chế độ pháp lý về cổ phần hoá doanh nghiệp
Nhà nước: quá trình phát triển, thực trạng
và giải pháp hoàn thiện
Đặt vấn đề
Nước ta chủ trương thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước (CPHDNNN) bắt đầu bằng quyết định số 143/HĐBT của hội đồng bộ trưởng ngày 10/5/1990 và thực hiện cổ phần hoá Nhà Nước bắt đầu năm 1992.
Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước có thể chia làm hai giai đoạn:
+Giai đoạn thí điểm: Từ năm 1992 đến năm 1995
+Giai đoạn mở rộng : Từ năm 1996 đến nay.
-Cổ ph
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chế độ pháp lý về cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước: quá trình phát triển, thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần hoá doanh nghiệp Nhà Nước đó là xu thế chung của mọi quốc gia. Cổ phần hoá và tư nhân hoá là hai phạm trù kinh tế rất gần nhau, nên nhiều người thường có sự nhầm lẫn hoặc đồng nhất là một. Do vậy cần phân biệt “Tư nhân hoá là quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà Nước sang doanh nghiệp tư nhân” còn “Cổ phần hoá là quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà Nước từ chỗ chủ doanh sở hữu là Nhà Nước thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu”.
Người chủ sở hữu của doanh nghiệp là các cổ đông do bầu chọn ra hội đồng quản trị là người đại diện chính thức cho mình. Kinh nghiệm của các nước khi cổ phần hoá họ thường chọn một trong hai hình thức sau:
+ Bán toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp Nhà Nước cho các tư nhân, tổ chức kinh tế, xã hội bằng phương thức phân chia tài sản doanh nghiệp thành nhiều cổ phiếu và đem bán toàn bộ hoặc một phần cổ phiếu đó.
+ Giữ nguyên toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, phát thêm cổ phiếu bán ra thị trường nhằm tăng thêm vốn và cũng làm thay đổi từ một chủ sở hữu là Nhà Nước sang nhiều chủ sở hữu.
Như vậy thực chất của cổ phần hoá là làm giảm bớt vai trò trưc tiếp làm chủ sở hữu các doanh nghiệp, giảm bớt đầu tư của Nhà Nước, tăng thêm nguồn vốn từ dân cư, các tổ chức kinh tế, xã hội trong và ngoài nước để tạo thêm sức mạnh cho doanh nghiệp. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước diễn ra thường xuyên ở các quốc gia, thậm chí cả các nước phát triển.
-Đảng và Nhà Nước ta đã có một số văn bản, chính sách về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước.
+Quyết định 143/HĐBT của HĐBT-Tháng 5/1990 về chủ trương cổ phần hoá một só doanh nghiệp Nhà Nước.
+Quyết định 28/CP ngày 7/5/1996 của Chính Phủ về chuyển một số doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần
+Quyết định 58/QĐ-TTg ngày 16/4 /2002 của TTCP về phân loại doanh nghiệp Nhà Nước.
+Nghị định 44 /NĐ-CP ngày 2/10/1998 của CP về chuyển đổi DNNN thành CTCP
+Nghị định 64 /NĐ-CP ngày 19/6/2002 của CP về chuyển đổi DNNN thành CTCP
+Thông tư hướng dẫn số 104/1998/TT-BTC ngày 18/7/1998 của BTC về tổ chức xác định doanh nghiệp
+Thông tư 97/2002/TT-BTC ngày 9/9/2002 của BTC hướng dẫn định giá tài sản và xác định cơ cấu cổ phần khi tiến hành CPH DNNN.
+Chỉ thị 202 CT/ HĐBT của HĐBT ngày 18/6/1992 về thí điểm chuyển đổi một số DNNN thành CTCP
+Chỉ thị số 658/ TTg ngày20/8/1997 của TTCP về việc thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp DNNN.
Mục đích giúp chúng ta hiểu rõ hơn cũng như nắm vững tốt hơn về các văn bản và nội dung liên quan đến chế độ pháp lý, quá trình phát triển, thực trạng và giải pháp hoàn thiện của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước.
Chính vì vậy, em xin chọn đề tài : “Chế độ pháp lý về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước : Quá trình phát triển, thực trạng, phương hướng hoàn thiện.”
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã giúp em hoàn thành đề tài này.
I. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước:
1. Sự cần thiết, yêu cầu cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước.
- Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực kinh tế khan hiếm. Doanh nghiệp Nhà Nước nắm trong tay phần lớn những nguồn lực của nền kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Nhưng phần lớn các doanh nghiệp này làm ăn kém và không có hiệu quả.
-Hiện nay mối quan hệ giữa Nhà Nước và doanh nghiệp Nhà Nước đều không rõ ràng. Nhà Nước không nắm rõ ở mỗi thời điểm, tổng số doanh nghiệp của mình là bao nhiêu, chứ chưa nói đến các chỉ tiêu phức tạp.
-Cạnh tranh với khu vực tư nhân. Yêu cầu cổ phần hoá còn xuất phát từ việc cạnh tranh với khu vực tư nhân đang hồi sinh nhanh chóng. Mặt khác trong quá trình hội nhập doanh nghiệp Nhà Nước không những phải cạnh tranh với doanh nghiệp tư nhân trong nước mà với cả các doanh nghiệp tư nhân rất mạnh ở nước ngoài. Cạnh tranh trong nước và quốc tế không chấp nhận việc Nhà Nước giữ độc quyền cho các doanh nghiệp của mình.
Tóm lại, áp lực phát triển kinh tế thi trường đặt dấu chấm hỏi lớn cho các doanh nghiệp Nhà Nước.Cho nên việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước là sự cần thiết, là yêu cầu cấp thiết đối với doanh nghiệp Nhà Nước.
2. Một số khái niệm.
2.1. Doanh nghiệp Nhà Nước
- Doanh nghiệp Nhà Nước là tổ chức kinh tế do Nhà Nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thưc công ty Nhà Nước, công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn.
- Doanh nghiệp Nhà Nước gồm:
+ Công ty Nhà Nước : Là doanh nghiệp do Nhà Nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng kí hoạt động theo quy định của pháp luật.
+ Công ty cổ phần Nhà Nước : Là công ty cổ phần mà toàn bộ cổ đông là các công ty Nhà Nước hoặc tổ chức được Nhà Nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
+ Công ty trách nhiệm hữu han Nhà Nước có hai thành viên là công ty trách nhiệm hữu hạn trong đó tất cả các thành viên đều là công ty Nhà Nước và thành viên khác được Nhà Nước uỷ quyền góp vốn, được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp.
2.2. Công ty cổ phần :
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông cùng góp vốn, cùng nhau quản lý công ty, cùng nhau chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ và trách nhiệm về các khoản nợ tương ứng với phần góp vốn trong doanh nghiệp.
2.3. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước:
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà Nước là quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần.
3. Quả trình phát triển, thực trạng của chế độ cổ phần hoá ở nước ta.
Mặc dù Đảng và Nhà Nước có chủ trương rất sớm về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước và đã được cụ thể hoá bằng những thông tư, nghị định, quyết định, đồng thời có thí điểm trước khi tiến hành rộng rãi, nhưng kết quả rất khiêm tốn. Nếu tính từ năm 1992 đến năm 1997 cả nước cổ phần hoá được 15 doanh nghiệp. Chỉ sau khi Chính Phủ ban hành nghị định số 44/NĐ-CP năm 1998 thì cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước mới có bước tiến nhanh, mà đỉnh cao là năm 1999 đã cổ phần hoá được 250 doanh nghiệp, sau đó lại có xu hướng giảm dần. Năm 2002 Chính Phủ ban hành nghị định số 64/NĐ-CP và một loạt thông tư hướng dẫn thực hiện song cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước vẫn tiến triển rất chậm. Đến năm 2003 cổ phần hoá được 536 doanh nghiệp Nhà Nước.
Dù chưa có công trình nào đánh giá một cách toàn diện song các đánh giá đưa ra đều cho thấy nhìn chung doanh nghiệp Nhà Nước sau cổ phần hoá hoạt động có hiệu quả và kết quả cao hơn so với trước khi cổ phần hoá. Thành công lớn nhất đối với các doanh nghiệp này là mục tiêu tăng vốn Nhà Nước, huy động thêm vốn xã hội để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đã thực hiện được. Cùng với quá trình cổ phần hoá ngày càng có nhiều công nhân viên chức trở thành chủ nhân có sở hữu cổ phần ở các doanh nghiệp Nhà Nước đã cổ phần hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp đã đạt được những kết quả sau khi cổ phần hoá thì còn có những bất cập nảy sinh mà nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp này chưa được ban hành đồng bộ hoặc chưa phù hợp với thực tế mà nhận thức sai lệch, thiếu đầy đủ về công ty cổ phần.
Giải pháp hoàn thiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Thứ nhất : Cần rà soát lại các tiêu chí, danh mục phân loại sắp xếp doanh nghiệp Nhà Nước và tổng công ty Nhà Nước được quy định tại quyết định số 58/2002 – QĐ - TTg ngày 26/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ để mở rộng đối tượng các DNNN thực hiện chuyển đổi sở hữu. Theo đó Nhà Nước chỉ nên giữ các DNNN có hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến an ninh quốc phòng, phục vụ quốc kế dân sinh; hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực độc quyền như sản xuất cung ứng vật liệu nổ; sản xuất cung ứng hoá chất độc; sản xuất cung ứng chất phóng xạ; trong một số lĩnh vực quan trọng như hệ thống truyền tải điện quốc gia, mạng trục thông tin quốc gia và quốc tế; các doanh nghiệp Nhà Nước hoạt động kinh doanh ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, địa bàn chiến lược quan trọng....; các DNNN hoạt động kinh doanh có tính chất đặc thù như các nhà xuất bản, sách báo chính trị,....; DNNN hoạt động công ích, một số doanh nghiệp hoạt động có tính chất đặc thù thì theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ hai : Sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 64 ngày 19/6/2002 của Chính phủ về chuyển DNNN thành công ty cổ phần và Nghị định 41 của Chính phủ ngày 11/4/2002 vể chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà Nước. Theo chúng tôi, những nội dung cần được sửa đổi nghiên cứu là :
Về đối tượng cổ phần hoá: Cần sửa đổi theo hướng mở rộng đối tượng cổ phần hoá, không căn cứ vào quy mô vốn mà căn cứ vào tính chất ngành nghề kinh doanh hoặc vị trí của doanh nghiệp đối với Nhà Nước, trong đó bao gồm cả các doanh nghiệp lớn, các Tổng công ty Nhà Nước hoạt động trên các lĩnh vực như điện lực, luyện kim, cơ khí, hoá chất, xi măng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng không hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm.....
Về hình thức cổ phần hoá : Ngoài các hình thức đã quy định, cần nhấn mạnh hình thức cổ phần hoá theo hướng giữ nguyên giá trị, phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn từ bên ngoài, đặc biệt đối với các doanh nghiệp, Tổng công ty có nhu cầu đầu tư để phát triển và có nhu cầu tăng vốn lớn.
Về quy định đấu giá cổ phần bán ra ngoài doanh nghiệp: Theo quy định hiện hành thì người lao động trong doanh nghiệp ngoài số cổ phiếu được mua theo giá ưu đãi còn được mua cổ phiếu theo giá sàn. Quy định này cần được sửa đổi để khắc phục tình trạng cổ phần hoá trong nội bộ doanh nghiệp theo hướng: tổng cổ phần của công ty sau khi trừ số cổ phần nhà nước nắm giữ, số cổ phần bán ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp, số còn lại được bán đấu giá công khai. Bỏ quy định người lao động được mua cổ phiếu theo giá sàn. Đồng thời, gắn việc cổ phần hoá với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán, nhằm góp phần phát triển thị trường chứng khoán, phù hợp với tinh thần nghị quyết trung ương là huy động thêm vốn xã hội vào doanh nghiệp để phát triển sản xuất kinh doanh. Vì vậy, cần có quy định việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước phải gắn với việc niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Về xác định giá trị quyền sử dụng đất trong doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá: Nghị quyết trung ương III cho phép thí điểm tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp. Nhưng do chưa sửa luật đất đai và thực tế trong cơ chế quản lý đất đai hiện tại còn có nhiều vấn đề bất cập giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hoá nên nghị định số 64/CP chưa đưa quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp.Trong khi đó, hiện nay các địa phương đang sử dụng khung giá đất do Chính phủ ban hành năm 1994 nên không sát với thực tế và quá thấp so với giá thị trường. Vì vậy, đề nghị trước mắt nếu chưa điều chỉnh khung giá đất có thể căn cứ vào giá thị trường để xác định giá trị quyền sử dụng đất trong xác định giá trị doanh nghiệp.
Về cơ chế tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp và tổ chức đấu giá cổ phần: Nhằm đẩy nhanh việc thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp và hạn chế sự tham gia của cơ quan hành chính Nhà nước, nâng cao tính công khai, minh bạch và tính chuyên nghiệp trong hoạt động đấu giá, định giá và gắn cổ phần hoá với việc niêm yết chứng khoán để thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển, Nhà nước cần khuyến khích hoạt động định giá và đấu giá bán cổ phần thông qua định chế trung gian (chỉ thành lập hội đồng đối với những doanh nghiệp có tình hình tài chính phức tạp hoặc có giá trị lớn hoặc có tính đặc thù). Đối với doanh nghiệp có quy mô lớn, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đủ điều kiện niêm yết thì tổ chức bán cổ phần qua thị trường chứng khoán đồng thời gắn với việc thực hiện niêm yết trên thị trường chứng khoán.
II. Mục tiêu, đối tượng áp dụng, hình thức, nội dung cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước :
1. Mục tiêu, đối tượng áp dụng, hình thức cổ phần hoá :
1.1. Mục tiêu:
- Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng hiệu quả vốn, tài sản của Nhà Nước và của doanh nghiệp.
- Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm : Cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư với doanh nghiệp, bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà Nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư, người lao động.
1.2. Đối tượng áp dụng:
- áp dụng đối với những doanh nghiệp Nhà Nước và các đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp được quy định tại điều 1 Luật doanh nghiệp Nhà Nước(trừ những doanh nghiệp Nhà Nước cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn điều lệ) không phụ thuộc vào thực trạng, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Việc cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc vào các doanh nghiệp quy định ở trên chỉ được tiến hành khi:
+Đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp có đủ điều kiện hạch toán độc lập.
+Không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.
- Những doanh nghiệp hạch toán độc lập thuộc đối tượng ở trên có vốn Nhà Nước trên sổ sách kế toán Nhà Nước dưới 5 tỉ VNĐ nếu không cổ phần hoá được thì thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê theo quy định của pháp luật.
1.3. Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước:
- Giữ nguyên vốn Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.
- Bán một phần vốn Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp.
- Bán toàn bộ vốn Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp.
- Thực hiện bán toàn bộ vốn Nhà Nước hoặc một phần vốn của Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp kết hợp với phát hành cổ phiếu thu thêm vốn.
1.4. Những doanh nghiệp được tiến hành cổ phần hoá:
a. Những công ty khi tiến hành cổ phần hoá Nhà Nước nắm giữ trên 50% cổ phần.
- Những công ty có vốn Nhà Nước từ 20 tỉ VNĐ trở lên, mức nộp ngân sách Nhà Nước bình quân 3 năm liền kề từ 2 tỉ VNĐ trở lên, hoạt động trong các ngành, lĩnh vực sau đây:
+ Chế biến dầu mỏ.
+ Khai thác quặng có chất phóng xạ.
+ Đóng và sửa chữa phương tiện vận tải đường không.
+ In sách, báo chính trị.
+ Bán thuốc chữa bệnh, phòng bệnh, hoá dược.
+ Bán buôn lương thực.
+ Bán buôn xăng dầu.
+Vận tải đường không, đường sắt.
+Sản xuất điện.
+ Khai thác các khoáng sản quan trọng: than, bôxit, quặng đồng, quặng sắt, quặng thiếc, vàng, đá quý.
+Sản xuất cơ khí: thiết bị kỹ thuật điện và vật liệu điện, máy công nghiệp chuyên dùng, máy móc, thiết bị phục vụ nông, lâm, ngư nghiệp, đóng và sửa chữa phương tiện vận tải đường sông, đường sắt.
+Cung cấp hạ tầng mạng viễn thông.
+Sản xuất kim loại đen: gang, thép trên 100.000 tấn/ năm.
+Sản xuất xi măng công nghệ hiện đại, chất lượng cao, có công suất thiết kế 1,5 triệu tấn/năm.
+Sản xuất hoá học, thuốc bảo vệ thực vật.
+Sản xuất một số mặt hàng tiêu dùng, thực phẩm: muối ăn, sữa, bia trên 50 triệu lít/năm.
+Khai thác, lọc và cung cấp nước sạch của các thành phố lớn.
+Vận tải đường biển.
+Kinh doanh tiền tệ, bảo hiểm.
- Những công ty khác.
+ Sản xuất giấy, cây trồng, vật nuôi và tinh đông.
+ Dịch vụ đánh bắt cá, hải sản xa bờ.
+ Quản lý bảo trì hệ thống đường bộ, đường thuỷ quan trọng.
+ Quản lý khai thác các công trình thuỷ nông.
+ Dịch vụ hợp tác lao động.
+ Kinh doanh mặt bằng hỗ trợ triển lãm.
b. Những công ty không thuộc ở trên :
Những công ty không thuộc ở trên khi tiến hành cổ phần hoá, cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền căn cứ vào những trường hợp cụ thể, quyết định việc Nhà Nước giữ cổ phần ở mức thấp hoặc không giữ cổ phần.
2. Nội dung cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà Nước :
2.1. Những vấn đề về cổ phần, cổ phiếu, cổ đông sáng lập, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cổ phần.
a. Cổ phần:
- Là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của công ty. Giá trị mỗi cổ phần do công ty quyết định và ghi vào cổ phần.
- Cổ phần của công ty gồm hai loại: Cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi.
Người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông.
Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi.
Cổ phần ưu đãi gồm.
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết: Là cổ phần có só phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ của công ty quy định.
+ Cổ phiếu ưu đãi cổ tức : Là cổ phần được trả với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ tức được chia hàng năm bao gồm cổ tức cố định và cổ tức thường. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty.
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại: là cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ lúc nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo điều kiện ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại.
+ Cổ phần ưu đãi khác do công ty quy định.
b. Đối tượng và điều kiện mua cổ phần.
- Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, cá nhân người nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần ở các doanh nghiệp Nhà Nước, kể cả người Việt Nam (nhà đầu tư nước ngoài)
- Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân người Việt Nam ở trong nước(nhà đầu tư trong nước).
- Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần ở các doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá phải mở tài khoản tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Mọi hoạt động mua bán cổ phần, nhân, sử dụng cổ tức và các khoản thu khác từ đầu tư mua cổ phần đều phải thông qua tài khoản này.
c. Quyền được mua cổ phần lần đầu tại các doanh nghiệp cổ phần hoá.
- Các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đều có quyền mua cổ phần lần đầu tại các doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hoá với số lượng không hạn chế nhưng phải đảm bảo các quy định hiện hành của Nhà Nước về số lượng, cổ đông tối thiểu, cổ phần chi phối của Nhà Nước tại các doanh nghiệp mà Nhà Nước nắm giữ cổ phần chi phối.
-Các nhà đầu tư nước ngoài được mua số lượng cổ phần có tổng giá trị không quá 30% vốn điều lệ của các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề do Thủ Tướng quy định.
d. Cổ phiếu và cổ đông sáng lập.
- Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của cổ đông đóng góp vốn trong công ty. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên nhưng phải có đủ nội dung chủ yếu quy định tại điều 59 của Luật doanh nghiệp.
Bộ tài chính hướng dẫn mẫu cổ phiếu thống nhất để các doanh nghiệp in và quản lý theo quy định.
- Cổ đông sáng lập của doanh nghiệp cổ phần hoá là những cổ đông có đủ các điều kiện sau.
+Tham gia thông qua điều lệ lần đầu của công ty cổ phần.
+ Cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán.
+Sở hữu số lượng cổ phần bảo đảm mức tối thiểu theo điều lệ quy định của công ty.
e. Quyền và nghĩa vụ của công ty cổ phần hoá.
- Doanh nghiệp cổ phần hoá có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng tối đa số lượng lao động có tại thời điểm cổ phần hoá và giải quyết các chế độ theo quy định bộ luật hiện hành.
Công ty cổ phần có trách nhiệm thừa kế mọi nghĩa vụ đối với người lao động từ doanh nghiệp Nhà Nước chuyển sang, có quyền tuyển chọn, bố trí, sử dụng lao động và phối hợp với cơ quan chức năng giải quyết chế độ cho người lao động theo quy định của pháp luật hiện hành.
- Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản tiền vốn đã cổ phần hoá để tổ chức sản xuất kinh doanh, kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà Nước trước khi cổ phần hoá và có quyền và nghĩa vụ khác theo pháp luật hiện hành.
- Doanh nghiệp thành viên của tổng công ty Nhà Nước cổ phần hoá mà Nhà Nước giữ cổ phần chi phối (trên 50% vốn điều lệ) thì vẫn là thành viên của tổng công ty.
f. Bảo hộ của Nhà Nước đối với chủ đầu tư.
Quyền sở hữu và mọi quyền, lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước mua cổ phần tại các doanh nghiệp cổ phần hoá được nhà nước bảo hộ theo quy định của pháp luật.
2.2. Xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá:
2.2.1. Xử lý tài chính :
a. Tài sản thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết, tài sản không cần dùng, tài sản được đầu tư bằng Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi.
Trước khi tiến hành cổ phần hoá, doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê, phân loại và chủ động xử lý theo quy định sau:
- Đối với tài sản do doanh nghiệp thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết với các tài sản khác không phải tài sản của doanh nghiệp : Doanh nghiệp phải thanh lý hợp đồng hoặc thoả thuận với chủ sở hữu tài sản để công ty cổ phần kế thừa các hợp đồng đã kí trước đây hoặc kí lại các hợp đồng mới.
- Đối với những tài sản của doanh nghiệp không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý: Doanh nghiệp thanh lý nhượng bán hoặc báo cáo với cơ quan có thẩm quyền để điều chuyển cho đơn vị khác theo quy định hiện hành. Trường hợp đến thời điểm cổ phần hoá chưa kịp xử lý thì không tính vào giá trị của doanh nghiệp và uỷ quyền cho công ty cổ phần tiếp tục bảo quản, xử lý hoặc chuyển cho tổ chức của Nhà Nước có chức năng tiếp nhận giải quyết.
- Đối với những tài sản thuộc công trình phúc lợi, nhà trẻ, mẫu giáo, bệnh xá và các tài sản phúc lợi đầu tư bằnng nguồn Quỹ khen thưởng. Quỹ phúc lợi thì chuyển giao cho tập thể người lao động trong công ty cổ phần quản lý thông qua tổ chức công đoàn.
Riêng đối với nhà ở của cán bộ, công nhân viên kể cả nhà ở được đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà Nước thì chuyển giao cho cơ quan nhà đất của địa phương để quản lý hoặc bán cho người đang sử dụng theo quy định hiện hành.
- Đối với tài sản đang dùng trong sản xuất kinh doanh đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng.Quỹ phúc lợi thì chuyển giao cho tập thể người lao động trong công ty cổ phần quản lý, sử dụng thông qua tổ chức công đoàn.
Riêng đối với nhà ở của cán bộ, công nhân viên nên kể cả nhà ở được đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước thì chuyển giao cho cơ quan nhà đất của địa phương để quản lý hoặc bán cho người đang sử dụng theo quy định hiện hành.
- Đối với tài sản đang dùng trong sản xuất kinh doanh đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp thì tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá và chuyển thành cổ phần thuộc sở hữu của người lao động trong doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá theo thời gian thực tế đã làm việc của từng người tại doanh nghiệp.
b. Các khoản nợ phải thu.
Doanh nghiệp có trách nhiệm đối chiếu, xác nhận, thu hồi và sử lý các khoản nợ phải thu trước khi cổ phần hoá theo chế độ hiện hành. Trường hợp đến thời điểm cổ phần hoá còn tồn đọng nợ phải thu khó đòi thì xử lý như sau:
- Đối với các khoản nợ đã có đủ chứng cứ là không có khả năng thu hồi, không xác định được trách nhiệm cá nhân, tổ chức thì dùng nguồn dự phòng để bù đắp, nếu thiếu thì phần chênh lệch được trừ vào kết quả kinh doanh, giảm lãi tại thời điểm cổ phần hoá. Trường hợp các nguồn thu không đủ bù thì phần chênh lệch trừ vào phần vốn Nhà nước tại doanh nghệp trước khi cổ phần hoá.
- Đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi do nguyên nhân chủ quan và đã quy định trách nhiệm thì xử lý trách nhiệm cá nhân, tổ chức để bồi thường. Phần tổn thất sau khi đã trừ phần thu hồi được thì xử lý theo quy định của pháp luật.
- Đối với các khoản nợ phải thu đã qúa hạn thanh toán từ 3 năm trở lên, con nợ đang tồn tại nhưng không có khả năng trả nợ, doanh nghiệp đã áp dụng nhiều giải pháp nhưng vẫn không thu hồi được thì xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với các khoản nợ phải thu quá hạn thì doanh nghiệp có thể bán cho các tổ chức kinh tế có chức năng mua bán nợ. Theo phần tổn thất từ việc bán nợ được xử lý theo quy định của pháp luật.
c. Các khoản nợ phải trả:
- Các doanh nghiệp phải huy động các nguồn để thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả trước khi thực hiện cổ phần hoá hoặc thoả thuận thêm với các chủ nợ để xử lý hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần.
- Việc chuyển nợ thành vốn góp cổ phần được xác định thông qua kết quả đấu giá bán cổ phần hoặc do doanh nghiệp và chủ nợ thoả thuận nhưng không thấp hơn giá bán cổ phần cho các đối tượng khác ngoài doanh nghiệp.
- Trường hợp doanh nghiệp có khó khăn về khả năng thanh toán các khoản nợ quá hạn thì xử lý như sau:
+ Đối với các khoản nợ thuế và nợ ngân sách : doanh nghiệp được khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ hoặc hỗ trợ vốn đầu tư theo quy định của Chính Phủ.
+ Đối với các khoản nợ đọng vay Ngân hàng thương mại: doanh nghiệp thoả thuận với ngân hàng cho vay để được giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ, giảm lãi xuất vay hoặc chuyển vốn vay thành vốn góp cổ phần.
Các Ngân hàng thương mại có trách nhiệm xử lý các khoản nợ đọng theo quy định hiện hành.
Đối với các khoản nợ nước ngoài có bảo hành thì người bảo lãnh và doanh nghiệp phải thoả thuận với chủ nợ để khoanh nợ,giãn nợ, giảm nợ và bố trí nguồn để trả nợ, nếu không thoả thuận được, người bảo lãnh phải trả nợ cho chủ nợ. Và trách nhiệm hoàn trả cho người bảo lãnh hoặc thoả thuận với người bảo lãnh chuyển thành vốn góp trong công ty cổ phần.
Đối với các khoản nợ nước ngoài do doanh nghiệp tự vay không có bảo lãnh thì doanh nghiệp có trách nhiệm bố trí nguồn để thanh toán hoặc thoả thuận với chủ nợ để xử lý hoặc chuyển nợ thành vốn góp trong công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.
d. Các khoản dự phòng và lãi chưa phân phối:
Các khoản nợ dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi, giảm giá chứng khoán, chênh lệch tỷ giá, dự phòng trợ cấp việc làm, dự phòng tài chính,...Và các khoản lãi chưa phân phối phải được xử lý theo quy định hiện hành trước khi xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Kết hợp doanh nghiệp còn số lỗ luỹ kế của các năm trước thì được dùng thu nhập trước thuế có đến thời điểm cổ phần hoá để bù đắp trước khi thực hiện các quy định của pháp luật.
e. Tài sản góp vốn theo hướng liên doanh với nước ngoài:
Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá kế thừa hoạt động liên doanh thì toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đem góp vốn liên doanh được xác định theo nguyên tắc quy định tại điều 18, nghị định 64/ 2002/ ND-CP của Chính phủ để xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá.
Trượng hợp các doanh nghiệp cổ phần hoá không kế thừa các hoạt động liên doanh thì báo cáo cơ quan có thẩm quyền bị xử lý dể xử lý tài sản góp vốn liên doanh như sau:
+ Thoả thuận để mua hoặc bán tại vốn góp liên doanh.
+ Chuyển giao cho doanh nghiệp làm đối tác.
f. Số dư bằng tiền của quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi:
Số dư bằng tiền của quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi được chia cho người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp để mua cổ phần. Người lao động không phải nộp thuế với các khoản thu nhập này.
2.2.2. Xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá:
a. Giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá:
- Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn Nhà Nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả và số dư Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi.
- Giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hoá không bao gồm:
+ Giá trị những tài sản tại khoản 1, điều 9 Nghị định 64/2000/NĐ-CP của Chính phủ.
+ Giá trị những tài sản không cần dùng, chờ thanh lí.
+ Các khoản nợ phải thu khó đòi đã được trừ vào giá trị doanh nghiệp.
+ Chi phí xây dựng cơ bản dở dang của những công trình đã bị đình hoãn trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
+ Các khoản đầu tư dài hạn vào doanh nghiệp khác được cơ quan có thẩm quyền quyết định chuyển cho đối tác khác.
+ Tài sản của công trình phúc lợi được đầu tư bằng nguồn quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp và nhà ở của cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp.
b. Các căn cứ để xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp:
- Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá.
- Số lượng và chất lượng tài sản theo biểu kê phân loại tại thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá.
- Tính năng kĩ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá.
- Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lí, uy tín của doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu (nếu có).
- Khả năng sinh lời của doanh nghiệp xác định trên cơ sở tỉ xuất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.
c. Xác định chất lượng tài sản, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp:
- Xác định chất lượng tài sản của doanh nghiệp căn cứ vào khả năng bảo đảm an toàn trong vận hành và sử dụng tài sản, bảo đảm chất lượng sản phẩm và môi trường.
- Giá trị quyền sử dụng đất:
+ Trước mắt vẫn áp dụng thuế đất và giao đất theo quy định uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm tính lại giá thuế đất ở những vị trí thuận lợi để áp dụng chung cho mọi loại hình doanh nghiệp.
+ Đối với diện tích đất do Nhà Nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Giá trị quyền sử dụng đất nói trên được xác định theo khung giá chuyển quyền sử dụng đất cho cơ quan có thẩm quyền quy định và không thấp hơn chi phí đã đầu tư như: đền bù giải phóng, san lấp mặt bằng...
Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở tỉ xuất lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp trên vốn Nhà Nước tại doanh nghiệp bình quân trong 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá so với lãi xuất của trái phiếu chính phủ kì hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất nhân với giá trị phần vốn Nhà Nước tại doanh nghiệp tại thời điểm định giá. Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường.
d. Xác định giá trị tài sản góp vốn liên doanh:
- Giá trị tài sản góp vốn liên doanh tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá được xác định trên cơ sở:
+ Giá trị vốn chủ sở hữu được thể hiện trong báo cáo tài chính của công ty liên doanh tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá, đã được tổ chức kiểm toán độc lập kiểm toán.
+ Tỉ lệ vốn góp của doanh nghiệp cổ phần hoá vào liên doanh.
+ Tỉ giá chuyển đổi giữa ngoại tệ góp vốn với đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do ngân hàng Nhà Nước Việt Nam công bố tại thời điểm định giá đối với các công ty liên doanh hạch toán bằng ngoại tệ.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35640.doc