Chế độ pháp lý về đấu thầu xây dựng- Thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty cơ khí xây dựng

Lời mở đầu Bước vào thập kỷ đầu của thế kỷ thứ 21, nhờ những thành tựu quan trọng của sự nghiệp đổi mới do đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, thế và lực của Việt Nam đã khác hẳn so với 10 năm trước đây, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, chúng ta còn phải đương đầu với rất nhiều khó khăn, thử thách do những tàn dư của chiến tranh để lại cũng như hoạt động kém hiệu quả của thời kỳ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Trước tình hình đó, Đảng ta

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1490 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chế độ pháp lý về đấu thầu xây dựng- Thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty cơ khí xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã có đường lối đổi mới sáng suốt và kiên định mở ra môi trường đầu tư và kinh doanh thông thoáng tạo ra các bước phát triển mạnh mẽ đóng góp một phần to lớn cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Một trong những công cụ quản lý có hiệu quả mà Nhà nước ta đã ban hành và áp dụng trong thực tiễn là Quy chế đấu thầu. Có thể xem việc ban hành Quy chế đấu thầu là một thành công trong hoạt động đầu tư xây dựng nói chung và hoạt động đấu thầu nói riêng. Trên cơ sở đó mà hoạt động đấu thầu đã phát huy tác dụng của mình góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước đồng thời còn góp phần vào việc cải thiện và phát triển cơ sở hạ tầng, tiết kiệm và nâng cao hiệu quả của dự án tạo đà cho hàng loạt các công trình có chất lượng ra đời. Tuy nhiên, đấu thầu vẫn còn là một hình thức khá mới mẻ ở Việt Nam và việc áp dụng trên thực tế vẫn còn khá nhiều vấn đề cần xem xét lại. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu để nắm bắt được những kiến thức pháp luật về hoạt động đấu thầu ngày càng trở nên cần thiết. Với mong muốn được biết rõ hơn về hoạt động đấu thầu, qua thời gian thực tập tại Tổng công ty cơ khí xây dựng em đã tiếp cận,tìm hiểu và nghiên cứu quá trình quản lý đấu thầu xây dựng tại Tổng công ty, kết hợp với những kiến thức đã học được, cùng với việc nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cần nghiên cứu, em đã quyết định chọn đề tài : “Chế độ pháp lý về đấu thầu xây dựng- Thực tiễn áp dụng tại Tổng công ty cơ khí xây dựng” với những kiến thức có được cùng với sự hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Hợp Toàn, các thầy cô trong Bộ môn và sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ Phòng Kế hoạch và đầu tư - Tổng công ty cơ khí xây dựng .Chuyên đề của em được hoàn thành với các nội dung sau : Chương I: Chế độ pháp lý về đấu thầu xây dựng . Chương II : áp dụng Quy chế đấu thầu xây dựng tại Tổng công ty cơ khí xây dựng . Chương III : Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện Quy chế đấu thầu xây dựng . Do kiến thức còn hạn chế và thời gian tìm hiểu thực tế chưa nhiều, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô để bản chuyên đề của em được hoàn thiện hơn. Chương I: Chế độ pháp lý về đấu thầu xây dựng Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng Hoà cùng với sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế toàn cầu, đất nước ta đang dần vươn lên tự khẳng định đường lối vững chắc và đúng đắn mà Đảng và Chính Phủ đã đề ra. Góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước thì không thể không nói đến sự phát triển của một hệ thống cơ sở hạ tầng vững chắc bao gồm hàng loạt các công trình giao thông, thuỷ lợi, cầu cống, kho tàng, bến bãi, trường học, bệnh viện…Để cho hệ thống này ngày càng hoàn thiện và vững chắc thì cần phải có sự quan tâm đáng kể đến hoạt động đầu tư xây dựng. Chính vì thế, Nhà nước ta đã có rất nhiều biện pháp tăng cường quản lý, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc giúp cho hoạt động đầu tư và xây dựng được ổn định và phát triển. Cụ thể và được áp dụng phổ biến nhất là Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ- CP ngày 8/7/1999 và Nghị định 12/2000/NĐ - CP ngày 5/5/2000 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đầu tư và xây dựng. Sau một thời gian thực thi và áp dụng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ song cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết, tồn tại. Để làm sáng tỏ hơn vấn đề đó chúng ta cùng tìm hiểu Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Khái niệm, mục đích quản lý đầu tư và xây dựng Trong thời đại ngày nay, đầu tư và xây dựng đã trở thành một nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của mọi quốc gia, do đó hơn bao giờ hết phải có quy chế quản lý một cách chặt chẽ để đầu tư có hiệu quả. ở nước ta, trong những năm gần đây, vấn đề trật tự đầu tư và xây dựng có khá nhiều bất cập, cần thiết phải ban hành một quy chế riêng để quản lý chặt chẽ quá trình đầu tư và xây dựng. Chính vì thế, mục đích cơ bản và chủ yếu nhất của quản lý đầu tư và xây dựng là nhằm: Thứ nhất : Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất, kinh doanh phù hợp với chiến lược và quy hoạch phỡƠÁG ¿ẽDbjbjŽÙŽÙ Šỡ³ỡ³ự>ềÿÿÿÿÿÿ]RRRRRRR ffff8žỡƠÁG ¿ẽDbjbjŽÙŽÙ Š ỡ³ỡ³ự>ềÿÿÿÿÿÿ]RRRRRRRffff8žng nghệ tiên tiến, đảm bảo chất lượng và thời hạn xây dựng với chi phí hợp lý, thực hiện bảo hành công trình. Nguyên tắc cơ bản của quản lý đầu tư xây dựng Cũng giống như bất cứ một quy chế nào, quy chế đầu tư và xây dựng cũng đòi hỏi phải có những nguyên tắc nhất định cần phải được tuân thủ để đạt được hiệu quả cao. Cụ thể quá trình quản lý đầu tư và xây dựng phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt theo các nguyên tắc sau: Thứ nhất: Phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và phân cấp quản lý về đầu tư và xây dựng phù hợp với từng loại nguồn vốn đầu tư và xây dựng theo dự án, quy hoạch và phát triển. Thứ hai : Các dự án đầu tư thuộc vốn Ngân sách nhà nước, vốn tín dụng của Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn do Doanh nghiệp Nhà nước đầu tư phải được quản lý chặt chẽ theo trình tự đầu tư và xây dựng quy định với từng loại vốn. Thứ ba : Đối với các hoạt động đầu tư, xây dựng của nhân dân, Nhà nước chỉ quản lý về quy hoạch, kiến trúc và môi trường sinh thái. Thứ tư : Phân dịnh rõ trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý Nhà nước, của chủ đầu tư, của tổ chức tư vấn và nhà thầu trong quá trình đầu tư và xây dựng. Phạm vi điều chỉnh của quản lý đầu tư và xây dựng Theo quy dịnh tại khoản 2 - Điều - NĐ 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 về việc ban hành quy chế quản lý đầu tư và xây dựng thì phạm vi điều chỉnh của quản lý đầu tư và xây dựng bao gồm: Thứ nhất : Đối với các dự án đầu tư của cơ quan Nhà nước, Doanh nghiệp Nhà nước sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư của Doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước quản lý đầu tư và xây dựng thông qua việc quyết định đầu tư sau khi dự án đã được thẩm định về quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng đô thị, sử dụng đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái(tuỳ theo yêu cầu đối với từng loại dự án), về phương án tài chính, giá cả và hiệu quả đầu tư của dự án. Thứ hai : Đối với các dự án đầu tư của Doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước thực hiện theo quy định về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Các dự án sử dụng vốn tín dụng đầu tư không do Nhà nước bảo lãnh, chủ đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư, tổ chức cho vay vốn có trách nhiệm xem xét dự án và quyết định cho vay vốn để đầu tư. Thứ ba : Đối với các dự án đầu tư của Doanh nghiệp sử dụng các nguồn vốn khác, Nhà nước quản lý thông qua việc đăng ký kinh doanh, cấp giấy phép xây dựng quy định như sau: ã Các dự án sản xuất kinh doanh của tư nhân, tổ chức kinh tế không thuộc Doanh nghiệp Nhà nước, chủ đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh. Việc kinh doanh phải theo quy định của luật pháp. Nếu dự án có xây dựng, chủ đầu tư phải lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền để cấp giấy phép xây dựng theo quy định của quy chế này. ãCác dự án của cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và cơ quan nước ngoài khác đầu tư xây dựng trên đất Việt Nam được quản lý theo Hiệp định hoặc thoả thuận đã được ký kết với Chính phủ Việt Nam và chủ đầu tư phải lập hồ sơ xin cấp giấy phép xây dựng theo quy định của quy chế này. Thứ tư : Đối với dự án quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn, Nhà nước quản lý việc sử dụng nguồn vốn ngân sách để thực hiện dự án, đồng thời quản lý việc huy động các nguồn vốn khác để lập và triển khai các dự án quy hoạch chi tiết. Thứ năm : Đối với các dự án đầu tư của cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài, dự án có yêu cầu cơ mật thuộc an ninh, quốc phòng, dự án mua sở hữu bản quyền, việc lập dự án đầu tư thực hiện theo quy định của quy chế này, việc thẩm định dự án, quyết định đầu tư và quản lý thực hiện dự án theo quy định riêng của Chính phủ. Thứ sáu : Dự án đầu tư của người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam và người nước ngoài thường trú ở Việt Nam được thực hiện theo pháp luật về khuyến khích đầu tư trong nước, việc quản lý xây dựng thực hiện theo quy chế này. Khái quát chung về đấu thầu và đấu thầu xây dựng Những vấn đề cơ bản về đấu thầu Khái niệm và thực chất của đấu thầu Với nhiều ngành, quá trình tiêu thụ sản phẩm thường xảy ra sau giai đoạn sản xuất, còn ở ngành xây dựng, đặc biệt trong lĩnh vực xây lắp, quá trình mua bán lại xảy ra trước lúc bắt đầu giai đoạn thi công xây dựng công trình, thông qua việc thương lượng, đấu thầu và ký kết hợp đồng xây dựng. Quá trình này còn tiếp diễn qua các đợt thanh toán trung gian, cho tới khi bàn giao và quyết toán công trình. Đấu thầu hiện nay đã trở thành phương thức phổ biến trong các nước có nền kinh tế thị trường. Đặc biệt, thực tế trong thời gian gần đây ở nước ta, đấu thầu đã và đang vươn lên để tự khẳng định là một phương thức hữu hiệu trong việc góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Ra đời khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với quy luật cạnh tranh chi phối mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, phương thức đấu thầu ngày càng được áp dụng rộng rãi và phát triển không ngừng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, mang lại nhiều lợi ích lớn lao cho nền kinh tế cũng như toàn xã hội. Đấu thầu xây dựng là một hình thức cạnh tranh trong xây dựng nhằm lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu kinh tế kỹ thuật đặt ra cho việc xây dựng công trình của chủ đầu tư. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về đấu thầu: + Dưới góc độ chủ đầu tư : Đấu thầu trong xây dựng cơ bản là phương thức mà chủ đầu tư sử dụng để tổ chức quá trình cạnh tranh giữa các đơn vị xây dựng nhằm chọn ra đơn vị có khả năng đáp ứng cao nhất các yêu cầu của chủ đầu tư. + Dưới góc độ Nhà nước : Đấu thầu được xem là một phương thức quản lý thực hiện dự án thông qua đó lựa chọn được nhà thầu có khả năng đáp ứng các yêu cầu cao nhất của bên mời thầu + Dưới góc độ của nhà thầu : Đấu thầu là hình thức kinh doanh, thông qua đó nhà thầu thắng thầu sẽ qiải quyết được việc làm và có thể thu được một khoản lợi nhuận. Ngược lại sẽ mất toàn bộ chi phí đã bỏ ra trong giai đoạn làm hồ sơ dự thầu. Tuy nhiên theo quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 thì “đấu thầu” là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu. Trong đó, bên mời thầu là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện hợp pháp của chủ dự án, chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu. “Nhà thầu” là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu. Sơ đồ 1: Quy trình tóm tắt hoạt động đấu thầu Chủ đầu tư ( Bên mời thầu ) Các nhà thầu ( Bên dự thầu ) Hợp đồng Chọn nhà thầu Như vậy, thực chất của chế độ đấu thầu được thể hiện trên các khía cạnh sau: Thứ nhất : Tổ chức đấu thầu là một phương thức để tổ chức sự cạnh tranh trên hai phương diện: + Cạnh tranh giữa chủ đầu tư (Bên mời thầu) với các đơn vị xây dựng (Bên dự thầu). Quan hệ cạnh tranh này xuất phát từ quan hệ mua bán (quan hệ cung - cầu). Đó là sự cạnh tranh về lợi ích giữa người mua và người bán. Theo lý thuyết về hành vi của người tiêu dùng thì trong một cuộc mua bán bao giờ người mua cũng cố gắng để mua dược hàng với giá rẻ nhất mà chất lượng vẫn đảm bảo, trong khi đó người bán lại cố gắng để bán được cũng mặt hàng đó với giá cao nhất có thể. Do đó nảy sinh dự cạnh tranh giữa người mua và người bán. + Cạnh tranh giữa các nhà thầu với nhau. Quan hệ cạnh tranh này được xem là khá khốc liệt mà vũ khí cạnh tranh chính là các nhân tố cấu thành nên khả năng thắng thầu. Bởi lẽ trong hoạt động mua bán này chỉ có một người bán mà có nhiều người mua nên người mua phải cạnh tranh với nhau để mua được hàng hoá đó. Muốn vậy các đơn vị xây dựng phải cải tiến, đổi mới toàn diện các hoạt động tăng cường thực lực của mình và giữ uy tín với chủ đầu tư thì mới có thể thắng thầu. Kết quả cho sự cạnh tranh này là có lợi cho chủ đầu tư. Thứ hai : Đấu thầu thực chất là hoạt động thương mại trong lĩnh vực kinh doanh xây dựng. Đấu thầu mang tính chất của quan hệ mua bán. Song so với mua bán thông thường quan hệ mua bán ở đây có những nét đặc thù riêng, đó là: + Việc mua bán không hoàn toàn tự do mà tuân theo các cơ sở, thể chế cụ thể. + Trong quan hệ mua bán này, chủ đầu tư bán việc nhưng phải trả tiền còn các đơn vị đầu tư mua việc nhưng lại được nhận tiền, người bán muốn bán việc với giá rẻ nhất còn người mua chấp nhận với giá đó tức là chấp nhận mức lợi nhuận không cao. + Đấu thầu là hoạt động thương mại đặc biệt, nhiệm vụ kinh doanh xây dựng mang tính chất hàng hoá biều hiện không rõ ràng do việc tiêu thụ diễn ra trước khi có sản phẩm và thực hiện theo giá dự toán chứ không theo giá thực tế. Thứ ba : Đấu thầu còn là một phương thức lựa chọn Trên cơ sở sử dụng phương thức xét hiệu quả kinh tế trong việc lựa chọn các phương án tổ chức thực hiện, phương thức này tiến hành so sánh các phương án tổ chức trên cùng một phương diện như kỹ thuật, tài chính,... để từ đó chọn được một nhà thầu có đủ khả năng. Kết quả là sẽ tìm ra được một phương án tổ chức thực hiện tốt nhất, đáp ứng được mọi yêu cầu của chủ đầu tư. Vai trò của đấu thầu Qua vài năm tổ chức thực hiện theo phướng thức đấu thầu trong xây dựng ở nước ta đã cho thấy so với các phương thức tự làm và phương thức giao thầu thì đấu thầu là phương thức có nhiều ưu điểm nổi bật, đem lại hiệu quả cao và ngày càng phát huy những ưu thế trong nền kinh tế thị trường. Vai trò của đấu thầu không chỉ thể hiện ở lợi ích với chủ đầu tư mà nó còn đem lại lợi ích cho cả bên dự thầu và Nhà nước cũng như xã hội. Cụ thể: 2.1.2.1 Với chủ đầu tư. Đấu thầu mang lại cho chủ đầu tư khá nhiều lợi ích như : + Thông qua đấu thầu, chủ đầu tư có khả năng thực hiện tối ưu các yêu cầu về xây dựng công trình như tiết kiệm vốn đầu tư xây dựng cơ bản, đảm bảo chất lượng, mỹ thuật, kỹ thuật của công trình, bảo đảm đúng tiến độ xây dựng + Tạo điều kiện tăng cường quản lý vốn đầu tư, tránh lãng phí, thất thoát, sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả cao + Bảo đảm quyền chủ động , tránh phụ thuộc vào một nhà thầu xây dựng trong thực hiện xây dựng các công trình vừa bất lợi về mặt thời gian, dễ rơi vào thế bị động và không có khả năng kiểm soát + Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh , bình đẳng giữa các đơn vị xây dựng nhằm mở rộng các cơ hội nâng cao chất lượng công trình, hạ thấp chi phí xây dựng + Thúc đẩy nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực của đội ngũ cán bộ kinh tế, kỹ thuật của chủ đầu tư trong quá trình tổ chức và xét thầu 2.1.2.2. Với các nhà thầu. + Trước hết, cơ chế đầu thầu sẽ giúp phát huy được tính chủ động trong việc tìm kiếm các cơ hội tham gia dự thầu. Họ sẽ phải tích cực tìm kiếm các thông tin về các công trình xây dựng đang mở thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng, gây dựng các mối quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước , tự tìm cách tăng cường uy tín của mình tạo ra sự linh động sáng tạo trong cơ chế thị trường. + Thông qua đấu thầu sẽ tạo cơ hội có một khối lượng lớn công việc làm ăn, tăng thu nhập cho người lao động, tăng khả năng tích luỹ, mở rộng và phát triển thị trường của công ty. Muốn vậy, các nhà thầu phải tự hoàn thiện mình trên mọi phương diện thì mới có cơ hội tham gia dự thầu và nâng cao khả năng thắng thầu. Đặc biệt, cần lưu ý hoàn thiện các mặt tổ chức quản lý, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý trong tham dự đấu thầu và thực hiện các công trình đã thắng thầu + Thúc đẩy nâng cao hiệu quả kinh tế, hiệu quả công tác quản trị chi phí kinh doanh, quản trị tài chính để khi giá bỏ thầu thấp nhưng vẫn thu được lợi nhuận + Ngoài ra, nhờ đấu thầu mà nhà thầu tiến hành đầu tư có trọng điểm đồng vốn của mình, qua đó nâng cao năg lực cạnh tranh kỹ thuật và công nghệ theo yêu cầu của công trình 2.1.2.3 Với Nhà nước. + Đấu thầu góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn tập trung( vốn từ ngân sách nhà nước). Như ta đã biết, đấu thầu là dựa trên sự cạnh tranh giữa các nhà thầu trên mọi phương diện của các dự án đầu tư( tài chính, kỹ thuật, thương mại…) nên nó sẽ thúc đẩy các nhà thầu tìm cách tăng cường hiệu quả trình độ về mọi mặt.Trực tiếp hơn, thông qua đấu thầu , chủ đầu tư sẽ chọn được nhà thầu cung cấp sản phẩm, dịch vụ với giá rẻ nhất mà chất lượng vẫn đảm bảo tức là hiệu quả sử dụng nguồn vốn tập trung trong trường hợp sử dụng vốn từ ngân sách nhà nước là cao nhất + Đấu thầu góp phần đổi mới quản lý hành chính nhà nước với hoạt động đầu tư và xây dựng . Trước tiên trong xây dựng cũng như trong các ngành kinh tế khác, Nhà nước quản lý toàn bộ, Nhà nước quyết định việc xây dựng những công trình nào, vốn bao nhiêu, ai thi công , trong thời gain bao lâu…thì giờ đây, với cơ chế đấu thầu , Nhà nước chỉ còn quản lý sản phẩm cuối cùng, tức là công trình hoàn chỉnh với chất lượng đảm bảo. Việc thi công như thế nào, vật tư thiết bị mua ở đâu, thời gian thi công cac hạng mục công trình là tuỳ thuộc vào từng nhà thầu. Nhà nước cũng chuyển sang việc nghiên cứu ban hành các chính sách, quy chế về xây dựng để điều tiết lĩnh vực này + Đầu thầu cũng góp phần tạo nên sức cạnh tranh mới và lành mạnh hoá trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nói riêng và trong toàn nền kinh tế nói chung, thúc đẩy việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế xã hội và qua đó thúc đẩy phát triển nền kinh tế quốc dân Nguyên tắc đấu thầu Mục đích lớn nhất của công tác tổ chức đấu thầu là tìm và lựa chọn được nhà thầu có đủ khả năng thực hiện đúng yêu cầu của chủ đầu tư với chi phí thấp nhất. Mặt khác, cũng như bất cứ một phương thức kinh doanh nào, chế độ đấu thầu cũng đòi hỏi phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Cụ thể: 2.1.3.1 Nguyên tắc đảm bảo tính cạnh trnah Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu dựa trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu vì như vậy mới đảm bảo được mục tiêu mà đấu thầu đặt ra là lựa chọn được nhà thầu tối ưu nhất, đáp ứng tốt nhất các yêu cầu mà bên mời thầu đặt ra. Để đạt được điều này thì trước tiên, bên mời thầu phải đối xử một cách công bằng với mọi nhà thầu. Các nhà thầu phải được bình đẳng về những thông tin mà chủ đầu tư cung cấp và họ được phép trình bày một cách khách quan các ý kiến, quan điểm của mình trong quá trình chuẩn bị hồ sơ cũng như trong buổi mở thầu. Đồng thời, chủ đầu tư cũng như các bên dự thầu phải có đầy đủ năng lực thực tế về kinh tế, kỹ thuật, kinh nghiệm để có thể thực hiện một cách tốt nhất những điều khoản cam kết trong đấu thầu . Ngoài ra, chủ đầu tư cũng cần phải giữ bí mật về những thông tin liên quan tới các hồ sơ tài liệu, ý kiến trao đổi của các nhà thầu với chủ đầu tư hay các đại diện hợp pháp của chủ đầu tư trong quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu đặc biệt là mức giá, chi phí liên quan… Bởi lẽ đó cũng là một trong những yếu tố chính để các nhà thầu có thể cạnh tranh thắng lợi trước các đối thủ cạnh tranh 2.1.3.2 Nguyên tắc đầy đủ dữ liệu Đấu thầu là một quá trình khá phức tạp vì nó phải tuân theo các trình tự và thủ tục nhất định. Do đó, mỗi một bước chuẩn bị của quá trình đấu thầu đều phải được thực hiện một cách hết sức kỹ lưỡng, chu đáo và đầy đủ. Chính vì thế mà việc chuẩn bị các dữ liệu cho quá trình đấu thầu cũng là một khâu không thể xem nhẹ Bất kỳ một cuộc đấu thầu nào, bên mời thầu cũng phải chuẩn bị dữ liệu để phục vụ cho việc lập hồ sơ mời thầu và xúc tiến việc đấu thầu , còn đối với các nhà thầu họ phải nhận được đầy đủ hồ sơ tài liệu do bên mời thầu cung cấp với các thông tin, dữ liệu chính xác, chi tiết, rõ ràng, cụ thể về mọi mặt: Tài chính, kinh tế, kỹ thuật, lập pháp và các mặt khác. Chỉ khi nào nhận được đầy đủ các dữ liệu như vậy thì các nhà thầu mới nắm được toàn bộ yêu cầu do bên mời thầu đặt ra. Vì thế cả bên mời thầu và nhà thầu phải có trách nhiệm cung cấp và đảm bảo dữ liệu đầy đủ, chính xác. Chỉ như vậy mới có thể đảm bảo một cách hiệu quả nhất công việc 2.1.3.3. Nguyên tắc đảm bảo tính minh bạch Điều này có nghĩa là quá trình đấu thầu kể từ giai đoạn gọi thầu đén giai đoạn mở thầu cần đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, công khai đối với tất cả các nhà thầu tham dự( trừ những công trình đặc biệt thuộc phạm vi bí mật quốc gia có liên quan đến an ninh quốc phòng). Mục đích là nhằm thực hiện nguyên tắc công bằng và thu hút được nhiều hơn các nhà thầu tham gia đấu thầu , nâng cao chất lượng của công tác đấu thầu 2.1.3.4. Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả Nguyên tắc này được thể hiện trên hai mặt sau: Thứ nhất: Là một mắt xích quan trọng trong quá trình thực hiện dự án đầu tư , công tác tổ chức đấu thầu phải đảm bảo hạn chế, giảm đến mức tối thiểu những tốn kém về mặt tiền bạc cũng như đảm bảo thực hiện thời gain thi công theo đúng kế hoạch. Điều này thể hiện ở tỷ lệ chi phí cho công tác đấu thầu phải đảm bảo hợp lý so với tổng giá trị gói thaàu. Và như vậy đòi hỏi chủ đầu tư phải xá định được hình thức đấu thầu cũng như phương thức áp dụng cho phù hợp Thứ hai: Bên cạnh việc phải đảm bảo hiệu quả kinh tế thì công tác tổ chức đấu thầu còn phải đảm bảo được hiệu qủa về mặt xã hội, thể hiện ở việc lựa chọn được nhà thầu thực hiện công tình với chất lượng, mỹ thuật và tiến độ theo đúng yêu cầu đặt ra 2.1.3.5. Nguyên tắc đảm bảo cơ sở pháp lý Yêu cầu này đòi hỏi các bên tham gia vào quá trình đấu thầu ( chủ đầu tư và các nhà thầu) phải có tư cách pháp nhân, phải tuân thủ nghiêm chỉnh luật pháp, các quy chế và quy định của Nhà nước về nội dung và trình tự đầu thầu, thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng giao nhận thầu đã ký, mọi vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đồng thời, yêu cầu này cũng đòi hỏi phải phân định rạch ròi quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên trong từng phần công việc để không có người chịu trách nhiệm và do đó mỗi bên phải có nỗ lực tối đa trong việc kiểm soát bất trắc và phòng ngừa rủi ro 2.1.3.6.Nguyên tắc bảo lãnh thích đáng Để thực hiện thành công quá trình đấu thầu đòi hỏi phải có sự nỗ lực của tất cả các bên. Bên mời thầu và bên nhà thầu. Tuy nhiên trong quá trình đấu thầu nhiều khi còn do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan mà các nhà thầu cũng gây cản trở cho quá trình đấu thầu như đòi rút lại hồ sơ dự thầu hoặc cung cấp số liệu không chuẩn xác. Chính ỡƠÁG ¿ẽDbjbjŽÙŽÙ Šỡ³ỡ³ự>ề ÿÿÿÿÿÿ]RRRRRRRffff8žỡƠÁG ¿ẽDbjbjŽÙŽÙ Šỡ³ỡ³ự>ềÿÿÿÿÿÿ]RRRRRRRffff8žện nghĩa vụ của nhà thầu và nó sẽ được trả cho nhà thầu nếu họ không trúng thầu hoặc sau khi nhà thầu trúng thầu nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng cũng là một biện pháp nhằm đảm bảo thực hiện cam kết của nhà thầu trong quá trình thực hiện các công đoạn tiếp theo. Phân loại đấu thầu Dựa vào các tiêu chí khác nhau mà đấu thầu được phân thành nhiều loại khác nhau. Cụ thể: Phân loại theo nội dung của quá trình lựa chọn Theo cách phân loại này đấu thầu được chia thành các loại sau: Đấu thầu tuyển chọn tư vấn Đây là quá trình lựa chọn nhà tư vấn có đủ trình độ kinh nghiệm để giúp đỡ, tư vấn cho chủ đầu tư trong quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án. Theo quy định tại điều 17- Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 về việc ban hành quy chế đấu thầu thì nội dung công tác tư vấn bao gồm: + Tư vấn chuẩn bị dự án gồm: - Lập quy hoạch, tổng sơ đồ phát triển - Lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi - Lập báo cáo nghiên cứu khả thi - Đánh giá báo cáo lập quy hoạch, tổng sơ đồ phát triển, nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi +Tư vấn thực hiện dự án gồm: - Khảo sát - Lập thiết kế, tổng dự toán và dự toán - Đánh giá, thẩm tra thiết kế và tổng dự toán, dự toán( nếu có) - Lập hồ sơ mời thầu - Phân tích đánh giá hồ sơ dự thầu - Giám sát thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị + Các tư vấn khác gồm: - Quản lý dự án, thu xếp tài chính - Điều hành thực hiện dự án - Đào tạo, chuyển giao công nghệ và các công việc khác Nhà tư vấn không được tham gia đánh giá kết quả công việc do mình thực hiện và không được tham gia đấu thầu thực hiện các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp do mình làm tư vấn( trừ các gói thầu thực hiện theo loại hợp đồng chìa khoá trao tay) Đấu thầu mua sắm hàng hoá Đây được xem là một tiến trình mua bán hàng hoá nhằm lựa chọn được nhà cung cấp hàng hoá theo những yêu cầu về kỹ thuật công nghệ, giá cả và những yêu cầu khác của bên mua hàng. Hàng hoá là máy móc, phương tiện vận chuyển, thiết bị, bản quyền sở hữu công nghiệp, nguyên liệu, nhiên liệu hàng tiêu dùng. Nội dung của đấu thầu mua sắm hàng hoá gồm: - Khảo sát chất lượng kỹ thuật - Luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc nghiên cứu khả thi công việc thiết kế - Các thông số, chỉ tiêu, chủng loại máy móc thiết bị - Công tác xây lắp, lắp đặt hiệu chỉnh máy móc - Công tác đào tạo chuyển giao công nghệ - Các dịch vụ bảo hành và các dịch vụ khác có liên quan Đấu thầu xây lắp Đấu thầu xây lắp là quá trình tuyển chọn nhà cung ứng dịch vụ xây lắp đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu. Hoạt động xây lắp là những công việc của quá trình xây dựng các công trình như : San lấp mặt bằng, xây dựng nền móng, lắp đặt thiết bị công trình và công nghệ, trang trí nội ngoại thất và cảnh quan công trình Nội dung của đấu thầu xây lắp gồm: - Khảo sát kỹ thuật địa hình - Lập phương án kỹ thuật thi công - Tiến độ thi công - Lập hệ thống chỉ tiêu đo đạc chất lượng công trình - Các dịch vụ bảo hành công trình Đấu thầu với gói thầu có quy mô nhỏ Đấu thầu với gói thầu có quy mô nhỏ là hình thức đấu thầu áp dụng với các gói thầu có giá trị dưới 2 tỷ đồng đối với mua sắm hàng hoá hoặc xây lắp (theo quy định tại khoản 12- Điều 3-NGhị định 88/1999/NĐ-CP) Việc đấu thầu các gói thầu có quy mô nhỏ được áp dụng theo các nguyên tắc sau: - Chỉ cho phép các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đóng trên địa bàn tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương tham dự. Trong trường hợp số lượng nhà thầu tại địa phương có khả năng tham gia ít hơn ba, phải mời thêm các doanh nghiệp ở ngoài địa phương tham dự. Trường hợp gói thầu có yêu cầu kỹ thuật phức tạp thì được mời thêm các doanh nghiệp là tổng công ty hoặc thuộc tổng công ty tham dự thầu. Tư vấn Hàng hoá và xây lắp Tư vấn & xây lắp Hàng hoá & xây lắp Tư vấn Hàng Hoá & Xây lắp Nhóm A và Tương đương Thủ tướng chính phủ Bộ kế hoạch Và đầu tư Từ 20 trở Lên Từ 100 Trở lên Từ 15 trở Lên Từ 75 Trở lên Từ 10 Trở lên Từ 50 Trở lên Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ Quan thuộc CP, HĐQTTCT do Thủ tướng CP Thành lập Đơn vị giúp việc Tất cả Các gói thầu dưới 20 Tất cả Các Gói thầu Dưới 100 Tất cả Các Gói thầu Dưới 15 Tất cả Các Gói thầu Dưới 75 Tất cả Các Gói thầu Dưới 10 Tất cả các gói thầu dưới 50 Chủ tịch UBND Tỉnh, thành phố Trực thuộc TƯ Sở Kế hoạch & đầu tư Nhóm B, C và Tương đương Người có thẩm Quyền của Doanh nghiệp Nhà nước được quyền quyết định đầu tư Bộ phận giúp Việc có liên quan Tất cả các gói thầu thuộc dự án Chủ tịch UBND quận, Thị xã, huyện, thị trấn, xã, phường Bộ phận giúp Việc có liên quan Tự quyết định và chịu trách nhiệm đối với tất cả các gói thầu thuộc phạm vi dự án do mình quyết định đầu tư theo quy định của pháp luật 2.2.4.5. Công bố kết quả đấu thầu. Sau khi có quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu của cấp có thẩm quyền, Bên mời thầu phải gửi thông báo trúng thầu tới các nhà thầu kèm theo một bản dự thảo hợp đồng có lưu ý những điểm cần thiết phải bổ sung ( nếu có) để đáp ứng yêu cầu của Bên mời thầu . Đồng thời, Bên mời thầu gửi cho nhà thầu trúng thầu lịch biểu nêu rõ yêu cầu về thời gian thương thảo nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng và ký hợp đồng. 2.2.4.6. Thương thảo hoàn thiện và ký hợp đồng. Khi nhận được thông báo trúng thầu, nhà thầu đã trúng thầu phải gửi cho Bên mời thầu thư chấp thuận hoàn thiện hợp đồng. Trong phạm vi không quá 30 ngày kể từ ngày thông báo, nếu Bên mời thầu không nhận được thư chấp thuận hoặc từ chối của Bên nhà thầu, Bên mời thầu cần báo cáo người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền xem xét quyết định. Hợp đồng sẽ được ký sau khi có thương thảo giữa Bên mời thầu và đơnvị trúng thầu theo những hình thức và điều khoản nhất định đối với các loại dự án khác nhau Sơ đồ 3 : Quy trình tổ chức đấu thầu . Chuẩn bị đấu thầu Nộp và nhận HSDT Mời thầu Đánh giá HSDT Mở thầu Công bố kết quả đấu thầu Trình duyệt kết quả đấu thầu Thương thảo hoàn thiện và ký hợp đồng 2.2.5. Hợp đồng giao thầu. Sau khi Bên mời thầu và nhà thầu trúng thầu đã thương thảo với nhau thì phải tiến hành ký kết hợp đồng bằng văn bản. Loại hợp đồng này gọi là hợp đồng giao thầu. Hợp đồng phải đảm bảo các nguyên tắc sau : + Tuân thủ các quy định hiện hành của luật pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về hợp đồng. Trường hợp luật pháp Việt Nam chưa có quy định thì phải xin phép Thủ tướng chính Phủ trước khi ký kết hợp đồng. + Nội dung hợp đồng phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt( chỉ bắt buộc đôí với các hợp đồng sẽ ký với nhà thầu nước ngoài hoặc các hợp đồng sẽ ký với nhà thầu trong nước mà kết quả đấu thầu do Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt ). Căn cứ vào thời hạn và tính chất của gói thầu được quy định trong kế hoạch đấu thầu, hợp đồng được thực hiện theo một trong các loại sau : + Hợp đồng trọn gói + Hợp đồng chìa khoá trao tay. + Hợp đồng c._.ó điều chỉnh giá. Điều chỉnh giá trị hợp đồng. Việc điều chỉnh giá trị hợp đồng chỉ được thực hiện khi : + Trong hồ sơ mời thầu được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt có quy định cụ thể điều kiện, giới hạn các phần việc hoặc hạng mục được điều chỉnh và công thức điều chỉnh giá. + Được các bên liên quan xác nhận, được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền cho phép, áp dụng trong các trường hợp sau : - Khi có những khối lượng, số lượng phát sinh (tăng hoặc giảm) không phải do nhà thầu gây ra. - Khi có sự biến động về giá do Chính sách của Nhà nước thay đổi đối với các yếu tố nhân công, nguyên vật liệu và thiết bị của những hợp đồng có điều chỉnh giá với thời gian thực hiên trên 12 tháng. Trượt giá chỉ được tính từ tháng thư 13 kể từ thời điểm bắt đầu thực hiện hợp đồng. - Giá trị của hợp đồng sau khi điều chỉnh không được vượt tổng dự toán hoặc giá gói thầu xác định trong kế hoạch đấu thầu đãa được duyệt. Tông giá trị điều chỉnh và giá trị các hợp đồng thuộc dự án không được vượt tổng mức đầu tư đã được duyệt. Vấn đề ký kết hợp đồng giao nhận thầu xây dựng. Việc tiến hành ký kết hợp đồng là do hai bên tự thương thảo vớinahu về những nội dung nhằm giải quyết những vấn đề còn tồn tại, chưa hoàn chỉnh về hợp đồng đối với nhà thầu trúng thầu, nghiên cứu các giải pháp, các kiến nghị của nhà thầu. Đối với gói thầu có quy mô nhỏ thì khi nhận được thông báo trúng thầu và dự thảo hợp đồng, nhà thầu và bên mời thầu có thể tiến hành ký ngay hợp đồng. Khi hai bên tiến hành đàm phán kỹ kết hợp đồng, nhà trúng thầu ơhải nộp cho Bên mời thầu một khoản bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Bên mời thầu chỉ hoàn trả bảo lãnh dự thầu( nếu có) khi nhận được bảo lãnh thực hiện hợp đồng của nhà trúng thầu. Đối với các nhà thầu không trúng thầu nhưng không vi phạm Quy chế đấu thầu, Bên mời thầu hoàn trả bảo lãnh dự thầu trong thời gian không quá30 ngày kể từ khi công bố kết quả đấu thầu. 2.2.6. Quản lý Nhà nước về đấu thầu xây dựng. Vấn đề quản lý Nhà nước về đấu thầu xây dựng luôn được xem là một vấn đề khá quan trọng, là cơ sở để tránh được các mâu thuẫn, tranh chấp không đáng xảy ra. Cơ quan quản lý Nhà nước về đấu thầu. Theo quy định tại điều 49- Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999, các cơ quan quản lý Nhà nước về đấu thầu bao gồm : + Chính Phủ thống nhất quản lý công tác đấu thầu trên phạm vi cả nước. + Bộ Kế hoạch và đầu tư là cơ quan đầu mối giúp Chính Phủ thực hiện quản lý công tác đấu thầu. + Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ quản lý Nhà nước về đấu thầu trong phạm vi và trách nhiệm của mình đồng thời cử một Thứ trưởng hoặc cấp phó tương ứng trực tiếp chỉ đạo công tác đấu thầu. + Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận, huyện,thị xã và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân phường, xã, thị trấn quản lý Nhà nước về đấu thầu đối với các gói thầu tguộc quyền quản lý của mình, đồng thời cử một cấp phó trực tiếp chỉ đạo công tác đấu thầu. Nội dung quản lý Nhà nước về đấu thầu. Theo quy định tại điều 50- Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 thì nội dung quảnlý Nhà nước về đấu thầu bao gồm : + Soạn thảo, ban hành hoặc trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu. + Tổ chức hướng dẫn thực hiện. + Tổ chức thẩm định kế hoạch đấu thầu dự án và thẩm định kết quả đấu thầu. + Phê duyệt kế hoạch đấu thầu của dự án và lết quả đấu thầu. + Tổ chức kiểm tra công tác đấu thầu. + Tổng kết, đánh giá,báo cáo tình hình đấu thầu và thực hiện Quy chế đấu thầu. + Giải quyết các vướng mắc, khiếu nại về đấu thầu. Chương II áp dụng quy chế đấu thầu xây dựng tại Tổng Công ty cơ khí xây dựng Giới thiệu chung về Tổng công ty Quá trình hình thành của Tổng công ty Tổng công ty cơ khí xây dựng là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo quyết định số 993/BXD-TCLĐ ngày 20/11/1995 của Bộ trưởng Bộ xây dựng trên cơ sở Liên hiệp các xí nghiệp cơ khí xây dựng thành lập từ năm 1975 , có trụ sở giao dịch chính tại số 813 đường Giải Phóng- Hà Nội + Số điện thoại : 84.4.6643659 + Số fax : 84.4.6643661 + Số tài khoản : 730105194 + Tại ngân hàng : Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Tổng công ty cơ khí xây dựng chuyên sản xuất kinh doanh thiết bị cơ khí phục vụ ngành xây dựng theo quy hoạch, kế hoạch phát triển của ngành xây dựng trong và ngoài nước, theo yêu cầu của thị trường. Trong nhiều năm qua kể từ khi thành lập, Tổng công ty luôn đầu tư máy móc thiết bị hiện đại, tăng cường công tác đào tạo để nâng cao trình độ quản lý trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng quản lý, tay nghề của công nhân với mục tiêu tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ để có thể cạnh tranh trong và ngoài nước, Tổng công ty áp dụng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn ISO9002 Với đội ngũ hơn 6000 kỹ sư và công nhân lành nghề, với năng lực thiết bị ngày càng được trang bị hiện đại, Tổng công ty đã và đang tham gia thiết kế, tư vấn, chế tạo, lắp đặt thiết bị các công trình xi măng như : Nhà máy xi măng Bút Sơn, Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Sao Mai…, các nhà máy đường như: Nhà máy đường Thạch Thành, Sơn La, Nghệ An…, các nhà máy điện như nhà máy điện Hiệp Phước, nhiệt điện Phả Lại, Bà Rịa- Vũng Tàu, Phú Mỹ, Thuỷ điện Sông Đà, Ytaly, Hàm Thuận- Đa My…, khu nhà hành chính nhà máy lọc dầu Dung Quất, phân đạm Hà Bắc, cột điện đường dây 500KV, các cột truyền hình, cột vi ba, các loại giàn không gian cho các công trình kiến trúc, nhà thi đấu thể dục thể thao trong và ngoài nước Tổng công ty cũng tham gia nhiều công trình xây dựng công nghiệp và dân dụng trong và ngoài nước như: Xây dựng khu du lịch, trường học, đường giao thông, các công trình thuỷ lợi… Để mở rộng thị trường , ngành nghề sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực thiết bị công nghệ sản xuất cũng như trình độ đội ngũ quản lý, công nhân kỹ thuật lành nghề, Tổng công ty đã hợp tác, liên doanh với nhiều công ty , tổ chức trong và ngoài nướcđể chuyển giao công nghệ, ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ tiến tiến Trong những năm tới, Tổng công ty cơ khí xây dựng tiếp tục đầu tư năng lực mới để trở thành một Tổng công ty hàng đầu ở Việt Nam trong lĩnh vực chế tạo, lắp đặt các thiết bị phi tiêu chuẩn, kết cấu thép, thiết bị thi công ngành xây dựng , thi công các công trình dân dụng và công nghiệp, xuất khẩu các sản phẩm của mình trên thị trường thế giới. Địa vị pháp lý của Tổng công ty cơ khí xây dựng Chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động Tổng công ty cơ khí xây dựng ( sau đây gọi tắt là Tổng công ty ) là Tổng công ty Nhà nước bao gồm các đơn vị thành viên có quan hệ mật thiết về lợi ích kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu tiếp thị, xuất nhập khẩu, hoạt động trong ngành cơ khí xây dựng ,Tổng công ty do Bộ trưởng Bộ xây dựng quyết định thành lập theo uỷ quyền của thủ tướng chính phủ nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của toàn Tổng Công ty, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Tổng công ty có nhiệm vụ kinh doanh chuyên ngành cơ khí xây dựng theo quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành xây dựng của Nhà nước và thoe yêu cầu của thị trường,bao gồm các lĩnh vực sản xuất, tiêu thụ, cung ứng máy móc, trang thiết bị, công cụ, phụ tùng, phụ kiện và các sản phẩm phục vụ xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng , phục vụ quản lý, phát triển đô thị và các ngành kinh tế kỹ thuật khác, sản xuất, tiêu thụ, cung ứng dịch vụ về các phương tiện vận tải, xếp dỡ, thi công lắp đặt thiết bị, thi công xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng, công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp, xây lắp công trình đường dây, trạm biến thế, công trình bưu điện , sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng, kinh doanh phát triển nhà, tư vấn đầu tư xây dựng , tư vấn kinh tế kỹ thuật về công nghệ, thiết bị cho các dự án sản xuất cơ khí vật liệu xây dựng , xuất nhập khẩu vật tư, phụ tùng thiết bị công nghệ về cơ khí xây dựng và tiến hành các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật, liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước phù hợp với luật pháp và chinh sách của Nhà nước Cơ cấu tổ chức của Tổng công ty Để việc sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao, Ban lãnh đạo Tổng công ty đã sắp xếp cơ cấu tổ chức hợp lý đảm bảo cho mọi hoạt động của Tổng công ty luôn thuận lợi, dễ dàng. Theo đó, cơ cấu tổ chức của Tổng công ty được bố trí theo sơ đồ sau: Sơ đồ 4 : Cơ cấu tổ chức Tổng công ty cơ khí xây dựng * Hội đồng quản trị Hội đồng quản trị của Tổng công ty có chức năng quản lý hoạt động kinh doanh, chịu trách nhiệm về sự phát triển của Tổng công ty theo nhiệm vụ của Nhà nước giao. Hội đồng quản trị có năm thành viên do Bộ trưởng Bộ xây dựng quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm. Trong đó có ba thành viên chuyên trách gồm: Chủ tịch Hội đồng quản trị, một thành viên kiêm Tổng giám đốc, một thành viên là trưởng ban kiểm soát và hai thành viên kiêm nhiệm là các chuyên gia về các lĩnh vực kinh tế , kỹ thuật, tài chính, quản trị kinh doanh, pháp luật Hội đồng quản trị làm việc theo chế độ tập thể, họp thường kỳ hàng quý để xem xét và phê duyệt, quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của mình. Khi cần thiết Hội đồng quản trị có thể họp bất thường để giải quyết những vấn đề cấp bách của Tổng công ty do chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc, hoặc trưởng ban kiểm soát, hoặc trên 50% số thành viên Hội đồng quản trị đề nghị Chủ tịch Hội đồng quản trị triệu tập và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng quản trị, trường hợp vắng mặt vì lý do chính đáng, chủ tịch uỷ nhiệm cho một thành viên khác trong Hội đồng quản trị triệu tập và chủ trì cuộc họp. Cuộc họp của Hội đồng quản trị được coi là hợp lệ khi có ít nhất 2/3 số thành viên có mặt. Nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị có hiệu lực khi có trên 50% tổng số thành viên Hội đồng quản trị biểu quyết tán thành. Nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị có tính bắt buộc thi hành đối với toàn Tổng công ty . Trong trường hợp ý kiến của Tông giám đốc có quyền bảo lưu ý kiến và kiến nghị cới cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý. Trong thời gian chưa có quyết định của cơ quan Nhà nước có thầm quyền xử lý, Tổng giám đốc vẫn phải chấp hành nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị Ban kiểm soát Ban kiểm soát có năm thành viên, trong đó có một thành viên Hội đồng quản trị làm trưởng ban theo sự phân công của Hội đồng quản trị và bốn thành viên khác do Hội đồng quản trị quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật. Ban kiểm soát có trách nhiệm phải: + Thực hiện nhiệmvụ do Hội đồng quản trị giao về việc kiểm tra, giám sát hoạt động điều hành của Tổng giám đốc , bộ máy giúp việc và các đơn vị thnàh viên trong Tổng công ty … + Báo cáo Hội đồng quản trị theo định kỳ hàng quý, hàng năm và theo vụ việc về kết quả điều tra, giám sát của mình, kịp thời phát hiện và báo cáo ngay Hội đồng quản trị về những hoạt động không bình thường, có dấu hiệu phạm pháp trong Tổng công ty + Không được tiết lộ kết quả kiểm tra, giám sát khi chưa được Hội đồng quản trị cho phép, phải chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và pháp luật nếu cố ý bỏ qua hoặc bao che những hành động phạm pháp. Tổng giám đốc và Bộ máy giúp việc Theo quy định tại Điều 18- Chương II- điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty cơ khí xây dựng thì Tổng giám đốc do Bộ trưởng Bộ xây dựng bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật theo đề nghị của Hội đồng quản trị Tổng công ty . Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị , trước Bộ trưởng Bộ xây dựng và trước pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng công ty . Tổng giám đốc được xem là người có quyền điều hành cao nhất trong Tổng công ty . Bộ máy giúp việc trong Tổng công ty bao gồm: Các phó Tổng giám đốc , kế toán trưởng Tổng công ty , văn phòng và các phòng ban chuyên môn thuộc Tổng công ty . Trong đó: + Phó Tổng giám đốc là người giúp Tổng giám đốc điều hành một hoặc một số lĩnh vực hoạt động của Tổng công ty theo sự phân công của Tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được Tổng giám đốc phân công thực hiện + Kế toán trưởng Tổng công ty giúp Tổng giám đốc chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kế toán, thống kê của Tổng công ty , có các quyền và nhiệm vụ theo quy định của pháp luật + Văn phòng và các phòng ban chuyên môn , nghiệp vụ của Tổng giám đốc có chức năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc trong quản lý, điều hành công việc. Đơn vị thành viên Tổng công ty Tổng công ty có các đơn vị thành viên là các dpanh nghiệp nhà nước hạch toán độc lập, các doanh nghiệp Nhà nước hạch toán phụ thuộc và những đơn vị sự nghiệp. Danh sách các đơn vị thành viên Tổng công ty được ghi trong phụ lục kèm theo Điều lệ của Tổng công ty . Các đơn vị thành viên của Tổng công ty có con dấu, được mở tài khoản tại kho bạc Nhà nước và ngân hàng phù hợp với phương thức hạch toán của mình. Đơn vị thành viênlà doanh nghiệp hạch toán độc lập và doanh nghiệp hạch toán phụ thuộc có Điều lệ tổ chức và hoạt động riêng, đơn vị sự nghiệp của Tổng công ty có quy chế tổ chức và hoạt động riêng. Các điều lệ và quy chế này đều do Hội đồng quản trị phê chuẩn phù hợp với pháp luật và điều lệ của Tổng công ty . Tình hình hoạt động kinh doanh của Tổng công ty Trong những năm vừa qua, bằng sự cố gẵng nỗ lực của hơn 6000 kỹ sư và công nhân kỹ thuật lành nghề, với năng lực thiết bị ngày càng được trang bị hiện đại, Tổng công ty đã và đang tham gia thiết kế, tư vấn, chế tạo và lắp đặt các công tình lớn như: Nhà máy xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn , nhà máy đường Sơn La, Nghệ An, các nhà máy điện như nhà máy điện Hiệp Phước, nhiệt điện Phả Lại… Cũng giống như mọi doanh nghiệp Nhà nước khác khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Tổng công ty cơ khí xây dựng cũng đã gặp không ít khó khăn về vốn, trình độ kỹ thuật… Nhưng bằng cố gắng nỗ lực của mọi thành viên trong Tổng công ty cũng như bằng sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Ban lãnh đạo Tổng Công ty, giá trị tổng sản lượng của Tổng công ty qua các năm đã tăng lên đáng kể, cụ thể được khái quát qua bảng kết quả sản xuất kinh doanh sau: Sơ đồ 5 : Kết quả sản xuất kinh doanh Năm 2002 là năm tiếp tục thực hiện nghị quyết đại hội Đảng IX, thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội: “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp”. Đã có nhiều nghị quyết, chính sách tạo thuận lợi cho các ngành công nghiệp phát triển theo định hướng của Đảng và Nhà nước . Bên cạnh những thuận lợi, nền kinh tế cả nước tiếp tục đương đầu với những khó khăn, có mặt còn gay gắt hơn năm trước. Việc đầu tư của nước ngoài giảm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành cơ khí và cơ khí xây dựng cũng không nằm ngoài khó khăn trên. Mặc dù vậy, năm 2002 Tổng công ty đã thực hiện giá trị sản xuất kinh doanh tăng 114% so với năm 2001, đạt tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp chung của cả nước. Các công trình trong năm đa dạng hơn các năm trước, mang tính chất thực hiện trọn gói: Thiết kế, xây lắp bao gồm cả phần cung cấp thiết bị, kết cấu thép, lắp đặt thiết bị công nghệ. Các sản phẩm thiết bị, kết cấu thép cung cấp cho các công trình xi măng Bỉm Sơn mở rộng, nhà máy nghiền Feldspart, thiết bị cơ khí thuỷ công cho nhà máy thuỷ điện Cần Đơn, các mái giàn không gian, các cột truyền hình, đều được chỉ đạo cụ thể từng hạng mục và qua đó đánh giá được khả năng tổ chức thực hiện của từng đơn vị. Vượt qua rất nhiều khó khăn, đi lên bằng chính nội lực của mình, Tổng công ty cơ khí xây dựng đã phấn đấu hết mình để đạt được những kết quả đáng khích lệ, với định hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, tận dụng tối đa chất xám của cán bộ công nhân viên và thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới. Tổng công ty đã và đang là một trong những doanh nghiệp tiềm năng và đầy triển vọng của ngành cơ khí xây dựng Việt Nam Thực tiễn áp dụng quy chế đấu thầu xây dựng tại Tổng công ty Sự cần thiết phải tiến hành công tác tổ chức đấu thầu tại Tổng công ty Xuất phát từ đặc điểm nguồn vốn đầu tư của Tổng Công ty, một phần do ngân sách Nhà nước cấp, còn phần lớn là vốn vay( vay ưu đãi, vay thương mại trong nước, vay theo chương trình dự án phát triển của nước ngoài). Chính vì vậy nên không những phải bảo tồn nguồn vốn này mà còn phải phát triển nguồn vốn mới để có thể trả nợ , sinh lời cho chủ đầu tư . đấu thầu đã thể hiện và được xem như là một phương pháp quản lý dự án có hiệu quả nhất hiện nay(trên cơ sở chống độc quyền và tăng cường cạnh tranh giữa các nhà thầu). Chính bởi vai trò quan trọng của nó nên đấu thầu thực sự không thể không có mặt trong các dự án đang được tiến hành ở Tổng công ty cơ khí xây dựng . Mặt khác, để thực hiệntốt kế hoạch phát triển ở Tổng công ty cơ khí xây dựng giai đoạn 2001-2010, quy hoạch phát triển ngành thì cần hơn bao giờ hết phải có một khối lượng vốn khá lớn và ổn định để làm tăng cường tính quy mô cho các công trình. Từ thực tế đó, việc tiết kiệm nguồn vốn cũng như đảm bảo chất lượng công trình luôn được đặt ra, do đó nếu áp dụng đấu thầu có hiệu quả sẽ giải quyết thuận lợi vấn đề này. Thực trạng công tác đấu thầu xây dựng tại Tổng công ty . Là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập từ năm 1995, trải qua biết bao khó khăn, Tổng công ty cơ khí xây dựng đã dần vươn lên đóng góp cho nền kinh tế nước nhà nói chung và ngành cơ khí xây dựng nói riêng. Trong thời gian vừa qua kể từ khi thành lập, Tổng công ty đã và đang tham gia thiết kế, tư vấn, chế tạo, lắp đặt thiết bị các công trình xi măng như: Nhà máy xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, Sao Mai…, các nhà máy điện như nhà máy điện Hiệp Phước, nhiệt điện Phả Lại, Bà Rịa- Vũng Tàu, Phú Mỹ,thuỷ điện Sông Đà, Ytaly…, khu nhà lọc dầu Dung Quất, phân đạm Hà Bắc, cột điện đường dây 500 KV, các cột truyền hình, các loại giàn không gian cho các công trình kiến trúc trong và ngoài nước. Dưới đây là kết quả đấu thầu của Tổng công ty trong mấy năm gần đây, cụ thể: Kết quả công tác tổ chức đấu thầu năm 2000 Năm 1999 và 6 tháng đầu năm 2000, Tổng công ty cơ khí xây dựng đã hoàn thành tín độ chế tạo khối lượng lớn cho các công trình trọng điểm: Nhiệt điện Phả Lại 2 và Phú Mỹ 1 , được các nhà thầu quốc tế đánh giá cao về chất lượng và tiến độ các hợp đồng cung cấp thiết bị. Về xây dựng : Khởi công xây dựng nhà điều hành điện lực Hà Nam, bệnh viện đa khoa tỉnh Sơn La, nhà hội họp 350 chỗ tại Vĩnh Phúc và một số công trình xây dựng và làm đường khác. Nói chung, các gói thầu mà Tổng công ty tiến hành thường áp dụng dưới hình thức đấu thầu hạn chế và phương thức đấu thầu một túi hồ sơ . Tuy là dự thầu hạn chế nhưng số lượng các nhà thầu trong một gói thầu khá lớn, bình quân từ 4 đến 7 nhà thầu /gói thầu và vẫn có một số nhà thầu quen thuộc tham gia với tỷ lệ trúng thầu cao. Về hiệu quả hoạt động đấu thầu : Trong năm này, tỷ lệ tiết kiệm tuy có sự chênh lệch tuỳ theo từng gói thầu cụ thể, nhưng nhìn chung là có hiệu quả, số lượng các gói thầu được thực hiện nhiều hơn, đặc biệt là các dự án nhóm B và nhóm C. * Kết quả công tác đấu thầu năm 2001. Sang năm 2001 số gói thầu được thực hiện ở Tổng công ty đã tăng lên rõ rệt. Cụ thể: trong năm. Tổng công ty đã đưa dự án đầu tư nhà máy sản xuất phụ kiện sứ vệ sinh vào vận hành( COMA – 12), trong tháng 12/2001, COMA- 12 đã vận hành dây chuyền thiết bị đạt công suất thiết kế. Đã lập 7 dự án đầu tư tăng năng lực sản xuất, một dự án xây dựng nhà điều hành và giới thiệu sản phẩm( COMA-3), 5 dự án đầu tư phát triển, đã triển khai thực hiện 3 dự án Sơ đồ 6 : Danh mục dự án đầu tư năm 2001 Tên dự án Dự kiến thực hiện năm 2001 Thời gian thực hiện Đầu tư nhà máy chế tạo thiết bị và phụ tùng cho công nghiệp sản xuất xi măng công suất 10.000-20.000 tấn/năm 690 tỷ 2001-2003 Đầu tư nhà máy sản xuất ống van tê cút và các phụ kiện kèm theo bằng gang dẻo công suất 10.000-20.000tấn/năm 210 tỷ 2001-2002 Nhà máy sản xuất Thanh nhôm định hình và phụ kiện cho khung nhôm kính 90 tỷ 2001-2003 Nhà máy sản xuất máy Và thiết bị thi công Xây dựng, phụ tùng Thay thế, phụ tùng kèm theo 120 tỷ 2001-2002 Nhà máy chế tạo thiết Bị sản xuất bê tông, trạm Trộn bê tông 140 tỷ 2001-2002 Nhà máy sản xuất Nhà kết cấu khung lớn và giàn không gian 70 tỷ 2002-2003 Nhà máy chế tạo và Lắp cầu thang máy 30 tỷ 2001-2002 *Kết quả công tác đấu thầu năm 2002. Năm 2002 là năm mà Tổng công ty tích luỹ được 6 năm kinh nghiệm trong điều hành và thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh theo mô hình Tổng Công ty,thực hiện nhiều công trình lớn, đa dạng. Cụ thể năm 2001 có 13 dự án đầu tư đăng ký Bộ duyệt thực hiện trong năm, trong đó: - Các dự án đã thực hiện và đưa vào khai thác (6 dự án) gồm: +Xưởng sơn và trang trí trên tranh nhôm + Nhà điều hành sản xuất và cho thuê đã hoàn thành và đưa vào sử dụng tháng 3/2002. +Đầu tư thiết bị gia công quả cầu giàn không gian đã được duyệt chuyển tên dự án + Cải tạo xí nghiệp đúc +Đầu tư thiết bị sữa chữa xe máy + Đầu tư thiết bị tăng năng lực sản xuất của các đơn vị - Các dự án đang thực hiện (06 dự án) + Xưởng sản xuất cốp pha thép và xưởng mạ nhũng kẽm thực hiện xong phần xây lắp nhà xưởng, dự kiến thực hiện việc lắp đặt thiết bị quý I năm 2003. + Nhà máy sản xuất thang máy, thang cuốn đang thực hiện san lấp mặt bằng và xây tường rào. +Nhà máy điều hành và cho thuê quý I/2003 sẽ đưa công trình vào sử dụng. + Dự án khu du lịch Đại Lải- Hang Dơi. + Dự án xưởng lắp ráp ô tô, cần trục. + Dự án xưởng bảo dưỡng sữa chữa xe máy thi công. - Dự án đã phê duyệt dự án khả thi (01 dự án). + Nhà máy sản xuất gạch men 20 triệu viên/ năm. 2.3. Thực trạng quy trình tổ chức đấu thầu tại Tổng công ty cơ khí xây dựng Hoạt động đấu thầu xây dựng được xem là hoạt động chủ yếu và quan trọng của Tổng Công ty, chính vì thế mà nó được toàn thể Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân viên Tổng công ty rất quan tâm nên việc quy định trình tự đấu thầu xây dựng cũng được nghiên cứu khá kỹ lưỡng. Sau khi báo cáo nghiên cứu khả thi, tiền khả thi hoặc báo cáo đầu tư được phê duyệt thì Tổng công ty tiến hành lập thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán công trình, thiết kế mỹ thuật, tổng dự toán phải được cơ quan Tổng công ty tiến hành thành lập Ban quản lý dự án và trình duyệt nhân sự của Ban quản lý dự án. Cụ thể các bước tổ chức đấu thầu tại Tổng công ty được tiến hành như sau: Trình duyệt kế hoạch đấu thầu Kế hoạch này do Bên mời thầu lập và phải được Tổng công ty phê duyệt mới trở thành một trong các điều kiện mời thầu. Việc lập kế hoạch đấu thầu được thực hiện sau khi có quyết định đầu tư dự án và nhìn vào kế hoạch đấu thầu có thể thấy được tiến độ thực hiện dự án. Trường hợp chưa đủ điều kiện lập kế hoạch đấu thầu của toàn bộ dự án, Bên mời thầu có thể lập kế hoạch đấu thầu cho từng phần của dự án theo giai đoạn thực hiện nhưng phải được người có thẩm quyền cho phép. Nội dung của kế hoạch đấu thầu của dự án bao gồm: + Phân chia dự án thành các gói thầu + Ước tính giá trị của từng gói thầu + Hình thức lựa chọn nhà thầu và phương thức áp dụng đấu thầu đối với từng gói thầu . + Thời gian tổ chức đấu thầu cho từng gói thầu . + Phương thức thực hiện hợp đồng + Thời gian thực hiện hợp đồng Trong tất cả các nội dung nói trên thì có thể xem việc phân chia dự án thành các gói thầu là quan trọng hơn cả. Chính bởi gói thầu là căn cứ để tiến hành đấu thầu, xét thầu. Cơ sở để phân chia dự án thành các gói thầu được căn cứ vào đặc điểm phương tiện kỹ thuật cũng như trình tự thực hiện dự án. ở Tổng công ty cơ khí xây dựng , do dự án được đầu tư từ các nguồn vốn khác nhau nên gói thầu thường được phân chia căn cứ vào các nguồn vốn. Bên cạnh đó, việc phân chia dự án thành các gói thầu cũng có thể dựa theo đặc trưng riêng của ngành: Mỗi hạng mục thường có tính chất, quy trình kỹ htuật thi công riêng nên có thể tiến hành độc lập với các nhà thầu thuộc các lĩnh vực khác nhau để tham gia thực hiện. Mục đích của việc phân chia các gói thầu một mặt căn cứ vào các yêu cầu về kỹ thuật, Mặt khác, còn phải đảm bảo sao cho phù hợp với tình hình năng lực tài chính của các nhà thầu trong nước. Nếu như giá trị các gói thầu quá lớn thì khó có thể thu hút được sự tham gia của các nhà thầu , Mặt khác, giá chào thầu quá cao cũng không có lợi cho chủ đầu tư . Một nội dung cũng không kém phần quan trọng nữa đó là ước tính giá trị của từng gói thầu . Việc ước tính giá trị của từng gói thầu sao cho phải đảm bảo phù hợp với cơ cấu tổng mức đầu tư trong Báo cáo nghiên cứu khả thi đã được Tổng công ty phê duyệt. Mỗi gói thầu cần xác định rõ nguồn vốn tài chính là nguồn nào, và giá các gói thầu này phụ thuộc vào phần đơn giá. Dự án thực hiện ở các địa bàn, khu vực khác nhau thì đơn giá cũng khác nhau. Chuẩn bị hồ sơ mời thầu. Hồ sơ mời thầu có thể được xem là một trong các yếu tố khá quan trọng quyết định chất lượng và hiệu quả của gói thầu . Nó được lập bởi Ban quản lý dự án của chủ đầu tư và tuân thủ theo đúng quy định trong Nghị định 88/1999/NĐ-CP. Hồ sơ mời thầu được lập khi có đủ các điều kiện sau: + Đã có quyết định đầu tư cho dự án của Tổng công ty + Đã có đầy đủ các văn bản của các Ban, ngành và các cơ quan có liên quan + Đã có hồ sơ thiết kế thi công và dự toán công trình của dự án đã được Bộ xây dựng phê duyệt ( nếu là vốn ngân sách Nhà nước cấp), Hội đồng quản trị Tổng công ty ( nếu dự án được đầu tư bằng vốn vay). + Mẫu hồ sơ mời thầu đã được lập sẵn theo mẫu mà Hội đồng quản trị Tổng công ty ban hành. Trên cơ sở đó mà hồ sơ mời thầu sẽ được lập khi đưa thêm các chi tiết về khối lượng, số liệu theo thiết kế, dự toán công trình đã được Tổng công ty phê duyệt. Hồ sơ mời thầu sẽ được phát hành khi có quyết định phê duyệt hồ sơ mời thầu của Tổng công ty cơ khí xây dựng . Thông tin trong hồ sơ mời thầu cần phải đảm bảo tính chính xác vì nó là cơ sở để xác định tính chất cũng như quy mô công trình. Những sai sót, nhầm lẫn trong việc lập hồ sơ mời thầu bắt nguồn từ cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan . Nguyên nhân chủ quan là do thiếu cẩn trọng của người lập hồ sơ mời thầu, còn nguyên nhân khách quan là do khoảng thời gian gấp rút khi là quá ngắn nhằm hiệu chỉnh lại hồ sơ mời thầu giữa khoảng thời gian phát hành hồ sơ mời thầu với thời gian nhận được quyết định phê duyệt hồ sơ mời thầu của Tổng công ty . Chính bởi thế, ở Tổng công ty cơ khí xây dựng , bước lập và chuẩn bị hồ sơ mời thầu được xem là một khâu khá quan trọng trong quy trình tổ chức đấu thầu xây dựng và được xem xét, nghiên cứu một cách thật kỹ lưỡng, cẩn trọng. Thông báo mời thầu Sau khi đã lập xong hồ sơ mời thầu và đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, Ban quản lý dự án thuộc Tổng công ty tiến hành tổ chức đấu thầu . Vì đa số các gói thầu tại Tổng công ty đều được tiến hành dưới hình thức đấu thầu hạn chế nên Tổng công ty thường gửi thông báo mời thầu cho các nhà thầu trực tiếp qua đường bưu điện. Các nhà thầu được gửi thông báo này là danh sách ngắn các nhà thầu đã được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt Nhận và quản lý hồ sơ dự thầu. Các nhà thầu chuẩn bị xong hồ sơ dự thầu thì nộp tại Tổng công ty theo đúng thời gian đã quy định trong hồ sơ mời thầu. Nhìn chung, một bản hồ sơ dự thầu xây dựng bao gồm các nội dung chính sau: + Đơn xin dự thầu. + Quyết định thành lập doanh nghiệp . + Giấy đăng ký kinh doanh. + Giấy phép về xây dựng . + Bảng giá dự thầu. + Hồ sơ kinh nghiệm. + bảo lãnh dự thầu. + Tổ chức công trường và các giải pháp kỹ thuật. + Các phương án thay thế khi được phép. + Giấy chứng nhận về chất lượng. Tổ chuyên gia có trách nhiệm tiếp nhận và quản lý hồ sơ dự thầu sao cho phải đảm bảo đúng nguyên tắc “ bảo mật” cũng như các nguyên tắc khác của xây dựng . Mở thầu. Sau khi tiếp nhận nguyên trạng các hồ sơ dự thầu nộp đúng hạn và quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ “ mật”, việc mở thầu được tiến hành công khai theo ngày, giờ, địa điểm đã được ghi trong hồ sơ mời thầu và không được chậm hơn 48 giờ kể từ thời điểm hết hạn nộp hồ sơ dự thầu( trừ ngày nghỉ) tại văn phòng của chủ đầu tư . Thành phần tham gia buổi mở thầu. Thành phần tham gia lễ mở thầu bao gồm: + Ban quản lý dự án. + Hội đồng xét thầu, tư vấn chấm thầu + Đại diện Ban lãnh đạo Tổng công ty . + Uỷ viên Ban kiểm soát. + Phòng đầu tư và phòng quản lý dự án Tổng công ty . + Đại diện các nhà thầu . + Đại diện của chủ đầu tư . Trình tự mở thầu. Đại diện Bên mở thầu tuyên bố nội dung và thủ tục mở thầu, thông báo thành phần tham dự lễ mở thầu, số lượng và tên các nhà thầu đã nộp hồ sơ dự thầu. Sau đó, đại diện các nhà thầu sẽ lần lượt kiểm tra và ký xác nhận có mặt theo đúng yêu cầu của Bên mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành lần lượt như sau: Các phong bì có ghi “ Rút lại” sẽ được mở và đọc trước tiên. Các hồ sơ dự thầu đã nộp thông báo xin rút lại sẽ không được mở ra. Tên của nhà thầu , giá chào thầu cho bất kỳ phương án thay thế nào, mọi khoản giảm giá, việc bổ sung và rút lại hồ sơ dự thầu, việc có hoặc thiếu Bảo lãnh dự thầu và các chi tiết khác nếu Bên mời thầu xét thấy cần thiết sẽ được Bên mời thầu thông báo lúc mở thầu. Bên mời thầu sẽ chuẩn bị biên bản mở thầu, bao gồm các thông tin đã được công khai thông báo cho những người tham dự lễ mở thầu. Đại diện Bên mời thầu và các nhà thầu ký xác nhận vào biên bản mở thầu. Đại diện của cơ quan cấp trên và đại diện các nhà thầu xác nhận tính hợp pháp của lễ mở thầu và tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu, đồng htời ghi nhận các văn bản số liệu khi mở các túi hồ sơ dự thầu. Đánh giá xếp hạng nhà thầu . Đây có thể được xem là một bước quan trọng nhất trong tất cả các bước của quá trình đấu thầu . Đánh giá hồ sơ dự thầu. + Kiểm tra hồ sơ dự thầu và xác định sự đáp ứng. Bên mời thầu sẽ chỉ đánh giá và so sánh các hồ sơ dự thầu đã được xác định là đáp ứng cơ bản các điêù kiện sau: Có quyết định thành lập doanh nghiệp , hoạt động theo pháp luật Việt Nam , giấy đăng ký kinh doanh còn có hiệu lực Đơn dự thầu được điền và ký đầy đủ. Bảo lãnh dự thầu. Đáp ứng các yêu cầu cơ bản trongấh mời thầu. Một hồ sơ dự thầu được coi là đáp ứng về cơ._. 70% tổng số điểm về kỹ htuật trở lên sẽ được chọn vào danh sách ngắn. Điều này chưa hợp lý vì như vậy về năng lực, kỹ thuật và chất lượng công trình không được coi trọng. Hơn nữa điểm kỹ thuật phản ánh năng lực của nhà thầu và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình, nhất là những công trình yêu cầu về kỹ thuật cao. Vì vậy cần thiết phải có những thay đổi ở điểm này tuỳ theo yêu cầu kỹ thuật của công trình để công trình xây dựng khi đấu thầu đạt giá cả hợp lý và đảm bảo chất lượng công trình. Thứ năm : Vấn đề trách nhiệm của cơ quan tư vấn. Hiện nay pháp luật về đấu thầu quy định chưa đầy đủ về vấn đề này, trong nhiều trường hợp các kết luận, những ý kiến đánh giá của các cơ quan tư vấn thiếu chính xác, không trung thực, không khách quan gây ra các thiệt hại tổn thất thì xử lý bồi htường như thế nào. Điều này gây ra tình trạng làm việc không hiệu quả cảu các cơ quan tư vấn , ảnh hưởng đến lợi ích của chủ đầu tư , nhà thầu và lợi ích của toàn xã hội. Hơn nữa, vị không quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan tư vấn nên nhiều khi nhà tư vấn không hiểu được tầm quan trọng của mình là thay mặt chủ đầu tư có thể thực hiện tất cả các bước, từ tư vấn đầu tư đến tư vấn xây dựng công trình mà điều này quyết định sự thành công hay thất bại của công trình, nhiều khi vì sự kém hiểu biết của nhà tư vấn sẽ dẫn đến có những hậu quả nghiêm trọng. Thứ sáu : Thủ tục hành chính trong khâu đấu thầu còn chưa hiệu quả. Thủ tục trình duyệt kế hoạch hiện nay còn tốn kém khá nhiều thời gian. Bởi vì một số dự án, gói thầu cung cấp thiết bị đã chuẩn bị xong về đến công trình trong khi kế hoạch đấu thầu vẫn chưa được duyệt dẫn tới kéo dài thời gian thực hiện. Ta thấy rằng, đấu thầu là công việc của chủ đầu tư , do chủ đầu tư chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện trong quá trình quản lý dự án . Khi tổ chức thực hiện dự án, đương nhiên chủ đầu tư phải tuân theo Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng của Chính Phủ. Điều này được thực hiện qua trình tự đầu tư vãd từ khâu lập, thẩm định và phê duyệt dự án, thiết kế và dự toán, thi công xây lắp, nghiệm thu, bàn giao và quyết toán công trình. Bên cạnh đó, chủ đầu tư còn phải tuân thủ theo đúng trình tự đấu thầu đã được quy định trong Quy chế đấu thầu . Chính các quy định này đã làm cho chủ đầu tư giảm đi tính chủ động và quan trọng hơn là chủ đầu tư phải thực thi cùng một lúc cả Quy chế đầu tư và xây dựng và Quy chế đấu thầu . Thứ bảy : Về thời điểm lập kế hoach đấu thầu . Quy chế đấu thầu yêu cầu phải lập kế hoạch đấu thầu ở giai đoạn “ dự án khả thi” nhưng trong thực tế ở giai đoạn này chỉ có thể lập kế hoạch đấu thầu thiết bị, đấu thầu tư vấn, thiết kế . Còn đối với đấu thầu xây lắp thì ở giai đoạn này chưa thể phân chia rõ ràng được, nhất là các dự án lớn. Bởi vì muốn phân chia gói thầu xây lắp phải dựa trên thiết kế và dự toán thì chất lượng hồ sơ mời thầu mới được đảm bảo, nhưng ở giai đoạn này lại chưa có thiết kế và dự toán. Vậy cần phải nghiên cứu việc phân chia gói thầu xây lắp ở thời điểm nào ? Về vấn đề này, Quy chế đấu thầu cần phải có quy định cụ thể đối với từng loại đấu thầu. Thứ tám : Vấn đề tiêu cực trong đấu thầu. Đay là một hiện tượng đang xảy ra rất nhiều trong đấu thầu những năm gần đay và được xem là nỗi la ngại cho các nhà đầu tư cũng như đối với các nhà thầu. Hiện tượng này xảy ra là do các quy định của pháp luật còn chồng chéo, rườm rà, chưa chặt chẽ dẫn đến tình trạng đấu thầu giả, nhất là với hình thức đấu thầu hạn chế, các nhà thầu thường thoả thuận ngầm với nhau để tìm ra nhà thầu thắng. Hoặc do những bí mật không cần thiết đã tạo điều kiện để xảy ra tiêu cực, như tiêu chuẩn xét thầu thường được xen vào ý đồ chủ quan hướng đến cho nhà thầu nào mà chủ đầu tư có ý định chọn. Trong trường hợp này các nhà thầu khác cầm chắc thất baị trong một cuộc cạnh tranh không công bằng mà sự không công bằng này bên ngoài khó có thể nhận ra được. Đó là những tiêu cực xảy ra gây bất lợi cho các nhà thầu , cho cả chủ đầu tư và phá vỡ môi trường cạnh tranh lành mạnh. Những tiêu cực này cần phải có những quy định , biện pháp xử lý thích hợp. Trong Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP có quy định về xử lý vi phạm song mới chỉ có những biện pháp và hình thức chung chung mà không thể xử lý được. Bởi lẽ vậy, cần phải có những quy định cụ thể để xử lý tình trạng này để hoạt động đấu thầu diễn ra đạt được mục tiêu cạnh tranh lành mạnh, công bằng và hiệu quả. Trên đay là những vấn đề còn tồn tại của pháp luật về đấu thầu, những vấn đề tồn tại này gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động đầu tư và xây dựng. Chính vì vậy cần thiết hơn hết là Nhà nước cần phải có các biện pháp khắc phục ngay tình trạng trên nhằm làm cho các quy định của pháp luật về đấu thầu thật đầy đủ và thống nhất. Đánh giá khái quát công tác tổ chức đấu thầu xây dựng ở Tổng công ty cơ khí xây dựng 2.1.Những kết quả đạt được Mặc dù mới thực sự tham gia hoạt động đấu thầu trong vòng hơn 6 năm trở lại đây, song với kinh nghiệm và sự đoàn kết nội bộ, Tổng công ty cơ khí xây dựng đã từng bước vươn lên tự khẳng định vị trí của mình trên thị trường và đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Rất nhiều công trình, dự án đã được thực hiện ở rất nhiều nơi trong cả nước, từ Bắc vào Nam, có ý nghĩa to lớn, góp phần vào xây dựng và phát triển ngành cơ khí xây dựng nói riêng và vào nền kinh tế của cả nước nói chung. Trong thành công của mỗi dự án có một sự đóng góp không nhỏ của công tác đấu thầu. Quá trình đấu thầu ở Tổng công ty cơ khí xây dựng đẫ đạt được những thành tựu rõ ràng, giúp nâng cao chất lượng công trình, tiết kiệm được vốn đầu tư , đảm bảo tiến độ theo kế hoạch. Cụ thể : Về mặt cơ sở pháp lý. + Tổng công ty cũng như các bên tham gia đấu thầu đã ttuan thủ nghiêm chỉnh luật pháp, các Quy chế và quy định của Nhà nước về nội dung, trình tự đấu thầu và có đầy đủ cơ sở pháp lý cho các cuộc đấu thầu tổ chức tại Tổng công ty. + Đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý, cùng với các Nghị quyết, Quyết định do Nhà nước ban hành thì Tổng công ty cũng đã có quyết định riêng nhằm hỗ trợ, bổ sung cho công tác tổ chức đấu thầu ở Tổng được tiến hành một cách thuận lợi. Qua đó giúp cho các dự án triển khai ở Tổng công ty đều đã phát huy được hiệu quả trong thực tế. Về mặt hiệu quả kinh tế xã hội. + Về mặt kinh tế. Nhờ có đấu thầu nên chất lượng, tiến độ thực hiện các công trình được đảm bảo và tiết kiệm được tổng số vốn đầu tư. Như đã biết, trong nền kinh tế thị trường thì cạnh trnah là điều kiện không thể tránh khỏi. Trong đấu thầu thì sự cạnh tranh giữa các nhà thầu là hết sức quyết liệt và để giành được thắng lợi trong cuộc cạnh tranh đó thì các nhà thầu phải thể hiện hết sức mình qua chất lượng công trình, tiến độ thực hiện dự án, giá thành thực hiện công trình cũng như nhiều yếu tố khác. Vì vậy, qua hình thức đấu thầu , các nhà thầu lựa chọn được những giải pháp kỹ thuật cho công trình một cách tối ưu mà bản thân bên mời thầu không nghĩ ra sẽ đem lại hiệu quả cao cho dự án. Mặt khác, khi nhà thầu đã giành được hợp đồng thì họ sẽ phải thực hiện dự án theo đúng yêu cầu về chất lượng và tiến độ nếu không sẽ ảnh hưởng đến uy tín của nhà thầu đó mà trong sự cạnh tranh quyết liệt như hiện nay việc mất uy tín trên thị trường đồng nghĩa với việc phá sản doanh nghiệp. Hơn nữa, do sự ràng buộc trong hợp đồng khiến cho nhà thầu phải luôn bám sát theo hợp đồng. Từ đó, chất lượng công trình cúng như tiến độ của gói thầu luôn được theo dõi và giám sát chặt chẽ đảm bảo đưọc những yêu cầu của Bên mời thầu. Đồng thời nó cũng mang lại tính khả thi cao hơn cho dự án bởi vì tính khả thi của dự án được tạo nên tù nhiều yếu tố kết hợp lại như giải pháp kỹ thuật, biện pháp thi công, khả năng về vốn, nguòn cung ứng nguyên vật liệu, lao động và tiến độ thực hiện… + Về hiệu quả xã hội. Không chỉ mang lại hiệu quả về mặt kinh tế mà thôngỡƠÁG ¿ẽDbjbjŽÙŽÙ Šỡ³ỡ³ự>ềÿÿÿÿÿÿ]RRRRRRRffff8žỡƠÁG ¿ ẽDbjbjŽÙŽÙ Šỡ³ỡ³ự>ề ÿÿÿÿÿÿ]RRRRRRRffff8ž các cán bộ này cũng rút ra được những bài học kinh nghiệm bổ ích cho việc tổ chức các gói thầu sau này nhằm đem lại lợi ích cho chủ đầu tư mà cụ thể ở đây là Tổng công ty cơ khí xây dựng . Đấu thầu đem lại tính minh bạch cho các dự án đầu tư. Thông qua đấu thầu thì các dự án được tiến hành công khai, đảm bảo không bị lạm dụng vốn của Tổng công ty để nhằm vào các mục đích riêng của những cán bộ Tổng công ty. Đồng thời quyền lợi của các bên tham gia được bảo vệ. Tính minh bạch được thể hiện rõ trong việc công khai thông báo gọi thầu, cung cấp hồ sơ gọi thầu với những nội dung như yêu cầu kỹ thuật chủ yếu của công trình, điều khoản hợp đồng chủ yếu, tiêu chuẩn và phương pháp xét thầu, trình tự mở thầu, xét thầu và quyết định chọn thầu…Minh bạch trong việc mở thầu đúng thời gain và địa điểm quy định trong hồ sơ mời thầu , đánh giá theo hồ sơ mời thầu, lựa chọn người ưu tú nhất có đủ năng lực làm người trúng thầu một cách không thiên vị theo cùng một hệ thống chuẩn mực và do Hội đồng xét thầu có đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức đảm nhận. Lý do chọn nhà thầu trúng thầu cũng như lý do các nhà thầu khác bị loại đều được giải thích đầy đủ. Rõ rnàg bằng các văn bản, tránh ngờ vực. Đấu thầu góp phần tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu. Nhờ đấu thầu , các nhà thầu đã có một “ sân chơi” tự do để cạnh tranh với nhau. Môi trường cạnh trnah bình đẳng này đã tạo ra cơ hội cho các nhà thầu thực sự phát huy sức mạnh của mình. Đồng thời, sự tự do này cũng buộc các nhà thầu có năng lực chưa thực sự mạnh phải tìm cách đổi mới để nâng cao năng lực cạnh tranh thì mới có thể mong tồn tại được. Và như vậy, đấu thầu đã tạo ra các động cơ thúc đẩy buộc các nhà thầu không ngừng vươn lên đổi mới để tự hoàn thiện mình và để nhanh chóng bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại, nếu không thì họ sẽ bị đào thải ngay lập tức. Đó chính là tất yếu của quy luật cạnh tranh. Như vậy có thể nói, công tác đấu thầu đã góp phần không nhỏ vào việc tổ chức các gói thầu đồng thời tạo điều kiện cho quy luật cạnh tranh phát huy tác dụng. Những tồn tại Mặc dù đã có những kết quả đáng kể, song hoạt động tổ chức đấu thầu ở Tổng công ty vẫn còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu để tìm ra giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của công tác tổ chức đấu thầu nhằm góp phần xây dựng Tổng công ty thêm lớn mạnh. Cụ thể : Hạn chế về cơ chế pháp luật. Mặc dù chính phủ đã ban hành Nghị định 88/1999/NĐ- CP về quy chế đấu thầu và Nghị định 14/2000/NĐ- CP về việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 88/CP nhưng nói chung còn khá nhiều bất cập, chưa phù hợp. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho Tổng công ty khi áp dụng Quy chế đấu thầu . Mặt khác, hiện nay các văn bản pháp luật về đấu thầu thường xuyên sửa đổi, bổ sung làm cho việc áp dụng nó ở Tổng công ty có nhiều bất lợi vì Tổng công ty phải bỏ ra khá nhiều thời gian, chi phí, công sức để tìm hiểu, so sánh sự thay đổi này sao cho thực hiện đúng pháp luật. Tiến độ tổ chức đấu thầu chậm. Tiến độ công tác tổ chức đấu thầu đôi khi bị chậm lại do chậm trễ trong một số khâu : + Chậm trễ trong quá trình lập hồ sơ mời thầu. Điều này bắt nguồn từ những nguyên nhân chủ quan và khách quan. Nguyên nhân chủ quan là vẫn còn những sai sót, nhầm lẫn trong khi lập hồ sơ mời thầu do sự bất cẩn, thiếu sót của người lập hồ sơ mời thầu và do yêu cầu gấp rút trong thời gian nhiều khi là rất ngắn giữa khoảng thời gian phát hành hồ sơ mời thầu đã định trước với thời gian nhận được quyết định phê duyệt hồ sơ mời thầu của Tổng công ty nên công tác hiệu chỉnh lại hồ sơ mời thầu theo bàn duyệt trogn thời gian ngắn không đảm bảo được tính chính xác còn nguyên nhân khách quan là do bên tư vấn thiết kế không giao kịp bản vẽ kỹ thuật và tổng dự toán theo đúng kế hoạch. + Trình tự trình duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, kế hoạch đấu thầu, hồ sơ mời thầu, báo cáo kết quả đấu thầu phải trải qua nhiều bước, nhiều thủ tục kéo dài. Nguyên nhân chủ quan là do các cán bộ phụ trách việc trình duyệt không thường xuyên theo dõi quá trình phê duệt với các cấp trên để kịp thời giải đáp các vấn đề phát sinh. Nguyên nhân khách quan có thể kể đến là việc thực hiện cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng chưa được tốt. Về công tác đánh giá hồ sơ dự thầu. Theo quy định của Nhà nước, Nhà thầu được kiến nghị thắng thầu khi đạt các yêu cầu về năng lực tài chính, kỹ thuật và có giá đánh giá thấp nhất. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây đã bắt đầu phổ biến hiện tượng một số nhà thầu đua nhau bỏ thầu giá thấp , thậm chí dưới 50% giá ước tính của chủ đầu tư, để giành giật bằng được công trình. Các nhà thầu sẽ cố tình khai giảm khối lượng công việc, hạ thấp giá dự thầu xuống để được trúng thầu, còn đến khi thanh toán lại dùng khối lượng phát sinh để bù lại. Và khi được trao hợp đồng thường các nhà thầu này thi công dây dưa kéo dài, không đảm bảo chất lượng và tiến độ công trình, và dẫn đến các chi phí trong thực tế sẽ gia tăng. Cách đấu thầu này đã gây ra rất nhiều hậu quả xấu và làm mất đi tính hấp dẫn của đấu thầu xây dựng. Về công tác trang bị cơ sở vật chất. Tuy đã có trang bị về cơ bản nhưng tình trạng thiếu máy móc và một số trang thiết bị khác vẫn chưa đảm bảo khối lượng công việc ngày càng nhiều. Chính điều này cũng gây ra nhiều khó khăn khiến thời gian thực hiện công việc bị kéo dài. Về quản lý chi phí tổ chức đấu thầu . Công việc này chưa được quản lý chặt chẽ đúng mức, chưa có một cán bộ chuyên trách có chuyên môn sâu về quản lý chi phí phụ trách lĩnh vực này, trình độ năng lực cán bộ quản lý còn hạn chế, cơ chế quản lý chưa chặt chẽ. Do vậy sẽ dẫn đến gây lãng phí vốn đầu tư . Về đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vưc đấu thầu. Mặc dù Tổng công ty đã có một đội ngũ chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm nhưng số lượng không nhiều, do các gói thầu được tổ chức đấu thầu thường là các gói thầu có quy mô nhỏ nên chưa có kinh nghiệm nhiều trong gói thầu lớn đòi hỏi trình độ cao, phức tạp. Mặt khác, Tổng công ty vẫn chưa thực sự quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý về đấu thầu bởi lẽ một phần công tác đấu thầu không phải là hoạt động chính của Tổng công ty mà hoạt động chính là kinh doanh, nên công tác tổ chức đấu thầu chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Một số cán bộ chưa thực sự đứng ngành nghề nhưng vẫn có thể tham gia công tác đấu thầu của Tổng công ty và điều này làm ảnh hưởn không nhỏ đến công tác đấu thầu. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý về đấu thầu xây dựng. Kiến nghị với Nhà nước. Thứ nhất : Sửa đổi quy định đối với nhà thầu nước ngoài cho hợp lý. Trong khoản 3- Điều 1- Nghị định 14/2000/NĐ- CP ngày 05/05/2000 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/CP ngày 01/09/1999 có quy định : “ Nhà thầu nước ngoài khi tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam về xây lắp phải liên danh với nhà thầu Việt Nam hoặc phải sử dụng nhà thầu phụ Việt Nam , nhưng phải nêu rõ sự phân chia giữa các bên về phạm vi công việc, khối lượng và đơn giá hợp lý”. Như đã trình bày ở trên quy định này gây khó khăn cho các nhà thầu nước ngoài khi tham dự đấu thầu tại Việt Nam. Vì vậy, theo tôi Chính Phủ nên sửa lại điều khoản này như sau : “ có chế độ ưu tiên đối với nhà thầu nước ngoài khi tham dự đấu thầu quốc tế tại Việt Nam về xây lắp mà có cam kết hoặc liên danh với nhà thầu Việt Nam hoặc sử dụng nhà thầu phụ Việt Nam”. Nếu quy định như vậy chúng ta sẽ giải thoát được một khó khăn lớn cho các nhà thầu quốc tế. Bởi vì hoạt động đấu thầu ở Việt Nam còn nhiều mới mẻ, việc tìm được nhà thầu để liên danh hay sử dụng làm nhà thầu phụ không phải là dễ. Do vậy, công việc này phải làm xong trong một thời gian ngắn, từ khi nhận được thông báo mời thầu hay thư mời thầu đến khi nộp hồ sơ dự thầu. Ngoài ra, nếu quy định như vậy chúng ta sẽ thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và sẽ tạo thuận lợi cho chủ đầu tư để có thể lựa chọn được nhà thầu tối ưu nhất. Thứ hai : Vấn đề giá gói thầu và giá xét thầu. Về giá gói thầu( Quy định tại điều 3- Mục 23- Nghị định 88/1999/NĐ- CP) . Vấn đề này cần được quy định rõ hơn, cụ thể là cần phải quy định như sau : “ Giá gói thầu trong kế hoạch đấu thầu được căn cứ trên cơ sở tổng mức đầu tư đối với các gói thầu thiết bị hoặc tư vấn, thiết kế và được dựa trên tổng dự toán với các gói thầu xây lắp theo hợp đồng có điều chỉnh giá hoặc dựa trên dự toán hạng mục đối với các gói thầu xây lắp theo hợp đồng trọn gói”. Về giá trần và giá sàn. Đây là hai vấn đề còn gây nhiều tranh cãi, đặc biệt đối với các gói thầu quốc tế. Trong điều kiện các nhà thầu Việt Nam không có khả năng tham gia các gói thầu tổ chức theo đấu thầu quốc tế, không chỉ vậy trình độ Bên mời thầu và các nhà tư vấn đấu thầu của ta không đủ khả năng để đánh giá được toàn bộ hồ sơ dự thầu của các nhà thầu quốcỡƠÁG ¿ẽDbjbjŽÙŽÙ Šỡ³ỡ³ự>ềÿÿÿÿÿÿ]RRRRRRRffff8žỡƠÁG ¿ẽDbjbjŽÙŽÙ Šỡ³ỡ³ự>ềÿÿÿÿÿÿ]RRRRRRRffff8žiều thiệt hại cho ngành, cho Nhà nước.Nhưng giá sàn lại cũng có hai mặt của nó. Tức là nếu áp dụng giá sàn trong đấu thầu nhằm chống lại sự phá giá thì đồng thời nó cũng lại gây nghi ngờ về tính đúng đắn của nó. Bởi vì giá sàn còn phụ thuộc vào trình độ, trách nhiệm của tư vấn mà tổ chức này lại đứng ngoài cuộc đấu thầu nên giá sàn thì vẫn lại do tư vấn xác định mà thôi. Do vậy, Nhà nước ta nên chăng không cần phải quy định giá sàn trong Pháp lệnh đấu thầu sắp tới, nhưng vẫn phải cho phép các chủ đầu tư, Bên mời thầu dùng giá sàn để xét thầu. Điều này sẽ rất có lợi cho chủ đầu tư tinh thông nghiệp vụ và đây là công việc hoàn toàn không phức tạp và rất dễ tiến hành. Mặt khác, để khắc phụctình trạng bỏ giá thấp do không có mức giá sàn làm chuẩn làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình và sự phát triển vững chắc của các nhà thầu, ta có thể xác định giá xét thầu như sau: -Nhà thầu trúng thầu là người chào giá gần nhất( là giá đnáh giá) so với giá trùn bình của tất cả các hồ sơ dự thầu mà chủ đầu tư nhận được. - Nhà thầu trúng thầu là người chào giá có thể thấp hơn giá trung bình nói trên, nhưng là giá gần nhất với giá này và vẫn thấp hơn giá dự toán của chủ đầu tư. - Nhà thầu trúng thầu là người chào giá gần nhất với mức giá trung bình, sau khi đã loại giá thầu thấp nhất và cao nhất trong các hồ sơ dự thầu nhận được. - Ngoài ra còncó thể quy định rằng những nhà thầu nào bỏ thấp hơn giá dự toán của chủ đầu tư 10% đều bịloại hoặc quy định nghiêm cấm những nhà thầu nào bỏ giá thầu thấp hơn giá thành. Như vậy, có rrát nhiều giải pháp, vấn đề là Nhà nước cần phải cân nhắcđể lựa chọn ra giải pháp có tính tối ưu nhất, giải quyết vấn đề một cách tốt nhất. Thứ ba : Về phương pháp đánh giá hồ sơ dự thầu. Theo quy định tại khoản 1- Điều 30 - Nghị định 88/1999/NĐ-CP thì về điểm kỹ thuật, nếu quy định điểm tối thiểu 70% trở lên sẽ được chọn và danh sách ngắn. Trong thực tế đã có nhiều nhà thầu năng lực không cao nhưng cũng lọt vào danh sách ngắn. Sau khi lọt vào danh sách ngắn,những nhà thầu này lại thường có giá đnáh giá thấp nhất và hậu quả là chất lượng công trình bị hạn chế. Vì vậy,cần thiết nên nâng điểm tối thiểu kỹ thuật lên 80% hoặc cao hơn tuỳ theo yêu cầu kỹ thuật của công trình thì xét “ đạt” hoặc thay bằng phương pháp tổng hợp cả hai điểm kỹ thuật và giá để xem xét lựa chọn nhà thầu trúng thầu như thông lệ quốc tế. Bởi vì chỉ có như thì công trình xây dựng khi đấu thầu mới đạt được giá cả hợp lý, để đảm bảo hcất lượng công trình. đặc biệt là loại trừ được những đơn vị yếu kém hơn về kỹ htuật, năng lực thi công và góp phần vào làm giảm đi những tiêu cực trong đấu thầu xây dựng. Thứ tư : Cần có biện pháp để giải quyết những tiêu cực trong đấu thầu. Để hạn chế tiêu cực trong đấu thầu, Nhà nước cần có biện pháp tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ công tác đấu thầu. Nhất là trong việc nghiệm thu chất lượng công trình để tránh được tình trạng moc ngoặc giữa bên thi công và nghiệm thu công trình, tránh gây thiệt hại về tiền của,công sức của nhân dân. Nếu cá nhân, tập thể nào vô trách nhiệm hoặc cố ý buông lỏng công tác đấu thầu thì phải thi hành kỷ luật kịp thời, thích đáng. Để công tác xử lý vi phạm có hiệu quả, Nhà nước nên xây dựng hẳn một chương trong Quy chế đấu thầu về hình thức vi phạm và biện pháp xử lý đối voí những cá nhân, tổ chức vi phạm Quy chế đấu thầu. Có như thế mới giảm bớt hiện tượng vi phạm và tiêu cực trong đấu thầu. Thứ năm : Nhà nước cần nhanh chóng ban hành Pháp lệnh đấu thầu. Thực tế cho thấy là Quy chế đấu thầu hiện nay là một bước tiến vượt bậc nhưng khi thực hiện công tác đấu thầu đối với các gói thầu có quy mô lớn, công nghệ cao thì việc thực hiện còn lúng túng do tính chuyên môn hoá cao và những quy định chưa đầy đủ. Do quy mô và tầm quan trọng của hình thức đấu thầu thì cần phải có một văn bản pháp lý cao để xứng đáng với hoạt động đó. Nếu có Pháp lệnh đấu hầu hoặc Luật đấu thầu điều hcỉnh hoạt động đến đấu thầu thì việc quản lý của Nhà nước về hoạt động này sẽ được thuận lợi hơn. 3.2. Kiến nghị với Tổng công ty. 3.2.1. Chuẩn bị tố hồ sơ mời thầu. Hồ sơ mời thầu là cở, là căn cứ để các nhà thầu chuẩn bị và xác định các côngviệc phải làm nếu được chọn, đó là tất cả mọi yêu cầu của Bên mời thầu . Vì thế khi chuẩn bịtốt hồ sơ mời thầu sẽ giúp cho các nhà thầu khái quát được công việc , hình dung được tiến độ thực hiện và phân bộ nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất. Hồ sơ mời thầu được chuẩn bị tốt sẽ tạo điều kiện cho hồ sơ dự thầu được soạn thảo tốt,giúp cho các gói thầu được thực hiện thuận lợi với các giải pháp tối ưu nhất. Như vây, việc chuẩn bị hồ sơ mời thầu cũng là một trong những tiền đề quyết định sự thành công góp phần vào hoàn thiện công tác đấu thầu.Do vậy, lập hồ sơ mời thầu đòi hỏi tính khoa học cao,mọi thông tin phải chính xác giúp nhà thầu dễ đọc và dễ hiểu yêu cầu của Bên mời thầu, tránh hiện tượng lặp đi lặp lại một thông tin nào ở các phần khác nhau. 3.2.2. Nâng cao chất lượng của công tác tổ chức tư vấn. Công tác tư vấn( tư vấndự án, tư vấn xét thầu, tổ chuyên gia xét thầu) thực chất làhoạt động dịch vụ “ chất xám”. Hoạt động tư vấn có ý nghĩa quan trọng và mang tính quyết định đến hiệu quả đầu tư và chất lượng của các dự án xây dựng. Bởi lẽ chức năng của tổ chức tư vấn là thay mặt chủ đầu tư để thực hiện các bước như : Lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật, lập tổng dự toán công trình, chuẩn bị hồ sơ mời thầu, xét thầu... 3.2.3. Đào tạo, bố trí và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ. Cần bổ sung đội ngũ cán bộ về số lượng và chất lượng, đặc biệt là những cán bộ có chuyên môn về lĩnh vực cụ thể trong đầu tư xây dựng và đấu thầu.Bởi vì, khi có những cán bộ có chuyên môn sâu như vậy họ sẽ xem xét nghiên cứu kỹ lưỡng những vấn đề cần quan tâm quản lý thì khi ban hành ra các quyêts định sẽ đem lại sự chính xác cao, hiệu quả cao, tránh được những tiêu cực gây thiệt hại cho chủ đầu tư, nhà thầu và cho đất nước. 3.4. Kiến nghị với nhà thầu Thứ nhất : Yêu cầu các nhà thầu phải tuyệt đối tuân thủ các quy định pháp luật về đầu tư xây dựng và đấu thầu đặc biệt là Quy chế đấu thầu, cần xem xét thật kỹ lưỡng yêu cầu trong hồ sơ mời thầu để khi mình trúng thầu thì mình sẽ đảm bảo thực hiện tôt nhất các yêu cầu đó. Thứ hai : Bồi dưỡng , tuyển dụng các cán bộ chuyên môn về công tác đấu thầu. Cụ thể phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn và kiến thức pháp luật về đấu thầu, tin học , ngoại ngữ cho các cán bộ quản lý, kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật nâng cao nghiệp vụ từ đó việc tiến hành công tác dự thầu sẽ diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn.. Nâng cao trình độ cho cán bộ sẽ tạo ra ưu thế lớn cho mỗi một nhà thầu, thông qua đó năng lực cạnh tranh của mỗi nhà thầu sẽ cao hơn rất nhiêu. Muốn làm được điều đó thì các nhà thầu phải chú trọng việc sắp xếp, phân công một cách hợp lý, đúng đối tượng, đúng trình độ chuyên môn, tay nghề. Có kế hoạch chi tiết về việc tuyển dụng, bôi dưỡng phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đội ngũ điều hành của Công ty. Các nhà thầu cũng cần thiết phải cư các cán bộ đi học qua các khoá học tập trung hay học tập ở đơn vị bạn, cần có chiến lược kế hoạch hoá nguồn nhân lực nhằm thích ứng với đối thủ cạnh tranh. Thực hiện tốt hơn nữa giải pháp đào tạo kiến thức sẽ giúp cho các nhà thầu nâng cao hiệu quả đấu thầu nói chung và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung. Thứ ba : Trong quá trình lập hồ sơ mời thầu phải dựa hoàn toàn vào hồ sơ mời thầu của chủ đầu tư nên phải xem xét thật kỹ lưỡng những nội dung, yêu cầu trong hồ sơ mời thầu để xem mình có đủ năng lực hay không nhằm tránh được những hậu quả xảy ra khi tham gia đấu thầu. Thứ tư : Hoàn thiện phương pháp lập giá toán dự thầu . Xây dựng chính sách giá cạnh tranh linh hoạt, lành mạnh. Cụ thể các nhà thầu cần phải xem xét, điều chỉnh cách tính giá dự toán xây dựng công trình của mình sao cho sạt thực với cách lập giá dự toán của chủ đầu tư. Việc đưa ra được giá bỏ thầu cạnh tranh không chỉ phụ thuộc vào phương pháp lập giá, chiến lược bỏ giá cơ bản mà còn phụ thuộc rất nhiều vào việc tiết kiệm chi phí xây dựng công trình, nâng cao hiệu suất của máy móc, năng suất của lao động. + Biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động: Các nhà thầu cần sử dụng lao động một cách hợp lý, đúng ngành nghề, chuyên môn. Bố trí đào tạo và tuyển dụng thợ có tay nghề cao với chính sách trả lương hợp lý, bên cạnh đó với những công nhân cũ cần có những đợt huấn luyện nhằm đào tạo lại và củng cố thêm trình độ sẵn có của họ. + Biện pháp nâng cao hiệu suất máy móc thiết bị : Các nhà thầu cần chú trọng khâu đầu tư máy móc thiết bị, thay thế máy móc cũ bằng những thiết bị hiện đại, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ trên thế giới nhằm nâng cao chất lượng công trình và nâng cao uy tín của mình, kết quả đấu thầu…do đó, để cho công tác đấu thầu đạt hiệu quả cao thì buộc mỗi chủ đầu tư phải nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật về đấu thầu , chỉ được phép tiến hành tổ chức đấu thầu khi có quyết định của cơ quan chủ quản chủ đầu tư mà cụ thể ở đây là Tổng công ty cơ khí xây dựng . Có như vậy thì công tác đấu thầu mới mang lại hiệu quả cao cho chính chủ đầu tư, cho nhà thầu và cho các cơ quan có liên quan đến hoạt động này. Thứ hai : Lựa chọn phương thức đấu thầu một cách hợp lý. Việc lựa chọn được nhà thầu có tối ưu hay không phụ thuộc khá nhiều vào quyết định chọn phương thức đấu thầu của chủ đầu tư. Chính bởi mỗi nhà thầu đều có những khả năng nhất dịnh nên chủ đầu tư cần lựa chọn nên lựa chọn phương thức đấu thầu nào sao cho hợp lý, phù hợp với từng dự án cụ thể. Thứ ba : Cần lựa chọn nhà tư vấn có đủ năng lực thực sự. Như ta đã nói ở trên, pháp luật về đấu thầu hiện nay chưa có quy định một cách cụ thể, rõ ràng về trách nhiệm của nhà tư vấn trong đấu thầu, do đó chủ đầu tư cần phải có kế hoạch lựa chọn được nhà tư vấn có đủ năng lực thực sự đáp ứng với yêu cầu của từng dự án , tránh tình trạng không khách quan, không trung thực , thiếu chính xác trong quyết định của nhà tư vấn gây ra tổn thất to lớn không chỉ cho chủ đầu tư mà còn cho nhà thầu, cho xã hội. Chính vì thế, chủ đầu tư cần phải hết sức thận trọng trong khâu tuyển chọn này, có như thế mới nâng cao được chất lượng công trình, nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành cơ khí xây dựng nói riêng và của nền kinh tế nước nhà nói chung Kết luận Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế đnag ngày càng diễn ra một cách nhanh chóng buộc mỗi quốc gia phải biết vượt qua thử thách để cùng hoà nhập vào nền kinh tế chung của thế giới. Với một nền kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu cùng với cơ sở hạtầng thấp kém sẽ là khó khăn lớn đối với đất nước ta. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết việc cải cách hệ thống pháp luật theo hướngthông thoáng, hiệu quả là việc cần thiết phải làm ngay. Đấu thầu tuy còn là một hình thức khá mới mẻ ở Việt Nam nhưng nó đã dần mang lại rất nhiều lợi ích to lứon cho xã hội. Bài viết đã phần nào nêu lên những quy định của pháp luật về đấu thầu đặc biệt là hoạt động quản lý đấu thầu tại Tổng công ty cơ khí xây dựng trên cơ sở tuân theo những quy định của Quy chế đấu thầu, đồng thời bài viết cũng nêu lên một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động đấu thầu ở Việt Nam . Tài liệu tham khảo Các văn bản quy phạm pháp luật + Luật thương mại ngày 10/05/1997. + Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính Phủ về việc ban hành quy chế đấu thầu. + Nghị định 14/2000/NĐ-CP ngày 05/05/2000 của Chính Phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999. + Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/05/2000 hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP và Nghị định 14/2000/NĐ-CP. + Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 của Chính Phủ về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư và đấu thầu. + Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/05/2000 của Chính Phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP. + Nghị định 43/CP ngày 16/07/1996 của Chính Phủ về việc ban hành Quy chế đấu thầu. + Quyết định số 24/BXD-VKT ngày 12/2/1990 của Bộ xây dựng ban hành quy chế đấu thầu trong xây dựng . + Dự thảo lần thứ hai Pháp lệnh đấu thầu ngày 12/10/2000 của Uỷ ban thường vụ quốc hội. Các tài liệu tham khảo khác. + Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam – Trường Khoa học xã hội và nhân văn. + Tạp chí xây dựng số 11/2000, số 7/2001, số 9/2001. + Tạp chí kinh tế dự báo số 3/2000, số 2/2000, số 6/2000. + Một số mẫu hồ sơ mời thầu của Tổng công ty cơ khí xây dựng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT139.doc
Tài liệu liên quan