Chế độ pháp lý về hợp đồng đại lý và thực tiễn tại Công ty TNHH Nhà nước 1 thành viên Xuân Hoà

M ục l ục Mở đầu……………………………………………………………4 Chương I. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ 1. Khái quát về hợp đồng đại lý……………………………….………….....5 1.1 Vai trò của hợp đồng trong nền kinh tế thị trường……………………..5 1.2 Quá trình phát triển của pháp luật về hợp đồng đại lý………..…….….6 1.3 Khái quát về đại lý thương mại………………………………………..9 1.4 Những điểm mới về hợp đồng đại lý trong luật thương mại………….10 2. Giao kết hợp đồng đại lý……………………………………..……...........11 2.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng đại l

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chế độ pháp lý về hợp đồng đại lý và thực tiễn tại Công ty TNHH Nhà nước 1 thành viên Xuân Hoà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ý………………………………….11 2.2 Chủ thể giao kết hợp đồng đại lý……………………………………...12 2.3 Nội dung giao kết hợp đồng đại lý…………………………………...12 2.4 Hình thức giao kết hợp đồng đại lý……………………………….….13 2.5 Trình tự thủ tục giao kết hợp đồng đại lý…………………………….14 3. Thực hiện hợp đồng đại lý……………………….…………….…………15 3.1 Nguyên tắc thực hiện hợp đồng đại lý………………………………...15 3.2 Các biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng đại lý………….15 4. Sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng đại lý……………………….…….16 5. Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng............................................17 6. Giải quyết tranh chấp hợp đồng đại lý…………………….….…………18 6.1 Giải quyết bằng thương lượng………………………………………...18 6.2 Giải quyết bằng hoà giải………………………………………………18 6.3 Giải quyết bằng trọng tài……………………………………………..19 6.4 Giải quyết bằng toà án………………………………………………..21 CHƯƠNG II THỰC TIỄN GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ TẠI CÔNG TY I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY XUÂN HOÀ 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Xuân hoà……….….…..25 1.1 Giới thiệu chung về công ty Xuân Hoà……………………………….25 1.2 Khái quát lịch sử phát triển của Công ty …………..............................26 3. Tổ chức bộ máy tại Công ty……………………………….……………..29 3.1 Cơ cấu tổ chức.......................................................................................29 3.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty…………………….……………….29 3.3 Phạm vi hoạt động của Công ty Xuân Hoà…………………..….……33 4. Tình hình nhân sự và lao động tại Công ty………………….………….33 4.1 Phân loại lao động…………………………………………….………34 4.2 Chế độ tiền lương……………………………………………………..34 4.3 Chế độ BHXH,BHYT,KPCĐ…………………………………………35 4.4 Thời giờ làm việc thời giờ nghỉ ngơi…………………………….…....35 4.5 Hình thức kỷ luật lao động…………………………………………....36 4.6 Tranh chấp lao động và tình hình giải quyết tranh chấp………..……..37 5. Một vài nét chính về việc thực hiện pháp luật và nghĩa vụ của Công ty………………………………………………………………….37 5.1 Việc quản lý chất lượng sản phẩm hàng hoá…………………...…..…37 5.2 Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả…….…………38 5.3 Việc thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước……………………………38 5.4. Việc thực hiện trách nhiệm đối với xã hội……………………………39 6. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và mục tiêu của Công ty………….……39 II QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ TẠI CÔNG TY 1. Khái quát về hoạt động đại lý của Công ty Xuân Hòa………………... 42 2. Những nội dung cơ bản trong giao kết hợp đồng đại lý của Công ty…49 2.1 Chủ thể giao kết……………………………………………….………49 2.2 Nguyên tắc, căn cứ giao kết hợp đồng………………………………..51 2.3 Nội dung giao kết hợp đồng…………………………………..………51 2.4 Quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm…………………………..56 3. Thực tế thực hiện các điều khoản về hợp đồng đại lý đại tại Công ty...58 3.1 Thực hiện các điều khoản về số lượng, chủng loại………….………..58 3.2 Thực hiện các điều khoản về trách nhiệm và quyền hạn của mỗi bên..59 3.3 Thực hiện các điều khoản về thanh toán tiền hàng……………….…..60 3.4 Thực hiện các điều khoản về thời hạn và phụ lục hợp đồng………….60 3.5 Thực hiện các điều khoản khác trong hợp đồng…………..…………..61 CHƯƠNG III KIẾN NGHỊ 1. Khó khăn bất cập trong hoạt động đại lý của Công ty..………………..62 1.1 Do có sự thay đổi các quy định pháp luật về hoạt động đại lý………..62 1.2 Do các nguyên nhân chủ quan từ phía Công ty……………………….63 1.3 Do các nguyên nhân khác…………………………………….………65 2. Kiến nghị………………………………………………………..…………66 2.1 Kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật………….…66 2.2 Kiến nghị về việc hoàn thiện chế độ hợp đồng nói chung………..…..68 2.3 Kiến nghị về việc hoàn thiện chế độ hợp đồng đại lý….………….…69 2.4 Kiến nghị đối với Công ty Xuân Hoà…………………..……..………71 2.5 Kiến nghị đối với đại lý………………………………..……….……..74 Kết luận………………………………………………………….75 Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………..76 Lời mở đầu Trong đời sống xã hội của chúng ta nhu cầu giao lưu trao đổi buôn bán…gọi chung là giao dịch dân sự là một nhu cầu tất yếu khách quan. Để điều chỉnh và đảm bảo tính hiệu lực của các giao dịch đó pháp luật về hợp đồng đã ra đời và ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng đặc biệt của mình. Hợp đồng chính là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ nào đó. Pháp luật về hợp đồng hiện nay đã cơ bản hoàn thiện với những quy định ràng buộc chặt chẽ.. Để hiểu rõ hơn bản chất, vai trò, nội dung các hình thức, chủ thể và các vấn đề khác của hợp đồng. Thông qua quá trình nghiên cứu thực tại Công ty Xuân Hoà, tôi chọn đề tài “Chế độ pháp lý về hợp đồng đại lý và thực tiễn tại Công ty trách nhiện hữu hạn Nhà nước một thành viên Xuân Hoà”. Đồng thời đây cũng là dịp tôi khải nghiệm những kiến thức mà mình đã tích luỹ được trong suất thời gian ngồi trên Giảng Đường đại học. Bố cục của bài viết được kết cấu thành ba chương: Chương I: Cơ sở lý luận về hợp đồng đại lý Chương II: Thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng đại lý tại Công ty Chương III: Kiến nghị Trong suất quá trình thực tập và nghiên cứu tại Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuân Hoà, tôi đã được sự giúp đỡ rất tận tình của toàn thể CBCNV của Công ty đặc biệt là những CBCNV phòng Kinh doanh nơi tôi trực tiếp thực tập. Hơn nữa với sự hướng dẫn tận tình của TS Nguyễn Thị Thanh Thuỷ và ThS Vũ Văn Ngọc đã giúp tôi hoàn thành đề tài thực tập chuyên ngành của mình. Thông qua bài viết này tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới toàn thể Công ty, TS Nguyễn Thị Thanh Thuỷ và ThS Vũ Văn Ngọc đã giúp tôi hoàn thành đề tài thực tập của mình. Chương I. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ 1. Khái quát về hợp đồng đại lý 1.1 Vai trò của hợp đồng trong nền kinh tế thị trường Như chúng ta đã biết trong nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp trước đây hợp đồng kinh tế được coi là một công cụ cơ bản để quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Hợp đồng kinh tế được kí kết theo chỉ tiêu theo kế hoạch của Nhà nước. Mỗi khi các chỉ tiêu kế hoạch thay đổi thì các bên tham gia kí kết hợp đồng cũng phải thay đổi nội dung kí kết cho phù hợp. Nếu các bên vị phạm hợp đồng tức là vi phạm kế hoạch của Nhà nước. Như vậy trong giai đoạn này chỉ tiêu kế hoạch là cơ sở để các bên tham gia kí kết hợp đồng. Trong giai đoạn này, hợp đồng kinh tế chỉ là phương tiện để các xí nghiệp, các đơn vị của Nhà nước trao đổi sản phẩm với nhau một cách hình thức, đó là sự ghi nhận sự cấp phát vật tư, sản phẩm của Nhà nước cho các đơn vị kinh tế và sự giao nộp sản phẩm của các đơn vị kinh tế cho Nhà nước. Hợp đồng kinh tế hoàn toàn mất đi ý nghĩa đích thực của nó với tư cách là hình thức pháp lý chủ yếu của quan hệ trao đổi. Trong nền kinh tế thị trường hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, các bên cùng có lợi. Nhà nước chỉ có thể sử dụng pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi ích chính đáng của các bên tham gia quan hệ hợp đồng và lợi ích chung của toàn xã hội. Trong nền kinh tế thị trường sản phẩm được làm ra để trao đổi mua bán do đó hợp đồng là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của các chủ thể kinh doanh, làm cho kế hoạch sản xuất kinh doanh của họ phù hợp với thị trường. Qua đó các nhà sản xuất kinh doanh có căn cứ để xây dưng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho mình. Đó là mục tiêu đầu vào, nơi tiêu thụ sản phẩm đầu ra, chất lượng số lượng, giá…Sự thỏa thuận đó đảm bảo sự bình đẳng thực sự của các bên, thể hiện ý chí nguyện vọng của họ. Hợp đồng luôn phản ánh những đòi hỏi, những điều kiện cụ thể của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng kinh tế. Rõ ràng hợp đồng kinh tế là công cụ của các nhà kinh doanh chứ không phải công cụ của nhà nước như trước đây. Vì thông qua việc đàm phán giao kết hợp đồng người ta có thể nắm được nhu cầu của thị trường về sản phẩm dịch vụ của mình và kiểm tra tính hiện thực của kế hoạch sản xuất kinh doanh. Hợp đồng kinh tế có tác dụng chuyển các quan hệ kinh tế khách quan thành các quan hệ pháp luật cụ thể cho nên nó trở thành hình thức pháp lý để hình thành quan hệ thị trường. Hợp đồng kinh tế được giao kết đúng với pháp luật của nhà nước cho nên nó được coi là luật của các bên tham gia giao kết. Khi đã giao kết các bên phụ thuộc lẫn nhau, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích của các bên. Như vậy vai trò của hợp đồng kinh tế trong giai đoạn hiện nay khác với vai trò của hợp đồng kinh tế trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung bao cấp trước đây vì vây phải hiểu rõ vai trò bản chất của hợp đồng kinh tế mới có thể xây dựng được những quy định về hợp đồng kinh tế với những đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường. 1.2 Quá trình phát triển của pháp luật về hợp đồng đại lý Trước khi có luật thương mại 1997, việc giao kết và thực hiện hợp đồng đại lý vẫn phải dựa trên các văn bản pháp luật chung về hợp đồng. Vì vậy việc nghiên cứu khái quát về hợp đồng đại lý thực chất là nghiên cứu về hợp đồng nói chung. * Chế độ hợp đồng kinh tế trước pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 Sau khi Miền bắc được hoàn toàn giải phóng thì cách mạng Việt nam chuyển sang một giai đoạn mới: xây dựng CNXH ở Miền bắc làm hậu phương vững chắc để chi viện cho Miền nam; thực hiện cuộc cách mạng dân chủ ở Miền nam. Trong thời kỳ quá độ này ta có nhiều thành phần kinh tế cùng đan xen tồn tại, kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể mới hình thành, kinh tế tư bản tư doanh còn chưa được cải tạo, kinh tế cá thể vẫn còn tồn tại. Để điều chỉnh quan hệ hợp đồng trong hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế, Chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh ban hành kèm theo Nghị định số 735/TTg ngày 10/4/1956. Việc thi hành điều lệ tạm thời về hợp đồng trong hoạt động kinh doanh đã góp phần vào công việc khôi phục và phát triển kinh tế đất nước, động viên sự đóng góp của các thành phần kinh tế. Có thể nói điều lệ tạm thời này là văn bản pháp luật đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời của chế độ hợp đồng kinh tế ở nước ta. Năm 1960 khi mà chúng ta đã căn bản hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN và mở đầu cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Lúc bấy giờ trong nền kinh tế về cơ bản chỉ tổn tại hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Hoạt động kinh tế phải tuân theo kế hoạch thống nhất của nhà nước. Trong điều kiện đó, Chính phủ đã ban hành Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 04/TTg ngày 4/1/1960 để thay thế điều lệ cũ. Có thể nói đây là sự ra đời của chế độ hợp đồng kinh tế ở nước ta. Hợp đồng kinh tế nói trong điều lệ tạm thời này là hoạt động sản xuất về cung ứng và tiêu thụ hàng hóa về vận tải, bao thầu xây dựng…Cở sở để ký kết hợp đồng kinh tế là chỉ tiêu kế hoạch. Theo đó, hợp đồng kinh tế chỉ tồn tại trong khu vực kinh tế quốc doanh. Điều lệ tạm thời số 375/TTg được áp dụng đến năm 1975. Ngày 10/3/1975 Chính phủ đã ban hành điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế kèm theo Nghị định số 54-CP của Chính phủ. Điều lệ này tồn tại được 15 năm trong giai đoạn kế hoạch hóa cao độ của nước ta. Đến năm 1986 Đại hội Đảng đề ra đường lối cải cách sâu rộng cả về kinh tế, xã hội mà trước tiên là cải cách nền kinh tế. Vì vậy điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định số 54 không còn phù hợp nữa, đòi hỏi phải có một văn bản pháp luật mới thay thế. * Giai đoạn từ năm 1989 đến 2005 Ngày 25/5/1989, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban hành, và là văn bản pháp luật đã điều chỉnh quan hệ kinh tế một cách chung nhất trong bối cảnh những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Các văn bản được ban hành sau đó như Nghị định 17/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/1/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh và nhiều văn bản khác hướng dẫn của cơ quan có liên quan hình thành nên một hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ngày càng tỏ ra không phù hợp với sự sôi động của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy cũng đã có nhiều quan điểm khác nhau về sự tồn tại, sửa đổi thay vì bỏ Pháp lệnh hợp đồng kinh tế hoặc đưa ra những chế định hợp đồng trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế vào Bộ luật dân sự. Năm 1995, Quốc hội đã thông qua Bộ Luật dân sự với 838 điều, đánh dấu một bước quan trọng vì xét về đối tượng điều chỉnh phạm vi áp dụng đến nội dung cũng như kỹ thuật lập pháp, có thể nói Bộ luật dân sự đã góp phần vô cùng quan trọng vào việc thực hiện chính sách đổi mới và nhất là việc dân sự hoá các quan hệ xã hôi vốn đã được hành chính hoá trong nhiều năm duy trì cơ chế quản lý tập trung kế hoạch hoá, nhất là các quy định về chế độ hợp đồng. Hoạt động đại lý trong nền kinh tế thị trường diễn ra ngày càng sôi động, chính vì vậy mà Chính phủ ban hành Nghị định 25/CP ngày 25/4/1996 về quy chế đại lý mua bán hàng hoá để điều chỉnh các hợp đồng đại lý. Từ giai đoạn này mới có một văn bản pháp luật riêng rã điều chỉnh hoạt động đại lý. Còn trước đó lĩnh vực này cũng được các quy định của hợp đồng kinh tế điều chỉnh. Nhưng hoạt động thương mại ngày càng phát triển mạnh mẽ đòi hỏi phải có một văn bản pháp luật riêng điều chỉnh. Để đáp ứng nhu cầu mới của nền kinh tế, Luật thương mại đã được Quốc hội thông qua ngày 10/5/1997 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1998: Trong đó có quy định về hợp đồng đại lý. Về bản chất, Luật thương mại sẽ bổ sung cho Bộ luật dân sự. Do vậy, các quy định của hợp đồng thương mại trong Luật thương mại được xây dựng và cụ thể hoá trên các nguyên tắc của hợp đồng dân sự. Sau hơn 7 năm có hiệu lực áp dụng, Luật thương mại cũng đã bộc lộ nhiều bất cập và thiếu đồng bộ cần phải sửa đổi. * Giai đoạn 2005 – nay Đây là giai đoạn mà nước ta có nhiều thay đổi nhất và cũng là gai đoạn mở cửa hội nhập mạnh mẽ nhất của nền kinh tế nước ta. Trong giai đoạn này, để hội nhập và giao lưu với thế giới chúng ta gần như đã phải thay đổi và hoàn thiện toàn bộ pháp luật của mình. Hàng loạt các đạo luật mới được ban hành và thay thế. Trong đó có sự thay đổi hai văn bản pháp luật đáng chú ý, đó là sự thay thể Bộ luật dân sự năm 1995 bằng Bộ luật dân sự mới có hiệu lực vào năm 2005 và Luật thương mại 1997 được thay thể bằng Luật thương mại mới có hiệu lực vào năm 2006. Hai văn bản luật này tuy mới đi vào thực tế nhưng đã chứng minh sự ưu việt hơn hẳn các văn bản pháp luật trước đó. Trước đây các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh vô cùng phức tạp, rắc rối. Các văn bản pháp luật chồng chéo nhau, tuy cùng điều chỉnh một họat động kinh tế (Luật thương mại 1997, Luật Doanh nghiệp Nhà Nước 2003, Luật hợp tác xã 2003, Pháp Lệnh hợp đồng kinh tế 1989,…). Nhưng từ khi hai văn bản pháp luật trên được ban hành, kéo theo đó là sự hết hiệu lực của các đạo luật cũ ở trên. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, tính ưu việt được thể hiện rõ nét nhất với việc: Luật thương mại đã điều chỉnh được hầu hết các quan hệ kinh doanh thương mại phát sinh trong thời kì mới. Trong hoạt động đại lý, với Luật thương mại cũ thì chỉ có đại lý bán hàng, còn Luật thương mại mới hoạt động đại lý đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực hàng hoá dịch vụ và các hoạt động khác mang tính thương mại. Như vậy phạm vi của hoạt động kinh doanh thương mại đã được mở rộng tối đa trong giai đoạn hiện tại nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh của các chủ thể. 1.3 Khái quát về đại lý thương mại Theo điều 3 Luật thương mại hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Hoạt động đại lý cũng là một trong các hoạt động thương mại do đó cũng thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại. Theo điều 166 Luật thương mại thì đại lý thương mại là hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao. Chủ thể của hợp đồng đại lý, theo điều 167 Luật thương mại thì bao gồm bên giao đại lý và bên đại lý. Trong đó, bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền mua hàng để làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch vụ. Phương thức đại lý có một số khác biệt căn bản với các phương thức khác. Bên giao đại lý không phải là người sử dụng hàng hoá, dịch vụ của bên đại lý. Hàng hoá, dịch vụ được giao cho bên đại lý để cung cấp cho người thứ ba nhưng khi giao hàng thì hàng hoá, dịch vụ vẫn thuộc sở hữu của bên đại lý nếu không có thoả thuận khác. Như vậy, đại lý là trung gian giữa người mua và người bán. Bên giao đại lý được hưởng thù lao từ bên giao đại lý qua việc bán hàng, cung cấp dịch vụ, khoản thù lao này chủ yếu dưới hình thức là hoa hồng. Như vậy, số tiền thù lao này cao hay thấp phụ thuộc vào số lượng hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ của bên đại lý. Ngoài ra để khuyến khích các đại lý bên giao đại lý còn có các phần thưởng, sự hỗ trợ để các đại lý hoạt động tốt. Bên đại lý phải thoả mãn cơ sở vật chất cũng như kênh phân phối sản phẩm và các điều kiện khác nếu có, vì đại lý với tư cách là người đại diện của bên giao đại lý đối với khách hàng, họ phải bảo đảm được uy tín và hình ảnh của bên giao đại lý đối với khách hàng. Theo điều 169 Luật thương mại 2005, quy định 3 hình thức đại lý. Cụ thể: * Đại lý bao tiêu là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán trọn vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ cho bên giao đại lý. * Đại lý độc quyền là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định bên giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt hàng hoặc cung ứng một hoặc một số loại dịch vụ nhất định. * Tổng đại lý mua bán hoá, cung ứng dịch vụ là hình thức đại lý mà bên đại lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực thuộc hoạt động dưới sự quản lý của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý Ngoài ra còn có các hình thức đại lý khác do các bên tự thoả thuận. 1.4 Những điểm mới về hợp đồng đại lý trong Luật thương mại 2005 Có thể nói luật thương mại 2005 ra đời đã đưa hạt động thương mại lên đúng vị trí của nó, điểu này được thể hiện rất rõ trong phạm vi điều chỉnh của nó. Theo Luật thương mại 2005 phạm vi áp dụng là tất cả các hoạt động thương mại phát sinh bên trong và bên ngoài lãnh thổ Việt nam miễm là các bên thoả thuận áp dụng nó, chủ thể tham gia có thể là các cá nhân hoạt động thương mại một cách thường xuyên và độc lập không cần có đăng kí kinh doanh. Còn Luật thượng mại 1997 chỉ có phạm vi và đối tượng áp dụng vô cùng nhỏ hẹp trong lãnh thổ Việt nam và để kí kết hợp đồng thì các chủ thể phải có đăng kí kinh doanh. Còn trong hoạt động đại lý: Cụm từ “Đại lý mua bán hàng hoá” được thay thế bàng cụm từ “Đại lý thương mại”. Cụm từ này đã bao quát hầu hết sự thay đổi trong hoạt động đại lý trong Luật thương mại mới. Theo luật thương mại 2005, đối tượng điều chỉnh của hoạt động đại lý không chỉ dừng lại ở những hàng hoá hữu hình nữa, mà đã mở rộng ra các lĩnh vực dịch vụ. Đây có thể là sự thay đổi quan trọng nhất, sự thay đổi này chứng tỏ vai trò của hoạt động dịch vụ ngày càng được phát triển mạnh mẽ. Còn các hoạt động sản xuất, mua bán…không còn chiếm vị trí độc tôn như trước nữa. Hiện nay xu thế chung của thế giới là phát triển nền công nghiệp dịch vụ thay thế cho công nghiệp sản xuất. Ngoài ra trong Luật thương mại còn có rất nhiều điểm mới cần chú ý, nhưng trong phạm vi của bài viết có hạn nên không thể đề cập đến. 2. Giao kết hợp đồng đại lý 2.1 Nguyên tắc giao kết hợp đồng đại lý * Nguyên tắc tự nguyện: Nội dung chính của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: việc giao kết hợp đồng thương mại phải dựa trên cơ sở tự do ý chí của các bên trong quan hệ hợp đồng, bất kỳ cơ quan, tổ chức hay cá nhân đều không được áp đặt ý chí của mình cho bên tham gia quan hệ hợp đồng. Khi xác lập quan hệ hợp đồng các chủ thể có quyền tự do lựa chọn bạn hàng, thời điểm giao kết, bàn bạc, thoả thuận nội dung của hợp đồng. Tuy nhiên, các bên khi sử dụng quyền giao kết hợp đồng phải tuân theo các quy định. Không được phép lợi dụng giao kết hợp đồng kinh tế để hoạt động trái pháp luật. Đối với các tổ chức kinh tế chức năng sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực thuộc đặc quyền của Nhà nước thì không được lợi dụng quyền giao kết hợp đồng để đòi hỏi điều kiện bất bình đẳng với bạn hàng. * Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi: Trong quan hệ kinh doanh thì lợi ích là động lực thúc đẩy hành động của các chủ thể. Theo nguyên tắc này thì nội dung của hợp đồng đảm bảo được lợi ích kinh tế của các bên cũng như sự tương ứng về quyền và nghĩa vụ đối với bất cứ tổ chức, cá nhân thuộc thành phần kinh tế nào. Tính bình đẳng này không phụ thuộc vào quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý của chủ thể. * Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản: Các bên tham gia quan hệ hợp đồng kinh tế phải tự mình gáng vác trách nhiệm tài sản, gồm phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại khi có hành vi vi phạm hợp đồng đã giao kết. Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế khác không thể đứng ra chịu trách nhiệm tài sản thay cho bên vi phạm. * Nguyên tắc không trái với pháp luật đòi hỏi việc giao kết và thực hiện hợp đồng phải hợp pháp: Điều này có nghĩa là mọi thoả thuận trong hợp đồng phải hoàn toàn không trái với những quy định của pháp luật, không được lợi dụng giao kết hợp đồng để hoạt động trái pháp luật. Vấn đề này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế, cũng như hợp đồng thương mại. 2.2 Chủ thể giao kết hợp đồng đại lý Chủ thể giao kết hợp đồng đại lý là thương nhân, Theo điều 6 Luật thương mại thì thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân được quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức mà pháp luật không cấm. 2.3 Nội dung giao kết hợp đồng đại lý Trong luật thương mại không quy định nội dung giao kết của hợp đồng đại lý thương mại, nhưng trên cơ sở quyền và nghĩa vụ của các bên, chúng ta có thể khái quát nội đung giao kết thành các điều khoản sau. * Điều khoản chủ yếu: Đây là những điều khoản băt buộc không thể thiếu trong hợp đồng. Nếu thiếu một trong các điều khoản này thì hợp đồng không có giá trị pháp lý. Các điều khoản chủ yếu gồm các điều kiện sau: Họ tên và địa chỉ pháp lý của các bên giao kết hợp đồng thương mại. Hàng hoá dịch vụ mà các bên thoả thuận làm đại lý. Chủng loại hàng hoá các bên thoả thuận đại lý. Thời hạn phương thức và điạ điểm giao hàng. Giá cả và chiết khấu. Phương thức và địa điểm thanh toán. Chế độ thưởng phạt và bồi thường thiệt hại. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng. * Điều khoản tuỳ nghi: là những điều khoản mà các bên thoả thuận với nhau trong khuôn khổ pháp luật. Khi một văn bản pháp luật quy định các bên có thể thoả thuận với nhau về một số điều khoản nào đó, thì các bên có quyền thoả thuận hoặc không thoả thuận. Nếu thoả thuận thì các bên có nghĩa vụ phải thực hiện các điều khoản đó, còn không thoả thuận thi nghiễm nhiên không phải thực hiện. Trong hợp đồng thương mại thì các điều khoản về thoả thuận trong tài giải quyết tranh chấp, hoà giải, kiểm dịch, giám định ... là những điều khoản tuỳ nghi mà các bên có thể thoả thuận với nhau. * Điều khoản thường lệ: Là những điều khoản mà nội dung của nó đã được quy định sẵn trong các văn bản quy phạm pháp luật. Các bên có thể lựa chọn đưa hoặc không đưa vào trong hợp đồng, nhưng theo quy định của pháp luật thì các bên tham gia giao kết hợp đồng vẫn phải thực hiện như là một điều khoản bắt buộc. Trong hợp đồng nói chung hợp đồng thương mại nói riêng thì các điều khoản về khung hình phạt, các điều khoản về trình thụ thủ tục giải quyết tranh chấp là bắt buộc với các bên. 2.4 Hình thức giao kết hợp đồng đại lý Là cách thức mà các bên thể hiện ý chí của mình trong quá trình giao kết hợp đồng. Theo Bộ luật dân sự thì hình thức của hợp đồng có thể là văn bản, lời nói, hành vi hoặc các hình thức khác. Khi pháp luật quy định hình thức của hợp đồng được thực hiện theo một hình thức nhất định thì hợp đồng phải được giao kết theo hình thức đó mới có hiệu lực pháp luật. Theo Luật thương mại, hình thức của hợp đồng là văn bản và các loại tài liệu giao dịch khác có giá trị pháp lý tương đương văn bản như điện báo, telex, fax, và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên các văn bản pháp luật của một số nước cũng quy định rất khác nhau về hình thức của hợp đồng. Luật của nước Anh quy định những hợp đồng có giá trị từ 10 bảng Anh thì phải giao kết bằng văn bản, luật của Mỹ lại quy định những hợp đồng giao kết có giá trị từ 500$ trở lên thì phải giao kết bằng văn bản. Còn theo Công ước Viên 1980 thì quy định hợp đồng không bị giới hạn bởi hình thức, miễn là các bên có thể chứng minh hợp đồng đã được giao kết. 2.5 Trình tự thủ tục giao kết hợp đồng đại lý Bất cứ loại hợp đồng nào cũng phải được giao kết theo một trình tự thủ tục nhất định, đó là các cách thức, các bước mà các bên phải tiến hành nhằm xác lập một quan hệ hợp đồng có giá trị pháp lý. Trong hoạt động thương mại tồn tại hai hình thức giao kết hợp đồng, giao kết trực tiếp và giao kết gián tiếp. * Giao kết trực tiếp: là trường hợp đại diện của các bên trực tiếp gặp gỡ nhau và cùng trao đổi với nhau về các điều khoản trong hợp đồng. Sau khi trao đổi bàn bạc kỹ lưỡng các bên đi đến thống nhất các nội dung và tiến hành ký kết hợp đồng. Hiện nay hình thức này là hình thức giao kết nhanh chóng và hiệu quả nhất. Trong hoạt động thương mại, những hợp đồng quan trọng các bên thường trực tiếp gặp gỡ nhau rồi tiến hành đàm phán đi đến kí hợp đồng. * Giao kết gián tiếp: là phương thức giao kết mà theo đó các bên gửi cho nhau văn bản, tài liệu giao dịch (công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng) chứa đựng các nội dung giao dịch. Quá trình giao kết gián tiếp thường trải qua hai giai đoạn. - Giai đoạn một: Một bên đề nghị hợp đồng thông báo ý định giao kết cho bên mời giao kết. Trong đề nghị đưa ra phải đưa ra đầy đủ các nội dung định giao dịch. Lời đề nghị này phải rõ ràng chính xác tránh gây hiểu lầm cho bên kia. - Giai đoạn hai: Bên được đề nghị sau khi nhận được văn bản tài liệu giao dịch tiến hành xem xét kiểm tra các nội dung nghi trong tài liệu. Sau khi tìm hiểu kĩ các nội dung sẽ trả lời cho bên đề nghị biết có đồng ý hay không đồng ý với những nội dung trong tài liệu. Nếu đồng ý một số nội dung và bổ xung thêm nội dung mới thì coi như một đề nghị giao kết mới. Bên dược đề nghị trở thành bên đề nghị. Hợp đồng giao kết bằng hình thức gián tiếp được coi là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận dược tài iệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận về tất cả các điều khoản trong nội dung của hợp đồng. Căn cứ xác định sự giao kết hợp đồng là bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự đồng ý. Bộ luật dân sự và Luật thương mại quy định về giao kết hợp đồng, thời hạn trả lời giao kết hợp đồng, điều kiện thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng khá chi tiết và đầy đủ. 3. Thực hiện hợp đồng đại lý 3 .1 Nguyên tắc thực hiện hợp đồng đại lý Các bên có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung trong hợp đồng đại lý trên tinh thần hợp tác, tôn trọng lợi ích của nhau. Thực hiện đúng có nghĩa là thực hiện đúng đối tượng, chất lượng chủng loại, thời hạn, giá và phương thức thanh toán cũng như các thoả thuận khác. Hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng. Theo nguyên tắc này, các bên phải hợp tác thường xuyên theo đó quá trình thực hiện hợp đồng giúp đỡ lẫn nhau khắc phục khó khăn đồng thời thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết. Ngay cả khi tranh chấp xảy ra các bên phải chủ động thương lượng giải quyết. Như vậy, nguyên tắc này không chỉ có ý nghĩa trong thực tế thực hiện hợp đồng mà còn giúp phòng ngừa ngăn chặn và giải quyết các tranh chấp có thể sảy ra. 3.2 Các biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng đại lý Các biện pháp bảo đảm được quy định hết sức cụ thể trong bộ luật dân sự. Theo điều 324 có các biện pháp sau: * Cầm cố tài sản: Là dùng tài sản thuộc quyền sở hửu của mình để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Việc cầm cố tài sản phải lập thành văn bản. Người giữ vật cầm cố phải có nghĩa vụ bảo quản, không được bán, tặng, cho thuê, cho mượn, trao đổi tài sản cầm cố trong thời hạn văn bản cầm cố tài sản còn hiệu lực. * Thế chấp tài sản: là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng. Bên thế chấp tài sản phải có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản, không được chuyển dịch quyền tài sản cho người khác trong thời hạn văn bản thế chấp có hiệu lực pháp lý. * Bảo lãnh tài sản: là sự bảo đảm tài sản thuộc quyền sở hữu của người nhận bảo lãnh để chịu trách nhiệm về tài sản thay cho người được bảo lãnh khi người này vi phạm hợp đồng đã giao kết. Người nhận bảo lãnh phải có tài sản không ít hơn giá trị hợp đồng được bảo lãnh. * Đặt cọc: là trường hợp một bên gaio cho bên kia một tài sản (tiền, kim khí quý,...) để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng. * Ngoài các hình thức trên trong Bộ luật dân sự còn có các hình thức khác như là: kí cược, kí quỹ, phạt vị phạm và các hình thức khác theo thoả thuận của các bên. 4. Sửa đổi, chấm dứt, huỷ bỏ hợp đồng đại lý. Luật thương mại không quy định các trường hợp sửa đổi, chấm dứt, thanh lý hợp đồng đại lý. Nhưng trong bộ luật dân sự có quy định khá cụ thể và chi tiết về các trường hợp này. * Sửa đổi hợp đồng: Hợp đồng đại lý là loại hợp đồng được soạn thảo bằng văn bản và các loại hình khác có giá trị pháp lý tương đương. Hơn nữa hình thức giao kết hợp đồng đại lý là hình thức giao kết trực tiếp. Chính vì lẽ đó khi có sửa đổi hợp đồng đại lý các bên nhất thiết phải găp gỡ trao đổi các điều khoản cần sửa đổi, sau đó đi đến thống nhất các điều khoản cần sửa đổi. Sau khi sửa đổi xong các bên sẽ chính thức coi các điều k._.hoản đó là các điều khoản trong nội dung của hợp đồng mới. * Chấm dứt hợp đồng đại lý trong các trường hợp sau: - Hợp đồng đại lý đã hoàn thành. - Theo thoả thuận của các bên. - Pháp nhân hoặc các chủ thế khác chấm dứt mà không phải do chính pháp nhân hay chủ thể đó thực hiện. - Hợp đồng bị huỷ bỏ, bị đơn phương chấm dứt. - Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thoả thuận thay thế đối tương khác hoặc bồi thường thiệt hại. - Các trường hợp khác do pháp luật quy định. * Huỷ bỏ hợp đồng. Các bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng trong các trường hợp sau: nếu một bên đơn phương huỷ bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vị phạm hợp là điều kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Bên huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc huỷ bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại 5. Trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng * Buộc thực hiện đúng hợp đồng: là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng hoá khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng hoá khác chủng loại, dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm. * Phạt vi phạm : là trường hợp bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thảo thuận. Mức phạt tối đa đối với điều vi phạm hợp đồng do các bên thoả thuận nhưng không được quá 8% phần giá trị hợp đồng bị vi phạm. * Bồi thường thiệt hại : là trường hợp bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là có hành vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế và hành vi vi pham hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. * Tạm ngừng thực hiện hợp đồng : là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Tạm ngừng trong những trường hợp sau đây: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã đề thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. * Đình chỉ thực hiện hợp đồng : là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đinh chỉ hợp đồng hoặc một bên vi phạm cơ bản những nghĩa vụ hợp đồng. * Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hai trường hợp: huỷ bỏ toàn bộ nội dung hợp đồng và huỷ bỏ một phần nội dung hợp đồng. Huỷ bỏ toàn bộ nội dung hợp đồng là việc loại bỏ hoàn toàn tất cả các nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bội hợp đồng. Huỷ bỏ một phần nội dung hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các phần còn lại vẫn có hiệu lực. Huỷ bỏ hợp đồng trong trường hợp giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ từng phần, nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình trong việc giao hàng, cung ứng dịch vụ và việc này cấu thành một hành vi vi phạm cơ bản đối với lần giao hàng, cung ừng dịch vụ đó thì bên có quyền tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng đối với lần giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ đó. 6. Giải quyết tranh chấp hợp đồng đại lý 6.1 Giải quyết bằng thương lượng Khi có tranh chấp sảy ra, việc đầu tiên là các bên tiến hành gặp gỡ nhau cùng trao đổi bàn bạc giải quyết tranh chấp. Đây là hình thức đơn giản nhất và thường hay gặp nhất khi có vi phạm sảy ra. Hình thức này vừa đơn giản vừa không tốn kém, vì vậy các bên thương chọn phương pháp này là bước đầu tiên của quá trình giải quyết tranh chấp. Nếu các bên có thể tự thương lượng giải quyết đươc với nhau thì sẽ không phải tiến hành các biện pháp tiếp theo. Nhưng khi tranh chấp chưa được giải quyết thì các bên có thể lựa chọn một trong các hình thức giải quyết sau. 6.2 Giải quyết bằng hoà giải Hoà giải là đưa các bên đến người thứ ba để giải quyết tranh chấp, nếu hoà giải thành công, thoả thuận hoà giải được lập thành biên bản hoà giải có chữ ký của các bên và của hòa giải viên. Trong quá trình hoà giải, với thoả thuận giữa các bên, hoà giải viên luôn cố gằng trình bày cho các bên thấy được những triển vọng tốt đẹp nhất để từ đó hoà giải các quan điểm khác nhau, và vì vậy, chuyển tình huống tranh chấp thành sự hoà giải. Hoà giải viên tiến hành quy trình hoà giải mà họ cho rằng theo nguyên tắc vô tư công bằng và theo công lý. Các đề nghị hoặc kiến nghị của hoà giải viên không có giá trị ràng buộc do vậy các bên có thể tự do áp dụng hoặc khước từ. Tuy nhiên các bên có thể đưa các đề nghị của hoà giải viên và một hợp đồng đã ký kết hoặc một quyết định ràng buộc được các bên thoả thuận với nhau. 6.3 Giải quyết bằng trọng tài Đây là phương thức giả quyết tranh chấp bằng cách giao vấn đề tranh chấp cho bên thứ ba là các trọng tài để họ phân xử và đưa ra quyết định cuối cùng trong trường hợp các bên không thể dàn xếp được với nhau mà không muốn đưa tranh chấp ra toà án giải quyết. Pháp lệnh trọng tài thương mại được Quốc hội thông qua 12/3/2003, quy định về tổ chức và tố tụng trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp giữa các bên trong hoạt động thương mại theo sự thoả thuận của các bên và theo quy định của pháp luật. Theo pháp lệnh này “Hoạt động thương mại là việc một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức, kinh doanh bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, phân phối đại diện, đại lý thương mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn, kĩ thuật, lixăng, đầu tư; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật” (điều 2.3). Đặc điểm của phương pháp giải quyết tranh chấp bằng trọng tài: phải có sự thoả thuận của các bên về việc đưa tranh chấp ra giải quyết bằng trọng tài. Thoả thuận đó có thể là một điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc một thoả thuận trọng tài riêng biệt được lập sau khi tranh chấp phát sinh .Toàn bộ quá trình trọng tài được coi như sự thể hiện ý chí của các bên dựa trên quyền tự chủ của họ. Một khi thoả thuận trọng tài có hiệu lực thì không một bên nào có quyền rút lui ý kiến. Điều khoản trọng tài được coi là độc lập với các điều khoản khác trong hợp đồng chính nên ngay cả khi hợp đồng chính đã kết thúc hoặc vô hiệu thì cũng không làm điều khoản trọng tài vô hiệu một cách tương ứng (Điều11 pháp lệnh trọng tài thương mại 2003). Hội đồng trọng tài sẽ ra quyết định sau khi cân nhắc mọi chứng cứ và lập luận của các bên. Các bên tranh chấp thoả thuận giao cho trọng tài quyền và nghĩa vụ phải ra các phán quyết, quyết định có tính bắt buộc đối với các bên. Để ra được phán quyết, quyết định trọng tài phải tuân theo các trình tự, thủ tục tố tụng nhất định do các bên lựa chọn , bao gồm những quy định cơ bản sau đây: - Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ; - Thoả thuận trọng tài; - Khởi kiện; - Thành lập hội đồng trọng tài; - Chuẩn bị giải quyết tranh chấp; - Phiên họp giải quyết tranh chấp ; - Quyết định trọng tài ; - Huỷ quyết định trọng tài ; - Thi hành quyết định trọng tài. Nếu quy trình tố tụng này không được tuân thủ, một hoặc các bên không có được cơ hội công bằng để trình bày trường hợp của mình trước hội đồng trọng tài thì quyết định của trọng tài có thể sẽ không được công nhận và cho thi hành. Dưới góc độ này, trọng tài gần với toà án nhưng so với phương pháp giải quyết tranh chấp bằng toà án thì tố tụng trọng tài có một số ưu điểm là: Đỡ tốn kém thời gian, bảo toàn được bí mật kinh doanh (trọng tài được xét sử kín); tính phù hợp về chuyên môn nghiệp vụ kinh doanh của các quyết định trọng tài (do các trọng tài viên thường là các chuyên gia trong lĩnh vực kĩ thuật, các thương nhân có uy tín, kinh nghiệm....), tính khách quan trung lập của trọng tài. Các quyết định phán quyết của trọng tài có thể được toà án công nhận và cho thi hành thông qua một thủ tục tư pháp. Mặc dù phán quyết của trọng tài là kết quả của sự thoả thuận có tính chất riêng tư giữa các bên tranh chấp và do hội đồng trọng tài ban hành (mà bản thân hợp đồng dó chấm dứt nhiệm vụ và không còn tồn tại sau khi ra phán quyết) nhưng giá trị bắt buộc của phán quyết trọng tài đối với các bên vẫn được pháp luật Việt nam công nhận. Giải quyết tranh chấp bằng phương pháp trọng tài thực sự đi vào đời sống, điển hình như trung tâm trọng tai quốc tế tại Việt Nam nằm bên cạnh phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VIAC) đã được các chủ thể kinh doanh thường xuyên lựa chọn làm cơ quan xét xử tranh chấp phát sinh từ hoạt động ký kết và thực hiện hợp đồng, với thủ tục xét xử của trung tâm được tiến hành theo quy tắc của VIAC. 6.4 Giải quyết bằng toà án Theo điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 quy định thẩm quyền của toà án. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng kí kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: -Mua bán hàng hoá; -Cung ứng dịch vụ; -Phân phối; -Đại diện đại lý; -Ký gửi; -Thuê, cho thuê, thuê mua; -Tư vấn về kỹ thuật; -Xây dựng; -Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt đường thuỷ, nội địa; -Vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không , đường biển; -Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá trị khác; -Đầu tư, tài chính, ngân hàng; -Bảo hiểm; -Thăm dò, khai thác; Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau có mục đích lợi nhuận. Tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sát nhập, hợp nhất, chia tách chuyển đổi hình thức của công ty. Các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định. Như vậy thẩm quyền giải quyết của toà án bao gồm rất nhiều hoạt động trong lĩnh vực kịnh doanh thương mại, tuy nhiên chủ thể của hợp đồng chỉ gồm cá nhân và tổ chức, với mục đích là lợi nhuận, trong đó hợp đồng đại lý với mục đích và chủ thể như trên là do toà án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Thủ tục giải quyết các vụ án theo bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 bao gổm các bước sau: -Khởi kiện và thụ lý vụ án; -Chuẩn bị xét xử vụ án; -Phiên toà sơ thẩm; -Thủ tục phúc thẩm; -Thủ tục xem xét lại bản án (quyết định) đã có hiệu lực pháp luật; -Thi hành bản án (quyết định) của toà án; Ngoài ra các tranh chấp hợp đồng được giải quyết bằng 2 cơ quan toà án khác nhau là Toà Kinh tế và Toà Dân sự. Theo quy định hiện hành thì Toà Kinh tế và Toà Dân sự có chức năng khác nhau. Toà Dân sự có nhiệm vụ giải quyết các vụ việc dân sự trong đó có tranh chấp về hợp đồng dân sự, Toà Kinh tế có nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp kinh tế trong đó có cả các tranh chấp về hợp đồng đại lý. Như vậy thuận lợi của toà án là có tính bắt buộc và cưỡng chế rất cao. Tố tụng tại Tòa án, các bên không phải trả thù lao cho Thẩm phán, ngoài ra phí hành chính rất hợp lý, các bên tranh chấp chỉ mất chi phí cho các luật sư trong việc tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi cho họ. Các Tòa án, đại diện cho chủ quyền quốc gia, có thể triệu tập bên thứ ba và nhân chứng ra trước Tòa án, đây là quyền cưỡng chế mà trọng tài viên không có. Tuy nhiên, phương pháp này có nhiều bất lợi vì thủ tục xét xử công khai sẽ không cho phép các bên giữ được bí mật kinh doanh và quá trình xết xử kéo dài phức tạp. Còn phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại có rất nhiều ưu điểm nổi bật. Thứ nhất: về tính chung thẩm, phán quyết của Tòa án thường bị kháng cáo hay kháng nghị. Còn đa số các quyết định Trọng tài không bị kháng cáo, chỉ có thể dựa vào một vài lý do để khước từ quyết định Trọng tài tại Tòa án. Và thường lý do đó là do những sai sót trong thủ tục cơ bản. Thứ hai: về tính trung lập, Mặc dù Thẩm phán có thể khách quan xong họ vẫn phải phụ thuộc vào những quy định của pháp luật, sử dụng ngôn ngữ và áp dụng quy tắc tố tụng do pháp luật quy định gắn liền với quốc tịch của các họ. Còn các bên có thể bình đẳng về nơi tiến hành Trọng tài, ngôn ngữ sử dụng, quy tắc tố tụng, quốc tịch của các trọng tài viên, và đại diện pháp lý khi đưa tranh chấp của mình ra giải quyết tại Trọng tài. Thứ ba: không phải tất cả các Thẩm phán đề có chuyên môn về lĩnh vực nào đó. Ví dụ, trong các tranh chấp về sáng chế, ngân hàng. Trong các vụ kiện kéo dài, có thể có nhiều Thẩm phán kế tiếp nhau xét xử vụ kiện. Việc xét xử hai cấp đã thấy rõ điều đó, Thẩm phán giải quyết tại phiên tòa sơ thẩm khác với Thẩm phán tại phiên phúc thẩm. Khi giải quyết tại Trọng tài thì lại khác, các bên có thể lựa chọn các trọng tài viên có trình độ chuyên môn cao miễn là trọng tài viên độc lập. Thông thường thì các trọng tài viên theo kiện từ đầu đến cuối. Thứ tư: về tính linh hoạt, đa số các quy tắc tố tụng Trọng tài quy định rất linh hoạt việc xác định thủ tục Trọng tài, phiên họp giải quyết tranh chấp, thời hạn, địa điểm tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và nơi các trọng tài viên gặp gỡ, thời gian soạn thảo quyết định trọng tài. Còn Tòa án bị ràng buộc nghiêm ngặt bởi các quy tắc tố tụng của pháp luật. Thứ năm: về tính bí mật, các phiên xét xử cũng như các phán quyết Tòa án là công khai. Còn các phiên giải quyết tranh chấp của Trọng tài không được tổ chức công khai và chỉ có các bên nhận được quyết định. Đây là một ưu điểm lớn của Trọng tài khi vụ kiện liên quan đến các bí mật thương mại hay phát minh, các đìều khoản chính trong hợp đồng bao gồm cả những điều khoản về tính bí mật phải tuân thủ trong tố tụng trọng tài. Bởi tính bí mật là rất quan trọng trong tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ nên các điều khoản bổ sung về tính bí mật có thể được các bên lập hoặc được trọng tài viên lập để đảm bảo tính bí mật trong tố tụng Trọng tài. Thứ sáu: phán quyết của Tòa án thường rất khó đạt được sự công nhận quốc tế, phán quyết của Tòa án được công nhận tại một nước khác thường thông qua một hiệp định song phương hoặc theo các quy tắc rất nghiêm ngặt. Còn quyết định trọng tài đạt được sự công nhận quốc tế thông qua một loạt các công ước quốc tế và đặc biệt là công ước New York năm 1958 về công nhận và thi hành quyết định của trọng tài nước ngoài. Chính vì những ưu điểm trên của hình thức giải quyết bằng trọng tài mà hiện nay trong hầu hết các tranh chấp thương mại, các chủ thể đều có ý định đưa tranh chấp ra trọng tài CHƯƠNG II THỰC TIỄN GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ TẠI CÔNG TY I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY XUÂN HOÀ 1. Lịch sử hình thành và phát triển của Công ty Xuân hoà 1.1 Giới thiệu chung về công ty Xuân Hoà Tên Công ty viết bằng tiếng việt: CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN XUÂN HOÀ Tên giao dịch băng tiếng việt: CÔNG TY XUÂN HOÀ Tên giao dịch quốc tế: XUAN HOA COMPANY Tên viết tắt: XUHA Co Trụ sở chính: Phường Xuân Hoà -Thị xã Phúc Yên - Tỉnh Vĩnh Phúc. Sồ điện thoại: 0211863244 Fax : 0211863019 Email: xuanhoa@hn.vnn.vn Webside: www.xuanhoa.com Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số: 109380 Ngành nghề kinh doanh: + Sản xuất, kinh doanh hàng trang thiết bị nội thất và trang thiết bị văn phòng, rắp ráp xe đạp xe máy, ống thép và phụ tùng xe đạp, xe máy, ô tô phục vụ cho nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu; liên doanh liên kết hợp tác đầu tư với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để mở rộng sản xuất kinh doanh của Công ty, được nhập khẩu nguyên, vật liệu, máy móc phụ tùng thiết bị phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty và thị trường. + Làm đại lý, mở cửa hàng tiêu thụ và giới thiệu sản phẩm của công ty và sản phẩm liên doanh liên kết; Dịch vụ cho thuê: bến bãi đỗ xe, văn phòng làm việc, nhà ở, siêu thị, kinh doanh bất động sản; kinh doanh các ngành nghề khác căn cứ vào năng lực của Công ty nhu cầu thị trường và được Pháp luật cho phép. Vốn điều lệ: 35.000.000.000,0 đồng (Ba mươi lăm tỷ đồng VN). Chủ sở hữu : UỶ BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI. Người đại diện pháp lý của Công ty: Chức danh: Chủ tịch Công ty kiêm Tổng giám đốc Họ và tên : Trần Quốc Lập Nam Sinh ngày : 14/7/1954 Dân tộc : Kinh Quốc tịch: Việt Nam Chứng minh nhân dân số: 012227176 Ngày cấp: 27/4/1999 Nơi cấp: Công an Thành Phố Hà Nội Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 15 - Đường 2/3 - Phường Láng Hạ - Quận Ba Đình – Thành phố Hà Nội Tên địa chỉ chi nhánh: Chi nhánh Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuân Hoà tại TP Hồ Chí Minh. Trụ sở : Số 558 - Đường Cộng Hoà - Phường 13 – Quận Tân Bình TP Hồ Chí Minh. Chi nhánh Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuân Hoà tại TP Hà Nội. Trụ sở : Số 7 Phố Yên Thế - Phường Điện Biên - Quận Ba Đình – TP Hà Nội. Tên địa chỉ đơn vị trực thuộc: Cơ sở sản xuất Đường Đông Lạnh - Thị Trấn Cầu Diễn - Huyện Từ Liêm – Thành Phố Hà Nội. 1.2 Khái quát lịch sử phát triển của Công ty Xuân Hòa Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại Miền Bắc, mà đỉnh cao là “Điện Biên Phủ trên không”, Chính phủ Mỹ buộc phải kí kết hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Bên cạnh những thuận lợi cơ bản thì nhân dân Miền Bắc phải đương đầu với rất nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh để lại. Vào thời điểm này Đảng và Nhà nước chủ trương khuyến khích sản xuất các mặt hàng phục vụ dân sinh, trong đó có việc sản xuất một nhà máy sản xuất xe đạp để phục vụ cho nhu cầu nhân dân. Nhà máy được lựa chọn đặt địa điểm trên vùng huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc (nay thuộc thị trấn Xuân Hoà huyện Mê Linh tỉnh Vỉnh Phúc) cách Hà Nội 42 Km, có công xuất thiết kế lắp ráp hoàn chỉnh 200.000 xe đạp/năm và các phụ tùng xe đạp như xích, vành, nan hoa, ghi đông phục vụ tiêu dùng. Công trình do nước Cộng hoà Pháp chuyển giao công nghệ, thiết bị. Giữa năm 1974, Bộ cơ khí luyện kim là chủ đầu tư đã điều động các lực lượng gồm đoàn thi công cơ giới 32, công trường xây lắp máy số 6 thuộc công ty xây lắp công trình cơ khí tiến hành khởi công xây đựng. Cuối năm 1977 phần xây dựng nhà xưởng về cơ bản đã xong, chuyển sang giai đoạn lắp đặt thiết bị Tháng 6-1979, Thủ tướng Chính phủ có quyết định chuyển công trình xe đạp Xuân Hoà từ Bộ cơ khí luyện kim sang cho UBND thành phố Hà Nội quản lý. Ngày 30-12-1980 trước sự chứng kiến của đại diện các cơ quan Nhà nước và Thành phố Hà Nội, Xí nghiệp chính thức khai trương. Năm năm (1980-19895) là giai đoạn đầu tiên hình thành Xí nghiệp về mọi mặt. Về tổ chức sản xuất đã phát triển dần theo hướng chuyên môn hoá. Nếu năm 1981 có 4 phân xưởng, 7 phòng ban thì năm 1985 có 7 phân xưởng, 11 phòng ban. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo điều hành được bồi dưỡng thử thách từ trong thực tiễn. Năm 1986 là một mốc quan trọng trọng lịch sử phát triển của đất nước. Nghị quyết Hội nghị TW 8 khoá VI chỉ rõ “Năm 1986 phải là năm cải cách nhằm xoá bỏ lề lối quản lý hành chính bao cấp chuyển sang hoạch toán kinh doanh có lãi…”. Bước sang năm 1989, kiên trì tư tưởng đổi mới của Đảng và Nhà nước và đề cao vai trò tự chủ của các đơn vị trong sản xuất kinh doanh. Với những trang thiềt bị công nghệ có sẵn ban lãnh đạo Xí nghiệp đã mạnh dạn đi vào hướng sản xuất mặt hàng nội thất. Quán triệt tư tưởng của đồng chí Nguyễn Văn Linh “Tự cứu lấy mình trước khi trời cứu…” một phong trào tìm kiếm sản phẩm mới dấy lên rộng khắp. Chỉ trong quý 3 năm 1989 Xí nghệp đã cho ra đời hàng chục mẫu mã bàn, nghế, giá… Đặc biệt là các loại nghế gấp kiểu Liên Xô, Thái Lan được khách hàng rất ưa chuộng. Việc chế tạo thành công các loại sản phẩm mới năm 1989 là một sự kiện lịch sử quan trọng của Xí nghiệp, tạo ra một hướng phát triển hoàn toàn mới. Sau những năm đổi mới thực hiện đường lối đổi mới nhất là trong hai năm 1989-1990, Xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà giành được những thắng lợi to lớn. Với bước đi thử nghiệm mạnh dạn chuuyển sang sản xuất mặt hàng nội thất, đã tạo đà cho xí nghiệp nhanh chóng tiếp cận với cơ chế thị trường, ổn định đời sống và phát triển sản xuất Trong xu thế phát triển chung của đất nước, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, ngày 7/10/1993 UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 5614- QĐ/UB, chuyển Xí nghiệp xe đạp Xuân Hoà thành công ty Xuân Hoà Cuối năm 1993 mở thêm chi nhánh ở Hà Nội (số 4 Thanh Nhàn). Đầu năm 1994 mở thêm chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh. Từ năm 1993-1995 mở 46 đại lý trên 31 tỉnh thành trong cả ba vùng miền trên cả nước. Tính đến năm 2000, sau gần 10 năm cố gắng nỗ lực đấu tư, Công ty đã trang bị lại gần như hoàn toàn hệ thống máy móc thiết bị, mỗi dây chuyền công nghệ hầu hết được cơ giới hoá tự động hoá, tạo sự thay đổi cơ bản về trình độ sản xuất, từ đó đưa Công ty trở thành một doanh nghiệp hàng đầu về hàng nội thất ở Việt Nam. Năm 1996 Công ty tham gia cùng 2 công ty Nhật Bản góp vốn thành lập công ty liên doanh TANICHI-VIETNAM, là một liên doanh làm ăn có hiệu quả. Đầu năm 1998 tiếp nhận cơ sở Cầu Diễn, và xây dựng thành một nhà máy sản xuất tủ văn phòng. Tháng 1-1999 tiếp nhận Công ty Sản xuất kinh doanh ngoại tỉnh (HACO), có trụ sở số 7 Yên Thế, quận Ba Đình làm Trung tâm thương mại và là nơi tiếp xúc giao dịch với khách hàng. Tháng 6-1999 xúc tiến chương trình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001. Sau một năm thực hiện, tháng 6-2000 đã được QMS của AUSTRALIA và Trung tâm chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn QUACERP cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn. Đến năm 2000 mở thêm 25 Đại lý nâng tổng số đại lý trên toàn quốc lên 61 Đại lý và hai chi nhánh ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Thị trường xuất khẩu đã hình thành và phát triển mạnh mẽ. Năm 1997 là năm đầu tiên xuất khẩu, đã thực hiện xuất khẩu được 130.000 USD. Năm 1998 đã đạt mức 2,2 triệuUSD chiếm 30% doanh thu. Để phù hợp với xu thế phát triển của xã hội trong thời kì hội nhập, căn cứ vào Nghị định số 63/2001/NĐ-CP của chính phủ ngày 14/9/2001về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước doanh nghiệp của các cơ quan tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội thành công ty TNHH một thành viên và căn cứ vào quyết định số 918 của UBND thành phố Hà Nội về việc phê duyệt danh sách các DNNN triển khai đổi mới thành Công ty TNHH nhà nước một thành viên. Ngày 23/8/2004 UBND thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 132/2004/QĐ-UB về việc chuyển Công ty Xuân Hoà thuộc Sở Công nghiệp Hà Nội thành Công ty TNHH nhà nước một thành viên. Từ đây Công ty ngày càng được tự chủ hơn về tất cả các lĩnh vực hoạt động vì vậy doanh thu của Công ty nhanh chóng tăng cao. 3. Tổ chức bộ máy tại Công ty 3.1 Cơ cấu tổ chức Theo điều 3 Quyết định 132/2004/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội, tổ chức Công ty gồm: - Chủ tịch Công ty. - Kế toán trưởng. - 03 Phó tổng giám đốc. - Tổng giám đốc Công ty. - Các phòng nghiệp vụ. - Các đợn vị trực thuộc. 3.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty Biểu 1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức Công ty (Nguồn từ hồ sơ dự thầu của Công ty) TGĐ PHÓ TGĐ3 BỘ PHẬN KHÁC PHÓ TGĐ 2 PHÓ TGĐ 1 PHÓ GĐ 2 PHÓ GĐ GĐPX PHỤ TÙNG GĐPX CƠ KHÍ GĐPX ỐNG THÉP PHÓ TGĐ 1 GĐPX CƠ DỤNG PHÓ GĐ PHÓ GĐ GĐPX MẠ PHÓ GĐ PHÓ GĐ 1 GĐPX MỘC PHÓ GĐ 1 PHÓ GĐ GĐPX CẦU DIẼN PHÓ TGĐ 2 PHÓ GĐ 2 GĐ NHÂN SỰ PHÓ GĐ GĐ CHẤT LƯỢNG PHÓ TGĐ 3 GĐ KỸ THUẬT PHÓ GĐ PHÓ GĐ 1 PHÓ GĐ 2 PHÓ GĐ 3 PHÓ GĐ GĐCN HCM GĐ BÁN HÀNG 2 GĐCN HÀ NỘI BỘ PHẬN KHÁC GĐ BÁN HÀNG 1 GĐ HÀNH CHÍNH GĐ TÀI CHÍNH PHÓ GĐ PHÓ GĐ 1 PHÓ GĐ 2 PHÓ GĐ 1 PHÓ GĐ PHÓ GĐ Tổng giám đốc kiêm Chủ tịch Công ty: là người đại diện hợp pháp của Công ty, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, đồng thời cũng chịu trách nhiệm trước toàn thể cán bộ CNV của Công ty về các vấn đề đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Phó tổng giám đốc: là người thay mặt tổng giám đốc điều hành những công việc mà tổng giám đốc giao phó. Các phó tổng giám đốc của Công ty gồm: Phó tổng giám đốc phụ trách về lĩnh vực sản xuất, chức năng phụ trách toàn bộ lĩnh vực sản xuất của Công ty, đảm cảo cho quá trình sản xuất được vận hành liên tục, nhịp nhàng giữa các phân xưởng. Phó tổng giám đốc phụ trách kỹ thuật, phụ trách toàn bộ khâu thiết kế mẫu mã và cải tiến kỹ thuật của Công ty. Phó tổng giám đốc nhân sự, phụ trách toàn bộ các lĩnh vực hành chính, nhân sự, điều phối luân chuyển cán bộ của Công ty. * Chức năng nhiệm vụ của một số phòng ban chính: - Phòng kỹ thuật: phụ trách những vấn đề về mặt kỹ thuật sản xuất, cải tiến và xây dựng quy trrình sản xuất, áp dụng những sáng kiến khoa học, kỹ thuật vào quy trình công nghệ. - Phòng kế hoạch: có nhiệm vụ xây dựng và tổ chức thực hiệm kế hoạch sản xuấ kinh doanh và điều động phân bổ nguyên vật liệu cho các phân xưởng có liên quan. - Phòng vật tư-xuất nhập khẩu: nhập các loại vật tư thiết bị dùng cho sản xuất và xuất khẩu sản phẩm của Công ty ra thị trường nước ngoài. - Phòng tổ chức tổng hợp: quản lý toàn bộ hồ sp nhân sự, bố trí sắp xếp, tuyển chọn công nhân viên, đồng thời đưa ra chế độ lương và các phụ cấp khác cho người lao động. Song song với nhiệm vụ đó là nhiệm vụ theo dõi công tác quản lý chất lương theo các thiêu chuẩn ISO 9001 và ISO 14001. - Phòng bán hàng: chuyên quản lý hàng hoá, thành phẩm, đẩy mạnh thông tin quảng cáo mở rộng thị trường tiêu thụ và bảo hành sản phẩm. - Phòng kế toán - thống kê: thu thập và xử lý tổng hợp dữ liệu từ đó cung cấp số liệu một cách trung thực chính xác, kịp thời cho các bộ phận có liên quan..... 3.3 Phạm vi hoạt động của Công ty Xuân Hoà Biểu 2: Thị trường xuất khẩu (Lấy từ trang web www.xuanhoa.com). CÔNG TY XUẤT KHẨU SẢN PHẨM TỚI HƠN 10 QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI Với hệ thống phân phối ở khắp các tỉnh, thành trong cả nước và xuất khẩu hàng hoá đi hầu hết các thị trường lớn trên thế giới. Công ty ngày càng chứng tỏ được sự lớn mạnh của mình trong ngành nội thất Việt Nam. Với tổng số 74 Đại lý chính thức và hơn 1000 cửa hàng phân phối, các sản phẩm của Công ty thực sự đã và đang đi sâu vào trong tiềm thức của người tiêu dùng không chỉ ở trong mà cả ở ngoài nước. 4. Tình hình nhân sự và lao động tại Công ty Với tổng số gần 1000 lao động cả trực tiếp và gián tiếp, vấn đề lao động thực sự là một vấn đề quan trọng đối với Công ty. Chính vì vậy hàng năm Công ty đều tổ chức rà soát phân loại toàn bộ đội ngũ CBCNV của mình để sắp xếp phân loại và bố trí công việc phù hợp với từng người, đồng thời có các chính sách khuyến khích nhằm thu hút, tuyển mộ những lao động thực sự có trình độ năng lực về phục vụ cho Công ty. 4.1 Phân loại lao động (Bảng số 1) Năm 2004 2005 2006 Tổng số lao động (người) 878 894 892 Thu nhập bình quân của người lao động/tháng (đồng) 1.350.000 1.450.000 1.500.000 Quỹ phúc lợi và sử dụng quỹ Thu 573 558 766 Chi 870 770 700 (Nguồn từ báo cáo tình hình nhân sự của Công ty) * Phân loại theo trình độ. Hiện nay lao động của Công ty có: 0.5% trên đại học. 84.5% cao đẳng, trung học 1.4% đại học. 4.5% khác. * Phân loại theo chức năng. Phân chia theo đặc thù sản xuất kinh doanh của đơn vị. 5% lao động quản lý. 71% lao động trực tiếp 20% lao động gián tiếp. 4% lao động khác. 4.2 Chế độ tiền lương Công ty áp dụng các hình thức trả lương phù hợp với từng loại hình lao động cụ thể: Với lao động làm việc theo chế độ hành chính Nhà nước, áp dụng hình thức chi trả lương theo tháng, người lao động được nhận lương vào đầu tháng. Còn với lao động làm việc bán thời gian, làm việc theo sản phẩm Công ty trả lương theo hình thức tương ứng. Tiền lương được trả tương xứng với công việc mà người lao động đảm nhiệm. Qua bảng lương ở trên ta thấy tiền lương của người lao động làm việc trong Công ty ngày một được nâng cao. Năm 2004 là 1.350.000 đồng, năm 2005 là 1.450.000 đồng, năm 2006 là 1.500.000 đồng. Với mức lương trung bình cao như vậy Công ty đã đáp ứng được khá đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của người lao động. Ngoài tiền lương chính thức Công ty áp dụng rất nhiều hình thức khuyến khích vật chất khác như: thưởng, phụ cấp…nhằm nâng cao mức sống của người lao động để họ yên tâm sản xuất 4.3. Chế độ BHXH,BHYT,KPCĐ * Chế độ BHXH. Là quy định bắt buộc của nhà nước mà doanh nghiệp phải áp dụng cho người lao động. Mục đích của BHXH là bù đắp hoăc thay thế một phần thu nhập của người lao động khi họ bị hạn chế hoặc bị mất khả năng lao động. Do mục đích cao cả như vậy nên Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động cùng phối hợp thực hiện. Hiện nay tuy đã có luật BHXH mới nhưng chưa có hiệu lực nên Công ty vẫn áp dụng hình thức BHXH theo chế độ cũ. Theo đó người lao động đóng góp 5%, Công ty động đóng góp 15%. * Chế độ BHYT. Người lao động khi bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…thì những khoản chi trả cho việc điều trị thuốc men và các chi phí khác liên quan sẽ được trích ra từ quỹ BHYT. Quỹ này người lao động đóng góp 1%, Công ty đóng góp 2%. * Kinh phí công đoàn (KPCĐ) Là khoản sinh hoạt phí của Công đoàn, khoản này Công ty đóng góp 2% trên tổng số lương chi trả cho người lao động. Đây là nguồn thu chủ yếu của công đoàn, ngoài ra cong đoàn còn có các khoản thu khác do sự đóng góp của các thanh viên trong công đoàn và do sự hỗ trợ của công đoàn cấp trên. Những khoản thu này công đoàn dùng để tổ chức các hoạt động thể thao, văn nghệ,.. 4.4. Thời giờ làm việc thời giờ nghỉ ngơi. Do đặc thù của Công ty là vừa sản xuất vừa tiêu thụ hơn nữa các máy móc trong phân xưởng thường hoạt động 24/24, nên Ban lãnh đạo Công ty bố trí thời giờ làm viêc, nghỉ ngơi hợp lý với tường loại hình lao động cụ thể. Điều 13 của thỏa ước lao động tập thể ghi rõ: Thời giam làm việc bình thường theo quy định, không quá 8h/ngày, 48h/tuần. Người lao động được nghỉ giải lao và ăn ca theo quy định của Công ty. Quy định về ca làm việc như sau: - Ca hành chính: Từ 8h đến 16h30 (nghỉ giữa ca 30 phút). - Ca 1: Từ 6h30 tới 14h30. - Ca 2: Từ 14h30 tới 22h30. - Ca 3: Từ 22h30 tới 6h30 hôm sau. Thời gian nghỉ hàng tuần của Công ty ít nhất 1 ng._.g 0%. Các đại lý sau khi có được khoản hỗ trợ này sẽ đầu tư mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm hoặc đầu tư xây dựng các kho chứa hàng, phòng trưng bày sản phẩm. Sau khi các đại lý đã phát triển ổn định khoản tiền sẽ được Công ty thu lại để tiếp tục đầu tư cho những khu vực khác. Đây là một trong những chính sách phát triển lâu dài hệ thống đại lý của Công ty. 3.4 Thực hiện các điều khoản về thời hạn và phụ lục hợp đồng Thời hạn hợp đồng đại lý của Công ty có hiệu lực trong vòng một năm kể từ ngày ký. Nếu không có bất trắc gì xảy ra thì sau một năm khi kết thúc hợp đồng cũ hai bên sẽ tiến hành giao kết hợp đồng mới. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, tuỳ vào từng điều kiện cụ thể các bên có thể lập thêm các phụ lục hợp đồng. Trong trường hợp những quy định về giá cả, chất lượng hay chủng loại hàng hoá không có trong danh mục hợp đồng đã giao kết, hoặc khi thị trường có sự biến động lớn về giá cả hàng hoá, lúc đó phải lập phụ lục hợp đồng. 3.5 Thực hiện các điều khoản khác trong hợp đồng Thực hiện các điều khoản về bảo đảm thực hiện hợp đồng. Các điều khoản về bảo đảm thực hiện hợp đồng hầu như không được quy định trong hợp đồng vì đã được quy định khá cụ thể trong Bộ Luật dân sự và Luật thương mại.Các bên tuỳ vào từng điều kiện và hoàn cảnh cụ thể để áp dụng. Thông thường trong quá trình thực hiện hợp đồng các bên phải cầm cố thế chấp hoặc có các biện pháp khác để bảo đảm thực hiện hợp đồng. Đình chỉ hợp đồng đại lý: hợp đồng đại lý được đình chỉ khi có sự đề nghị của một bên chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Hàng năm Công ty có khoảng 3 đến 4 hợp đồng bị đình chỉ do phía đại lý không thực hiện đầy đủ các điều khoản đã cam kết với Công ty: đó là các điều khoản về thời hạn trả nợ, lượng hàng tiêu thụ quá ít hoặc một vài lý do khác. Thanh lý hợp đồng: hợp đồng thanh lý sau khi hết thời hạn hiệu lực của hợp đồng hoặc một bên chủ thể không đủ điều kiện để tiếp tục thực hiện hợp đồng. Với Công ty việc thanh lý hợp đồng được thực hiện qua các bước sau: - Gửi thông báo thanh lý hợp đồng đến phía đại lý - Các đại lý trả hết số dư nợ còn lại cho Công ty - Hai bên tiến hành thanh lý hợp đồng Thông thường sau khi thanh lý hợp đồng cũ cũng là lúc Công ty bắt đầu giao kết một hợp đồng mới. Việc thanh lý và giao kết hợp đồng phải được lập thành văn bản và có chữ ký của hai bên. CHƯƠNG III KIẾN NGHỊ 1. Khó khăn bất cập trong hoạt động đại lý của Công ty Hiện nay tất cả các hoạt động kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng gặp phải một số khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ. Có những khó khăn doanh nghiệp có thể chủ động giải quyết được, nhưng ngược lại có rất nhiều vấn đề lại không thuộc thẩm quyền giải quyết của doanh nghiệp. Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Xuân Hoà cũng là một doanh nghiệp, hơn nữa lại là một doanh nghiệp nhà nước. Tuy có một số ưu đãi nhất định nhưng Công ty vẫn gặp nhiều khó khăn đặc biệt là khó khăn vướng mắc trong hoạt động đại lý tiêu thụ sản phẩm của mình. Sau đây chúng ta sẽ tìm hiểu một số nguyên nhân dẫn đến những khó khăn vướng mắc đó. 1.1 Do có sự thay đổi các quy định pháp luật về hoạt động đại lý. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu đối với mọi quốc gia trong đó có Việt Nam. Để mở cửa hội nhập các nước phải điều chỉnh chinh sách pháp luật theo hướng thông thoáng tạo điều kiện để thực hiện tốt các cam kết quốc tế. Việt Nam không nằm ngoài quy luật đó, như chúng ta đã biết để hội nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO) chúng ta đã phải thay đổi và hoàn thiện hầu hết các văn bản pháp luật quan trọng, tiêu biểu là Bộ luật dân sự, Luật thương mại, Luật doanh nghiệp và một số đạo luật khác. Nhìn chung tất cả sự thay đổi này đều nhằm mục đích giúp cho pháp luật Việt Nam phù hợp với tập quán thương mại quốc tế. Quá trình sửa đổi pháp luật cũng tác động không nhỏ đến các thương nhân đang hoạt động trong nước. Với các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động đại lý trước đó, (Luật thượng mại 1997, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, Bộ Luật dân sự 1995,..) các doanh nghiệp đã quen thuộc với các quy định của nhà nước và việc thực hiện dẫn chiếu các văn bản này đã trở thành thói quen của các doanh nghiệp nói chung Công ty Xuân hoà nói riêng. Vì vậy sau khi các văn bản pháp luật trên hết hiệu lực, Công ty rất lúng túng trong việc tìm hiểu và áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành. Việc dẫn chiếu các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động đại lý thương mại của Công ty phải thông qua hai văn bản pháp luật hoàn toàn mới, đó là: Bộ luật dân sự 1995, Luật thương mại 2005. Công việc này là vô cùng khó khăn với Công ty, vì Công ty chưa có một đội ngũ nhân viên pháp lý riêng có khả năng phân tích và áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. 1.2 Do các nguyên nhân chủ quan từ phía Công ty Với gần 10 năm tồn tại trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, phi thị trường cơ chế này đã ảnh hưởng không tốt đến tư duy của Công ty vì trong thời kỳ bao cấp, kế hoạch hoá thương mại chỉ đóng vai trò là “người nội trợ” của nền kinh tế. Tất cả mọi hoạt động vì mục đích lợi nhuận đều bị triệt tiêu bất kể đó là mục đích hợp pháp hay không hợp pháp. Không có văn bản pháp luật nào thừa nhận kinh doanh là một nghề, không một doanh nghiệp nào được tôn vinh là làm ăn có lãi. Chính vì vậy khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp đặc biệt doanh nghiệp nhà nước vô cùng lúng túng và bỡ ngỡ trước những chế định được coi là đương nhiên của nền kinh tế thị trường và được áp dụng phổ biến trong các đạo luật thương mại của các nước phát triển. Công ty TNHH nhà nước một thành viên Xuân Hoà là một doanh nghiệp nhà nước, mà đơn vị chủ quản trực tiếp là UBND Thành Phố Hà Nội. Tuy là doanh nghiệp hoạch toán độc lập và hầu như chỉ chịu sự quản lý về mặt hành chính của đơn vị chủ quản, nhưng Công ty cũng không tránh khỏi tư duy của một doanh nghiệp nhà nước. Đó là: Chưa có sự nhạy bén về tư duy kinh tế thị trường. Các cán bộ quản lý chưa có sự nhận thức đúng đắn về nền kinh tế thị trường đặc biệt là nhận thức về hoạt động thương mại và vai trò của hoạt động thương mại trong giai đoạn hiện nay đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Nguyên nhân này đã làm cho Công ty không thể tận dụng tốt ưu thế của một doanh nghiệp nhà nước để đi trước đón đầu xu hướng phát triển của nền kinh tế. Một số cán bộ lãnh đạo chưa nhận thức đúng đắn vai trò của mình trong Công ty vì lợi ích của bản thân hay của một nhóm người mà đi ngược lại lợi ích của tập thể. Những cán bộ có năng lực, năng động nhiệt tình với công việc chưa được trọng dụng. Về phía đội ngũ nhân lực, xét về trình độ: 0.5% Trên đại học 84.5% Cao đẳng, trung học 11.5% đại học 4.5% khác Với tổng số gần 1000 lao động tổng số 12% cán bộ có trình độ đại học và trên đại học là ít. Vì với quy mô hoạt động rộng lớn và máy móc thiết bị tương đối hiện đại Công ty cần phải có đội ngũ nhân lực thực sự có trình độ và năng lực để vừa quản lý hiệu quả Công ty vừa giúp Công ty vượt qua những khó khăn thách thức của thời kì hội nhập. Hiện nay yếu tố con người luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở tất cả các doạnh nghiệp. Có thể nói đây là yếu tố sống còn của các doanh nghiệp nói chung và của Công ty nói riêng. Do đặc thù của hoạt động đại lý là luôn luôn phải theo sát những thay đổi của thị trường. Chính vì vậy Công ty cần phải có đội ngũ cán bộ thị trường thực sự có năng lực, biết phân tích đánh giá thị trường đồng thời phải tìm ra những thị trường có tiềm năng phát triển. Các phương tiện phục vụ cho hoạt động đại lý của Công ty chưa được đầy đủ nếu không nói là thiếu thốn. Hơn nữa nhu cầu vận chuyển của các đại lý là rất lớn, nên hầu hết các đại lý phải đưa phương tiện vận chuyển của mình đến tận kho của Công ty để nhận hàng. Điều này hoàn toàn không có lợi cho quá trình phát triển lâu dài của Công ty. Việc tốn thêm chi phí và thời gian làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình nhận hàng của các đại lý, họ sẽ phải tốn thêm một khoản chi phí cho việc vận chuyển hàng hoá từ kho của Công ty đến kho của phía đại lý. Khoản chi phí này sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận mà các đại lý thu được, khiến họ không muốn tiếp tục làm đại lý trong những năm tiếp theo. Tuy Công ty có hỗ trợ một phần chi phí vận chuyển cho các đại lý nhưng so với chi phí thực tế thì chưa thể bù đắp được. Trong quá trình thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng bên đại lý phải cầm cố, thế chấp, ký quỹ... sau khi thực hiện hợp đồng phía Công ty có lúc còn chậm trễ trong việc hoàn trả cho bên đại lý các khoản tiền ký quỹ, tài sản cầm cố. Trong quá trình thực hiện hợp đồng phía Công ty kiểm tra, đôn đốc, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý chưa được chặt chẽ. Đặc biệt là việc kiểm tra xem bên đại lý có bán đúng giá mà mình đã ấn định hay không, chất lượng hàng bán ra có đảm bảo hay không. Việc thanh toán tiền hoa hồng cho phía đại lý cũng là một vấn đề mà Công ty cần khắc phục. Thông thường khi các đại lý thực hiện đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng thì phía Công ty phải thanh toán đầy đủ tiền hoa hồng cho phía đại lý. Nhưng việc thanh toán thường dây dưa, kéo dài gây phiền toái cho bên đại lý. 1.3 Do các nguyên nhân khác Các nguyên nhân dẫn đến khó khăn cho hoạt động đại lý của Công ty còn xuất phát từ chính phía đại lý. Do các đại lý có sự hiểu biết hạn chế về pháp luật cũng như cơ chế chính sách của nhà nước, nên khi thực hiện hợp đồng găp phải rất nhiều khó khăn vướng mắc. Điển hình như trong hợp đồng quy định các sau khi giao kết hợp đồng đại lý với Công ty Xuân Hoà thì không được giao kết hợp đồng đại lý với doanh nghiệp khác. Nhưng hầu như các đại lý đều vi phạm qua định này. Các đại lý thường kết hợp làm đại lý cho nhiều doanh nghiệp cùng một lúc. Bên đại lý phải có nhiệm vụ bán đúng giá bán lẻ do Công ty cung cấp, nhưng giá bán các sản phẩm đều cao hơn giá thực tế. Điều này gây khó khăn cho chính sách cạnh tranh giá của Công ty. Trong quá trình thực hiện hợp đồng các đại lý phải theo dõi và cung cấp toàn bộ các thông tin về khách hàng, về đối thủ chạnh tranh cho Công ty biết để có những chính sách thích hợp. Nhưng hầu như các thông tin này được các đại lý cung cấp rất ít. Thông tin về đối thủ cạnh tranh hầu như không có. Chính điều này gây nên sự khó khăn lúng túng của Công ty trong việc đề ra các chính sách thích hợp với các đại lý. Việc thanh toán tiền mua hàng của bên đại lý cũng là một vấn đề cần phải quan tâm. Vì hầu như các đại lý đều mua chịu hàng hoá, nên việc thu hồi nợ của Công ty cũng gặp phải không ít khó khăn. 2. Kiến nghị 2.1 Kiến nghị về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Pháp luật luôn là trụ cột cơ bản của tất cả mọi quốc gia. Vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn là vấn đề được sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia ở Việt nam việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, pháp luật về hoạt động kinh doanh nói chung chúng ta cần phải xây dựng hệ thống pháp luật có các đặc trưng. Pháp luật nhất quán cao: Có nghĩa là phải xây dựng một hệ thống pháp luật bao gồm các yếu tố logic, chặt chẽ, không mâu thuẫn, không chồng chéo nhau. Vì hiện nay hệ thống pháp luật nước ta còn nhiều mâu thuẫn chồng chéo. Vậy vai trò quan trọng này phải được cơ quan lập pháp thực hiện nghiêm túc, tránh tình trạng các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành do chính quyền hành pháp như tình trạng hiện nay. Các nhà lập pháp phải khắc phục tình trạng: Nhận thức chưa chuẩn xác về khái niện luật chung, luật chuyên ngành. Tình trạng cát cứ và cục bộ trong việc soạn thảo, ban hành các văn bản pháp luật chung, sự thầp kém về tính khoa học pháp lý trong các văn bản pháp luật, đặc biệt là những sai sót khoa học pháp lý cơ bản. Chưa có một cơ chế hữu hiệu để giám sát tính hợp hiến của các đạo luật và tính hợp pháp của các văn bản dưới luật, thiếu khả năng đề cao trách nhiệm cho việc ban hành quy định sai, thậm chí có hại cho nền kinh tế và đời sống xã hội. Pháp luật phải công khai, dễ truy cập đối với người dân. Việc xây dựng, ban hành và thực hiện pháp luật phải dược tiến hành công khai, tạo điều kiện cho mọi lực lượng trong xã hội bảo vệ và công bằng lợi ích của mình. Đồng thời sau khi ban hành pháp luật phải dược thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi công dân dễ dàng truy cập. Thêm nữa cần có những hướng dẫn chính thức về giá trị áp dụng của các thông lệ thương mại đang tồn tại trên thế giới. Pháp luật phải tin cậy và có tính dự đoán cao. Đặc tính quan trong của pháp luật là tính công bằng, do đó pháp luật phải đáng tin cậy, phải là những đại lượng tương trương cho lẽ phải. Bởi vì an toàn pháp lý là điều mà người dân luôn chờ đợi nhà nước. Việc xây dựng ban hành và thực thi pháp luật phải không được gây ra những cú sốc, ngạc nhiên, bất ngờ cho đối tượng bị áp dụng. Việc sửa đổi bổ xung pháp luật phải được thông báo công khai trước một thời hạn pháp lý để người dân có thời gian chuẩn bị. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong việc tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định lâu dài. Hơn thế nữa, khả năng đi trước và dự đoán những quan hệ pháp luật phát sinh trong tương lai sẽ giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không bị bất ngờ trước những tình huống khó sử. Tính có thể dự đoán được của pháp luật còn bao gồm cả các vấn đề mà trong họat động tố tụng, các cơ quan áp dụng pháp luật phải lấy lẽ công bằng là một nguyên lý cho hoạt động của mình. Nếu người dân nhờ đến toà án giải quyết những tranh chấp mà pháp luật chưa quy định, thì thẩm phán phải phải dựa trên sự công bằng mà xét xử, chứ không nên trả lại đơn kiện chỉ vì thiếu văn bản quy định. Để làm được điều này, pháp luật phải trả lại cho toà án cái quyền mà đáng ra từ trước đến nay không bị đánh mất: đó là “quyền giải thích pháp luật”. Đặc biệt trong lĩnh vực luật tư cần phải thực hiện nguyên tắc áp dụng tương tự. 2.2 Kiến nghị về việc hoàn thiện chế độ hợp đồng nói chung Quan hệ pháp luật về hợp đồng luôn là quan hệ pháp luật đứng ở vị trí trung tâm trong hoạt động kinh doanh. Chính vì lí do đó việc xây dựng và hoàn thiện chế độ hợp đồng là công việc quan trọng của cơ quan lập pháp. Hiện nay pháp luật về hợp đồng nước ta vẫn dựa trên nền tảng của Bộ Luật dân sự, nhưng các quy định về hợp đồng trong đó chỉ mang tính chung chung, chưa thể áp dụng cho tường loại hợp đồng chuyên ngành cụ thể. Vì vậy cơ quan lập pháp nên: Xây dựng các hợp đồng trong từng lĩnh vực chuyên ngành cụ thể như: thương mại, đầu tư, chứng khoán, hàng hải, hàng không, dầu khí và một số loại hợp đông trong các lĩnh vực tín dung, bảo hiểm, viễn thông, điện... Điều này cho phép điều chỉnh một cách cụ thể và phù hợp với từng quan hệ hợp đồng cá biệt. Tuy nhiên, trong mối liên hệ thống nhất với tổng thể, các hợp đồng chuyên ngành phải đảm bảo các yếu tố sau: Thứ nhất, việc xây dựng các quy định về hợp đông chuyên ngành phải nằm trong mối liên hệ thống nhất với hợp đồng dân sự. Các quy định của pháp luật chuyên ngành phải phù hợp với nguyên tắc chung của hợp đồng dân sự, đồng thời thể hiện rõ sự khác biệt với các hợp đồng khác. Thứ hai, ngoài mối liên hệ thống nhất và chặt chễ với các quy định của hợp đồng trong Bộ luật dân sự thì việc xây dựng các quy định về hợp đồng đặc thù cần phải nằm trong mối liên hệ bổ trợ lẫn nhau gữa các ngành, lĩnh vực pháp luật có liên quan. Thứ ba, về hình thức và hiệu lực các văn bản pháp luật chuyên ngành, cố gắng xây dựng các quy định cũng như việc hướng dẫn chi tiết các quy định về hợp đồng ở mỗi lĩnh vực khác nhau ở mức độ tập trung cao và dễ tiếp cận, tránh tình trạng một số vấn đề dược hướng dẫn ở nhiều văn bản khác nhau dẫn đến sự tản mạn và khó khăn trong quá trình tìm hiểu và áp dụng luật. Xây dựng hệ thống các nguyên tắc áp dụng pháp luật phù hợp. Ở nước ta hiện nay ngoài các nguyên tắc áp dụng luật được quy định trong Luật xây dựng (bao gồm: nguyên tắc tôn trọng cấp độ hiệu lực của văn bản, trong đó văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn sẽ dược ưu tiên áp dụng so với văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn; nguyên tắc tôn trọng trình tự thời gian ban hành văn bản, nếu hai văn bản cùng cấp cùng quy định về một vấn đề thì văn bản sau được ưu tiên áp dụng). Tuy nhiên lại không có văn bản nào quy định ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành so với luật chung. Măt khác nếu quy định cả ba nguyên tắc trên thì nguyên tắc nào sẽ được ưu tiên áp dụng trước khi nảy sinh mâu thuẫn. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản thì nguyên tắc ưu tiên sẽ là: nguyên tắc áp dụng luật chuyên ngành so với luật chung cần được ưu tiên trước hết, sau đến cấp độ hiệu lực của văn bản và cuối cùng nếu có cùng cấp độ thì ưu tiên thời gian ban hành. Trong công tác giải thích và hướng dẫn pháp luật về hợp đồng phải bảo đảm tính trung lập và thống nhất. Theo đó chỉ có cư quan có chức năng giải thích pháp luật mới được thực hiện công tác giải thích pháp luật. Tránh tình trạng, cơ quan nào cũng có thể giải thích pháp luật dẫn đến một thực trạng là các cơ quan khác nhau giải thích pháp luật khác nhau hoặc việc thiếu thống nhất trong việc giải thích từ ngữ, khái niệm, thuật ngữ... 2.3 Kiến nghị về việc hoàn thiện chế độ hợp đồng đại lý Hợp đồng đại lý phải được xây dựng và hoàn thiện theo đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và nhà nước. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta có chủ trương xây dưng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Vì vậy việc xây dựng và hoàn thiện chế độ hợp đồng nói chung và hợp đồng đại lý nói riêng phải căn cứ vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng và nhà nước, góp phần tạo lập và hoàn thiện yếu tố thị trường. Chế độ hợp đồng đại lý phải phù hợp với thực tiễn phát triển của Việt nam. Hiện nay quá trình hội nhập kinh tế diễn ra hết sức sâu rộng và mạnh mẽ. Hoạt động đại lý ngày càng phát triển và đi sâu và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy hoạt động đại lý ngày càng được nhiều doanh nghiệp lựa chọn do hiệu quả rõ nét của mình trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. hơn nữa nền kinh tế nước ta đang bước vào giao đoạn chuyển giao giữa kinh tế kế hoạch hoá tập trung và kinh tế thị trường. Vì vậy pháp luật đại lý phải linh hoạt, mềm dẻo, có tính thích nghi cao. Đồng thời trong quá trình hoàn thiện chế độ hợp đồng đại lý, chúng ta cần phải tính đến nhu cầu phát triển thị trường và nâng cao năng lực quản lý của nhà nước. Xây dựng, hoàn thiện chế độ hợp đồng đại lý tránh sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng cũng như cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết tranh chấp không bị lúng túng trong việc xác định nguồn luật củ yếu điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Hiện nay, tuy pháp luật đặc biệt là pháp luật về hợp đồng đại lý đã rõ ràng và hoàn thiện hơn trước nhiều. Nhưng đây vẫn là khâu còn nhiều tranh cãi, gây khó khăn cho các thương nhân và kể cả những người hoạt động trong lĩnh vực tư pháp. Pháp luật về hợp đồng nói chung, pháp luật về hợp đồng kinh tế nói riêng chưa giải quyết mối quan hệ giữa hợp đồng với các điều lệ, quy chế của doanh nghiệp, tổ chức, pháp nhân...cũng như các quy định khác mà doanh nghiệp ban hành hoặc thông qua thủ tục phê chuẩn đăng ký. Ở nhiều nước các điều lệ, quy chế được coi là một phần của hợp đồng. Trong trường hợp các quy định trong hợp đồng không rõ ràng hoặc mang tính chung chung, thì các quy định trên là những dẫn chiếu quan trọng cho hợp đồng đã giao kết. Trong quá trình soạn thảo các văn bản pháp luật về hợp đồng kinh doanh nhất thiết phải có sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân... hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh. Vì họ là những người trực tiếp chịu sự điều chỉnh của quan hệ pháp luật này khi tham gia vào hoạt động kinh tế. Hiện nay quá trình xây dụng pháp luật do các các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực lập pháp đảm nhiệm, chưa có sự đóng góp sâu, rộng của quần chúng nhân dân. Để pháp luật thực sự đi vào đời sống, những cơ quan soạn thảo pháp luật nên phối hợp và tham khảo ý kiến của những cá nhân, tổ chức chịu sự điều chỉnh trực tiếp của quan hệ pháp luật đó. 2.4 Kiến nghị đối với Công ty Xuân Hoà Có lẽ yếu tố cần quan tâm nhất của Công ty hiện nay là trình độ năng lực của các cán bộ quản lý và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên trong Công ty. Như chúng ta đã biết, yếu tố nhân lực luôn là yếu tố sống còn đối với tất cả các doanh nghiệp, Công ty Xuân Hoà cũng không phải là ngoại lệ. Trong giai đoạn hội nhập và phát triển như hiện nay, để tồn tại và hoạt động kinh doanh có hiệu quả Công ty cần đầu tư nâng cao trình độ đội ngũ nhân lực của mình. Với đội ngũ nhân lực mất cân đối về trình độ như hiện nay (12% lao động có trình độ đại học và trên đại học; 84.5% trình độ cao đẳng,trung học) Công ty sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong công tác phát triển nguồn nhân lực. Vì vậy để đổi mới và phát triển nguồn nhân lực, Công ty nên cử cán bộ đi học hàn thụ chuyên môn, mời các chuyên gia trong các lĩnh vực hoạt động của Công ty đến Công ty giảng dạy nhằm nâng bổ sung nâng cao trình độ nhân lực tại chỗ, đồng thời có chính sách tuyển dụng hợp lý nhằm thu hút nhân tài... Giai đoạn hiện nay là thời khắc chuyển mình quan trọng của nền kinh tế nói chung và của hệ thống pháp luật nói riêng. Các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động kinh tế không ngừng hoạt thiện và đổi mới. Để năm bắt và theo kịp sự thay đổi của pháp luật, Công ty phải nhanh chóng sữa đổi các các văn bản pháp quy của mình. Thay thế thuật ngữ “hợp đồng kinh tế” bằng “hợp đồng kinh doanh thương mại”, thuật ngữ “kí kết” thay bằng “giao kết”… Đồng thời áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật mới, đưa các văn bản này vào đời sống của cán bộ CNV trong Công ty tạo cho cán bộ CNV một thói quen sống và làm việc theo pháp luật. Để làm được điều này Công ty cần phải có một đội ngũ nhân viên pháp lý am hiểu về pháp luật, đặc biệt là pháp luật trong hoạt động kinh doanh. Với đội ngũ nhân viên này Công ty sẽ có một công cụ hỗ trợ đắc lực trong hoạt động kinh doanh của mình. Như trong quá trình đàm phán và giao kết hợp đồng Công ty sẽ được tham khảo tư vấn để kí hợp đồng sao cho vừa có lợi nhất cho Công ty mình vừa không vi phạm các quy định của pháp luật hiện hành. Trong việc giải quyết tranh chấp, khiếu khiếu nại, khiếu kiện Công ty sẽ không bị động, phụ thuộc vào những nhân viên pháp lý đi thuê, đồng thời chủ động đề ra được phương hướng giải quyết hợp lý nhất với đội ngũ nhân viên pháp lý của mình. Trong quá trình giao kết hợp đồng, đặc biệt là giao kết hợp đồng đại lý Công ty cần phải tìm hiểu rõ ràng tất cả các vấn đề liên quan đến phía đại lý như: Đăng ký kinh doanh, chủ thể, địa điểm chọn làm nới đặt trụ sở của đại lý và các điều kiện khác có liên quan. Mục đích của quá trình tìm hiểu này giúp cho Công ty có những hiểu biết cơ ban về đại lý, từ đó có phương pháp quản lý thích hợp nhất. Với mục tiêu chọn ra những đại lý thực sự có tiềm năng và triển vọng, Công ty nên cư các cán bộ thị trường của mình đi sâu tìm hiểu tình hình thực tế ở các đại lý qua đó sẽ phất hiện ra các khu vực có nhu cầu cao về ngành hàng nội thất mà Công ty có nhu cầu mở rộng thị trường. Cũng từ quá trình tìm hiểu Công ty sẽ phát hiện ra những sai phạm trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng của phía đại lý, từ đó trong lần giao kết hợp đồng sau Công ty sẽ hạn chế được thấp nhất mọi rủi ro không đáng có nhằm làm mất hiệu lực pháp lý của hợp đồng. Sau khi giao kết hợp đồng, Công ty phải luôn theo dõi sát sao tình hình thực hiện hợp đồng của phía đại lý, tránh tình trạng đại lý vi phạm các điều khoản trong hợp đồng như: bán phá giá, không dán tem bảo hành sản phẩm, bán các sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác... Nếu có các tình trạng trên xảy ra, Công ty phải nhanh chóng xử lý dứt điểm để không gây ảnh hưởng đến các đại lý khác. Trường hợp phía đại lý vi phạm nghiêm trọng các điều khoản chủ yếu của hợp đồng, Công ty phải ngay lập tức đình chỉ hợp đồng để không gây ảnh hưởng đến các đại lý khác. Mặt hàng nội thất là một trong những mặt hàng có sự phân biệt đối tượng khách hàng cao vì vậy việc lựa chọn khu vực đặt đại lý là vô cùng quan trọng. Hiện nay hầu như các măt hàng của Công ty như bàn, nghế, nội thất văn phòng, nội thất gia đình, tủ, kệ, giá ... chỉ tiêu thụ được ở những khu vực dân cư có mức sống cao, đăc biệt là các khu công nghiệp, khu vực hành chính. Thị trường nông thôn, một thị trường rộng lớn hầu như chưa được khai thác và mở rộng. Vì vậy Công ty nên có chính sách phát triển những mặt hàng phù hợp với những đối tượng này. Việc phân bố hệ thống đại lý cũng là một điều mà Công ty nên xem xét. Hệ thống đại lý hiện nay được phân bố chưa đồng đêu, có nhiều khu vực mật độ đại lý quá dày đặc (như khu vực phố Hàm Long Hà NộI), còn nhiều khu vực khác lại không có đại lý. Điều này gây mất cân đối, giảm tính cạnh tranh và đồng thời hạn chế khả năng mua hàng của người tiêu dùng là cá nhân. Những cá nhân có nhu cầu mua hàng hoá đều đặt yếu tố thuận tiện, nhanh chóng lên hàng đầu vì vậy họ thường chọn mua hàng ở những khu vực gần địa bàn sinh sống của mình. Với chính sách phát triển hệ thống đại lý lâu dài, Công ty nên đầu tư một đội xe chuyên vận chuyển hàng hoá cho các đại lý, điều này không những có lợi cho các đại lý, (vì các đại lý sẽ giảm bớt được thời gian đến Công ty để nhận hàng, tiết kiệm được chi phí, thuận tiện trong kinh doanh) mà còn có lợi cho chính sách cạnh tranh của Công ty trước các đối thủ khác. Song song với việc phát triển đội xe là việc thiết lập một hệ thống các kho chứa hàng của Công ty ở các khu vực Miền bắc, Miền trung và Miền nam. Hệ thống kho bãi này sẽ giúp Công ty chủ động trong việc điều phối và vận chuyển hàng hoá cho các đại lý của mình trên toàn quốc, tránh tình trạng hàng hoá vận chuyển quá xa, hàng hoá bị ứ đọng. 2.5 Kiến nghị đối với đại lý Các đại lý phải nắm vững và thường xuyên cập nhập kiến thức pháp luật, đặc biệt là pháp luật về hợp đồng đại lý. Hiểu biết các quy định của pháp luật sẽ giúp các đại lý có kiến thức vững chắc trong đàm phán kí kết hợp đồng, đồng thời tránh được những sai lầm đáng tiếc trong việc thực hiện hợp đồng. Hiện nay các đại lý rất thụ động vì hầu như việc giao kết hợp đồng đều dựa trên cơ sở các hợp đồng mẫu của Công ty. Điều này là trái với nguyên tắc tự do thoả thuân trong giao kết hợp đồng. Để không bị lệ thuộc quá nhiều vào những hợp đồng mẫu này, các đại lý phải tự trang bị cho mình các kiến thức pháp luật cần thiết để giao kết hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng các đại lý phải chấp hành nghiêm túc chấp hàng các quy định của pháp luật và của Công ty về quy chế đại lý và các điều khoản mà hai bên đã giao kết, tránh tình trạng bán phá giá, cạnh tranh không lành mạnh với các đại lý khác. Việc các đại lý vi phạm quy chế giao kết hợp đồng sẽ không những bất lợi cho mình vì bị giảm tỷ lệ chiết khấu của Công ty mà còn có thể làm cho các đại lý bị mất tư cách đại lý. Vì vậy để tránh sảy ra những hậu quả đáng tiếc các đại lý phải nghiêm chỉnh chấp hành những quy định của pháp luật và những ràng buộc trong hợp đồng đại lý. Các đại lý nên chủ động hơn trong việc đầu tư mở rộng thị trường, tích cực tìm kiếm những khu vực có tiềm năng để mở rộng hệ thống phân phối của mình. Điều này vừa giúp cho các đại lý tăng doanh thu do việc bán hàng, vừa nhận được nhiều ưu đãi tư phía Công ty do có thành tích mở rộng thị trường. KẾT LUẬN Thông qua quá trình tìm hiểu về pháp luật về hợp đồng đại lý thương mại ở Việt Nam giúp chúng ta nắm được các vấn đề khái quát nhất liên quan đến hợp đồng đặc biệt là hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại. Cũng từ quá trình nghiên cứu này chúng ta cũng hiểu rõ hơn sự phát triển của hoạt động kinh doanh và vị trí vai trò của hợp đồng đối với thực tiễn kinh doanh của các doanh nghiệp. Thông qua quá trình nghiên cứu hợp đồng đại lý thượng mại tại Công ty TNHH nhà nước một thành viên Xuân Hoà giúp tôi nắm được các quy định về hợp đồng. Từ đó tạo cơ sở pháp lý trong việc áp dụng vào thực tiễn kinh doanh. Hiện nay hoạt động đại lý thương mại đang được nhiều doanh nghiệp lựa chọn. Vì đây được coi là hình thức trao đổi hàng hoá hiện đại, tiện ích khi cả người bán và người mua đểu không phải gặp nhau mà vẫn có thể trao đổi được với nhau, thông qua trung gian trực tiếp là các đại lý. Với vai trò là trung gian thương mại các đại lý ngày càng năng động và chiếm được lòng tin của người tiêu dùng. Trong giai đoạn hội nhập kinh tề mạnh mẽ như hiện nay, khi mà Việt nam chính thức gia nhập WTO việc thành lập nên một hệ thống đại lý đối với tất cả các mặt hàng sẽ giúp cho hàng hoá của Việt nam có khả năng cạnh tranh tốt hơn và hạn chế ảnh hưởng của hàng ngoại. Trong phạm vi bài viết còn nhiều hạn chế, rất mong sự hướng dẫn tận tình của thầy, cô để giúp tôi hoàn thiện đề tài của mình. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản quy phạm pháp luật: 1. Bộ luật dân sự 2005. 2. Bộ luật hình sự 2004. 3. Luật thương mại 1997. 4. Luật thương mại 2005. 5. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989. 6. Luật doanh ngiệp 2005. 7. Điều lệ tạm thời 735/TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 10/4/1956 về hợp đồng kinh doanh. 8. Nghị định số 04/TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 04/01/1960 kèm theo điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước. Tài liệu tham khảo: 1.Thống nhất luật hợp đồng ở Việt nam. Tác giả Đinh Thị Mai Phương. NXB tư pháp 2005. 2.Sửa đổi luật thương mại Việt nam năm 1997 phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế. GS.TS Nguyễn Thị Mơ. NXB Lý luật chính trị. 3.Trọng tài và phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn. Trung tâm trọng tài quốc tế Việt nam (VICA) và Trung tâm thương mại quốc tế (ITC) hợp tác xuất bản năm 2003... Các tài liệu của Công ty 1. Quyết định thành lập, giấy đăng ký kinh doanh. 2. Điều lệ công ty. 3. Nội quy làm việc. 4. Thoả ước lao động tập thể. 5. Báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty những năm gần đây. 6. Bảng báo giá các sản phẩm của công ty. 7. Một số tài liệu về thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. 8. Hướng sản xuất kinh doanh trong những năm tới. 9. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của công ty. 10. Một số mẫu hợp đồng cụ thể của công ty về đại lý bán hàng. 11.Biên bản thanh lý hợp đồng. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31989.doc
Tài liệu liên quan