Phần mở đầu
Giới hạn phạm vi và mục đích nghiên cứu
Ngày nay, xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế được xem là một trong những đặc trưng quan trọng của nền kinh tế hiện đại, trong đó mỗi quốc gia trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế thế giới. Vì vậy mở rộng kinh tế đối ngoại, phát huy lợi thế so sánh, tham gia ngày càng sâu vào phân công lao động quốc tế, tranh thủ áp dụng những thành tựu của nền văn minh nhân loại đã trở thành quy luật phát triển của mỗi quốc gia. Trước tình h
56 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1441 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Chế độ ký kết & thực hiện hợp đồng xuất khẩu giày ở Công ty Cao su Hà Nội (HARCO), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình đó tại hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đã vạch ra: "Nhiệm vụ kinh tế có tính chiến lược - và cấp bách hiện nay là tăng cường xuất khẩu, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá".
Trong công cuộc đổi mới thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế mà Đảng và nhà nước ta đã vạch ra, hoạt động xuất nhập khẩu đã và đang chiếm một vị thế quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế đối ngoại. Để thực hiện hoạt động xuát nhập khẩu các bên phải ký với nhau hợp đồng xuất khẩu. Như vậy, hợp đồng xuất nhập khẩu chính là cầu nối giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu, là bộ phận hữu cơ không thể tách rời của cơ chế quản lý mới ở Việt Nam, là cơ sở cho việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu là nghiệp vụ quen thuộc đối với thương nhân ở các nước phát triển nhưng còn khá mới lạ đối với một đất nước mới chuyển đổi cơ chế như nước ta hiện nay. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu các vấn đề ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu là luôn cần thiết. Trên cơ sở nghiên cứu kỹ về cơ sở pháp lý đối với việc đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu, chúng ta mới có những kiến thức pháp lý vững vàng để tham gia vào sân chơi chung của cộng đồng quốc tế, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân cũng như của quốc gia, tránh bị đánh giá thấp trong quan hệ với bạn hàng quốc tế. Qua đó rút ra được kinh nghiệm góp phần làm tăng hiệu quả trong công tác xuất nhập khẩu. Nếu thiếu những kiến thức đó sẽ đem lại những hậu quả không lường hết được mà thực tế nhiều doanh nghiệp Việt Nam phải gánh chịu. Những thiệt hại về tài sản, sự mất uy tín trong kinh doanh có thể do nhiều nguyên nhân nhưng trong đó một phần là do thiếu hiểu biết về những kiến thức pháp lý trong kinh doanh, chưa chú trọng đúng mức đến tầm quan trọng của việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
Qua thời gian học tập tại Bộ môn Luật trường Đại học KTQD cũng như qua quá trình thực tập tại công ty cao su Hà Nội -một công ty phần lớn doanh thu là do xuất khẩu, em thấy việc nghiên cứu một cách có hệ thống cụ thể khía cạnh pháp lý của vấn đề ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu là rất cần thiết.
Với những lý do trên, em chọn đề tài: "Chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu giày ở công ty Cao su Hà nội (HARCO)".
Chương I
Cơ sở pháp lý của chế độ ký kết và
thực hiện hợp đồng xuất khẩu
I. Khái quát chung về hợp đồng xuất khẩu.
1. Xuất khẩu hàng hoá
1.1. Khái niệm và vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp trong một nền thương mại có tổ chức cả ở bên trong lẫn bên ngoài nhằm bán sản phẩm hàng hoá trong nước ra nước ngoài để thu ngoại tệ. Qua đó có thể đẩy mạnh sản xuất trong nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định, từng bước nâng cao mức sống của nhân dân. Do vậy xuất khẩu là hoạt động kinh tế đối ngoại có thể đem lại những hiệu quả đột biến cao hoặc có thể gây thiệt hại do phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối lưu thông hàng hoá của quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Đối với nước ta, một nước có nền kinh tế chậm phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh xuất khẩu thu ngoại tệ, cải thiện đời sống và phát triển kinh tế là cực kỳ quan trọng. Đảng và nhà nước ta chủ trương mở rộng phát triển kinh tế đối ngoại đặc biệt hướng mạnh vào xuất khẩu hàng hoá là một chủ trương đúng đắn phù hợp với quy luật kinh tế khách quan.
Trước mắt cũng như lâu dài xuất khẩu hàng hoá thực sự có vai trò quan trọng, nó được thể hiện:
- Thông qua xuất khẩu chúng ta có thể bổ sung được nguồn vốn thu thêm ngoại tệ, góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán tăng dự trữ ngoại tệ, qua đó tăng khả năng nhập khẩu máy móc thiết bị nâng cao trình độ KHKT của nền sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần còn dẫn tới hình thành các liên doanh liên kết của các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước một cách tự giác, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực hiện có, giải quyết tốt nhu cầu việc làm cho người lao động.
- Xuất nhập khẩu tất yếu tạo ra sự cạnh tranh. Chính sự cạnh tranh này làm cho chất lượng hàng hoá sản xuất trong nước được nâng cao.
- Xuất khẩu còn thúc đẩy hoạt động của các ngành thương mại và dịch vụ khác như: bảo hiểm hàng hoá, vận tải hàng hoá, dịch vụ tài chính tín dụng, thông tin liên lạc quốc tế....
Đối với nước ta mở cửa nền kinh tế, đặc biệt hướng mạnh vào xuất khẩu là một trong những mục tiêu quan trọng, qua đó tranh thủ đón bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, rút ngắn sự chênh lệch về trình độ phát triển của mình so với thế giới mà trước hết là các nước trong khu vực châu á -Thái Bình Dương.
1.2. Đặc điểm của hoạt động xuất khẩu ở nước ta.
Một thời kỳ dài tới những năm đổi mới, đối với hoạt động xuất nhập khẩu nhà nước quản lý theo độc quyền ngoại thương, theo nguyên tắc này thì mọi hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng đều do nhà nước đặt kế hoạch bằng các chỉ tiêu pháp lệnh. Còn kinh doanh thì do hệ thống các tổng công ty, các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu thuộc Bộ ngoại thương đảm nhiệm. Bộ ngoại thương được nhà nước giao cho 2 chức năng: chức năng quản lý nhà nước về hoạt động ngoại thương và chức năng kinh tế là trực tiếp hoạt động xuất nhập khẩu. Khi đó, quan hệ kinh tế đối ngoại chủ yếu là nhập khẩu giữa nước ta với các nước khối SEV và các nước XHCN hoặc xuất khẩu một số mặt hàng sang các nước này dưới hình thức đổi hàng hoặc trả nợ. Các doanh nghiệp chỉ lo sản xuất còn đầu ra đã có nhà nước lo. Do hoạt động trên có những đặc điểm riêng nên công tác hợp đồng trong thời gian này không được chú trọng, ký kết hợp đồng là kỷ luật bắt buộc của nhà nước để thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh. Chủ thể của hợp đồng là hai nhà nước có quan hệ hợp tác làm ăn kinh tế lâu dài nên mặc dù hợp đồng được k ý kết nhưng nó không thể hiện được vai trò thực sự mà chỉ mang tính hình thức. Quan hệ hợp đồng này do các điều ước quốc tế đa phương và song phương điều chỉnh.
Bước vào thời kỳ đổi mới, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đặc biệt phát triển. Thời kỳ này Đảng và nhà nước với chủ trương coi thương mại quốc tế là công cụ quan trọng trong quá trình thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiều chính sách, biện pháp quản lý đã và đang góp phần hoàn thiện dần hệ thống quản lý và kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thời kỳ này Bộ thương mại là cơ quan thực hiện chức năng quản lý thống nhất đối với hoạt động xuất nhập khẩu thông qua các vụ chuyên môn Bộ thương mại phối hợp với Bộ tài chính, Ngân hàng nhà nước, Tổng cục Hải quan theo chức năng của mình quy định và hướng dẫn thựuc hiện các hợp đồng thương mại quốc tế, cấp giấy phép xuất nhập khẩu đối với mặt hàng cần giấy phép, kiểm tra khả năng thanh toán, thu thuế xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan... Đặc biệt có sự đổi mới, các doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu không phân biệt thành phần kinh tế miễn là có đủ những điều kiện do pháp luật quy định các doanh nghiệp đều được xuất khẩu những mặt hàng mình sản xuất vật chất (nếu hàng hoá đó không thuộc danh mục cấm xuất nhập khẩu do Nhà nước quy định) về thị trường cũng có sự thay đổi; các thị trường truyền thống như Liên xô (cũ) và các nước XHCN bị phá vỡ đòi hỏi các doanh nghiệp phải vươn ra tìm thị trường mới như Nhật bản, NIC, EU, Mỹ...
Do đặc điểm của thời kỳ này nên việc ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng đòi hỏi phải có yêu câù chặt chẽ, kỹ lưỡng và chi tiết hơn để tránh những rủi ro pháp lý sau này. Chủ thể của hợp đồng là những thương nhân, những nhà kinh doanh, họ ký hợp đồng và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của mình. Trước tình hình đó sẽ tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp cần phải phát huy tinh thần tự chủ, dám nghĩ dám làm, đối với quản lý mạnh dạn đầu tư quan trọng đặc biệt đến việc tìm kiếm khách hàng, mở rộng thị trường.
2. Hợp đồng xuất khẩu hàng hoá.
2.1. Khái niệm về hợp đồng xuất khẩu:
- Hợp đồng là sự thoả thuận một cách tự nguyện giữa 2 hay nhiều bên bình đẳng với nhau làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể.
- Hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá hay hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là sự thoả thuận giữa các bên mua bán ở các nước khác nhau, trong đó quy định bên bán phải cung cấp hàng, chuyển giao các chứng từ có liên quan đến hàng hoá và chuyển quyền sở hữu hàng hoá đó, bên mua có nghĩa vụ phải thanh toán tiền hàng và nhận hàng.
- Hợp đồng xuất khẩu hàng hoá là văn bản được ký kết giữa bên Việt Nam và bên nước ngoài trong đó bên Việt Nam cam kết sẽ cung cấp một hàng hoá hoặc dịch vụ nào đó và các chứng từ có liên quan đến hàng hoá và chuyển quyền sở hữh hàng hoá đó, bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền và nhận hàng.
2.2. Đặc điểm của hợp đồng xuất khẩu.
Về chủ thể của hợp đồng:
Chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu là các thương nhân của các quốc gia có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau. Về phía Việt Nam, chủ thể của hợp đồng xuất nhập khẩu là các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do bộ thương mại cấp.
Theo điều 6, nghị định 33-CP của Chính phủ 19-4-1994 về quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu, quy định về điều kiện để được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu như sau:
Đối với doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu:
- Thành lập theo đúng luật pháp và cam kết tuân thủ các quy định của luật pháp hiện hành.
- Doanh nghiệp phải có mức vốn lưu động tối thiểu tính bằng Việt Nam tương đương 200.000 USD tại thời điểm đăng ký kinh doanh xuất khẩu nhập khẩu. Riêng đối với các doanh nghiệp thuộc các tỉnh miền núi và các tỉnh có khó khăn về kinh tế, các doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng cần khuyến khích xuất khẩu mà không đòi hỏi nhiều vốn, mức vốn lưu động trên được quy định tương đương 100.000 USD.
- Hoạt động theo đúng ngành hàng đã đăng ký khi thành lập doanh nghiệp.
- Có đội ngũ cán bộ đủ trình độ kinh doanh ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương.
Đối với doanh nghiệp sản xuất:
Các doanh nghiệp thành lập theo đúng luật pháp, có cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, ổn định và có thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, có đội ngũ cán bộ đủ trình độ kinh doanh, ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương có quyền trực tiếp xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất và nhập khẩu vật tư nguyên liệu cần thiết cho sản xuất của chính doanh nghiệp. Trường hợp khách hàng nước ngoài thanh toán bằng hàng đổi hàng, phải được Bộ thươngmại xem xét giải quyết hợp lý cho từng trường hợp cụ thể. Nguồn có quyền thay mặt cho doanh nghiệp ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu là giám đốc (phó giám đốc) hoặc người được giám đốc ký quyền hợp pháp bằng văn bản. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật thì người đại diện này chỉ được quyết định các vấn đề trong phạm vi quyền hạn và phạm vi giẩy uỷ quyền, nếu vượt quá phạm vi sẽ làm cho hợp đồng vô hiệu về chủ thể.
Về đối tượng của hợp đồng:
Hàng hoá xuất khẩu phải là hàng hoá không thuộc danh mục hàng cấm xuất khẩu của nhà nước, nếu là hàng quản lý bằng hạn ngạch thì phải có phiếu hạn ngạch.
Danh mục hàng hoá cấm xuất khẩu ban hành kèm theo nghị định 57.NĐ-CP ngày 31-07-1998 của chính phủ gồm:
1. Vũ khí, đạn dược, vật liẹu nổ, trang thiết bị kỹ thuật quân sự
2. Đồ cổ.
3. Các loại ma tuý
4. Hoá chất độc
5. Gỗ tròn, gỗ xẻ, gỗ bóc, củi than từ gỗ hoặc củi, các sản phẩm gỗ sản xuất từ nhóm IA và bán tính chất sản xuất từ nhóm IIA trong danh mục ban hành kèm theo nghị định số 18/HĐBT ngày 17-01-1992; song mây nguyên liệu.
6. Các loại động vật hoang và động thực vật quý hiếm tự nhiên.
Danh mục hàng hoá xuất khẩu lẻ điều kiện (ban hành kèm theo nghị định 57-NĐ.CP ngày 31.07.1998 của CP) gồm:
1. Gạo
2. Hàng hoá theo hạn do các tổ chức kinh tế và nước ngoài ấn định đối với Việt Nam
Hình thức của hợp đồng:
Theo luật Việt Nam, Hợp đồng ngoại thương nói chung và hợp đồng xuất khẩu nói riêng phải được làm bằng văn bản mới có hiệu lực. Thứ tư, điện tín telex, fax cũng được coi là văn bản. Mọi hình thức thoả thuận bằng miệng đều không có hiệu lực. Mọi sửa đổi, bổ sung hợp đồng mua bán ngoại thương cũng phải được làm bằng văn bản.
3. Nội dung chủ yếu của hợp đồng xuất khẩu:
Nội dung chủ yếu của hợp đồng xuất khẩu là toàn bộ các điều khoản mà các bên thoả thuận, trong đó quy định quyền và nghĩa vụ ràng buộc các bên với nhau.Thông thường mỗi bản hợp đồng bao gồm 3 loại điều khoản sau:
- Điều khoản chủ yếu: đây là những điều khoản cơ bản của một hợp đồng mà khi ký kết bắt buộc các bên phải thoả thuận và ghi vào trong hợp đồng, nếu không thoả thuận thì hợp đồng chưa hình thành.
- Điều khoản thông lệ: đây là những điều khoản đã được pháp luật công nhận mà trong nội dung hợp đồng nếu không ghi thì coi như các bên mặc nhiều công nhận và phải có trách nhiệm thực hiện.
- Điều khoản tuỳ nghi: là những điều khoản mà các bên đưa vào hợp đồng căn cứ vào sự thoả thuận giữa các bên trên cơ sở, khả năng nhu cầu của mỗi bên.
Trong hợp đồng xuất khẩu thường bao gồm những điều khoản chủ yếu sau:
Điều khoản về chủ thể của hợp đồng:
Trong hợp đồng nhất thiết phải ghi rõ ràng tên, địa chỉ một cách chính sác của các bên tham gia ký kết hợp đồng. Đây là một phần rất quan trọng trong hợp đồng, nếu không tuân thủ theo nguyên tắc này sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn trong vấn đề thông báo, khởi tố và giải quyết tranh chấp sau này.
Điều khoản về tên hàng:
Đây là điều khoản quan trọng của mỗi hợp đồng. Nó nói lên chính xác đối tượng trao đổi mua bán, nhằm giúp các bên xác định được sơ bộ loại hàng của mua bán. Vì thế nó phải được diễn tả một cách chính xác. Để làm được việc đó người ta dùng các biện pháp.
+ Ghi tên hàng bao gồm tên thông thường, tên thương mại, tên khoa học
+ Ghi tên hàng kèm tên địa phương sản xuất ra nó.
+ Ghi tên hàng kèm với quy cách chính thức của hàng đó
+ Ghi tên hàng kèm với tên của nhà sản xuất ra nó.
+ Ghi tên hàng kèm công dụng của hàng.
Điều khoản về số lượng:
Nhằm nói lên mặt lượng của hàng hoá được giao dịch, điều khảon này bao gồm các vấn đề về đơn vị tính số lượng của hàng hoá, phương pháp quy định số lượng, phương pháp quan điểm trọng lượng.
+ Đơn vị tính số lượng, xác định bằng đơn vị đo lường theo chiều dài, trọng lượng, thể tích , tuỳ theo loại hàng.
+ Phương pháp quy định số lượng: trong các hợp đồng ngoại thương người ta sử dụng hai phương pháp, đó là:
Bên bán và bên mua quy định cụ thể số lượng hàng hoá giao dịch. Khi thực hiện hợp đồng các bên không được phép thực hiện giao nhận theo số lượng khác với số lượng đó.
Bên bán và bên mua quy định một cách phỏng chừng về số lượng hàng hoá giao dịch. Khi thực hiện hợp đồng các bên có thể giao nhận theo số lượng cao hơn hoặc thấp hơn số lượng quy định trong hợp đồng. Khoản chênh lệch đó được gọi là khoảng dung sai về số lượng. Dùng phương pháp phỏng chừng cho phép người bán có một dung sai hợp pháp mà khi giao hàng trong phạm vi đó, có thể coi người bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.
+ Phương pháp quy định trọng lượng:
Để xác định trọng lượng hàng hoá người ta sử dụng các phương pháp tính theo trọng lượng cả bì, trọng lượng tịnh, trọng lượng thương mại trọng lượng lý thuyết.
Điều khoản về phẩm chất
Đây là điều khoản nói lên mặt "chất" của hàng hoá mua bán, nghĩa là tính năng, quy cách, kích thước, tác dụng, công suất, hiệu suất... của hàng hoá đó. Xác định cụ thể phẩm chất của sản phẩm la cơ sở để xác định giá cả nếu cần thiết trong điều khoản cần nêu rõ phương pháp xác định phẩm chất, những tiêu chuẩn mà hàng hoá phải đạt được.
Các phương pháp xác định chất lượng hàng hoá:
+ Xác định dựa vào mẫu hàng
+ Xác định dựa vào tiêu chuẩn, tài liệu kỹ thuật
+ Xác định dựa vào sự mô tả hàng.
Điều khoản về giá:
Điều khoản về giá thường bao gồm những vấn đề đồng tiền tính giá phương pháp xác định giá, quy định về giảm giá.
+ Đồng tiền tính giá: thông thường đó là tiền có khả năng chuyển đổi mạnh như: Đo la(USD); DM (Đức); nhưng cũng có thể chọn tiền tính giá hàng của nước ngoài bán hay nước ngoài mua.
+ Mức giá: giá cả trong hợp đồng xuất nhập khẩu là giá quốc tế. Việc xuất khẩu thấp hơn giá quốc tế và nhập khẩu cao hơn giá quốc tế làm tồn tại đến tài sản quốc gia. Do vậy khi ký hợp đồng các bên phải tuân thủ nguyên tắc xác định giá quốc tế.
+ Phương pháp xác định giá:
Giá cả có thể xác định ngay khi ký hợp đồng hoặc xác định trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng.Tuỳ theo cách xác định giá mà phân biệt thành các loại giá.
- Giá cố định hay giá xác định ngay.
- Giá quy định sau.
- Giá xét lại
- Giá di động, hay giá trượt
Trong các hợp đồng xuất khẩu ở nước ta chủ yếu sử dụng loại giá cố định.
+ Quy định về giảm giá: trong thực tiễn mua bán quốc tế hiện nay người ta sử dụng vào nhiều loại giảm giá.
- Giảm giá do trả tiền sớm.
- Giảm giá do mua với khối lượng lớn.
- Giảm giá do thời vụ.
Tuy nhiên muốn được giảm giá thì các bên phải thoả thuận về điều khoản này và đưa vào hợp đồng.
+ Quy định về điều kiện cơ sở giao hàng tương ứng.
Trong việc xác định giá, người ta luôn ghi rõ điều kiện cơ sở giao hàng liên quan đến giá đó. Vì vậy trong hợp đồng xuất khẩu mức giá bao giờ cũng được ghi bên cạnh một điều kiện giao hàng nhất định giá cả sẽ khác nhau với những điều kiện giao hàng khác nhau.
Điều khoản về phương thức thanh toán:
Thanh toán là điều khoản quan trọng trong hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá, nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi như mục đích của các bên trong hợp đồng. Điều khoản này quy định những vấn đề về đồng tiền thanh toán, thời hạn trả tiền, phương thức trả tiền, điều kiện đảm bảo hối đoái, các chứng từ làm căn cứ thanh toán.
+ Đồng tiền thanh toán: việc thanh toán tiền hàng được tiến hành theo sự thoả thuận của các bên. Đồng tiền thanh toán có thể trùng hoặc không trùng với đồng tiền tính giá. Nếu không thì phải quy định tỷ giá quy đổi.
+ Thời hạn thanh toán: các bên có thể thoả thuận trả tiền trước trả tiền ngay, hoặc trả tiền sau khi thực hiện hợp đồng trên thực tế người ta thường hoà hợp cả 3 kiểu trong một hợp đồng. VD: Trong hợp đồng quy định: 15% trả ngay khi ký hợp đồng, 65% trả khi nhận hàng, 20% trả trong thời hạn bảo hành.
+ Phương thức thanh toán: Trong giao dịch trong thương mại quốc tế người ta sử dụng nhiều phương thức thanh toán khác nhau để trả tiền hàng hoá và dịch vụ, trong đó các phương thức chủ yếu là:
- Nhờ thu.
- Tín dụng chứng từ (thư tín dụng : L/C)
- Chuyển tiền.
- Chuyển tài khoản.
- Ghi sổ.
Song phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến hơn cả là nhờ thu và tín dụng chứng từ.
+ Các chứng từ thanh toán: theo phương thức vận chuyển và phương thức thanh toán yêu cầu với bộ chứng từ là khác nhau. Nhưng thông thường bộ chứng từ bao gồm:
- Hoá đơn thương mại.
- Vận đơn thương mại.
- Vận đơn (đường biển hoặc đường không).
- Giấy chứng nhận chất lượng, số lượng.
- Phiếu đóng gói.
Ngoài ra, đối với từng loại hàng theo yêu cầu của bên mua bộ chứng từ có thể còn có:
- Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá
- Giấy chứng nhận kiểm định.
Điều khoản về địa điểm và thời gian giao nhận hàng.
Nội dung của điều khoản này là xác định địa điểm giao hàng. Phương thức giao hàng và thời hạn giao hàng.
+ Địa điểm giao hàng:
Việc lựa chọn địa điểm giao hàng có liên quan chặt chẽ đến phương thức chuyên chở hàng hoá và điều kiện cơ sở giao hàng. Mặc dù điều kiện cơ sở giao hàng đã xác định rõ địa điểm giao hàng (VD: Điều kiện FOB Hải phòng...) Tuy nhiên có những điều kiện cơ sở giao hàng chỉ xác định cảng đến mà không xác định cảng đi (VD: điều kiện CIF và CFR).
+ Phương thức giao hàng:
Trong điều khoản này các bên phải thoả thuận và quy định trong hợp đồng việc giao nhận được tiến hành ở một nơi nào đó là nơi giao nhận sơ bộ, hoặc nơi giao nhận cuối cùng. Giao nhận sơ bộ là việc bước đầu xem xét hàng hoá xác định sự phù hợp về số lượng và chất lượng hàng hoá so với hợp đồng. Thường được tiến hành ngay tại địa điểm sản xuất hoặc tại nơi gửi hàng.
Giao nhận cuối cùng là xác nhận việc người bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.
+ Thời hạn giao hàng:
Là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Nếu các bên giao dịch không có thoả thuận gì khác thì thời hạn này cũng là lúc di chuyển rủi ro và tổn thất về hàng hoá từ người bán chuyển sang người mua.
Trong buôn bán quốc tế, có 3 hình thức quy định thời hạn giao hàng:
+ Thời hạn giao hàng có định kỳ: theo hình thức này người ta xác định thời hạn giao hàng.
- Hoặc vào một ngày cố định: VD: 5.12.1998
- Hoặc vào một ngày được coi là ngày cuối cùng của thời hạn giao hàng , VD: không chậm quá ngày 5.12.1998.
- Hoặc trong khoảng thời gian: VD: quý IV năm 1998, tháng 12 năm 1998.
- Hoặc bằng một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo sự lựa chọn của các bên. VD: tháng 3 ký hợp đồng , thời gian giao hàng từ tháng 6 cho đến tháng 12 tuỳ theo sự lựa chọn của người mua.
+ Thời hạn giao hàng không định kỳ: Đây là cách quy định chung chung ít được dùng, theo cách này, có thể thoả thuận như sau:
- Giao hàng cho chuyến tàu đầu tiên
- Giao hàng khi nào có khoang tàu
- Giao hàng khi xin được giấy phép xuất khẩu.
+ Thời hạn giao hàng ngay:
- Giao nhanh
- Giao ngay lập tức
+ Thông báo giao hàng:
Được quy định tuỳ theo điều kiện giao hàng cơ sở. Thông thường trước khi giao hàng người bán thông báo: hàng đã sẵn sàng để giao hoặc ngày đem hàng ra cảng để giao. Người mua thông báo cho người bán những điều cần thiết để gửi hàng hoặc về chi tiết của tàu đến nhận hàng. Sau khi giao hàng người bán phải thông báo tình hình hàng đã giao và kết quả giao hàng.
Đối với một số hàng hoá đặc biệt thì trong nội dung hợp đồng, còn đề cập đến một số điều khoản khác.
Điều khoản về bao bì, ký mã hiệu:
Trong điều khoản này các bên thoả thuận với nhau về chất lượng bao bì, phương pháp cung cấp bao bì và giá cả bao bì khi quy định về chất lượng bao bì các bên có thể quy định chung chung hoặc cụ thể. Quy định chung chung thường là bao bì phù hợp với phương thức vận tải (VD: đường sắt, đường biển, đường không) Phương pháp này có nhiều khả năng dẫn đến tranh chấp do các bên hiểu không giống nhau. Để tránh tình trạng đó người ta có thể thoả thuận những yêu cầu cụ thể trong điều khoản này như sau:
- Yêu cầu về hình thức, vật liệu làm bao bì
- Yêu cầu về kích thước, số lớp và cách thức cấu tạo bao bì.
- Yêu cầu về đai nẹp bao bì.
+ Phương pháp cung cấp bao bì: Phương pháp phổ biến nhất hiện nay là bên bán cung c ấp bao bì cùng với việc giao hàng cho bên mua ngoài ra còn các hình thức khác như bên bán ứng trước bao bì để đóng gói hàng hoá sau khi nhận hàng bên mua phải lại bao bì (áp dụng với loại bao bì có giá trị cao) hoặc bên mua cung cấp bao bì (áp dụng với loại bao bì khan hiếm).
Giá của bao bì thông thường được tính vào giá hàng. Bên bán có trách nhiệm chuẩn bị bao bì cho phù hợp với yêu cầu của bên mua.
Điều khoản về bảo hành
Trong điều khoản này cần thoả thuận rõ ràng về thời hạn bảo hành và nội dung được bảo hành. Người bán phải cam kết trong thời hạn bảo hành hàng hoá sẽ được đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng, đặc điểm kỹ thuật, phù hợp với điều kiện người mau phải tuân thủ nghiêm chỉnh sự hướng dẫn của người bán về sử dụng và chế độ bảo dưỡng. Nếu trong thời gian này người mua phát hiện thấy khiếm khuyết của hàng hoá thì ngưòi bán phải sửa chữa miễn phí hoặc giao hàng thay thế.
Điều khoản về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng.
Trong điều khoản này, các bên thoả thuận rõ với nhau những biện pháp được áp dụng để giải quyết khi hợp đồng không được thực hiện hay thực hiện không đúng hợp đồng đã ký kết do lỗi của một trong hai bên . Tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các biện pháp này được thể hiện qua 4 chế tài: buộc thực hiện hợp đồng, phạt vi phạm hợp đồng, yêu cầu bồi thường thiệt hại hay huỷ hợp đồng.
Điều khoản về khiếu nại và giải quyết tranh chấp.
Trong điều khoản này các bên quy định về trình tự tiến hành khiếu nại, thời hạn nộp đơn giải quyết khiếu nại... khi các khiếu nại xảy ra mà các bên không tự giải quyết được, tranh chấp phát sinh. Các bên cũng phải thoả thuận được tranh chấp ra giải quyết theo thủ tục trọng tài hay toà án. Trọng tài nào, toà án nào có thẩm quyền giải quyết. Quy định địa điểm tiến hành trọng tài, phân định chi phí trọng tài, (nếu các bên lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài).
Các điều khoản khác:
+ Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng.
+ Điều khoản quy định các trường hợp miễn trách
4. Luật điều chỉnh hợp đồng xuất khẩu:
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế để có hiệu lực trước hết phải tuân thủ pháp luật quốc gia mà các chủ thể mang quốc tịch. Theo điều 3 Luật thương mại Việt Nam "Các hoạt động thương mại phải tuân thủ theo các quy định của luật thương mại và các quy định khác có liên quan" Cũng theo luật thương mại các bên trong hợp đồng có thể áp dụng điều ước quốc tế, pháp luật nước ngoài và tập quán quốc tế trong hoạt động thương mại với nước ngoài trong các trường hợp.
- Điều ước quốc tế mà cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của luật thương mại Việt Nam thì các bên trong hợp đồng áp dụng quy định của điều ước đó.
- Các bên trong hợp đồng được thoả thuận áp dụng luật nước ngoài nếu pháp luật nước ngoài không trái với pháp luật Việt Nam hoặc trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định áp dụng pháp luật nước ngoài.
- Các bên trong hợp đồng được thoả thuận áp dụng tập quán thương mại quốc tế nếu tập quán thương mại quốc tế đó không trái với pháp luật Việt Nam.
Như vậy, nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất khẩu có thể là luật quốc gia, điều ước quốc tế, tập quán quốc tế về thương mại thậm chí cả các án lệ. Trong trường hợp các bên được thoả thuận luật áp dụng cho hợp đồng thì điều quan trọng là nên chọn nguồn luật nào thích hợp nhất để bảo vệ được quyền lợi của mình. Trong trường hợp các bên không đồng ý về luật áp dụng thì lúc đó hợp đồng phải được viết một cách hết sức đầy đủ và chi tiết.
4.1. Luật quốc gia:
Luật pháp của mỗi quốc gia nói chung thiết lập hai loại quyền lợi và nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước và quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân đối với nhau. Luật pháp điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước và công dân thì gọi là luật công còn luật tư điều chỉnh mối quan hệ giữa các công dân và công ty với nhau, một ngành luật tư nhằm vào sự thoả thuận mà các công dân hoặc công ty lập nên với nhau đó là luật hợp đồng. Vậy mối quan hệ giữa hợp đồng và luật pháp là gì?. Hợp đồng tạo ra luật pháp áp dụng giữa 2 bên. Hợp đồng có thể bỏ qua quyền lợi và nghĩa vụ có ghi trong luật tư và tạo nên quyền lợi và nghĩa vụ mới. Còn các điều khoản của luật công không bao giờ có thể bỏ đi được.
Như vậy, luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng ngoại thương nói chung và hợp đồng xuất khẩu nói riêng mà ta đề cập ở đâylà luật tư. Vì chỉ có luật tư thì các bên mới có thể thoả thuận, lựa chọn còn luật công thì các bên nhất nhất phải tuân theo.
- Luật quốc gia của một nước sẽ được áp dụng cho hợp đồng mua bán ngoại thương khi:
+ Các bên trong hợp đồng thoả thuận áp dụng cho hợp đồng là luật quốc gia. VD: Các bên thoả thuận, mọi vấn đề không được quy định, hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng sẽ được giải quyết theo luật Việt Nam .
+ Luật quốc gia cũng có thể trở thành luật áp dụng cho hợp đồng trong trừơng hợp luật đó được quy định trong các điều ước hữu quan. Nghĩa là trong các điều ước quốc tế mà mình đã tham gia ký kết hoặc thừa nhận có quy định về điều khoản luật áp dụng cho các hợp đồng loại này thì các điều khoản đó đương nhiên được áp dụng.
Về nguyên tắc, các bên hoàn toàn tự do quyết định chọn luật quốc gia của nước người bán, nước người mua hoặc luật quốc gia của nước thứ ba nơi hợp đồng ký kết hay thực hiện. Trên thực tế việc chọn luật nước nào trước hết phụ thuộc voà sự đàm phán vào "thế" của người đàm phán và đặc biệt là sự hiểu biết của mỗi bên về luật pháp nước mình và bạn hàng.
Khi luật quốc gia là người luật điều chỉnh thì không phải toàn bộ hệ thống luật quốc gia đều được áp dụng mà chỉ áp dụng những ngành luật có liên quan tới hoạt động xuất nhập khẩu. ở Việt Nam, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu bao gồm: luật thương mại Việt Nam 1997, Bộ luật hàng hải, Bộ luật dân sự, Luật thuế xuất nhập khẩu, pháp lệnh hợp đồng kinh tế (1989), nghị định, quyết định của Chính phủ và Thủ tướng chính phủ, thông tư của Bộ thương mại về Tổng cục Hải quan hướng dẫn các quy định pháp luật về hoạt động xuất nhập khẩu.
4.2. Điều ước quốc tế:
Khi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán ngoại thương liên quan đến vấn đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong hợp đồng, các bên ký kết có thể dựa vào các điều ước quốc tế về ngoại thương để giải quyết.
Hiện nay có 2 loại điều ước quốc tế điều chỉnh hợp đồng thương mại quốc tế nói chung, thứ nhất là các điều ước quốc tế quy định những nguyên tắc pháp lý chung, mang tính chỉ đạo đối với các hành vi thương mại. Loại điều ước này điều chỉnh gián tiếp các hợp đồng. VD như Hiệp định GATT/ WTO quy định về quy chế tối huệ quốc và quy chế đãi ngộ quốc gia. Thứ hai là các điều ước quy định một cách trực tiếp các quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể tham gia quan hệ thương mại quốc tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng. Một điều ước quốc tế đến hình thức loại này là Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Theo quy định hiện hành của pháp luật, ở Việt Nam có hai phương thức áp dụng điều ước quốc tế về thương mại.
- Đối với những điều ước quốc tế mà nước ta ký kết hoặc thừa nhận hay phê chuẩn thì chúng có giá trị bắt buộc đối với các hợp đồng xuất nhập khẩu có liên quan. Những điều ước quốc tế này là nguồn lực đương nhiên, các bên ký kết có thể dựa vào đó mà không cần có sự thoả thuận riêng khác. Điều đó cónghĩa là dù các bên của hợp đồng co dãn chiếm tới tro._.ng hợp đồng hay không thì các điều ước quốc tế này vẫn đương nhiên được áp dụng.
- Đối với những điều ước quốc tế mà nhà nước ta chưa tham gia hay công nhận thì chỉ áp dụng những điều khoản không trái với pháp luật Việt Nam và có quyền bảo lưu không áp dụng những quy định trái với pháp luật quốc gia. Những điều ước quốc tế loại này không phải là nguồn luật đương nhiên của hợp đồng xuất nhập khẩu giữa thương nhân Việt Nam ký kết với thương nhận nước ngoài. Chúng chỉ có thể trở thành nguồn luật điều chỉnh khi cá bên thoả thuận dẫn chiếu tới trong hợp đồng. Khi áp dụng các điều ước quốc tế cần chú ý đến tính chất pháp lý của các loại quy phạm pháp luật có tính chất mệnh lệnh mà các bên phải tuyệt đối tuân thủ. Nếu làm sai thì hợp đồng sẽ không có hiệu lực. Nếu là quy phạm có tính chất tuỳ ý, các bên có thể tuân theo hoặc không tuân theo mà hợp đồng vẫn có giá trị . Những quy phạm pháp luật của điều ước quốc tế, là những quy phạm đã được các quốc gia thống nhất. Do vậy dựa vào điều ước quốc tế các chủ thể của hợp đồng dù ở các nước khác nhau vẫn hiểu theo một sự thống nhất.
Song hiện nay ở nước ta vì nhiều lý do chúng ta chưa ký kết được nhiều điều ước quốc tế về mua bán trong thương mại quốc tế nên điều ước quốc tế với ý nghĩa là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán ngoại thương ở nước ta chưa phát huy được vai trò thực sự của nó.
4.3. Các tập quán thương mại quốc tế
Tập quán quốc tế về thương mại cũng là một nguồn luật điều chỉnh hợp đồng xuất nhập khẩu. Tập quán thương mại là các thói quen thương mại phổ biến được công nhận rộng rãi. Những thói quen thương mại sẽ được công nhận và... tập quán thương mại khi đó là một thói quen phổ biến được nhiều vế áp dụng và thường xuyên, thói quen đó có nội dung rõ ràng mà người ta có thể dựa voà đó để xác định trách nhiệm giữa các bên với nhau.
Tập quán thương mại quốc tế sẽ được áp dụng để điều chỉnh cho hợp đồng xuất nhập khẩu trong các trường hợp sau:
- Khi trong hợp đồng các bên thoả thuận áp dụng tập quán đó
- Khi các điều ước quốc tế có liên quan quy định.
Trong số các tập quán thương mại quốc tế có vai trò quan trọng trong buôn bán trao đổi quốc tế phải kể tới Incoterns 1990. Của phòng thương mại quốc tế soạn thảo. Có thể nói đây là công cụ trợ giúp đắc lực nhất cho giao dịch quốc tế khi luật pháp của các quốc gia còn quy định khác nhau về nhiều vấn đề trong thương mại.
Khi áp dụng Incoterms phải nắm vững các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Incoterms không có giá trị bắt buộc đối với các bên ký kết và thực hiện hợp đồng XNK. Nó chỉ có hiệu lực bổ sung cho sự thiếu chính xác , thiếu đầy đủ của hợp đồng. Do đó nó chỉ áp dụng khi không có quy định cụ thể của hợp đồng về vấn đề nào đó. Điều này được khẳng định tại điều 5 của Incoterms : "Mọi quy định trong quy tắc phải nhường bước cho các quy định riêng được các bên đưa vào hợp đồng.
Thứ hai: Phải ghi rõ là áp dụng theo Incoterms nào hiện nay bản mới nhất là Incoterms 1990.
Thứ ba: Incoterms không giải quyết mọi vấn đề mà chỉ giải quyết 4 vấn đề trong một giao dịch mua bán quốc tế.
+ Thời điểm chuyển rủi ro
+ Người lo liệu chứng từ hải quan
+ Người trả chi phí bảo hiểm
+ Người chịu chi phí vận tải.
II. Cơ sở pháp lý của chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu tại công ty
1. Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
1.1. Nguyên tắc ký kết:
Là một loại hợp đồng kinh tế, hợp đồng xuất khẩu cũng phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản theo quy định của pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
- Nguyên tắc tự nguyện: Thực chất của nguyên tăc này là quyền tự do ý chí của các chủ thể kinh doanh được pháp luật cho phép, không có sự áp đặt ý chí của các bên với nhau.
- Nguyên tắc bình đẳng có lợi: theo nguyên tắc này, sau khi ký hợp đồng, các chủ thể của hợp đồng có vai trò như nhau trong việc sử dụng quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định để thoả thuận những vấn đề mà các bên quan tâm nhằm mục đích cuối cùng là thiết lập quan hệ hợp đồng. Biểu hiện rõ nhất ở nguyên tắc này là các bên đều có quyền bàn bạc thể hiện ý chí của mình, có quyền chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị của bên kia trong quá trình ký kết hợp đồng.
- Nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm bằng tài sản: nếu hợp đồng bị vi phạm,bên vi phạm hợp đồng phải có trách nhiệm trả tiền phạt và bồi thường thiệt hại (nếu có thiệt hai xảy ra) cho bên bị vi phạm bằng chính tài sản của mình mà không phụ thuộc vào cơ quan, tổ chức, cá nhân. Có lỗi gây ra sự vi phạm đó. trừ các trường hợp miễn giảm trách nhiệm vật chất (Điều 29 pháp lệnh HĐKT 1989).
- Nguyên tắc không trái pháp luật, nguyên tắc này đòi hỏi chủ thể, hình thức, thủ tục ký kết và nội dung hợp đồng phải phù hợp, tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật.
1.2. Thủ tục, trình tự ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Khi ký kết một hợp đồng kinh tế nói chung cũng như hợp đồng xuất khẩu, nói riêng các bên có thể tiến hành một trong 2 cách: ký kết trực tiếp và ký kết gián tiếp.
- Ký kết hợp đồng trực tiếp: là cách ký đơn giản, hợp đồng được hình thành một cách nhanh chóng, khi ký kết bằng cách này, đại diện hợp pháp của các bên trực tiếp gặp nhau để bàn bạc, thoả thuận thống nhất ý chí, xác định các điều khoản của hợp đồng và cũng ký vào một văn bản. Hợp đồng được coi là hình thức và có giá trị pháp lý từ thời điểm hai bên ký vào văn bản.
- Ký kết hợp đồng gián tiếp: là phương thức ký kết mà trong đó các bên tiến hành gửi cho nhau các tài liệu giao dịch (công văn, điện báo, đơn chào hàng, đơn đặt hàng) chứa đựng nội dung của công việc giao dịch . Việc ký kết hợp đồng theo nguyên tắc này. đòi hỏi phải tuân theo trình tự nhất định, thông thường gồm 2 bước. Bước một, một bên lập đề nghị hợp đồng, trong đó đưa ra những bước yêu cầu về nội dung giao dịch: Tên hàng, số lượng, chất lượng, giá cả, thời điểm giao nhận hàng, phương thức thanh toán... và gửi cho bên kia. Bước hai, bên nhận được đề nghị hợp đồng có nghĩa vụ phải trả lời bằng văn bản và gửi cho bên đề nghị hợp đồng, trong đó ghi rõ nội dung chấp nhận, nội dung không chấp nhận và những đề nghị bổ sung. Bên kia cũng phải trả lời là có đồng ý phần bổ sung hay không. Tất cả quá trình này dẫn ra đều phải bằng văn bản. Hợp đồng ký kết theo phương pháp này được coi là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận được tài liệu giao dịch thể hiện sự thoả thuận về tất cả các điều khoản chủ yếu của hợp đồng ký kết đó. (căn cứ để xác nhận là con dấu của bên được, ngày ký sổ, hoặc ngày nhận công văn trực tiếp của bên kia)
1.3. Đăng ký hợp đồng xuất khẩu:
Mặc dù các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có quyền chủ động và chịu trách nhiệm chính trong việc giao dịch ký kết và thực hiện hợp đồng nhưng Bộ thương mại vẫn có quyền kiểm tra, giám sát và có trách nhiệm hướng dẫn việc giao dịch ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán ngoại thương.
Theo điều 9 - quy định 299/TM- DL của Bộ Thương mại có quy định rằng: chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày ký hợp đồng mua bán ngoại thương các doanh nghiệp hải gửi một bản chính (nếu bản sao phải có công chứng) về Bộ thương mại. Sau 7 ngày kể từ ngày nhận hợp đồng, nếu phòng cấp giấy phép của Bộ Thươngmại không có ý kiến gì khác thì doanh nghiệp có quyền yêu cầu được nhận giấy phép xuất nhập khẩu.
Tuy nhiên hiện nay để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tăng cường khuyến khích xuất khẩu, chính phủ ban hành nghị định 89/CP ngày 15-12-1995 quy định về việc bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá từng chuyến. Đối với những loại hàng quy định tại điều 2 nghị định 89/CP thì sau khi có văn bản cho phép của Bộ thương mại, doanh nghiệp đổi cơ quan Hải quan làm thủ tục hải quan để xin xuất hoặc nhập khẩu mà không cần giấy phép chuyển.
2. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
2.1. Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng:
- Sau khi hợp đồng được hình thành và có giá trị pháp lý, các bên có trách nhiệm chấp hành các nghĩa vụ của mình theo hợp đồng. Khi chấp hành các nghĩa vụ đó, phải tuân theo các nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc chấp hành hợp đồng là những tư tưởng chỉ đạo có tính chất bắt buộc các bên phải tuân theo trong quá trình thực hiện hợp đồng đã ký kết.
Trong chấp hành hợp đồng, các bên phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc chấp hành hiện thực: đó là thực hiện đúng đối tượng hợp đồng, không được tự ý thay đổi, đối tượng này bằng đối tượng khác hoặc không thực hiện nó.
- Nguyên tắc chấp hành đúng: phải thực hiện hợp đồng một cách hiện thực, và đầy đủ chính xác tất cả các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng. Nếu vi phạm bất kỳ điều khoản nào trong hợp đồng thì đều phải chịu trách nhiệm vật chất cho hành vi đó.
- Nguyên tắc chấp hành trên tinh thần hợp tác cùng có lợi:
Nguyên tắc đòi hỏi các bên phải hợp tác chặt chẽ, thường xuyên theo dõi giúp đỡ lẫn nhau để khắc phục các khó khăn nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ đã cam kết. Ngay cả khi có tranh chấp xẩy ra, các bên cũng phải tuân thủ nguyên tắc này để cùng nhau thương lưọng, giải quyết hậu quả vi phạm hợp đồng.
2.2. Trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
- Xin giấy phép xuất khẩu:
Đối với các mặt hàng nhà nước quản lý bằng hạn ngạch, xuất khẩu có điều kiện hoặc bằng gia công thì phải xin giấy phép xuất khẩu. Với những hàng hoá thông thường thì không phải tiến hành bước này. Việc xin giấy phép phải lập tờ khai theo mẫu do Bộ thương mại phát hành.
- Chuẩn bị hàng xuất khẩu:
Bên xuất khẩu phải tổ chức sản xuất hay thu gom hàng theo đúng quy cách, chất lượng và số lượng được quy định trong hợp đồng để chuẩn bị xuất khẩu.
- Kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu:
Việc kiểm định có thể do khách hàng, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền hay tổ chức quốc tế vào đó thực hiện nhằm bảo đảm uy tín và quyền lợi cho cả bên xuất khẩu và bên nhập khẩu. Đối với những mặt hàng bắt buộc phải hiểu định theo quy định của pháp luật thì phải tiến hành kiểm định và có xác nhận của cơ quan kiểm định (ở Việt Nam hiện nay thường là VINACOTROL)
- Thuê tàu và mua bảo hiểm:
Tuỳ theo điều kiện giao hàng cơ sở hay quy định trong hợp đồng mà trách nhiệm thuê tầu và mua bảo hiểm thuộc về bên bán hoặc bên mua.
- Làm thủ tục hải quan:
Đây là yêu cầu bắt buộc đối với bất ký hàng hoá xuất khẩu nào. Trình tự làm thủ tục hải quan được quy định tại quyết định của tổng cục trưởng tổng cục Hải quan ngày 10-3-1998 hướng dẫn thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu về việc .
- Giao hàng.
Đây là một nghĩa vụ cơ bản của bên bán đối với bên mua giữa bên xuất khẩu với bên nhập khẩu. Tuỳ theo điều kiện giao hàng mà bên xuất khẩu giao hàng trực tiếp cho người mua hay giao cho người vận tải. Nếu hàng được vận chuyển bằng đường biển thì khi giao hàng, bên bán sẽ được người vận tải cấp bộ vận đơn đưòng biển. Đây là một trong những chứng từ để người bán trình cho ngân hàng để nhận thanh toán.
- Làm thủ tục thanh toán:
Lựa chọn phương thức thanh toán là khâu quan trọng trong buôn bán ngoại thương. Trên thực tế có rất nhiều phương thức thanh toán nhưng chủ yếu hiện nay người ta thường sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có xác nhận không đúng ngay sử dụng L/C) việc thanh toán bằng L/C được thực hiện áp dụng UCP 500: người xuất khẩu phải đôn đốc người nhập khẩu mở L/C đúng hạn và phù hợp với nội dung như quy định trong hợp đồng. Sau khi tiến hành xuất khẩu hàng hoá, người xuất khẩu trình bộ chứng từ về giao hàng tới ngân hàng để được nhận thanh toán.
3. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng xuất khẩu:
3.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Điều 230 luật thương mại Việt Nam có quy định các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi có đủ các yếu tố sau:
- Có hành vi vi phạm hợp đồng, hành vi này có thể là việc không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng đã ký kết. Tuy nhiên bên bị vi phạm phải chứng minh được điều này.
- Bên vi phạm hợp đồng phải có lỗi (lỗi suy đoán)
- Bên bị vi phạm có thiệt hại về tài sản (thiệt hại vật chất) thiệt hại để phải được tính toán cụ thể. Muốn được bồi thường thì bên bị vi phạm phải chứng minh được thiệt hại thực tế đã xẩy ra.
- Có mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại xảy ra tức là hành vi vi phạm là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới thiệt hại.
3.2. Căn cứ miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại:
Điều 77 luật thương mại có quy định các trường hợp miễn trách nhiệm về việc không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
- Trong hợp đồng có thoả thuận và các trường hợp miễn trách đó.
- Trong trường hợp bất khả kháng: là trường hợp xảy ra sau khi ký kết hợp đồng do những sự kiện có tính chất bất thường xảy ra mà các bên không thể lường trước được và không thể khắc phục được.
- Tuy nhiên bên không thực hiện, hay thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng, có trách nhiệm chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.
3.3. Các hình thức trách nhiệm do vi phạm hợp đồng:
Nếu vi phạm hợp đồng , ngoài các trường hợp được miễn trách nhiệm bên vi phạm phải chịu trách nhiệm đối với bên bị vi phạm .Trách nhiệm này được thể hiện qua 4 hình thức sau:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc đúng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu phí tổn phát sinh.
Trong trường hợp, người bán không giao hàng hoặc giao hàng thiếu người mua có quyền mua hàng của người khác và bắt buộc bên bán phải bù khoản chênh lệch nếu có.
Nếu hàng được giao kém phẩm chất thì người mua có quyền yêu cầu người bán sửa chữa khuyết tật hoặc giao hàng thay thế theo dúng yêu cầu trong hợp đồng. Nếu bên mua tự sửa chữa khuyết tật đó thì người bán phải chịu các chi phí thực tế hợp lý (điều 223 luật thương mại Việt Nam).
- Phạt vi phạm hợp đồng.
Là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bán vi phạm trả một khoản tiền phát nhất định do vi phạm hợp đồng. Nếu trong hợp đồng có thảo thuận hoặc pháp luật có quy định.
Như vậy, khi nhận thấy bên kia không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng thì ta có quyền đòi tiền phạt. Tuy nhiên, các bên phải thoả thuận dự kiến trước mức phạt trong hợp đồng. Theo điều 228 luật thương mại quy định mức phạt vi phạm do các bên tự thoả thuận nhưng không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm của hợp đồng.
- Bồi thường thiệt hại
Là việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra.
Số tiền bồi thường thiệt hại gồm giá trị tổn thất thực tế trực tiếp vẫn khoản lợi đáng lẽ được hưỏng bị bỏ lỗ mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp đồng gây ra. Để áp dụng hình thức này, bên bị vi phạm phải chứng minh được thiệt hại thực tế mà họ phải gánh chịu. Tuy nhiên điều 229 luật thương mại còn có quy định. Số tiền bồi thường thiệt hại không thể cao hơn giá trị tổn thất và khoản lợi đáng lẽ được hưởng.
- Huỷ hợp đồng:
Bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền tuyên bố huỷ hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là điều kiện để huỷ hợp đồng mà các bên đã thoả thuận. Bên có quyền lợi bị vi phạm khi huỷ hợp đồng phải có nghĩa vụ thông báo ngay cho bên kia biết về việc huỷ hợp đồng. Việc huỷ hợp đồng sẽ đem lại những hậu quả pháp lý nhất định. Khi đó các bên được giải phóng khỏi nghĩa vụ hợp đồng. nếu các bên đã thực hiện một phần hay toàn bộ hợp đồng thì họ có quyền đòi lại lợi ích cho việc đã thực hiện đó mọi chi phí phát sinh về việc huỷ hợp đồng do bên vi phạm hợp đồng phải gánh chịu.
4. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng xuất khẩu:
Tranh chấp trong thương mại quốc tế là các tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại quốc tế.
Các hình thức cơ bản để giải quyết các tranh chấp phát sịnh trong hợp đồng xuất khẩu:
- Thương lượng trực tiếp giữa các bên:
Trong phần lớn các trường hợp, khi bắt đầu nảy sinh tranh chấp các bên tự nguyện và nhanh chóng liên hệ gặp gỡ nhau để thương lượng , tìm cách tháo gỡ những bất động,cố gắng giữ gìn mối quan hệ kinh doanh lâu dài từ trước đến nay. Pháp luật các nước và Việt Nam đều quy định thương lượng là một bước bắt buộc khi giải quyết tranh chấp thưong mại.khoản 1 điều 239 luật thương mại quy định tranh chấp thương mại trước hết phải được giải quyết thông qua thương lượng. Khi thương lượng trực tiếp không thành thì các bên mới có thể tiến hành các bước và hình thức khác để giải quyết tranh chấp.
- Hoà giải:
Việc hoà giải phải được dựa trên sự tự nguyện của tất cả các bên, hoà giải đòi hỏi phải bảo toàn bí mật, những tài liệu chúng cứ, cũng như ý kiến của các bên và hoà giải viên trong giải quyết tranh chấp. Do tính chất tự nguyện của hoà giải nên khi một bên đơn phương chấm dứt hoà giải thì quá trình hoà giải sẽ đưong nhiên chấm dứt và sẽ được chuyển sang giải quyết bằng phương pháp khác. Thoả thuận hoà giải không có tính chất bắt buộc thi hành như phán quyết trọng tài hay toà án.
- Thủ tục trọng tài, thủ tục toà án:
Đây là phương thức do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó quyết định cuối cùng của trọng tài viên hay toà án có tính bắt buộc đối với các bên trong giải quyết tranh chấp. Để giải quyết theo thủ tục trọng tài trong thủ tục toà án. Các bên phải thoả thuận khi tranh chấp xảy ra thì đưa vụ tranh chấp ra trung tâm trọng tài nào toà án nào và quy định thủ tục tố tụng kia nó. Thoả thuận này có thể được lập ra ngay trong hợp đồng và cả khi hợp đồng đã ký kết xong. Phán quyết của trọng tài có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp được cưỡng chế thi hành theo thủ tục trình bộ tư pháp ở cả trong và ngoài nước.
Chương II
Thực tiễn chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu giày ở công ty cao su Hà nội
I. Khái quát tình hình tổ chức và hoạt động kinh doanh tại công ty
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty cao su Hà nội là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc sở công nghiệp Hà nội được thành lập theo quyết định số 1318- QĐ/UB ngày 30.3.1993 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội và nghị định 388-HĐBT ngày 2.11.1991 về việc thành lập và giải thể DNNN. Hoạt động kinh doanh của công ty theo chế độ hạch toán kinh tế độc lập, công ty có tư cách pháp nhân, có tài khoản tại ngân hàng và được sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước.
Tiền thân của công ty cao su Hà nội là xí nghiệp cao su Thống nhất. Xí nghiệp này là một xí nghiệp công nghiệp quốc doanh trực thuộc Sở Công nghiệp Hà nội được thành lập theo quyết định số 1909/QĐ-TC ngày 17.6.85 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà nội trên cơ sở hợp nhất 2 xí nghiệp cao su Hà nội và cao sư Thống nhất (cũ) mà tiền thân của 2 xí nghiệp cơ sở này là xưởng quốc doanh cao su tái sinh (thành lạap tháng 6 năm 1959) và xí nghiệp công tư hợp doanh thống nhất (thành lập 11/1959.) trụ sở làm việc chính của xí nghiệp Cao su thống nhất được đặt tại 20 phố Cát linh - Quận Đống đa - Hà Nội.
Khi đó, sản phẩm truyền thống của xí nghiệp là các mặt hàng dép xốp đi biển, ủng bảo hộ lao động, dây cua roa cùng các sản phẩm cao su công nghiệp khác.
Ngay từ những năm đầu được thành lập (1960) thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao, xí nghiệp đã sản xuất 159.800 đôi dép kiểu Thái lan, 59.500 ủng các loại, đạt giá trị tổng sản lượng 1.356.559đ. Đến năm 1990, xí nghiệp đã phấn đấu cao, khắc phục mọi khó khăn, phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, xí nghiệp đạt giá trị tổng sản lượng là 3.780.983đ với doanh thu 4.209.387.000đ.
Trong quá trình xây dựng và phát triển, sản phẩm ủng và dép xốp của xí nghiệp luôn giữ vững đựoc uy tín đối với khách hàng, trong nhiều năm đã được xuất khẩu sang các nước Liên Xô, Đức, Tiệp khắc, Ba lan, Cu ba... đã được thưởng huy chương vàng tại các hội nghị trong và ngoài nước. Riêng loại ủng chịu xăng dầu đã được công nhận đề tài cấp nhà nước năm 1986. Năm 1982 là năm cũng đạt sản lượng cao nhất với 350.000 đôi.
Đến năm 1990, xí nghiệp đã phấn đấu cao,khắc phục mọi khó khăn phát huy quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, đạt giá trị tổng sản lượng là 3.780.983.000đ với doanh thu 4.209.387.000đ, tổng trích nộp ngân sách là 107.200.000đ với sản lượng 83.791 đôi ủng và 1.062.650 đôi dép các loại. Với tổng giá trị TSCĐ là 4.075.430.000đ, diện tích sản xuất là 10.600 m2 trên 15.200m2 mặt bằng do xí nghiệp quản lý. Năm 1992, xí nghiệp đã chủ động chuyển hướng sản xuất và ngành nghề cho phù hợp với cơ chế thị trường, một mặt giữ vững sản phẩm truyền thống mặt khác đa dạng hoá sản phẩm. Tuy nhiên, do hoàn cảnh không thuận lợi, xí nghiệp đã gặp phải nhiều khó khăn, nhất là về sản xuất nhu cầu thị trường về sản phẩm tiêu dùng trong nước giảm xuống, hợp đồng bán hàng nhỏ, thời gian ngắn làm cho sản xuất của xí nghiệp không ổn định. Đối với sản phẩm xuất khẩu, cũng do tình hình Đông âu biến động, dẫn đến những hợp đồng sản xuất xuất khẩu bị phá vỡ. Xí nghiệp đã mất đi thị trường xuất khẩu chủ yếu của mình, một số mặt bằng phải tạm ngừng sản xuất. Xí nghiệp chuyển hướng sang liên kết xuất khẩu từng loại mặt hàng, từng lô sản phẩm với một số đơn vị bạn. Trước tình hình đó, xí nghiệp đã được thành lập lại và đổi tên thành công ty cao su Hà nội.
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của công ty.
Nhiệm vụ:
Điều 5, trong bản điều lệ về tổ chức quản lý và hoạt động sản xuất - kinh doanh của công ty có quy định rõ công ty có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, các chương trình công tác, ngắn hạn và dài hạn. Không ngừng nâng cao hiệu quả và mở rộng sản xuất kinh doanh, tự bù đắp chi phí, tự trang trải vốn, làm tròn nghĩa vụ ngân sách đối với nhà nước, với thành phố trên cơ sở tận dụng năng lực sản xuất và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Tổ chức chăm lo nâng cao đời sống và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xã hội trong xí nghiệp. Thực hiện phân phối theo lao động xã hội và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ văn hoá và nghề nghiệp của cán bộ công nhân viên.
- Mở rộng liên kết kinh tế với các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế, tăng cường mối quan hệ và hợp tác kinh tế với nước ngoài đẻ phát triển sản xuất kinh doanh góp phần tích cực vào nền sản xuất chung của xã hội, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc dân.
- Chấp hành nghiêm chỉnh mọi chủ trương chính sách kinh tế xã hội Đảng và nhà nước đối với quản lý công ty, quản lý sản xuất kinh doanh, quản lý người lao động tuân thủ pháp luật và thực hiện báo cáo trung thực theo chế độ nhà nước quy định.
- Bảo vệ công ty, bảo vệ bí mật của nhà nước, bảo vệ môi trường , giữ gìn an ninh trật tự xã hội, làm tròn nghĩa vụ quốc phòng.
Quyền hạn:
Điều 6 trong bản điều lệ của công ty quy định những quyền hạn cơ bản của công ty:
- Quyền chủ động xác định phương án sản xuất sản phẩm, lựa chọn thiết bị, công nghệ trên cơ sở năng lực thực tế, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật phù hợp với yêu cầu của cơ chế thị trường và cơ chế quản lý sản xuất kinh doanh của nhà nước .
- Quyền sử dụng và thực hiện các biện pháp bảo toàn và phát triển nguồn vốn, chủ động tạo và không ngừng tăng vốn tự có.
- Mở rộng mọi hình thức liên kết kinh doanh với các cá nhân và tập thể của mọi thành phần kinh tế và với nước ngoài, để thực hiện các chương trình nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật, chế thử, hợp tác sản xuất kinh doanh. Ký kết các hợp đồng mua bán vật tư, nguyên liệu sản phẩm. Mở các gian hàng giới thiệu sản phẩm làm dịch vụ, đại lý, bán lẻ sản phẩm.
- Quyền huy động vay vốn, ngoại tệ tại các ngân hàng ngoại thương, vay vốn nước ngoài, để thực hiện sản xuất và xuất khẩu, trên nguyên tắc, tự chịu trách nhiệm , tự trang trải và làm tròn nghĩa vụ nộp ngân sách.
- Quyền tuyển dụng, ký kết hợp đồng lao động, bố trí và sử dụng lao động lựa chọn các hình thức trả thù lao động, thực hiện phân phối theo lao động.
- Quyền khen thưởng các đơn vị, cá nhân trong công ty có thành tích trong lao động sản xuất, công tác. Có quyền thi hành kỷ luật đối với cán bộ - công nhân viên trong công ty tới mức buộc thôi việc.
- Có quyền nhượng bán, thanh lý, cho thuê những tài sản không dùng đến hoặc chưa dùng hết công suất (theo quy định của nhà nước) có quyền hoàn thiện cơ cấu tài sản cố định theo yêu cầu đổi mới phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
3. Cơ cấu tổ chức của công ty:
Cơ cấu tổ chức quản lý:
Mô hình tổ chức quản lý của công ty bố trí theo cơ cấu thuộc tuyến chức năng. Đặc điểm của mô hình này là sử dụng các cán bộ chuyên trách ở các bộ phận chức năng làm tham mưu cho giám đốc, phân tích đánh giá tình hình và đưa ra phương hướng giải quyết. Nhưng quyền lựa chọn và ta quyết định cuối cùng thuộc về giám đốc, các phòng ban chức năng không có quyền đưa ra quyết định cho cấp dưới.
Mô hình cơ cấu tổ chức của Công ty (trang bên)
Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban lãnh đạo và các phòng ban trong Công ty:
- Giám đốc: là người lãnh đạo và quản lý chung mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong công ty và các quan hệ đối ngoại của công ty. Trực tiếp chỉ đạo và thông qua chương trình công tác hàng tháng, quý của các phó giám đốc quyết định công tác xuất nhập khẩu, công tác đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh cũng như công tác mua bán vật tư , máy móc thiết bị... Trực tiếp quản lý và chỉ đạo công tác các phòng: tổ chức, tài vụ kế hoạch xuất nhập khẩu, kiểm tra chất lượng sản phẩm và phòng bảo vệ.
- Phó giám đốc hành chính: là cán bộ lãnh đạo, phụ trách và chỉ đạo công tác hành chính - y tế, vệ sinh lao động và đời sống của cán bộ trong công ty. Có nhiệm vụ tổ chức hệ thống kho tàng vật tư, thành phẩm của công ty, cấp phát nguyên vật liệu cho các bộ phận, phân xưởng trong sản xuất; kiểm tra thanh toán quyết toán định mức hàng tháng, quý, đôn đốc công tác dịch vụ cửa hàng cho thuê và liên doanh; xây dựng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm nội địa. Trực tiếp quản lý và chỉ đạo công tác phòng hành chính và phòng cung tiêu.
- Phó giám đốc sản xuất : là cán bộ lãnh đạo, phụ trách, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất ở các phân xưởng theo hợp đồng đã ký,đảm bảo đúng tiến độ, thời gian, năng suất, chất lượng và hiệu quả. Chỉ đạo triển khai thực hiện chương trình làm hàng mẫu đã được giám đốc thông qua. Đồng thời ... trưởng phòng kỹ thuật mẫu.
- Phòng tài vụ: là phòng nghiệp vụ, giúp việc giám đốc trong công tác quản lý các nguồn vốn, đảm bảo sản xuất kinh doanh, đề xuất thực hiện các biện pháp bảo toàn và phát triển nguồn vốn. Hướng dẫn và thực hiện các nghiệp vụ hạch toán, thống kê và phân tích hoạt động kinh tế nội bộ của công ty, cũng như thực hiện chế độ quản lý tài chính trong công ty.
- Phòng kế hoạch xuất nhập khẩu: đảm nhận chức năng giám đốc xây dựng các phương án sản xuất, kế hoạch xuất nhập khẩu, kế hoạch giá thành dự thảo và chuẩn bị cho việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu, liên kết sản xuất kinh doanh, theo dõi, giám sát thực hiện kế hoạch sản xuất và hoạt động xuất nhập khẩu mà giám đốc đã ký.
- Phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS): Đảm nhận chức năng giúp việc giám đốc trong khâu kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện các chỉ tiêu kỹ thuật của sản phẩm ở các phân xưởng, trực tiếp giải quyết mối quan hệ của công ty với khách hàng về chất lượng sản phẩm .
- Phòng tổ chức: Đảm nhận chức năng quản lý hành chính tổng hợp, giúp việc giám đốc giải quyết các mối quan hệ về nhân sự về chế độ trách nhiệm và quyền lợi của công nhân viên trong công ty. Xây dựng kế hoạch lao động tiền lương tháng, quý, năm hướng dẫn kiểm tra thực hiện thanh toán và phân phối tiền lương, phụ cấp bảo hiểm xã hội; thực hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật trong công ty; xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi dưõng đội ngũ cán bộ.
- Phòng hành chính: Đảm nhận chức năng quản lý và giải quyết các công tác chuyên môn quản lý thực hiện công tác văn thư các quan hệ hành chính dối nội đối ngoại, các công trình phúc lợi tập thể, đôn đốc kiểm tra công tác phòng cháy chữa cháy, thực hiện bảo vệ an ninh trật tự trong công ty.
- Phòng cung tiêu: Đảm nhiệm chức năng giúp việc giám đốc xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện việc thu mua cấp phát vật tư, nguyên liệu cho sản xuất đồng thời theo dõi tổng hợp và thanh toán vật tư nguyên liệu hàng tháng, quý đối với các bộ phận phân xưởng sản xuất. Thực hiện công tác bán hàng , tiêu thụ sản phẩm trong thị trường trong nước.
- Phòng kỹ thuật mẫu: Đảm nhận chức năng trong việc quản lý chỉ đạo công tác thực hiện về quy trình công nghệ và kỹ thuật sản xuất. Thực hiện việc thiết kế chế tạo ra các sản phẩm mẫu, xây dựng các dự án đầu tư kỹ thuật, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tổ chức và thực hiện việc bảo dưỡng sửa chữa chế tạo đổi mới trong thiết bị. Thực hiện bồi dưỡng, đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ về an toàn sản xuất cho công nhân.
- Các phân xưởng (may, chuẩn bị, gò ráp): Hoạt động dưới sự chỉ đạo của Phó giám đốc sản xuất, là nơi trực tiếp sản xuất sản phẩm, các quản đốc phân xưởng có nhiệm vụ theo dõi công nhân làm đúng giờ, đúng việc đảm bảo chất lượng sản phẩm .
4. Tình hình hoạt động kinh doanh tại công ty:
Là một doanh nghiệp nhà nước với chức năng chuyên sản xuất các sản phẩm phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu bằng nguyên liệu chính từ cao su. Sản phẩm chính của công ty bao gồm:
- Các loại ủng cao su: (ủng bảo hộ lao động, ủng đi mưa, ủng dùng trong môi trường xăng và dầu mỡ...).
- Các loại dép dân dụng (dép xốp đi biển, dép cao su vải đi trong nhà)
- Các loại dây cua roa hình thang. Các loại gioăng phớt phụ tùng cao su kỹ thuật ( gioăng thực phẩm, gioăng chịu xăng dầu, chịu nhiệt).
- Các loại giầy vải.
Sản phẩm truyền thống của công ty là các mặt hàng dép xốp đi biển, ủng bảo hộ lao động và dây cua roa hình thang chủ yếu được xuất khẩu sang các nước Đông âu và Liên xô (cũ). Từ khi tình hình Đông âu biến động , thị trường chính của công ty bị phá vỡ dẫn đến tình trạng một số mặt hàng chính của công ty phải tạm ngừng sản xuất .Công ty phải chuyển hướng thực hiện liên kết xuất khẩu từng loại mặt hàng lô sản phẩm với một số đơn vị bạn.
Năm 1992 công ty xác định phương hướng sản xuất một mặt giữ vững sản phẩm truyền thống như ủng các loại , dép xốp đi biển, mặt khác triển khai sản xuất các loại giầy vải. Từ đó cho đến nay mặt hàng sản xuất chủ yếu của công ty và giầy vải các loại và được xuất khẩu trực tiếp sang thị trường Châu âu.
II. Thực tiễn chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu giầy tại công ty
1. Ký kết hợp đồng xuất khẩu:
Là một DNNN, công ty cao su Hà nội có chức năng trực tiếp sản xuất và xuất khẩu các loại mặt hàng do công ty sản xuất ra, mà chủ yếu là các loại giày vải. D._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0054.doc