp đồng với khách hàng. Nhiệm vụ - Xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh và dịch vụ, phát triển theo kế hoạch và mục tiêu chiến lược của công ty; - Xây dựng ngân sách Đảng cho Thành Ủy Hà Nội; - Thực hiện việc chăm lo và không ngừng cải thiện điều kiện làm việc, đời sống vật chất tinh thần, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, chuyên môn cho cán bộ công nhân viên trong công ty; - Bảo vệ doanh nghiệp, bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, làm tròn nhiệm vụ quốc phòng. Mối quan hệ giữa công ty với các cơ quan hữu quan - Chấp hành pháp luật, thực hiện nghiêm túc các quy định của Chính phủ có liên quan đến công ty; - Thực hiện quy hoạch, chiến lược phát triển công ty trong tổng thể quy hoạch, chiến lược phát triển ngành, lãnh thổ của Nhà nước; - Chấp hành các quy định về thành lập, tách, nhập, giải thể, các chính sách về tổ chức, cán bộ, chế độ tài chính, tín dụng, thuế, thu lợi nhuận, các chế độ về kế toán, thống kê; - Chịu sự kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật, chủ trương, chính sách, chế độ của nhà nước tại công ty; - Được đề xuất, kiến nghị về các giải pháp, cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước đối với công ty. - Được quản lý và sử dụng vốn, tài sản, đất đai, vùng nước các nguồn lực khác do Nhà nước giao để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh và phải bảo toàn, phát triển các nguồn lực đó. - Đựơc hưởng các chế độ trợ cấp, trợ giá và các chế độ khác theo quy định của Chính phủ. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Công ty Du lịch Dịch vụ QKTĐ Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Công ty DLDV QKTĐ Để đáp ứng được nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh trong ngành khách sạn bộ máy quản lý được sắp xếp bố trí khoa học, gọn nhẹ, phân định chức năng rõ ràng. 2.1.2.1 Hội đồng quản trị Chịu trách nhiệm trong việc tổ chức kinh doanh, quản lý quy trình làm việc đồng thời kiểm tra giám sát mọi hoạt động các bộ phận trong toàn khách sạn,kịp thời xử lý các tình huống cấp thiết xảy ra. Quản lý trực tiếp toàn diện đội ngũ các cán bộ công nhân viên tuyển chọn lao động, xây dựng quy chế tiền thưởng hợp lí áp dụng trong khách sạn 2.1.2.2 Giám đốc Giám đốc trực tiếp điều hành và quản lý công ty, xem xét các ý kiến đóng góp của các phòng,từ đó đề ra những chiến lược kinh doanh cho công ty. Thông báo tình hình kinh doanh của công ty cho hội đồng quản trị. Thực hiện so sánh các kỳ kinh doanh để đề ra phương án kinh doanh cho phù hợp với tình hình cụ thể của khách sạn. Chịu trách nhiệm điều hành và quản lý khách sạn; Quyết định đường lối hoạt động của khách sạn; Chịu trách nhiệm về mọi hoạt động cao nhất của khách sạn: + Về nghiên cứu thị trường; + Về quảng cáo Marketting du khách; + Về giá cả,các dịch vụ khách sạn; + Về các mối quan hệ trong khách sạn và các cơ sở kinh doanh du lịch khác. Trưởng các bộ phận có trách nhiệm thực hiện các kế hoạch đã đặt ra và chịu trách nhiệm trước Giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc giúp việc Giám đốc điều hành và quản lý khách sạn hàng ngày chịu trách nhiệm quản lý phân viêc được phân.Phó giám đốc trực tiếp quản lý tổ hành chính bảo vệ ,giám sát các hoạt động của tổ và chịu trách nhiệm trước giám đốc về kết quả hoạt động của tổ hành chính bảo vệ. Phòng kế toán Tham mưu cho Giám đốc công ty về lĩnh vực tài chính kế toán,thực hiện kiểm tra,giám sát về việc thực hiện các chế độ chính sách,các quy chế trong lĩnh vực tài chính theo quy định của Nhà nước và của công ty. Thực hiện công tác hạch toán kế toán theo quy định của Nhà nước,đảm bảo nguồn vốn kinh doanh của Công ty. Kế toán trưởng có chức năng nhiệm vụ kiểm tra,cố vấn cho Giám đốc về tình hình tài chính cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ. Hai kế toán viên có chức năng nhiệm vụ theo dõi mọi hoạt động nhập,xuất của khách sạn,các khoản thu chi vơi mụ địch phòng chống sự lãng phí tài sản. Cung cấp các số liệu phục vụ hoạt động phân tích kết quả sản xuất kinh doanh của khách sạn Phòng kinh doanh Là một bộ phận cực kỳ quan trọng không thiếu trong bất kì đơn vị nào.Trong công ty Dịch vụ Quân khu Thủ Đô,phòng kinh doanh có trách nhiệm thay mặt Giám đốc quản lý,giám sát và điều hành các tổ lễ tân,tổ buồng,tổ bếp,tổ nhà hàng .Phòng kinh doanh chịu sự giám sát chặt chẽ của Giám đốc,chịu trách nhiệm trực tiếp trước Giám đốc về kết quả kinh doanh trong kì của các tổ trên. Phòng hành chính-tổng hợp Phòng hành chính – tổng hợp có chức năng nhiệm vụ Nghiên cứu đề xuất Giám đốc và triển khai thực hiện mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh đã được Công ty phê duyệt và tổ chức lao động trong khách sạn. Triển khai thực hiện kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công nhân viên chức về nghiệp vụ chuyên môn. Xây dựng và tổ chức kế hoạch lao động,tiền lương,lựa chọn các hình thức trả lương phù hợp,thanh toán tiền lương hàng tháng kịp thời để khuyến khích sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Văn phòng du lịch Phòng kinh doanh du lịch có chức năng nhiệm vụ : + Xây dựng chương trình và tổ chức các tour du lịch cho khách du lịch lưu trú tại khách sạn,khách vãng lai (đặc biệt là khách quốc tế ) . Phòng kinh doanh du lịch vừa đóng vai trò tổ chức trực tiếp vừa làm hướng dẫn viên . Khi khách đông,phòng có thể thuê thêm nhân viên hướng dẫn và phương tiện của nơi khác. + Đưa đón khách ở sân bay,đặt vé,mua vé. Cung cấp các thông tin về kinh tế ,xã hội văn hóa,tuyến điểm mà khách sẽ thăm quan cho khách . + Nghiên cứu các nhu cầu của khách hàng để đưa ra các chương trình du lịch phù hợp.Chịu trách nhiệm trước giám đốc về kết quả kinh doanh của phòng . Tổ lễ tân a. Chức năng Là bộ phận tiếp xúc trực tiếp chủ yếu giữa khách sạn với khách hàng.Đây là đầu mối liên hệ giữa khách du lịch với các bộ phận khác,có vai trò định hướng tiêu dùng của khách khi đang lưu trú,thay mặt khách sạn đáp ứng nhu cầu của khách.Ngoài ra còn là trung tam phối hợp mọi hoạt động của các bộ phận khác trong khách sạn và giúp các bộ phận hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó,tổ lễ tân còn có chức năng tham mưu cho giám đốc cung cấp các hoạt động thông tin từ khách hàng đến ban ban lãnh đạo,giúp họ có thể điều chỉnh kế hoạch và hoạt động kinh doanh phù hợp b. Nhiệm vụ Có nhiệm vụ đăng ký đặt phòng liên quan đến việc quản lý những yêu cầu đặt phòng trước qua điện thoại,internet,fax. Làm thủ tục check in và check out liên quan đến việc chào đón,đăng ký khách đến,quản lý khách đến,quản lý phòng hiện có,bố trí phòng,trao chìa khóa và làm thủ tục trả phòng cho khách khi họ rời khách sạn. Có nhiệm vụ thông tin liên lạc bao gồm cả việc quản lý thông tin ,thư từ cà điện tín của khách đến và đi. Nhân viên ở bàn đón tiếp có trách nhiệm nhận thông tin và các yêu cầu từ phía khách.Trao cho khách các thông tin về hoạt động ,dịch vụ của khách sạn nếu khách có yêu cầu. Hoạt động thu ngân của khách sạn bao gồm cả việc xác định tình trạng nợ,đưa hóa đơn khi trả phòng và quản lý các khoản thanh toán của khách ,thu tiền trả cho dịch vụ khách đã dùng của khách sạn. Nhân viên bộ phận đón tiếp cũng cần phải thống kê các hoạt động đặt phòng và sử dụng phòng,duy trì các mối liên hệ với bộ phận quản lý trong phòng và cân đối việc đặt phòng hàng ngày c. Tổ chức nhân sự Tổ lễ tân bao gồm 6 nhân viên với 1 phụ trách bộ phận với 5 nhân viên lễ tân . Phụ trách bộ phận lễ tân có trách nhiệm tổ chức phân công lao động,tham mưu cho Giám đốc về các hoạt động,thay mặt bộ phận giao dịch ,ký kết văn bản của bộ phận. Về trình độ chuyên môn ,các nhân viên trong tổ lễ tân đều biết ít nhất một ngoại ngữ và tất cả các nhân viên đều qua các lớp chuyên ngành du lịch và có bằng đại học hoặc trung cấp. Các nhân viên trong tổ lễ tân làm việc theo 3 ca,bảo đảm phục vụ khách hàng tốt nhất 24/24 : Ca I : Từ 6h đến 14h Ca II : Từ 14h đến 22h Ca III : Từ 22h đến 6h sáng hôm sau. 2.1.2.9 Tổ buồng Đây là bộ phận tạo ra doanh thu chủ yếu cho khách sạn vì dịch vụ lưu trú chiếm tỉ lệ lớn nhất trong cơ cấu tiêu dùng của khách hàng. Tổ buồng có các nhiệm vụ sau: Chịu trách nhiệm trước Giám đốc về con người về toàn bộ công việc được giao. Có trách nhiệm phục vụ khách đến nghỉ tại khách sạn, có kế hoạch phân công lao động trong tổ điều hành hợp lý hoạt động giữa các nhóm. Theo dõi giám sát và tham mưu cho Giám đốc và các bộ phận khác trong khách sạn về thực hiện chất lượng sản phẩm và kiểm soát chi phí phòng. Theo dõi các nhu cầu của khách khi tiêu dùng dịch vụ lưu trú,từ đó tham mưu cho các bộ phận khác để thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách.Đảm bảo cho khách luôn cảm thấy thoải mái trong sinh hoạt, an toàn về người và tài sản khi đông khách cũng như vắng khách. Hàng ngày làm vệ sinh dọn dẹp phòng nghỉ các khu vực công cộng trong khách sạn, vệ sinh chăm sóc cây cảnh … Thông báo cho tổ lễ tân,phòng kinh doanh về tinh hình hàng ngày (số phòng sẵn sàng đón khách,số phòng khách đã đi nhưng chưa làm vệ sinh phòng … ). Kiểm tra bảo quản các trang thiết bị nội thất, thiết bị vệ sinh phòng nghỉ, các khu vực công cộng trong khu vực đã được phân công quản lý. Đáp ứng nhu cầu bổ xung của khách như :giặt là…. Thông báo cho phòng kế toán (để làm hóa đơn) về những tiêu dùng của khách đối với dịch vụ giặt là,mini bar trong phòng… Tiếp nhận và bảo quản vật tư hàng hóa phục vụ cho làm việc buồng . Về tổ chức nhân sự :tổ buồng có tổng số 11 người bao gồm 1 tổ trưởng buồng và 10 nhân viên buồng .Tổ trưởng buồng làm nhiệm vụ điều hành ,tổ chức giám sát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong bộ phận,chịu trách nhiệm trước phòng kinh doanh và giám đốc về chất lượng vệ sinh các khu vực công cộng. 2.1.2.10 Tổ bếp Tổ bếp chịu trách nhiệm trước phòng kinh doanh và Giám đốc về cung cấp dịch vụ ăn uống cho khách cũng như đặt tiệc. Chế biến thực phẩm theo đúng quy trình ký thuật và theo đúng thực đơn mà khách đã đặt. Thực hiện trang trí phòng ăn ,bàn tiệc gọn gàng,sạch sẽ,có thẩm mỹ hấp dẫn khách. Tổ bếp bao gồm 7 người,trong đó có 1 tổ trưởng bếp và 14 nhân viên bếp. Thời gian làm việc của tổ bếp chia làm 2 ca chính : + Ca I : từ 6h đến 14h + Ca II : từ 14h đến 22h Ngoài ra,còn có ca sớm bắt đầu từ 5h sáng để thuận lợi cho việc phục vụ buổi sáng. Trong trường hợp khách sạn có tiệc thì trưởng bộ phận có thể quyết định nhân lực cả 2 ca làm để kịp thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng, trường hợp có tiệc lưu động thì có thể điều nhân viên của bộ phận khác đến hỗ trợ. Về trình độ chuyên môn,các nhân viên ở tổ bếp đều tốt nghiệp đại học hoặc trung cấp du lịch . 2.1.2.11 Tổ nhà hàng Tổ nhà hàng có chức năng nhiệm hỗ trợ cho tổ bếp trong việc phục vụ thức ăn,đồ uống cho khách;sắp xếp,trang trí bàn ăn gọn gàng,sạch sẽ,mỹ thuật,hấp dẫn,thu hút khách. Tổ nhà hàng có 6 người bao gồm 1 tổ trưởng nhà hàng chịu trách nhiệm tổ chức quản lý các nhân viên trong tổ,lắng nghe các ý kiến,nhận xét của khách về chất lượng đồ ăn,đồ uống,phong cách phục vụ của nhân viên để có thể tham mưu cho Giám đốc,cùng Giám đốc đề ra những phương án kinh doanh nhằm nâng cao chất lượng chung của khách sạn. Tổ hành chính bảo vệ Tổ hành chính có chức năng nhiệm vụ : + Bảo đảm an ninh trong nội bộ và khu vực lân cận khách sạn 24/24. + Kiểm tra,kiểm soát đồ vật,tư trang của nhân viên ra vào khách sạn tránh tình trạng làm thất thoát tài sản của khách. + Lập kế hoạch trình Giám đốc về phương án tổ chức bảo vệ bảo đảm khả năng an toàn cao nhất cho khách cũng như cho khách sạn. + Chịu trách nhiệm bảo dưỡng ,sửa chữa tất cả máy móc,hệ thống điện nước._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7497.doc
Tài liệu liên quan