Chế độ pháp lý và thực tiễn về việc ký kết, thực hiện hợp đồng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Láng Hạ

MỞ ĐẦU Hiện nay, khi Việt Nam đã gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO), khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng trong nước với nhau cũng như các ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài là rất gay gắt. Để hội nhập và phát triển bền vững các ngân hàng nói chung và chi nhánh Láng Hạ nói riêng cần chủ động tích cực chuẩn bị điều kiện tham gia thị trường tài chính quốc tế thông qua hoạt động phát hành cổ phiếu, xây dựng chiến lược phát triển quan hệ ngân hàng, nhất là hệ thống thông t

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1673 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Chế độ pháp lý và thực tiễn về việc ký kết, thực hiện hợp đồng tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
in quản lý, hệ thống giao dịch điện tử... Hoạt động tín dụng vẫn là một trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại; cũng giống như các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động tín dụng có thời gian hoàn vốn dài, liên quan đến các điều kiện kinh tế diễn biến trong tương lai nên độ rủi ro rất cao. Hình thức pháp lý của quan hệ tín dụng là hợp đồng tín dụng, mặc dù hợp đồng tín dụng đã được sử dụng rất lâu nhưng do nền kinh tế thị trường luôn có sự thay đổi nên các văn bản ban hành ra để điều chỉnh hợp đồng tín dụng không còn phù hợp nữa. Và hợp đồng tín dụng là một chủng loại của hợp đồng kinh tế. Do đó, hợp đồng tín dụng vẫn còn nhiều vướng mắc như: chủ thể có thẩm quyền ký kết, vấn đề bảo đảm tiền vay, phân biệt hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay...Hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài: Chế độ pháp lý và thực tiễn về việc ký kết, thực hiện hợp đồng tín dụng tại chi nhánh ngân hàng No& PTNT Láng Hạ. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự tận tình chỉ bảo của thầy cô: TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy; THS. Vũ Văn Ngọc và chị Nguyễn Thị Hoài Anh- Cán bộ hướng dẫn thực tập cũng như sự giúp đỡ của ban lãnh đạo chi nhánh đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC KÝ KẾT THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG I. Lý luận chung về hợp đồng tín dụng 1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng tín dụng 1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng Hợp đồng được định nghĩa là sự thoả thuận bằng lời nói (hoặc văn bản) giữa hai hay nhiều chủ thể có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi, nhằm xác lập, thực hiện hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định trên cơ sở phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội. Từ quan niệm chung về hợp đồng, căn cứ vào bản chất hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng, có thể đưa ra một định nghĩa về hợp đồng tín dụng như sau: Hợp đồng tín dụng là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên vay), theo đó tổ chức tín dụng thoả thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm. 1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng Hợp đồng tín dụng ngân hàng là một dạng của hợp đồng vay, vì vậy nó cũng mang những đặc điểm của hợp đồng vay tài sản nói chung. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ hợp đồng tín dụng ngân hàng là hợp đồng đơn vụ theo quy định tại khoản 2- điều 405 Bộ luật dân sự. Điều đó có nghĩa là trong hợp đồng tín dụng ngân hàng chỉ có bên tín dụng mới có quyền yêu cầu và bên khách hàng có nghĩa vụ phải trả đầy đủ số nợ tín dụng khi đến hạn và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, do hoạt động ngân hàng có những điểm đặc thù so với các hoạt động kinh doanh khác nên hợp đồng tín dụng ngân hàng cũng có những đặc điểm riêng. Ngoài những đặc điểm chung của mọi loại hợp đồng, hợp đồng tín dụng còn có một số dấu hiệu đặc trưng sau đây để phân biệt với các chủng loại hợp đồng khác trong giao lưu dân sự và thương mại. 1.2.1. Về chủ thể hợp đồng tín dụng Một bên tham gia hợp đồng bao giờ cũng là tổ chức tín dụng có đủ các điều kiện luật định, với tư cách là bên cho vay. Còn chủ thể bên kia (bên vay) có thể là doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thoả mãn những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định như luật tổ chức tín dụng, luật doanh nghiệp, luật ngân hàng…và các văn bản quy phạm pháp luật. Đây cũng là điểm khác cơ bản giữa hợp đồng tín dụng với hợp đồng vay khác. Tổ chức tín dụng có thể yêu cầu khách hàng vay vốn trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn một số điều kiện nhất định về tư cách pháp lý và khả năng tài chính như: khách hàng vay phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và phải chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật và phải có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. 1.2.2. Đối tượng của hợp đồng tín dụng Về nguyên tắc, đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng phải là một số tiền xác định và phải được các bên thoả thuận, ghi rõ trong văn bản hợp đồng; ngoài ra còn có các giấy tờ có giá như quyền sử dụng đất, các tài sản khác như nhà ở… 1.2.3. Hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền lợi của bên cho vay Sở dĩ như vậy là vì theo cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất định. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn. Vì thế mà các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn so với đa số các loại hợp đồng khác. Tính rủi ro này xuất phát từ những đặc thù của đối tượng của hợp đồng tín dụng ngân hàng, đặc thù của hai bên chủ thể của hợp đồng tín dụng ngân hàng. Hợp đồng tín dụng ngân hàng khác với hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự ở chỗ đối tượng duy nhất của hợp đồng tín dụng ngân hàng là tiền tệ, trong khi đối tượng của hợp đồng vay tài sản có thể là tiền hoặc vật. Tiền tệ với một trong các chức năng của mình là phương tiện thanh toán giúp cho khách hàng vay của ngân hàng sử dụng chúng một cách dễ dàng, thậm chí sử dụng chúng ngoài những mục đích mà họ cam kết với ngân hàng khi xin vay. Mặt khác, với tư cách là một tổ chức trung gian tài chính, là nhịp cầu kết nối giữa nguồn cung và cầu về vốn tiền tệ, các tổ chức tín dụng đã điều tiết từ nơi tạm thời thừa vốn sang tạm thời thiếu vốn, áp dụng các biện pháp thích hợp để huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội để tạo nên nguồn vốn cho vay. Trên cơ sở nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động, các tổ chức tín dụng thông qua các hợp đồng tín dụng, đáp ứng các nhu cầu về vốn cho các khách hàng vay thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, chính do chức năng trung gian này của các tổ chức tín dụng mà các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng vay sẽ ảnh hưởng ngay đến các tổ chức tín dụng. Ngoài ra, do tín dụng ngân hàng được hình thành chủ yếu trên cơ sở tiền gửi của dân chúng, nên rủi ro trong tín dụng ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền vào ngân hàng và cả xã hội. Còn đối với hợp đồng vay tài sản phát sinh trong giao dịch dân sự, do người cho vay dùng tài sản của chính mình để cho vay nên khi rủi ro xảy ra thì chỉ người cho vay phải gánh chịu hậu quả. Rủi ro này không làm ảnh đến những người khác và xã hội như đối với hợp đồng tín dụng. Đặc trưng này đã tạo ra cho hợp đồng tín dụng có những nét đặc thù như điều kiện chặt chẽ về chủ thể, về hình thức hợp đồng, về các biện pháp bảo lãnh. 1.2.4. Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng Trong hợp đồng tín dụng, nghĩa vụ chuyển giao tiền vay (nghĩa vụ giải ngân) của bên cho vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước, làm cơ sở, tiền đề cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay. Do đó, chỉ khi nào bên cho vay chứng minh được rằng họ đã chuyển giao tiền vay theo đúng hợp đồng tín dụng cho bên vay thì khi đó họ mới có quyền yêu cầu bên vay phải thực hiện các nghĩa vụ đối với mình. 1.2.5. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng luôn nhằm mục đích thu lợi nhuận Khác với hợp đồng vay tài sản yếu tố lãi suất không phải là yếu tố bắt buộc, mà phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên. Trong hợp đồng tín dụng tổ chức tín dụng thu lợi nhuận không chỉ nhằm mục đích bù đắp cho những chi phí cho các hoạt động của mình như: trả lãi tiền gửi, trả lương cho nhân viên… mà còn nhằm bảo đảm cho những hoạt động đặc trưng mang tính rủi ro cao của mình, bù đắp cho các rủi ro luôn xảy ra đối với tổ chức tín dụng. Như vậy, việc thu lợi nhuận không chỉ xuất phát từ lợi ích của tổ chức tín dụng, mà còn xuất phát lợi ích của người gửi tiền và lợi ích của xã hội. 1.2.6. Hợp đồng tín dụng chỉ được ký kết dưới hình thức văn bản Hợp đồng tín dụng đòi hỏi văn phạm trong việc soạn thảo hợp đồng phải dứt khoát, rõ ràng, ngắn gọn, đủ ý và ngôn ngữ phải chính xác, cụ thể. Hình thức văn bản là đặc trưng cơ bản của hợp đồng tín dụng. Mặc dù hợp đồng tín dụng được hình thành trên cơ sở tín nhiệm, tin cậy lẫn nhau, song do tính chất phức tạp của quan hệ tín dụng ngân hàng xuất phát từ tính rủi ro cao, từ đặc thù về đối tượng, về chủ thể của quan hệ đó, mà hợp đồng tín dụng nhất thiết phải được thể hiện bằng văn bản. 1.2.7. Hợp đồng tín dụng ngân hàng là hợp đồng ưng thuận Hợp đồng tín dụng đã phát sinh hiệu lực ngay sau khi các bên giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp này dù rằng các bên chưa trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết, nhưng đã phát sinh quyền yêu cầu của bên này đối với bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Còn các hợp đồng vay khác luôn luôn là hợp đồng thực tế, nghĩa là hợp đồng này chỉ được có hiệu lực khi các bên thực hiện hành vi chuyển giao cho nhau đối tượng vay mà họ đã thoả thuận. 1.3. Phân loại Hợp đồng tín dụng có thể phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau như: 1.3.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ an toàn của khách vay hợp đồng tín dụng - Hợp đồng tín dụng có bảo đảm bằng tài sản là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng với khách hàng, theo đó tổ chức tín dụng chấp thuận để khách hàng sử dụng số tiền của mình trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả và bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản của người vay hoặc người thứ ba theo sự đồng ý của người này. - Hợp đồng tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng và khách hàng, theo đó tổ chức tín dụng chấp thuận để khách hàng sử dụng số tiền của mình trong một thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả, dựa trên sự tín nhiệm của mình đối với người đó mà không phải là tài sản bảo đảm. 1.3.2. Căn cứ vào bản chất hợp đồng có thể chia thành Mặc dù luật các tổ chức tín dụng không trực tiếo quy định cơ sở để phân định, nhưng theo các quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 thì căn cứ vào chủ thể ký kết và mục đích của các chủ thể khi giao kết hợp đồng, hợp đồng tín dụng ngân hàng có thể tồn tại dưới hai hình thức: + Hợp đồng tín dụng là hợp đồng kinh tế: là hợp đồng tín dụng giao kết giữa tổ chức tín dụng và khách hàng là chủ thể kinh doanh như: doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, người làm công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hộ gia đình…và việc giao kết hợp đồng tín dụng nhằm mục đích kinh doanh. +Hợp đồng tín dụng là hợp đồng dân sự: là những hợp đồng tín dụng được giao kết giữa tổ chức tín dụng với khách hàng mà không phải là chủ thể kinh doanh hoặc là chủ thể kinh doanh nhưng việc giao kết hợp đồng tín dụng không nhằm mục đích kinh doanh như: tiêu dùng, học tập… Việc phân loại như trên chỉ có ý nghĩa để xác định cơ sở pháp lý thích hợp cho việc giao kết hợp đồng và xác định thẩm quyền và thủ tục giải quyết các tranh chấp xảy ra từ quan hệ hợp đồng tín dụng. 1.3.3. Căn cứ vào thời hạn cho vay có thể chia thành + Hợp đồng tín dụng ngắn hạn: là những hợp đồng tín dụng mà thời hạn cho vay dưới 12 tháng. + Hợp đồng tín dụng dài hạn: là những hợp đồng tín dụng có thời hạn cho vay từ 1 năm trở lên. 2. Nội dung của hợp đồng tín dụng Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và không vi phạm điều cấm của pháp luật và nó không trái với đạo đức xã hội. Nội dung của hợp đồng tín dụng phải do các bên tự định đoạt trên nguyên tắc đồng thuận về ý chí; thoả mãn những điều kiện: - Các điều khoản của hợp đồng tín dụng phải do chính các bên soạn thảo ra trên tinh thần tự nguyện, bình đẳng và các bên cùng có lợi. - Các điều khoản của hợp đồng tín dụng phải phản ánh ý chí đích thực của các bên giao kết và phải phù hợp với quy định của pháp luật. - Các điều khoản của hợp đồng tín dụng phải là kết quả của sự đồng ý giữa các bên giao kết. Sự hoà hợp ý chí chung giữa các bên ký kết là một trong những điều kiện căn bản để đảm bảo cho sự hữu hiệu của hợp đồng tín dụng. Trái lại, nếu bất kỳ một điều khoản nào đó của hợp đồng tín dụng mà có bằng cớ chứng minh rằng không có sự đồng thuận giữa các bên lập ước thì điều khoản đó có thể bị coi là vô hiệu. Nội dung hợp đồng tín dụng bao gồm: 2.1. Điều kiện vay - Phải là tổ chức có tư cách pháp nhân, mở tài khoản tại tổ chức tín dụng cho vay, hạch toán kinh tế độc lập, hoạt động và quản lý theo đúng quy định của cơ quan có thẩm quyền và pháp luật của Nhà nước. - Sản xuất kinh doanh phải có lãi và chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách của nhà nước. - Có đủ vốn tự có theo mức quy định, vốn vay chỉ để bổ sung vào tổng mức vốn lưu động cần thiết. - Chấp nhận và thực thi mọi quy định trong thể lệ tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và tổ chức tín dụng cho vay vốn. 2.2. Mục đích sử dụng vốn vay Các bên cần ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì; sản xuất mặt hàng nào vào hợp đồng tín dụng. Việc thoả thuận điều khoản này trong hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn cho người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn một cách tuỳ tiện vào các mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Để bảo đảm lợi ích của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng một cách hiệu quả, các bên có thể thoả thuận về mục đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi. 2.3. Phương thức thanh toán tiền vay Đây là điều kiện quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Do đó, các bên cần phải thoả thuận rõ ràng số tiền vay được trả theo phương thức nào như: trả toàn bộ một lần, theo từng kỳ hạn hay hoàn trả dần… 2.4. Điều khoản về đối tượng hợp đồng Trong điều khoản này các bên phải thoả thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo hạn. 2.5. Thời hạn vay Thời hạn vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu nhận tiền vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi tiền vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả sau. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thoả thuận sau trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng. Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ tiền vay cho tổ chức tín dụng. 2.6. Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng Đây là điều khoản mang tính chất thường lệ, các bên có quyền thoả thuận về biện pháp giải quyết tranh chấp nào. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi điều khoản này thì việc xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật. 3. Hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tín dụng 3.1. Hình thức Theo quy định tại Điều 51 luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng đều phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là vì những ưu điểm sau đây của việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản: - Hợp đồng tín dụng được giao kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ thể cho việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. - Việc giao kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố công khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người thứ ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong trường hợp cần thiết. - Việc giao kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan có trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn. Chẳng hạn như việc thu thuế, lệ phí, kiểm tra, thanh tra tài chính, kiểm soát hoạt động thương mại của các chủ thể kinh doanh trên thương trường. 3.2. Thời điểm có hiệu lực 3.2.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng - Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng có năng lực hành vi dân sự: Điều kiện này được quy định nhằm loại bỏ những giao dịch dân sự được xác lập bởi người không có hoặc bị hạn chế năng lực hành vi. Việc quy định điều kiện này chủ yếu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình trước nguy cơ có thể bị xâm hại bởi các bên đối ước. Đối với chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng là cá nhân thì năng lực hành vi dân sự của chủ thể này được hiểu là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Đối với chủ thể của hợp đồng tín dụng là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác thì năng lực hành vi dân sự của những chủ thể này được hiểu là khả năng thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý thông qua người đại diện hợp pháp cho các chủ thể đó. - Mục đích và nội dung của hợp đồng tín dụng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Với điều kiện này nhằm mục đích bảo vệ lợi ích chung và trật tự công cộng, tránh sự xâm hại của các bên tham gia hợp đồng chỉ vì lợi ích riêng của họ. Nội dung của hợp đồng tín dụng được coi là hợp pháp khi các điều khoản của hợp đồng tín dụng không vi phạm các điều cấm mà pháp luật đã quy định hoặc không trái với quy tắc và giá trị đạo đức đã được xã hội thừa nhận. - Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, tự do: một hợp đồng tín dụng được coi là không có sự đồng thuận khi sự thoả thuận đó giữa các bên bị các khiếm khuyết như sự nhầm lẫn, sự lừa dối, lừa gạt…khi giao kết hợp đồng. Nhưng các khiếm khuyết này phải có ảnh hưởng mang tính quyết định đến ý chí giao kết hợp đồng của các bên thì mới được coi là sự kiện pháp lý làm cho hợp đồng tín dụng vô hiệu. - Hình thức của hợp đồng tín dụng phù hợp với các quy định của pháp luật ngân hàng: Điều kiện này được quy định trong các văn bản pháp luật về ngân hàng nhằm mục đích ngăn ngừa các rủi ro tín dụng và bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng. Theo quy định của pháp luật hiện hành, hợp đồng tín dụng phải được giao kết bằng văn bản thì mới có hiệu lực pháp lý ràng buộc giữa các bên. Về nguyên tắc khi khoản vay được bảo đảm bằng tài sản thì hợp đồng bảo đảm phải được ký, có hiệu lực trước hoặc cùng với ngày ký hợp đồng tín dụng. Trường hợp hợp đồng tín dụng được ký trước hợp đồng bảo đảm thì vốn vay được giải ngân sau khi hợp đồng bảo đảm đã có hiệu lực. Nhưng nhiều hợp đồng tín dụng đã được ngân hàng và khách hàng thoả thuận “hợp đồng tín dụng này có hiệu lực kể từ ngày ký hợp đồng bảo đảm hoặc kể từ ngày hợp đồng bảo đảm được đăng ký giao dịch bảo đảm. Giao dịch bảo đảm thực chất là hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản, theo đó bên bảo đảm với bên nhận bảo đảm về việc dùng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Do vậy, các cán bộ tín dụng hiểu rằng nếu các bên đã thoả thuận giao dịch bảo đảm là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ bảo đảm, thì giao dịch bảo đảm bị vô hiệu sẽ dẫn đến hợp đồng tín dụng bị vô hiệu. Nếu không thoả thuận ngày có hiệu lực của hợp đồng tín dụng sau hoặc cùng với ngày có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm thì các bên chỉ còn lựa chọn ngày có hiệu lực của hợp đồng tín dụng trước ngày có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm. Sự thoả thuận này không an toàn cho ngân hàng thu hồi vốn vì sau khi hợp đồng tín dụng có hiệu lực và vốn vay được giải ngân, khách hàng có thể thay đổi ý định, không dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ nữa hoặc hợp đồng bảo đảm không đăng ký được tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật. Tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của khách hàng luôn được coi là nguồn thu nợ quan trọng đối với ngân hàng khi khách hàng không trả được nợ đến hạn. 3.2.2. Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng là điểm mốc thời gian mà kể từ lúc đó quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia hợp đồng tín dụng bắt đầu phát sinh. Trên thực tế, pháp luật của từng nước có những quy định rất khác nhau về thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Việc chuyển giao tiền vay (giải ngân) là một nghĩa vụ hợp đồng của bên cho vay và nếu họ không thực hiện đúng nghĩa vụ này thì về nguyên tắc họ sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý đối với việc vi phạm hợp đồng tín dụng. 3.2.3. Sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng và các hậu quả pháp lý của sự vô hiệu Một giao dịch hợp đồng tín dụng sẽ đương nhiên vô hiệu hoặc có thể bị coi là vô hiệu khi giao dịch đó không thoả mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định. Do việc vi phạm các điều kiện có hiệu lực có thể phương hại đến lợi ích chung của xã hội hoặc lợi ích riêng của các bên giao dịch nên sự tuyên bố hợp đồng tín dụng vô hiệu cũng cần phải được cân nhắc. - Hợp đồng tín dụng vô hiệu toàn bộ: Hợp đồng tín dụng được các bên ký kết nhưng mục đích, nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, hoặc hợp đồng tín dụng được xác lập một cách giả tạo để che dấu một giao dịch khác. Hợp đồng bị vô hiệu, các bên không có cơ hội khắc phục các thiếu sót để làm cho hợp đồng tín dụng có hiệu lực trở lại. - Hoặc hợp đồng tín dụng vô hiệu một phần: những hợp đồng tín dụng được các bên ký kết chỉ vi phạm các điều kiện thủ tục như: thiếu dấu của pháp nhân, không ghi đầy đủ các yếu tố liên quan đến tư cách của các bên; hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật…Trong trường hợp này các bên có thể khắc phục những nguyên nhân làm cho hợp đồng tín dụng vô hiệu; để trên cơ sở đó khiến cho hợp đồng tín dụng có hiệu lực trở lại. Nếu quá thời hạn cho phép mà các bên không khắc phục được những nguyên nhân làm cho hợp đồng vô hiệu thì bên có quyền lợi bị xâm hại có quyền yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng tín dụng vô hiệu. Hậu quả pháp lý do hợp đồng tín dụng vô hiệu: - Không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý đối với các bên ngay từ thời điểm giao kết. - Các bên phải phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi ký kết hợp đồng tín dụng. Sau khi hợp đồng tín dụng bị vô hiệu thì các bên phải tự thu xếp hoàn trả lại cho nhau tất cả những gì đã nhận, đúng như tình trạng ban đầu khi hợp đồng tín dụng chưa được ký kết. 4. Hợp đồng tín dụng ngoại tệ - Hợp đồng tín dụng ngoại tệ là hợp đồng được ký kết giữa một bên là ngân hàng ngoại thương với khách hàng là cá nhân, tổ chức nước ngoài. Hoạt động cấp tín dụng ngoại tệ là một biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề vốn trong hoạt động sản xuất- kinh doanh với các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Việc giao kết hợp đồng tín dụng ngoại tệ nhằm bù đắp, bổ sung phần vốn ngoại tệ tự có trong sản xuất- kinh doanh. - Ngân hàng ngoại thương Việt Nam nhận cho vay ngoại tệ đối với các doanh nghiệp trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế; các doanh nghiệp được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam …Để được ngân hàng ngoại thương cho vay vốn ngoại tệ, các doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện: + Phải là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, có vốn pháp định theo quy định của nhà nước và được cơ quan quản lý Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh. + Phải chấp nhận các nguyên tắc cho vay của ngân hàng ngoại thương. Ngoài ra còn phải chấp hành đầy đủ các chính sách của nhà nước về quản lý ngoại thương và quản lý ngoại hối. - Ngân hàng ngoại thương cho các doanh nghiệp vay ngoại tệ để sử dụng vào mục đích: + Nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư, hàng hoá phục vụ cho sản xuất kinh doanh và các dịch vụ liên quan. + Nhập khẩu hàng hoá để tạo vốn, thu mua hàng hoá xuất khẩu. + Chi trả chi phí về vận tải, bảo hiểm và các dịch vụ khác. + Thanh toán nợ vay tín dụng thương mại của các doanh nghiệp đã được ngân hàng ngoại thương cấp bảo lãnh nhưng doanh nghiệp chưa có hoặc chưa đủ tiền để thanh toán cho nước ngoài. - Mỗi lần vay vốn, bên xin vay cùng ngân hàng ngoại thương ký kết hợp đồng tín dụng ngoại tệ theo các điều khoản đã được hai bên thống nhất. Trình tự ký kết hợp đồng tín dụng ngoại tệ thực hiện theo chế định ký kết hợp đồng kinh tế. Hợp đồng tín dụng ngoại tệ thường bao gồm các nội dung sau: ngày, tháng, năm ký kết; căn cứ ký kết, lần cho vay, bên đi vay; đối tượng hợp đồng, mục đích sử dụng vốn vay; thời hạn trả nợ; …Theo hợp đồng, doanh nghiệp có thể trả nợ vay trước hạn; nếu doanh nghiệp không có ngoại tệ để trả, ngân hàng cho vay có thể thu nợ bằng đồng Việt Nam tương đương theo giá bán ngoại tệ và thực hiện hạch toán thông qua tài khoản mua bán ngoại tệ. II. Chế độ pháp lý về giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng 1. Giao kết hợp đồng tín dụng Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ- pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. 1.1. Nguyên tắc giao kết 1.1.1. Hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng dân sự nên các bên khi giao kết phải tuân thủ các nguyên tắc sau a. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết, nếu họ muốn mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết do pháp luật quy định. Nhưng tự do của mỗi chủ thể phải “không trái với pháp luật, đạo đức xã hội”. Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi chủ thể vừa có quyền “tự do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật, đạo đức xã hội. b. Các bên tự nguyện và bình đẳng trong giao kết hợp đồng. Khi các bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng, thì ý chí tự nguyện của các bên mới thực sự bảo đảm; những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tất cả các hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc đe doạ đều là những hợp đồng không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết; vì thế nó bị vô hiệu. 1.1.2. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng kinh tế nên các bên khi giao kết phải tuân thủ các nguyên tắc sau a. Nguyên tắc tự nguyện. Hợp đồng là sự thoả thuận và thống nhất ý chí của các bên tham gia quan hệ hợp đồng, do đó việc giao kết hợp đồng kinh tế phải dựa trên cơ sở tự do ý chí của các bên. Điều đó có nghĩa là các bên tham gia quan hệ hợp đồng có quyền tự do bày tỏ ý chí của mình. Việc bày tỏ ý chí đó là tự nguyện chứ không phải do sự áp đặt cưỡng bức của bất kỳ tỏ chức, cá nhân nào. Quan hệ hợp đồng kinh tế chỉ hình thành và có giá trị nếu các bên thống nhất ý chí với nhau một cách tự nguyện. Trong cơ chế thị trường việc giao kết hợp đồng là nhu cầu của chính người kinh doanh. Do đó, pháp luật đã ghi nhận nguyên tắc tự nguyện trong việc giao kết hợp đồng kinh tế và là quyền của người kinh doanh- đó là nguyên tắc tự do hợp đồng. Người kinh doanh có quyền tự do lựa chọn bạn hàng, tự do thoả thuận nội dung hợp đồng, tự do về việc áp dụng các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng. b. Nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi. Các bên tham gia quan hệ hợp đồng hoàn toàn bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Điều này thể hiện ở chỗ khi đàm phán để giao hợp đồng các bên đều có quyền đưa ra những yêu cầu của mình và đều có quyền chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của bên kia mà không bên nào có quyền ép buộc bên nào. Trong quan hệ hợp đồng kinh tế quyền và nghĩa vụ của các chủ thể phải tương xứng với nhau. Bên nào cũng có quyền và có nghĩa vụ, đều phải chịu trách nhiệm với nhau về việc thực hiện nghĩa vụ của mình. c. Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản. Khi tham gia quan hệ hợp đồng các bên phải trực tiếp chịu trách nhiệm tài sản với nhau. Các bên có thể dùng tài sản của mình để cầm cố, thế chấp hoặc nhờ người khác bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm việc thực hiện hợp đồng. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo lợi ích kinh tế của các bên trong quan hệ hợp đồng. d. Nguyên tắc không trái pháp luật. Các điều khoản mà các bên tham gia ký kết hợp đồng phải thoả thuận phù hợp với pháp luật. Nếu các bên thoả thuận trái pháp luật thì những thoả thuận đó sẽ không có giá trị (vô hiệu). Khi ký kết hợp đồng phải căn cứ vào chức năng hoạt động kinh tế của mình và tính hợp pháp của hoạt động kinh doanh của bên cùng ký, nếu không hợp đồng của các bên ký kết sẽ vô hiệu. Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh doanh, buộc các chủ thể kinh doanh chỉ được phép hoạt động trong phạm vi đăng ký kinh doanh. 1.1.3. Hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng đặc biệt Do chủ thể tham gia giao kết cũng như đối tượng của hợp đồng có khác biệt so với các loại hợp đồng khác nên khi giao kết các bên tuân theo nguyên tắc riêng như sau: - Nguyên tắc tự do: Thể hiện là tổ chức tín dụng tự chịu trách nhiệm về quyết định trong cho vay của mình; không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của tổ chức tín dụng. Còn đối với khách hàng vay có quyền vay của bất kỳ tổ chức tín dụng nào, có thể ký kết với một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, được vay theo thể thức nào cũng được theo luật định. - Nguyên tắc vốn vay phải luôn được giá trị vật tư, hàng hoá tương đương làm bảo đảm: Cơ sở của nguyên tắc này biểu hiện ở chỗ; yêu cầu của quy luật lưu thông và trong phạm vi của cả nền kinh tế hay trong từng thời điểm cụ thể, khối lượng tiền tệ trong lưu thông phải tương ứng với giá trị khối lượng hàng hoá trong lưu thông. Nghĩa là khi cho một tổ chức kinh tế vay vốn, ngân hàng đã đưa một khối lượng tiền tệ nhất định vào lưu thông; vì vậy, phải có một khối lượng giá trị vật tư, hàng hoá tương đương làm đảm bảo. Nguyên tắc này đòi hỏi khi vay vốn ngânhàng, phải có một khối lượng vật tư tương đương thuộc sở hữu của mình để làm đảm bảo cho vốn vay. - Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng: Vốn vay ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp là nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất- kinh doanh. Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp phải gắn với mục đích kinh doanh- sản xuất. Để được vay vốn bên đi vay phải giải trình với ngân hàng về mục đích vay vốn, kế hoạch sản xuất- kinh doanh. Thực hiện n._.ội dung của nguyên tắc này, ngân hàng và bên đi vay tiến hành hoạt động của mình được bình thường, tránh tình trạng đầu tư sai mục đích, thất thoát và lãng phí vốn. 1.2. Trình tự giao kết hợp đồng tín dụng Trình tự ký kết hợp đồng là quá trình mà trong đó các bên chủ thể bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thoả thuận trong việc cùng nhau làm xác lập những quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Thực chất đó là quá trình mà hai bên thoả thuận về những điều khoản trong nội dung của hợp đồng. 1.2.1. Đề nghị giao kết Để thiết lập một quan hệ hợp đồng bao giờ cũng phải có một bên đưa ra lời đề nghị hợp đồng và bên kia chấp nhận lời đề nghị hợp đồng đó, tức là có sự thống nhất ý chí của các bên. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên biểu hiện ý chí của mình trước người khác bằng cách tỏ cho phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết với người đó một hợp đồng. Như vậy, đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là việc khách hàng biểu hiện ý chí của mình trước tổ chức tín dụng nơi mình muốn ký kết (nơi mà mình muốn vay vốn) bằng cách tỏ cho tổ chức tín dụng biết ý muốn tham gia giao kết một hợp đồng tín dụng. Để bảo đảm quyền lợi của các bên và để hợp đồng thực hiện tốt thì các bên đưa ra những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng. Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng cách trao đổi, thoả thuận trực tiếp với nhau. Các bên trực tiếp bàn bạc thoả thuận xác định các điều khoản của hợp đồng, điều kiện của các bên. Nếu các bên thống nhất được với nhau thì cùng nhau làm văn bản hợp đồng và cùng ký vào văn bản hợp đồng. Quan hệ hợp đồng tín dụng hình thành kể từ thời điểm các bên ký vào văn bản và nó sẽ có giá trị nếu nó bảo đảm các điều kiện mà pháp luật yêu cầu. Lời đề nghị mặc dù chưa phải là một hợp đồng nhưng ít nhiều đã có tính chất ràng buộc đối với người đề nghị. Như vậy, đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong muốn được giao kết hợp đồng tín dụng. 1.2.2. Hồ sơ vay vốn Để được vay vốn bên đi vay phải gửi đến tổ chức tín dụng phục vụ mình các kế hoạch vay vốn, các hồ sơ tài liệu liên quan đến công trình xin vay vốn. Theo khoản 1- điều 55- luật tổ chức tín dụng, hồ sơ tín dụng gồm: - Hợp đồng tín dụng và tài liệu ghi rõ mục đích sử dụng vốn, căn cứ pháp lý về tài sản bảo đảm (nếu có). - Báo cáo thực trạng tài chính của khách hàng, của người bảo lãnh. - Quyết định cấp tín dụng có chữ ký của người có thẩm quyền; trong trường hợp quyết định tập thể, phải có biên bản, ghi rõ quyết định được thông qua. - Những tài liệu phát sinh trong quá trình sử dụng khoản vay liên quan đến hợp đồng tín dụng. Theo Điều 14- quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, thì : - Khi có nhu cầu vay vốn khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng giấy đề nghị vay vốn và các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn như quy định tại điều 7 quy chế này. Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp pháp của các tài liệu gửi cho tổ chức tín dụng. - Tổ chức tín dụng hướng dẫn các loại tài liệu khách hàng cần gửi cho tổ chức tín dụng phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng loại khách hàng, loại cho vay và khoản vay. 1.2.3. Thẩm định hồ sơ tín dụng Hồ sơ tín dụng tốt phải đảm bảo các yếu tố sau: Các thông tin cơ bản về doanh nghiệp xin vay; thông tin tài chính hiện tại; lịch sử tài chính; thông tin về mục đích vay vốn; thoả thuận hoàn trả khoản vay; các dự toán về hoạt động sản xuất kinh doanh trong tương lai và vốn hoạt động; các thông tin cụ thể về giao dịch tín dụng với doanh nghiệp; bản sao của mọi quan hệ có liên quan đến doanh nghiệp xin vay. Hồ sơ tín dụng không chỉ giúp cán bộ tín dụng làm việc tốt hơn mà còn cho phép các cán bộ khác chưa quen với khoản vay, có thể tiếp nhận và xử lý khoản vay đó. Đây cũng là nguồn cung cấp thông tin đầy đủ cho người kiểm soát ngân hàng và kiểm toán viên trong việc ra quyết định về khả năng chấp thuận khoản vay. Thẩm định hồ sơ tín dụng là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ- pháp lý do tổ chức tín dụng thực hiện nhằm kiểm tra và xác định các điều kiện vay vốn, trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không đối với khách hàng. Bản báo cáo này phải được gửi cho người có thẩm quyền quản lý trong tổ chức tín dụng để quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay đối với khách hàng. Trong trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản và phải nêu rõ những căn cứ từ chối cho vay. 1.2.4. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là hành vi pháp lý do bên nhận đề nghị (tổ chức tín dụng) thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia (bên đề nghị hợp đồng) với nội dung thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Về phương diện lý thuyết, việc một bên chấp nhận vô điều kiện văn bản đề nghị hợp đồng của bên kia có thể làm phát sinh một hợp đồng giữa họ với nhau, nếu trong văn bản đề nghị đã hội đủ các điều khoản cốt yếu của chủng loại hợp đồng mà họ mong muốn giao kết. Tuy nhiên đối với hợp đồng tín dụng, do loại giao dịch này vốn có ảnh hưởng sâu sắc và mang tính dây chuyền đối với cả hệ thống kinh tế trong một quốc gia nên các luật gia cho rằng việc một bên gửi văn bản thông báo chấp nhận đề nghị giao kểt hợp đồng tín dụng của bên kia chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý giao kết hợp đồng chứ không phải là hành vi pháp lý làm phát sinh quan hệ hợp đồng giữa các bên và do đó cũng không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng chính thức giữa các bên. Giao kết hợp đồng chỉ được xem là hoàn thành khi các bên đã trải qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng và người đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp kí tên vào văn bản hợp đồng tín dụng. 2. Thực hiện hợp đồng tín dụng Thực hiện hợp đồng tín dụng là mục đích của việc giao kết hợp đồng tín dụng. Đây là giai đoạn quan trọng nhất, bởi lẽ chỉ khi nào hợp đồng tín dụng được thực hiện nghiêm chỉnh thì quyền và lợi ích hợp pháp của các bên mới được thoả mãn và bảo đảm. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, xuất phát từ nhu cầu bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, các bên thường quan tâm đặc biệt đến những vấn đề sau: - Thoả thuận áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, trong đó chủ yếu là bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cho tổ chức tín dụng. Thoả thuận này nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên chủ nợ là tổ chức tín dụng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, nếu bên vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ tiền vay khi đến hạn và không được tổ chức tín dụng cho gia hạn nợ thì tài sản bảo đảm tiền vay có thể được xử lý theo thoả thuận của các bên hoặc theo quy định của pháp luật. - Thoả thuận việc gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ. Thoả thuận này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho bên vay trong việc xử dụng vốn vay và trên cơ sở đó giúp bên vay thanh toán nợ cho tổ chứ tín dụng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, đôi khi gặp những khó khăn khiến cho bên vay không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay đúng hạn. Việc gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ phải được các bên ghi rõ trong hợp đồng tín dụng và coi đó là sự sửa đổi điều khoản về thời hạn trả nợ tiền vay. 2.1. Nguyên tắc thực hiện Sau khi giao kết hợp đồng các bên phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng. Việc thực hiện các nghĩa vụ đó phải tuân theo những nguyên tắc sau: - Nguyên tắc chấp hành đúng: nguyên tắc này đòi hỏi các bên phải chấp hành đúng, đầy đủ và trung thực các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng; đồng thời cho phép mỗi bên có quyền yêu cầu bên kia thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của họ. Các bên phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ hợp đồng. Nhưng việc chấp hành đúng phải không được trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội; người thực hiện nghĩa vụ ngoài việc tôn trọng những nghĩa vụ đã cam kết hoặc pháp luật đã quy định còn phải tôn trọng và tuân thủ những quy định chung của pháp luật trong suốt quá trình thực hiện nghĩa vụ dân sự. - Nguyên tắc chấp hành trên tinh thần hợp tác: nguyên tắc này đòi hỏi các bên phải hợp tác chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện nghĩa vụ. Các bên hợp tác với nhau để tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh những điều khoản của hợp đồng, để đáp ứng nhu cầu và bảo đảm lợi ích cho các bên trong quan hệ nghĩa vụ. Nếu thấy hợp đồng có thể bị vi phạm phải kịp thời thông báo cho nhau biết để hạn chế thiệt hại có thể xảy ra hoặc khi đã có vi phạm hợp đồng, phải tìm mọi cách để hạn chế thiệt hại. Nếu bên nào có điều kiện mà không thực hiện các biện pháp ngăn chặn sẽ bị coi là có lỗi và phải gánh chịu thiệt hại. - Nguyên tắc vốn vay phải được hoàn trả đầy đủ cả tiền gốc và tiền lãi, theo đùng thời hạn đã quy định: Thực hiện vai trò trung gian của mình, ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng tham gia vào các quan hệ pháp luật với những người cho vay. Ngân hàng có trách nhiệm trả tiền cho người gửi. Với tư cách là người cho vay, ngân hàng là người có quyền quyết định cho người khác vay và yêu cầu người đi vay hoàn trả cả tiền gốc và tiền lãi. Ở loại quan hệ này, ngân hàng thực hiện các hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, vừa phải bảo đảm thu đủ tiền gốc đã cho vay vừa phải bảo đảm thu đủ tiền lãi vay. Đây là nguyên tắc áp dụng cho cả ngân hàng và người đi vay. Nguyên tắc này vừa là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh vừa là cơ sở để các doanh nghiệp tiến hành hạch toán kinh tế trong hoạt động của mình. Nguyên tắc này buộc ngân hàng và các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn trong cơ chế khắc nghiệt của thị trường. Việc thực hiện nguyên tắc này tạo cho ngân hàng thu hồi được vốn cho vay và lợi nhuận; nguyên tắc này buộc người đi vay phải cân nhắc và hạch toán nguồn vốn vay ra sao cho việc sử dụng nguồn vốn đó thực sự có hiệu quả, đáp ứng được mục đích vay vốn. - Nguyên tắc tránh rủi ro, không dồn vốn cho một số ít tổ chức kinh tế vay: Trong nền kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Họ vừa hợp tác với nhau, vừa cạnh tranh. Hoạt động trong môi trường vừa thuận lợi vừa khắc nghiệt đó, tất yếu xảy ra hiện tượng là có nhiều doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả, phát triển mạnh, đồng thời cũng sẽ có những doanh nghiệp bị thua lỗ dẫn tới phá sản. Để thực hiện nguyên tắc tránh rủi ro, ngân hàng phải nghiên cứu kỹ hồ sơ khách hàng vay vốn, bao gồm khả năng tài chính, tình hình sản xuất- kinh doanh,.. để hạn chế đến mức tối thiểu mọi rủi ro đối với các nguồn vốn cho vay. Do kinh doanh tín dụng là một trong những hoạt động chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro nhất vì vậy để phòng ngừa và hạn chế rủi ro, hoạt động tín dụng phải thực hiện nguyên tắc tránh rủi ro. 2.2. Quy trình thực hiện 2.2.1. Kiểm tra, giám sát khoản vay Kiểm tra xem mục đích vay vốn có phù hợp với đăng ký kinh doanh hay không; kiểm tra tính hợp pháp của mục đích vay vốn. 2.2.2.Xử lý rủi ro của các khoản vay có vấn đề Khoản vay có vấn đề bao gồm khoản vay đã quá hạn và khoản vay tuy chưa đến hạn nhưng khách hàng có nguy cơ không trả được nợ ngân hàng do mất khả năng thanh toán, do thua lỗ hoặc doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật như lừa đảo, trốn thuế. Xử lý khoản vay có vấn đề chính là áp dụng các biện pháp khác nhau để thu hồi nợ. Việc xử lý này dựa trên nguyên tắc cơ bản là tận dụng hết lượng tiền mặt sẵn có, buộc doanh nghiệp bán sản phẩm hay cung cấp dịch vụ ở mức giá hợp lý để tạo nhu cầu có khả năng thanh toán bằng tiền mặt và nhất là cần tận dụng hết tài sản có của doanh nghiệp, tìm cách chuyển hoá nhanh tất cả loại tài sản đó thành tiền mặt tạo nguồn trả nợ cho ngân hàng. 2.2.3. Thanh lý hợp đồng tín dụng - Tất toán khoản vay: khi khách hàng trả nợ, cán bộ tín dụng tiến hành phối hợp với bộ phận kế toán đối chiếu, kiểm tra về số tiền trả nợ gốc, lãi, phí… để tất toán khoản vay. - Thanh lý hợp đồng tín dụng: Thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng đã ký kết; khi bên vay trả xong nợ gốc và lãi thì hợp đồng tín dụng đương nhiên hết hiệu lực và các bên không cần lập biên bản thanh lý hợp đồng. Trường hợp bên vay yêu cầu, cán bộ tổ chức tín dụng soạn thảo biên bản thanh lý hợp đồng trình trưởng phòng tín dụng kiểm soát và trưởng phòng tín dụng trình lên lãnh đạo ký biên bản thanh lý. Thực hiện xử lý rủi ro bảo đảm tiền vay: Các bên thoả thuận về việc thực hiện các phương thức xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Trong trường hợp các bên thoả thuận thực hiện phương thức bán tài sản bảo đảm tiền vay thì bên được bán tài sản có thể là bên C, bên B, hoặc bên A; hai bên phối hợp cùng bán, uỷ quyền cho bên thứ ba bán, bên được bán tài sản có thể thoả thuận bán cho người mua, uỷ quyền cho trung tâm bán đấu giá tài sản hoặc doanh nghiệp bán đấu giá tài sản thực hiện việc bán tài sản bảo đảm tiền vay. Trong trường hợp bên A có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, bên B; C phải giao tài sản cho A để xử lý. 2.2.4. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng Bảo đảm tiền vay là việc NHNN áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro tạo cơ sở pháp lý và kinh tế để thu hồi nợ đã vay. Tín dụng là một trong những hoạt động chính, cơ bản mang lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng. Kinh doanh tín dụng luôn gắn liền rủi ro tín dụng, ngoài việc xác định khả năng thanh toán của người đi vay thì việc xác định tài sản thế chấp của người đi vay có ý nghĩa đặc biệt quan trọng; chính vì vậy, phải có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Các biện pháp đó là: bảo lãnh; cầm cố giấy tờ có giá, hàng hóa và các tài sản khác; thế chấp. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ở nước ta được thể hiện trong văn bản Quy định về việc thế chấp vay vốn ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 156/1989/QĐ-NH ngày 18-11-1989 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (25-9-1989); Pháp lệnh hợp đồng dân sự (1-7-1991); Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài ban hành kèm theo Nghị định số 58/1993/NĐ-CP ngày 30-8-1993 của Chính Phủ; Quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh ban hành kèm theo quyết định số 23/1994/QĐ-NH14 ngày 21-02-1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước; Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh của các ngân hàng ban hành kèm theo quyết định số 196/1994/QĐ-NH14 ngày 16-9-1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Với tư cách là một biện pháp hợp đồng tín dụng ngân hàng, bảo lãnh trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng là việc một tổ chức cá nhân cam kết trả nợ thay cho người đi vay trong trường hợp người đi vay không có khả năng trả được khoản nợ vay. Về phía ngân hàng, bảo lãnh là một trong các nghiệp vụ của ngân hàng, là cam kết của ngân hàng bảo lãnh chịu trách nhiệm trả tiền thay cho bên được bảo lãnh, nếu bên được bảo lãnh không thực hiện đúng, đủ các nghĩa vụ đã thoả thuận với bên yêu cầu bảo lãnh, được quy định cụ thể tại thư bảo lãnh của ngân hàng. Thế chấp tài sản trong quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng được hiểu là việc một cá nhân hay pháp nhân dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để bảo đảm cho khoản vay tại ngân hàng. Thế chấp tài sản phải làm thành văn bản dưới hình thức hợp đồng thế chấp tài sản, phải được cơ quan công chứng nhà nước chứng thực. Trong hợp đồng đó phải ghi rõ khối lượng, giá trị tài sản thế chấp, thời hạn thế chấp, phương thức xử lý tài sản thế chấp…Nếu số tiền phát mại tài sản thế chấp không đủ để trả nợ cho ngân hàng bằng các nguồn tài sản khác. Nếu bên đi vay không đủ trả nợ cho ngân hàng có quyền khởi kiện bên vay trước pháp luật. Cầm cố trong quan hệ hợp đồng tín dụng ngân hàng là việc người đi vay dùng số động sản thuộc quyền sở hữu của mình để đảm bảo cho khoản tiền vay ngân hàng. Về phía ngân hàng, hoạt động dịch vụ cầm cố là một hình thức cho vay bằng biện pháp cầm cố mà bên nhận cầm cố buộc người có tài sản cầm cố phải giao vật cầm cố là tài sản của mình cho bên nhận cầm cố quản lý, để làm vật bảo đảm trả nợ một khoản tiền cầm cố khi người có tài sản cầm cố hoặc người bảo lãnh không trả được nợ. Cũng như thế chấp việc cầm cố phải được lập thành văn bản và phải được cơ quan Công chứng Nhà nước chứng thực. 3. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng tín dụng và việc giải quyết tranh chấp Trong quan hệ tín dụng ngân hàng giữa tổ chức kinh tế và tổ chức tín dụng nếu có tranh chấp nảy sinh thì các bên tự dàn xếp và thương lượng. Trường hợp các bên không tự giải quyết được với nhau thì được quyền đưa tranh chấp đó giải quyết tại toà án kinh tế hoặc trọng tài kinh tế phi Chính phủ. 3.1. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng tín dụng Vi phạm hợp đồng tín dụng là hành vi của một bên hoặc cả hai bên tham gia hợp đồng, cố ý hoặc vô ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Các điều kiện sau bị coi là vi phạm hợp đồng tín dụng: - Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia hợp đồng tín dụng. - Hành vi đó trái với các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Hành vi làm trái với cam kết trong hợp đồng tín dụng thường là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết. Để chứng minh một hành vi rõ ràng là trái với cam kết trong hợp đồng tín dụng, bên có quyền lợi bị xâm hại bởi hành vi đó phải dẫn chứng, đồng thời phải chứng minh rằng người đó đã thực hiện hành vi trái với những cam kết của chính họ trong hợp đồng tín dụng. - Bên thực hiện hành vi có một lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý. Bên có quyền lợi bị xâm hại cần chứng minh được bên đối tác đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ như cam kết là cơ sở để xác định lỗi của người đó. Còn bên bị xem là có hành vi trái với cam kết trong hợp đồng tín dụng chỉ được giải thoát trách nhiệm khi không có lỗi. - Hành vi đó nhằm xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên đối ước, hoặc xâm hại tới các lợi ích khác như lợi ích chung của toàn xã hội, lợi ích của các tổ chức tín dụng và cá nhân khác. 3.2. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng là tình trạng pháp lý của quan hệ hợp đồng tín dụng, trong đó các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Một hợp đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về quyền lợi giữa các bên tham gia hợp đồng được thể hiện ra bên ngoài. Cần xác định thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng tín dụng: Thời hiệu khởi kiện là thời hạn do pháp luật quy định để cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Theo khoản 1- điều 31- pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế quy định “người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu toà án giải quyết các vụ án kinh tế trong thời hạn 6 tháng, kể từ ngày phát sinh tranh chấp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Đối với hợp đồng tín dụng hiện nay có hai quan điểm khác nhau về vấn đề xác định thời hạn khởi kiện: - Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp hợp đồng tín dụng được áp dụng đối với các tranh chấp hợp đồng kinh tế theo quy định tại thông tư liên ngành số 04/TTLN ngày 7-01-1995 của toà án nhân dân tối cao và viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng tín dụng được vận dụng trong hai trường hợp sau: + Nếu hợp đồng tín dụng có quy định thời hạn phải chịu lãi chậm trả thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày liền sau ngày hết hạn lãi chậm trả. Đối với hợp đồng tín dụng càng chặt chẽ hơn và bao giờ cũng thể hiện rõ thời hạn trả nợ cụ thể cùng với lãi suất vay. + Nếu hợp đồng tín dụng không quy định thời hạn phải chịu lãi chậm trả thì thời hiệu khởi kiện không hạn chế. Việc hai bên xác lập một khế ước vay vốn đã hình thành mối quan hệ gắn liền với khối tài sản vay cũng như tài sản khác nhằm bảo đảm việc vay vốn. Việc các thành phần kinh tế tham gia vay vốn của ngân hàng là hoàn toàn tự nguyện nhưng phải hội đủ các điều kiện cần thiết. Nếu các chủ thể vay vốn không thực hiện nghĩa vụ hoàn vốn và lãi phát sinh thì có thể bị cưỡng chế phát mãi tài sản bằng các biện pháp do luật định hoặc được quyền khởi kiện đến toà án. Do vậy, không thể đặt vấn đề thời hiệu khởi kiện đối với loại tranh chấp kinh tế đặc biệt này. Quan điểm cho rằng nếu hợp đồng tín dụng không quy định thời hạn phải chịu lãi chậm trả thì thời hiệu khởi kiện không hạn chế dựa trên lập luận: Trong hợp đồng tín dụng hai bên đã thoả thuận nợ đến hạn không trả được thì chuyển thành nợ quá hạn và phải chịu lãi suất chậm trả. Như vậy, nghĩa vụ thanh toán đã được hai bên thoả thuận kéo dài. Sự thoả thuận đó trong thời hạn hiệu lực của hợp đồng nên không thể coi là hết thời hiệu khởi kiện. Trong hệ thống các văn bản pháp luật chuyên ngành về tín dụng, không có quy định: nếu hợp đồng tín dụng không quy định thời hạn phải chịu lãi chậm trả thì thời hiệu khởi kiện không hạn chế. Quan hệ hợp đồng tín dụng vừa chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hợp đồng kinh tế, vừa chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật chuyên ngành về tín dụng. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng tín dụng chính là thời hạn cho vay ghi trong hợp đồng. Có thể là ngắn hạn, trung hạn, dài hạn tuỳ từng khoản vay cụ thể, phù hợp với quy định tại khoản 1- điều 12- Nghị định số 17/NĐ-HĐBT ngày 16-1-1990 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế và quy định tại khoản 3- điều 6 của thể lệ tín dụng trung, dài hạn ban hành kèm theo Quyết định số 367/QĐ- NH ngày 21-12-1995 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về nguyên tắc tín dụng. Việc ngân hàng và bên vay thoả thuận nợ đến hạn không trả được thì chuyển thành nợ quá hạn và phải chịu lãi suất chậm trả là biện pháp chế tài áp dụng đối với bên vay khi vi phạm hợp đồng tín dụng thực hiện không đúng hợp đồng về thời hạn trả nợ.Trong trường hợp không có quy định của pháp luật, các bên có quyền thoả thuận về mức tiền phạt; quá hạn bên vay chưa trả hết nợ thì vẫn phải có nghĩa vụ tiếp tục trả nợ vay còn lại, đồng thời chịu phạt dưới hình thức trả lãi suất nợ quá hạn. Vì ngân hàng là đơn vị hoạt động kinh doanh tiền tệ, huy động vốn để cho vay nên việc bên vay không trả nợ đúng hạn đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, nếu quá hạn trả nợ mà ngân hàng và bên vay không có thoả thuận khác thì ngày liền sau ngày hết thời hạn vay ghi trong hợp đồng chính là thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện. Việc áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với loại hợp đồng này là nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp luật, nhưng không làm phương hại đến lợi ích nhà nước. Trong những năm gần đây, các ngân hàng thương mại rất quan tâm và chú ý đến thời hạn khởi kiện hợp đồng tín dụng. Bởi vì, chỉ có trong thời hạn khởi kiện còn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, thì ngân hàng mới được thực hiện quyền khởi kiện khách hàng vay ra toà án có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Nếu quá thời hạn khởi kiện của hợp đồng tín dụng mà ngân hàng lại khởi kiện khách hàng để thu hồi nợ, toà án có quyền từ chối thụ lý đơn khởi kiện của ngân hàng để giải quyết tranh chấp phát sinh từ việc chấm dứt hợp đồng tín dụng. Việc ngân hàng khởi kiện khách hàng vay không những làm cho mối quan hệ vốn có giữa ngân hàng và khách hàng xấu đi mà còn có thể chấm dứt mối quan hệ bạn hàng đã được thiết lập. Còn khách hàng có thể phải bán đi một số tài sản để trả nợ cho ngân hàng. Do đó, ngân hàng nên chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định sản xuất, tiếp tục kinh doanh có lãi để trả nợ ngân hàng. 3.2.1. Hình thức thương lượng Theo quy định của pháp luật, để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, các bên có quyền tự thương lượng với nhau về các xung đột, bất đồng trên tinh thần bình đẳng, thiện chí, hợp tác và cùng có lợi. Hình thức này nhằm tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên và giúp cho các bên tránh được những chi phí không cần thiết do phải khởi kiện ra toà. 3.2.2. Tại trọng tài thương mại Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng trọng tài đối với những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ký kết giữa tổ chức tín dụng với khách hàng mà các bên có thoả yêu cầu cơ quan trọng tài giải quyết. 3.3. Tại toà án Hợp đồng tín dụng thực chất là hợp đồng kinh tế và nó hội đủ các điều kiện nhưng nó tuỳ thuộc với chủ thể vay vốn cũng như mục đích vay vốn mà khi xảy ra tranh chấp thì có thể giải quyết bằng tố tụng dân sự hoặc tố tụng kinh tế. Như vậy, khi đã xác lập một hợp đồng vay vốn giữa ngân hàng với một pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên, khi có tranh chấp xảy ra bằng con đường toà án thì đây là tranh chấp kinh tế do toà án nhân dân giải quyết. Để vụ án giải quyết đúng pháp luật thì khi thụ lý vụ án, toà án cần phải xem xét các điều kiện đó là: người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không, thời hạn khởi kiện còn hay hết; để thẩm phán quyết định có thụ lý vụ án kinh tế theo điều 33 hoặc trả lại đơn khởi kiện theo điều 32- Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án kinh tế. Toà án có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự đối với những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ký kết giữa tổ chức tín dụng với khách hàng mà các bên có thể thoả thuận về việc yêu cầu toà án giải quyết. Ngoài ra, đối với những tranh chấp từ hợp đồng tín dụng nhưng các bên không có thoả thuận nào về cơ quan giải quyết tranh chấp thì về nguyên tắc, tranh chấp đó cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG No& PTNT LÁNG HẠ I. VÀI NÉT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÁNG HẠ 1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Láng Hạ Cả nước đứng trước tình hình nhiệm vụ xây dựng một ngân hàng hiện đại, kinh doanh đa năng và yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong giai đoạn mới; tại các khu đô thị, các khu công nghiệp và trung tâm kinh tế trên mọi miền đất nước nhiều chi nhánh Ngân hàng No&PTNT đã hình thành. Ngày 1/8/1996 tại quyết định số 334/QĐ- NHNo-02 của Tổng giám đốc Ngân hàng No&PTNT Việt Nam, chi nhánh Láng Hạ được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 7 tháng 3 năm 1997. Sự ra đời của chi nhánh đã thể hiện quyết tâm của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc Ngân hàng No&PTNT Việt Nam trong chiến lược củng cố và giữ vững thị trường nông thôn, tiếp cận nhanh và từng bước chiếm lĩnh thị trường thành thị đánh dấu bước phát triển về lượng và chất của hệ thống ngân hàng nông nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Chi nhánh được thành lập và đi vào hoạt động trong giai đoạn đầu của nền kinh tế đất nước đang gặp phải nhiều khó khăn thách thức do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ từ các nước năm 1997: như cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu từ Thái Lan tháng 5/1997; đã lan ra hàng loạt các nước trong khu vực. Nhưng chi nhánh đã lập lên những thành tích đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực, không những huy động được một khối lượng nguồn vốn lớn, bảo đảm chủ động đầu tư tín dụng trên địa bàn với 100% là dư nợ lành mạnh cho đến nay, mà còn góp phần cung cấp lượng vốn lớn về ngân hàng No&PTNT Việt Nam để cân đối giúp các chi nhánh khác không gặp thuận lợi trong công tác huy động vốn. Chi nhánh đã thực hiện các loại hợp đồng như hợp đồng tín dụng; hợp đồng bảo đảm tiền vay. Hợp đồng tín dụng được thực hiện như quy định theo các mẫu 141 là mẫu hợp đồng tín dụng trung, dài hạn; theo mẫu 142 là mẫu hợp đồng tín dụng ngắn hạn. Chi nhánh thực hiện quy chế cho vay theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 quyết định của thống đốc NHNN về việc bam hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Chi nhánh luôn thực hiện đúng các quy định trong hợp đồng vì nếu các bên vay không thực hiện đúng thời hạn và điều kiện của hợp đồng vay vốn sẽ gây ra hậu quả xấu cho bên cho vay; vì vậy rủi ro tín dụng thuần tuý sẽ được hạn chế nhờ các biện pháp bảo đảm tiền vay (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh) và hợp đồng chặt chẽ, thủ tục cho vay cẩn trọng. 2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh 2.1. Tình hình chung về lao động của chi nhánh Tổng số cán bộ viên chức chi nhánh Láng Hạ ban đầu chỉ có 13 người. Biên chế tổ chức của chi nhánh ban đầu gồm Ban giám đốc (3 đồng chí), có 2 phòng chức năng: Phòng kế hoạch kinh doanh có 7 người vừa thực hiện nhiệm vụ tín dụng, kế hoạch vừa làm các công việc của hành chính- tổ chức cán bộ và phòng kế toán ngân quỹ gồm 3 người. Hiện nay: Tổng số cán bộ nhân viên là 206 người, trong đó nam: 74 người, nữ 132 người. Trình độ chuyên môn: tiến sĩ: 1; thạc sĩ là 5; đại học là 154; cao đẳng là 10; Trình độ chuyên môn khác là 36 và trình độ chính trị: cử nhân cao cấp chính trị là 3; lý luận trung cấp là 161. Đơn vị: người Cử nhân Loại A Loại B Loại C Trình độ tin học 3 97 89 8 Trình độ ngoại ngữ 18 14 27 76 Như vậy, trình độ chuyên môn của các cán bộ nhân viên của chi nhánh vẫn còn hạn chế, cho nên công tác tổ chức cán bộ và đào tạo luôn luôn được chi nhánh chú trọng: chuẩn bị tốt trong công tác đào tạo cán bộ nhằm củng cố, mở rộng và nâng cao kiến thức cho số cán bộ viên chức cũ, đào tạo kịp thời trên cơ sở kèm cặp thực hành với số cán bộ mới; nâng cao năng lực tài chính; nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ nhân viên đặc biệt là công tác thẩm định dự án, thanh toán quốc tế, tin học… 2.2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh 2.2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của chi nhánh Giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Tổ tiếp thị Tổ kiểm tra - kiểm toán nội bộ Phòng vi tính Phòng hành chính Phòng ngân quỹ Phòng thanh toán quốc tế Phòng thẩm định Phòng tín dụng Phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp Tổ nghiệp vụ thẻ Phòng tổ chức cán bộ và đào tạo 2.2.2 Nhiệm vụ cơ bản của các phòng, tổ thuộc chi nhánh a. Phòng nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp - Nghiên cứu, đề xuất chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn tại địa phương và xây dựng kế hoạch kinh doanh ngắn, trung và dài hạn theo định hướng kinh doanh của ngân hàng Việt Nam. - Tổng hợp, t._.g, bố trí đào tạo cán bộ đủ khả năng trình độ tiếp nhận công nghệ hiện đại nhằm khai thác nâng cao năng lực thiết bị hiện có. - Phối hợp với các phòng nghiệp vụ triển khai, lắp đặt hệ thống POS và phát hành thêm thẻ ATM, thẻ tín dụng theo đúng kế hoạch của Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam. Duy trì tốt công tác hành chính quản trị đảm bảo an toàn kho quỹ, phòng chống cháy nổ, cải tiến công tác lễ tân tiếp khách đảm bảo trang trọng, lịch sự tiết kiệm. - Chi nhánh cần triển khai thực hiện tốt, nghiêm túc các chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các Bộ ngành về đẩy mạnh tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng, triển khai kịp thời các cơ chế, chính sách tiền tệ tín dụng. - Để thực hiện được yêu cầu thu nợ cho vay đúng hạn, chi nhánh Láng Hạ cần thực hiện thể lệ cho vay ngắn hạn dưới hình thức chiết khấu thương phiếu tức là, vốn sản xuất ra sản phẩm ấy là vốn của doanh nghiệp, sản phẩm đó phải được bán; khi đó vốn cho vay ngắn hạn của chi nhánh mới xuất hiện; thời gian bán chịu hàng hoá của doanh nghiệp là thời gian cho vay ngắn hạng của chi nhánh. Còn đối với việc thu hồi nợ trung và dài hạn; chi nhánh phải thực hiện thể lệ cho vay theo dự án tứ là, vốn cho vay chỉ tham gia theo thành phần trong tổng giá trị tài sản cố định sẽ hoàn thành của bên vay. Nếu cho vay không thành công, chi nhánh không phải chia sẻ sự thất bại ấy với bên vay, bên vay phải trả nợ khi dự án bị thất bại; ngoài ra phải có tài sản thế chấp bằng những tài sản, dễ chuyển đổi ra tiền. III. KIẾN NGHỊ 1. Đối với cơ quan Nhà nước - Cần hạn chế sự chồng chéo giữa các luật, các quy định về ngân hàng với các luật và các quy định khác. Mọi hoạt động của ngân hàng không phân biệt đối tượng, kể cả các định chế tài chính phi ngân hàng của nhà nước tiến hành đều phải chịu sự điều chỉnh của các luật ngân hàng và chịu sự quản lý của Ngân hàng Nhà nước. Sửa đổi bổ sung hệ thống pháp luật về ngân hàng theo hướng mở cửa thị trường tài chính trong nước theo lộ trình hội nhập đã cam kết quốc tế và từng bước thực hiện thông lệ và chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng. Và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các quy chế, cơ chế về hoạt động thị trường tiền tệ nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng cạnh tranh lành mạnh, mở rộng khả năng huy động vốn và đầu tư trên thị trường tài chính. - Trong cuộc sống, cho vay không chỉ là hoạt động thường xuyên của ngân hàng mà còn là hoạt động của nhiều cá nhân, tổ chức kinh tế nên cần phải ban hành lãi xuất cho vay phù hợp. Theo Bộ luật dân sự thì lãi suất cho vay mà các ngân hàng và khách hàng vay thoả thuận trong các hợp đồng tín dụng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố đối với loại cho vay tương ứng. Quy định này hiện nay không còn phù hợp nữa là do NHNN không công bố lãi suất cơ bản đối với loại cho vay tương ứng mà chỉ công bố lãi suất cơ bản chung; vì vậy, chi nhánh không có căn cứ pháp lý để thực hiện quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về việc hạn chế lãi suất cho vay; về hoạt động cho vay được điều chỉnh bởi các văn bản chuyên ngành ngân hàng. Và do Việt Nam trở thành thành viên cấp thiết của tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngày 11/2006; chính sách tiền tệ nước ta cần được tiếp tục đổi mới theo nguyên tắc thị trường với việc phát triển thị trường tiền tệ phù hợp thông lệ quốc tế; việc Bộ luật dân sự hạn chế lãi suất cho vay mà không có loại trừ đối với một số lĩnh vực đặc thù đã được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật chuyên ngành không còn phù hợp với chủ trương chính sách của Đảng, không còn nhất quán với cơ chế điều hành lãi suất hiện hành của NHNN. Vì vậy, Bộ tư pháp- Cơ quan soạn thảo Bộ luật dân sự năm 2005 cần xem xét quy định về lãi suất vay tại khoản 1 điều 476- Bộ luật dân sự năm 2005 để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi theo hướng không áp dụng quy định này. - Để giúp cho quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng được thuận lợi, nhanh chóng trước tiên Nhà nước cần ban hành luật rõ ràng; có các văn bản hướng dẫn cụ thể để tránh tình trạng hiểu sai luật, gây mất thời gian, chấp hành không đúng luật quy định. Nhà nước cần phải tạo lập một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp; cần hoàn thiện, thống nhất các văn bản luật, các chính sách để hạn chế sự chồng chéo để tạo cơ sở ổn định và căn cứ pháp lý vững chắc sẽ giúp cho khách hàng vay yên tâm khi đi vay, giúp cho cán bộ tín dụng không có thái độ ưu tiên đối với bất kỳ khách hàng nào nhất là các doanh nghiệp Nhà nước. - Các Bộ, ngành, trung ương cần có giải pháp tháo gỡ khi chi nhánh thực hiện phân loại khách hàng theo văn bản số 1261/NHNO- TD ngày 13/ 04/ còn nhiều khách hàng truyền thống không đủ điều kiện vay. Đây là lượng khách hàng rất quan trọng vì nếu để mất lượng khách hàng này thì chi nhánh phải tìm kiếm các khách hàng khác để thu hút nguồn vốn cũng như cho vay; như vây, sẽ phải mất khá nhiều chi phí, thời gian để quảng cáo cho khách hàng... - Cần sửa đổi luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng, xây dựng các chính sách, các quy định về cấp phép, tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng phù hợp với các cam kết và lộ trình gia nhập WTO. Hoàn thiện các quy định về các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng mới, cải cách hệ thống kế toán ngân hàng phù hợp chuẩn mực kế toán quốc tế ,… Vì hệ thống của luật ngân hàng còn thiếu đồng bộ, chưa đồng bộ và một số điểm chưa phù hợp thông lệ quốc tế, pháp lệnh ngân hàng hiện nay còn một số hạn chế tạo ra sự phân biệt giữa các loại hình tổ chức tín dụng đã gây sự cạnh tranh không lành mạnh làm ảnh hưởng không chỉ với hệ thống ngân hàng Việt Nam mà cả với chính chi nhánh Láng Hạ. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo sự bình đẳng cho mọi tổ chức tín dụng cũng như các thành phần kinh tế. - Đề nghị trung ương linh hoạt điều chỉnh lãi suất vốn đặc biệt đối với chi nhánh thừa vốn vì lãi suất huy động vốn trên thị trường ngày càng tăng cao; cần có những cơ chế quản lý khách hàng để làm giảm tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp trong hệ thống dẫn đến tranh giành khách hàng của nhau sẽ làm mất uy tín, vị thế của ngân hàng nông nghiệp. - Chính phủ cần quy định rõ hơn về ngày có hiệu lực của hợp đồng tín dụng: Cần sửa đổi Khoản 2, điều 16 của nghị định số 165/1999/NĐ- CP ngày 19/11/1999 của Chính Phủ thành “giao dịch bảo đảm bị vô hiệu không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm” chứ không quy định thêm các trường hợp loại trừ hoặc giữ nguyên khoản 2, điều 16 của nghị định số 165, nhưng văn bản hướng dẫn phải được quy định rõ những giao dịch bảo đảm nào là điều kiện có hiệu lực của nghĩa vụ được bảo đảm. - Vấn đề hợp đồng tín dụng có bị vô hiệu khi không có tài sản bảo đảm: hiện nay, điều 7- quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng, ban hành kèm theo quyết định số 324/1998/QĐ- NHNN1 ngày 30/9/1998 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã tiếp tục quy định một trong những điều kiện để cho vay vốn của các tổ chức tín dụng là khách hàng phải thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ, hướng dẫn của ngân hàng Nhà nước. Mặc dù luật các tổ chức tín dụng đã đi vào đời sống và có nghị định Chính phủ về bảo đảm tiền vay số 178/NĐ- CP ngày 29/12/1999; cũng không viện dẫn căn cứ ban hành là Bộ luật dân sự nên vẫn gây nhiều khó khăn, lúng túng cho các tổ chức tín dụng. - Hoạt động ngân hàng là loại hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều so với các loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc mang tính chất dây chuyền đối với nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh tiền tệ là loại hoạt động kinhdoanh đặc biệt do các tổ chức tín dụng phải tiến hành huy động vốn của những người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên tắc tổ chức tín dụng chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời gian nhất định nên chính yếu tố thời gian đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho hoạt động ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi ro đối với nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động ngân hàng thường được điều chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng các đạo luật riêng biệt do cơ quan lập pháp ban hành, nhằm bảo đảm cho hoạt động này được an toàn, hiệu quả và hạn chế những rủi ro. Mặc dù đã có văn bản quản lý nhà nước về hoạt động tín dụng, nhưng việc các văn bản, các quy định đã ban hành ra, đi vào thực tiễn không được chặt chẽ do một số người trong tổ kiểm soát bị tha hoá về đạo đức như ăn hối lộ, nhũng nhiễu, hách dịch. .. 2. Đối với Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam - Việc đăng ký làm ngân hàng phục vụ giải ngân các dự án ODA của các chi nhánh với ngân hàng nông nghiệp Việt Nam còn chồng chéo đã gây khó khăn trong việc triển khai hoạt động với các bộ ngành. - Đề nghị Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam nên tập trung và làm đầu mối trong việc đi vay của các tổ chức tín dụng, không nên để các chi nhánh tự đi vay vì như vậy sẽ làm mất thời gian, chi phí đi lại và giao dịch với bên cho vay; làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các chi nhánh. - Hiện nay và trong thời gian trước mắt; doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn là lực lượng khách hàng chủ yếu của các ngân hàng thương mại. Do đó, làm tốt công tác quản lý món vay sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng. Tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ có những điểm khác biệt với tín dụng doanh nghiệp có quy mô lớn ở chỗ số tiền vay thấp, số lượng món vay nhiều, chi phí nghiệp vụ và rủi ro cao nên các ngân hàng thương mại đã ban hành những văn bản quy định quy trình thẩm định cho vay phù hợp. - Mặc dù, Ngân hàng No& PTNT Việt Nam thường xuyên ban hành những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh phù hợp với nền kinh tế như Quy chế cho vay đối với khách hàng đã có nhiều thay đổi năm 1997 có Quyết định số 1627, đến năm 2002 được thay đổi bằng văn bản số 72, và đến năm 2004 có Quyết định số 124/QĐ- HĐQT- TD ngày 13/4/2004 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều tại quyết định 72/ QĐ- HĐQT- TD ban hành quy định cho vay đối với khách hàng và Quyết định số 300/QĐ- HĐQT- TD quy định việc thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay trong hệ thống ngân hàng No& PTNT Việt Nam phù hợp với điều kiện của cả khách hàng và hệ thống ngân hàng. Nhưng việc ra các quyết định này còn chậm trễ, không kịp thời đến lúc ra các quyết định thì việc áp dụng nó không còn phù hợp nữa. Do luật nước ta khi ban hành một văn bản nào thường dựa vào những thực tiễn đang diễn ra như thế nào để ban hành cho phù hợp nhưng vì nền kinh tế thị trường đang có nhiều biến động, không phải lúc nào cũng giống như vậy. 3. Đối với Ngân hàng Nhà nước - Vốn xã hội không thể tự nhiên có ngay trong một ngày, một tháng mà nó là cả một quá trình tích tụ từ nhiều hình thức hoạt động cụ thể; cần có một chương trình dài hạn và mang tính tổng thể để xây dựng, sử dụng vốn xã hội có hiệu quả. VÌ vậy, NHNN trong thời gian tới nên xem xét, tổ chức hội thảo cấp ngành về chuyên đề xây dựng và phát triển vốn xã hội trong hoạt động ngân hàng để đặt nền móng cho việc nghiên cứu, phát triển và cụ thể hoá các nội dung vốn xã hội. - Nhà nước cần tiến hành công tác hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin tín dụng bằng cách phát huy vai trò điều phối thông tin của trung tâm thông tin tín dụng CIC vì trung tâm thông tin tín dụng CIC thuộc vụ tín dụng ngân hàng Việt Nam với nhiệm vụ là thu thập thông tin về quan hệ tín dụng giữa các tổ chức tín dụng thành viên với các doanh nghiệp lớn; khi thẩm định khoản vay có thể lấy thông tin về hoạt động tín dụng của khách hàng từ trung tâm thông tin của Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước thanh tra việc cung cấp thông tin của các tổ chức tín dụng cần phải đúng và chính xác; nếu thông tin sai lệch cần có biện pháp xử lý như phạt tiền, từ chối cung cấp thông tin cho tổ chức tín dụng. - Cần sửa đổi và ban hành một số cơ chế tín dụng cho phù hợp với điều kiện của các bên và môi trường pháp lý ở Việt Nam trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay, nhất là cơ chế về cho vay và thủ tục cho vay. Ngân hàng Nhà nước phải kiểm soát lãi suất, công bố, công khai lãi suất cơ bản trên thông tin đại chúng,.. trên cơ sở tham khảo lãi suất trên thị trường; áp dụng các biện pháp để kiểm soát những biến động của lãi suất thị trường. Việc xác định lãi suất tín dụng phải phù hợp với quyết định của luật ngân hàng, luật các tổ chức tín dụng và các văn bản khác. - Ngân hàng Nhà nước còn hệ thống hóa những kiến thức cơ bản về thẩm định tín dụng, quy trình cho vay; đưa ra chỉ tiêu chuẩn hóa từng ngành từng lĩnh vực giúp cho cán bộ tín dụng có căn cứ khi ra quyết định cho vay và từ đó giúp cho quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng được thuận lợi hơn, nhanh chóng hơn. 4. Đối với chi nhánh - Về công tác nguồn vốn và tín dụng: Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn đánh giá khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân phù hợp với thị trường. Có cơ chế chi thưởng hợp lý cho những đơn vị và cá nhân làm tốt công tác huy động vốn mang lại hiệu quả cao như thưởng bằng tiền hoặc bằng quà, khuyến khích họ làm tốt bằng cách khen họ trước toàn thể chi nhánh, đề bạt lên vị trí cao hơn,…bên cạnh đó nếu có hành vi sai phạm, tuỳ từng mức độ mà xử lý cho phù hợp như nhắc nhở, xử lý kỷ luật. - Về công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Trong đào tạo nên tập trung đào tạo những nhiệm vụ cụ thể; có đánh giá lại hiệu quả của công việc đào tạo; cho các cán bộ tín dụng học thêm, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng ở các trường đại học như trường ĐH Kinh tế, Học viện ngân hàng…Những người đi học về sẽ truyền đạt lại cho các cán bộ khác không được đi học; nhưng chi nhánh cần có kế hoạch về việc bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ đều được đi học để nâng cao trình độ chuyên môn nhằm giúp cho việc hướng dẫn khách hàng tốt hơn. Bên cạnh đó cán bộ tín dụng phải luôn cập nhật các vấn đề liên quan đến kinh tế, những chính sách kinh tế thay đổi như chính sách tiền tệ; luôn cập nhật các văn bản pháp luật mới ban hành để kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với nền kinh tế hiện nay khi mà nền kinh tế luôn có sự thay đổi. Tổ chức nhiều hơn các hình thức trao đổi thảo luận giữa hội sở chính và các chi nhánh, giữa các chi nhánh trên cùng một địa bàn. Thực hiện giao kế hoạch về định biên lao động linh hoạt, mềm dẻo, mang tính dài hơi hơn để chi nhánh có thể đảm bảo được nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu hoạt động của chi nhánh trong từng thời kỳ. - Về phát triển sản phẩm dịch vụ: Đảm bảo chất lượng chương trình công nghệ để chi nhánh có thể thực hiện phục vụ khách hàng nhanh chóng. Hoàn thiện giai đoạn hai của dự án hiện đại hóa tại các phân hệ còn lại để chi nhánh có thể cung cấp cho khách hàng những dịch vụ có tiện ích ưu việt của chương trình; đồng thời khai thác kịp thời những thông tin liên quan tới hoạt động của chi nhánh, đảm bảo hoạt động quản lý điều hành được nhanh chóng, chính xác. Tập trung phát triển các sản phẩm, đặc biệt là những sản phẩm dựa trên nền công nghệ hiện đại, có tính cạnh tranh mạnh với các ngân hàng khác. Đồng thời các sản phẩm này phải có tính mở để chi nhánh có thể vận dụng linh hoạt. Nối mạng và liên kết với các ngân hàng khác trong việc thanh toán thẻ để mở rộng dịch vụ khách hàng nghiên cứu để đưa ra các dịch vụ thẻ tín dụng. Chi nhánh cần tiến hành phân khúc thị trường và khách hàng để xây dựng một cách hợp lý thị trường và khách hàng mục tiêu, để có chiến lược kinh doanh phù hợp. - Công tác giám sát sau khi cho vay thực sự cần được xem trọng; do đó, trong thực tế đã dẫn đến những trường hợp nợ xấu phát sinh thu hồi chậm hoặc không thu được gây thiệt hại về vốn và tài sản của ngân hàng. Để nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả và tăng quy mô đầu tư, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro tín dụng doanh nghiệp; chi nhánh phải tăng cường giám sát món vay và đề ra biện pháp hữu hiệu xử lý món vay có vấn đề. - Tổng dư nợ năm 2004 là 2,200 tỷ đồng, năm 2005 là 1,876 tỷ đồng; năm 2006 là 2,057 tỷ đồng. Như vậy, chi nhánh cần thu hút nhiều khách hàng hơn, như tham gia vào các hội trợ triển lãm giới thiệu chi nhánh. Như vậy, nhiều khách hàng sẽ biết đến chi nhánh hơn, tạo sự thoải mái, sự an toàn cho họ, khuyến khích khách hàng bằng các đợt khuyến mại như gửi tiền tiết kiệm sẽ được miễn phí thẻ ATM, hoặc kết hợp với các doanh nghiệp khác bằng cách là khách hàng nào mua hàng của doanh nghiệp với mức theo yêu cầu thì được một thẻ ATM miễn phí và có sẵn tiền trong tài khoản… - Cán bộ tín dụng cần phải tiến hành kiểm tra thường xuyên để sớm nhận ra những dấu hiệu báo động dẫn đến không đề ra biện pháp khắc phục kịp thời tình hình vì trong hoạt động tín dụng nhất là tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ, không tránh khỏi rủi ro phát sinh nợ xấu. Cán bộ tín dụng cần mạnh dạn thừa nhận sai sót, có quan điểm tích cực và hành động với tinh thần trách nhiệm cao theo một quy trình quản lý món vay khoa học, chặt chẽ sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng. - Sau khi giải ngân cho khách hàng, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đánh giá tiến độ thực hiện của phương án vay vốn, vì nó giúp cho cán bộ tín dụng phát hiện sớm những vấn đề phát sinh, kịp thời đề ra biện pháp xử lý thích ứng với tình hình. - Trong thời gian tới, để hoạt động kinh doanh ngoại tệ đi đúng hướng, trở thành thế mạnh của ngân hàng. Chi nhánh cần tập trung khai thác các khách hàng xuất khẩu và mở rộng dịch vụ chi trả kiều hối đồng thời lựa chọn mức tỷ giá phù hợp nhằm khai thác nhiều nguồn ngoại tệ mạng lại thu nhập cao về hoạt động kinh doanh ngoại tệ cho chi nhánh. - Chi nhánh cần phải thu thập các thông tin của doanh nghiệp một cách chính xác, đầy đủ bằng cách tận dụng triệt để những lần gặp gỡ chủ doanh nghiệp khi họ đến ngân hàng trả lãi và có thể thu thập từ những người biết đến doanh nghiệp như chính quyền địa phương, bạn hàng có quan hệ mua bán với doanh nghiệp. Đến trực tiếp nơi ở và sản xuất kinh doanh sau khi doanh nghiệp hoàn tất việc đầu tư từ nguồn vốn vay, để biết được tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với nợ vay ngân hàng, việc sử dụng có đúng mục đích vay hay không, đánh giá được khả năng thanh toán nợ hay không khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Chất lượng của ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng phục thuộc rất nhiều vào độ chính xác của thông tin, chất lượng thông tin và khách hàng. Chúng ta có thể thấy thông tin đầu tiên mà ngân hàng nhận được là do khách hàng cung cấp; chính vì vậy, người đi vay bao giờ cũng cung cấp những thông tin có độ sai lệch nhất định để họ cố gắng vay được vốn. Vì vậy, để hạn chế và ngăn chặn rủi ro trên, chi nhánh Láng Hạ cần tích cực tìm kiếm thông tin chính xác bằng các biện pháp như: Điều tra thông tin doanh nghiệp xin vay vốn, thu thập thông tin từ bên ngoài, … - Cần hoàn thiện hơn nữa nội dung và phương pháp thẩm định: thẩm định toàn diện trên mọi phương tiện, mọi nội dung của dự án nhằm giúp cho quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng được diễn ra thuận lợi, rủi ro thấp; mọi nội dung của dự án đều có mối liên hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời. - Cần xây dựng chiến lược giá cả: xây dựng phương pháp giá phù hợp dựa trên lãi suất cơ bản, độ rủi ro của người vay và mối quan hệ với họ, thế mạnh của ngân hàng; trên cơ sở chi phí nhằm đảm bảo bù đắp vốn và đạt lợi nhuận mục tiêu, vì tối đa hoá lợi nhuận. - Đa dạng hoá khách hàng: Chi nhánh cần mở rộng các loại khách hàng, quan tâm hơn nữa , tìm kiếm cơ hội cho các doanh nghiệp đảm bảo người cần vốn dù ở bất cứ thành phần kinh tế nào cũng có thể tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng ở mức cần thiết, giúp cho chi nhánh tiếp cận các dự án trung, dài hạn, có tính khả thi cao. Tổ chức bộ phận chăm sóc khách hàng để tạo cho khách hàng cảm giác được tôn trọng khi đến chi nhánh; hướng dẫn những khách hàng mới khai báo thông tin, trả lời các thắc mắc của khách hàng; tư vấn, giải thích về các sản phẩm của ngân hàng cho khách hàng biết. - Chi nhánh Láng Hạ là một chi nhánh sắp cổ phần hoá cho nên trong thời gian tới sau khi cổ phần hoá, chi nhánh cần sàng lọc những doanh nghiệp không còn khả năng trả nợ quá hạn; các doanh nghiệp ấy có dự án kinh tế tốt , có khả năng phát triển sản xuất thì chi nhánh vẫn nên tiếp tục cho vay mới. Như vậy, sẽ giúp doanh nghiệp tiếp tục sản xuất, khi doanh nghiệp làm ăn có lãi thì ban mua bán nợ xấu của Bộ tài chính sẽ thu hồi dần số nợ xấu mua từ chi nhánh Láng Hạ. 5. Đối với khách hàng vay - Khách hàng cần phải cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin về bản thân doanh nghiệp cũng như yêu cầu mà cán bộ tín dụng đưa ra, nhất là thông tin về kế toán tài chính, vì như vậy sẽ giúp cho việc thực hiện và ký kết hợp đồng tín dụng được thuận lợi, nhanh chóng. Thực hiện đúng sẽ không cản trở đến việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng, sẽ giảm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp vì đối với doanh nghiệp kinhdoanh thời gian là rất quan trọng. - Khách hàng vay nên thực hiện chế độ kế toán hiện đại, chính xác theo đúng quy định của nhà nước; luôn tìm hiểu các văn bản pháp luật có liên quan để tránh vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án. Do những thủ tục khá rờm rà, và lâu không thể giảm được cho nên khách hàng cần làm các giấy tờ có liên quan trước như có các mẫu về giấy đề nghị vay vốn, báo cáo thẩm định đề nghị vay vốn,…như vậy, sẽ đỡ mất thời gian hơn; không ảnh hưởng đến việc thực hiện dự án của mình. - Mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam đã đi vào cuộc sống người dân cũng như các đối tượng khác như các văn bản được đăng tải trên mạng các trang Web như luatvietnam.com.vn; Vietlaw.com.vn;…hoặc các báo chí như công báo, tạp chí toà án. Nhưng hầu như các khách hàng ít cập nhật vì họ ý thức được rằng cần phải biết luật về ngân hàng, nhất là hoạt động tín dụng để họ biết nên làm những gì trước để tránh mất thời gian như các thủ tục về làm giấy tờ xin vay vốn, báo cáo thẩm định; hoặc tránh những tranh chấp xảy ra do thiếu hiểu biết về luật. Vì vậy, khách hàng vay nên tìm đọc, cập nhật các văn bản có liên quan đến việc vay vốn của mình. Khách hàng cần xem có khả năng thanh toán với chi nhánh hay không rồi mới vay vốn, không được khai man, giả dối như khai tăng nguồn vốn tự có so với thực tế mình có, kinh doanh những mặt hàng cấm như chất ma tuý, vũ khí..hay kinh doanh những mặt hàng không đúng như ghi trong hợp đồng tín dụng… KẾT LUẬN Hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng là một trong những vấn đề cấp bách và cần thiết để nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro trong hoạt động ngân hàng Trong thời gian hoạt động chi nhánh Láng Hạ đã có nhiều cố gắng để hoàn thiện việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng; tuy nhiên việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng còn nhiều bất cập như việc giải ngân không kịp thời vì dự án đầu tư dài hạn; việc thẩm định vay vốn còn chậm gây mất thời gian cho khách hàng,...Mặc dù chi nhánh đã có nhiều biện pháp, đã đề ra kế hoạch từ trước và rút ra được những kinh nghiệm trong quá trình ký kết và thực hiện để tránh những rủi ro, hạn chế sẽ xảy ra trong quá trình tiếp theo; nhưng vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Để làm được công tác này đòi hỏi chi nhánh phải có sự nghiên cứu sâu sắc, có những biện pháp tổng hợp phối hợp với cơ quan chức năng nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh. Trong thời gian tại chi nhánh, tôi đã cố gắng tìm hiểu về vấn đề pháp lý cũng như thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng và nêu ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm đóng góp vào việc hoàn thiện môi trường pháp lý cho việc ký kết và thực hiện hợp đồng tín dụng. TÀI LIỆU THAM KHẢO I.Văn Bản Quy Phạm Pháp Luật. 1. Bộ luật dân sự. 2. Luật các tổ chức tín dụng. 3. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 4. Pháp luật hợp đồng kinh tế. 5. Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. II. Sách. 1. Giáo trình luật ngân hàng- NXB Tư pháp- Hà Nội. 2. Giáo trình luật kinh tế- NXB Tư pháp- Hà Nội. III. Tạp chí: 1. Toà án nhân dân. - Lê Thế Nhơn (Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai), Thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng tín dụng (trang 24), Số 11/2001. - Lê Tự (Toà án nhân dân TP. Đà Nẵng), Xác định thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp hợp đồng tín dụng (trang 25), số 9/2001. 2. Dân chủ và pháp luật. - Nguyễn Văn Phương, Cần quy định rõ điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng (trang 37), số 12/2002. - TS. Lê Thị Thu Thuỷ (khoa luật trực thuộc ĐH Quốc Gia Hà Nội), Bản chất pháp lý của hợp đồng tín dụng ngân hàng (trang 10), số 12/2002. 3. Nhà nước và pháp luật. - Lâm Thị Hạnh, Về các đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng (trang 52), số 4 (168)/2002. 4. Ngân hàng. - Bùi Thanh Quang, Tăng cường quản lý món vay để nâng cao hiệu quả tín dụng doanh nghiệp vừa và nhỏ (trang 26), số 3/01. - Nguyễn Văn Phương, cần nới lỏng thời hạn khởi kiện hợp đồng tín dụng (trang 28), số 6/2001. - Vĩnh Lộc, Một số biện pháp nâng cao năng lực thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng (trang 34), số 6/2000. IV. Tài liệu của công ty. 1. Các báo cáo kết quả kinh doanh qua các năm 2004, năm 2005, năm 2006. 2. Sổ tay tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp Việt Nam. 3. Các tài liệu khác liên quan đến hợp đồng tín dụng. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT No& PTNT: nông nghiệp phát triển nông thôn. NHNN: ngân hàng Nhà nước. NHNo: ngân hàng nông nghiệp DNo: doanh nghiệp TH: thực hiện KH: kế hoạch Đ: đồng NDT: nhân dân tệ MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC KÝ KẾT THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 2 I. Lý luận chung về hợp đồng tín dụng 2 1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng tín dụng 2 1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng 2 1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng 2 1.2.1. Về chủ thể hợp đồng tín dụng 2 1.2.2. Đối tượng của hợp đồng tín dụng 3 1.2.3. Hợp đồng tín dụng vốn chứa đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền lợi của bên cho vay 3 1.2.4. Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng tín dụng 4 1.2.5. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng luôn nhằm mục đích thu lợi nhuận 4 1.2.6. Hợp đồng tín dụng chỉ được ký kết dưới hình thức văn bản 5 1.2.7. Hợp đồng tín dụng ngân hàng là hợp đồng ưng thuận 5 1.3. Phân loại 5 1.3.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ an toàn của khách vay hợp đồng tín dụng 5 1.3.2. Căn cứ vào bản chất hợp đồng có thể chia thành 6 1.3.3. Căn cứ vào thời hạn cho vay có thể chia thành 6 2. Nội dung của hợp đồng tín dụng 6 2.1. Điều kiện vay 7 2.2. Mục đích sử dụng vốn vay 7 2.3. Phương thức thanh toán tiền vay 8 2.4. Điều khoản về đối tượng hợp đồng 8 2.5. Thời hạn vay 8 2.6. Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng 8 3. Hình thức và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tín dụng 8 3.1. Hình thức 8 3.2. Thời điểm có hiệu lực 9 3.2.1. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng 9 3.2.2. Thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng tín dụng 11 3.2.3. Sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng và các hậu quả pháp lý của sự vô hiệu 11 4. Hợp đồng tín dụng ngoại tệ 12 II. Chế độ pháp lý về giao kết và thực hiện hợp đồng tín dụng 13 1. Giao kết hợp đồng tín dụng 13 1.1. Nguyên tắc giao kết 13 1.1.1. Hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng dân sự nên các bên khi giao kết phải tuân thủ các nguyên tắc sau 13 1.1.2. Hợp đồng tín dụng là hợp đồng kinh tế nên các bên khi giao kết phải tuân thủ các nguyên tắc sau 14 1.1.3. Hợp đồng tín dụng là loại hợp đồng đặc biệt 15 1.2. Trình tự giao kết hợp đồng tín dụng 16 1.2.1. Đề nghị giao kết 16 1.2.2. Hồ sơ vay vốn 17 1.2.3. Thẩm định hồ sơ tín dụng 18 1.2.4. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng 19 2. Thực hiện hợp đồng tín dụng 19 2.1. Nguyên tắc thực hiện 20 2.2. Quy trình thực hiện 21 2.2.1. Kiểm tra, giám sát khoản vay 22 2.2.2.Xử lý rủi ro của các khoản vay có vấn đề 22 2.2.3. Thanh lý hợp đồng tín dụng 22 2.2.4. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng 23 3. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng tín dụng và việc giải quyết tranh chấp 24 3.1. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng tín dụng 24 3.2. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng 25 3.2.1. Hình thức thương lượng 28 3.2.2. Tại trọng tài thương mại 28 3.3. Tại toà án 28 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG No& PTNT LÁNG HẠ 29 I. VÀI NÉT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN LÁNG HẠ 29 1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Láng Hạ 29 2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh 30 2.1. Tình hình chung về lao động của chi nhánh 30 2.2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh 31 2.2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của chi nhánh 31 32 2.2.2 Nhiệm vụ cơ bản của các phòng, tổ thuộc chi nhánh 32 3. Những kết quả chi nhánh đã đạt được 37 3.1. Công tác nguồn vốn 37 3.2. Công tác tín dụng 39 II. THỰC TIỄN KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH LÁNG HẠ 40 1. Mục đích, yêu cầu về hợp đồng tín dụng tại chi nhánh 40 1.1. Mục đích 40 1.2. Các yêu cầu 41 2. Ví dụ về hợp đồng tín dụng 41 3. Thực tiễn ký kết hợp đồng tín dụng 46 3.1. Tiếp nhận và hướng dẫn khách hàng về điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn 46 3.2. Lập báo cáo thẩm định cho vay 47 3.3. Ký kết hợp đồng tín dụng 47 3.4. Ví dụ:Báo cáo thẩm định đề nghị vay vốn 47 4. Thực tiễn thực hiện hợp đồng tín dụng tại chi nhánh 50 4.1. Quy trình thực hiện hợp đồng tín dụng 50 4.1.1. Quy trình giải ngân 50 4.1.2. Kiểm tra, giám sát khoản vay 50 4.1.3. Thu nợ lãi và gốc, xử lý những tài sản 51 4.1.4. Thanh lý hợp đồng tín dụng 52 4.1.5. Giải toả tài sản bảo đảm 52 4.2. Quá trình sửa đổi điều chỉnh hợp đồng tín dụng 52 4.3. Phương thức giải quyết vướng mắc tranh chấp phát sinh hợp đồng tín dụng 52 CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ HOÀN THIỆN VIỆC KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH 55 I. ĐÁNH GIÁ VIỆC KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH 55 II. CÁC GIẢI PHÁP 61 1. Công tác nguồn vốn 62 2. Công tác tín dụng 63 3. Công tác thanh toán quốc tế 65 4. Về nghiệp vụ kế toán ngân quỹ 66 5. Về công tác tổ chức cán bộ và đào tạo 66 6. Về công tác kiểm tra, kiểm soát 67 7. Về công tác tiếp thị thông tin tuyên truyền 67 8. Thực hiện chiến lược khách hàng 68 9. Về công tác khác 68 III. KIẾN NGHỊ 69 1. Đối với cơ quan Nhà nước 69 2. Đối với Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam 72 3. Đối với Ngân hàng Nhà nước 73 4. Đối với chi nhánh 74 5. Đối với khách hàng vay 78 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 83 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32181.doc