Tài liệu Chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện: ... Ebook Chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện
71 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2141 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài:
Hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh luôn gắn liền với nhiều rủi ro tiềm ẩn như: rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro mất khả năng thanh toán… Vì vậy việc đổ vỡ và phá sản của các tổ chức tín dụng hoạt động yếu kém là điều khó tránh khỏi. Đối với nền kinh tế, việc xử lý những hậu quả do quá trình kinh doanh không thành công của các tổ chức tín dụng không đơn giản chỉ là tuyên bố phá sản tổ chức này hay tổ chức kia mà trước hết no làm tổn thương đến niềm tin của dân chúng. Nếu không có những biện pháp thích hợp sẽ còn gây ra những bất ổn khôn lường về kinh tế chính trị, xã hội, gây hoang mang giao động trong dân chúng và tạo ra tâm lý bất lợi cho hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng. Chính vì thế, bên cạnh sự ổn định về chính trị xã hội thì việc bảo đảm cho một nền kinh tế phát triển an toàn, lành mạnh luôn là một mục tiêu và là nhiệm vụ quan trọng đối với mỗi quốc gia. Vậy vấn đề đặt ra là làm sao giữ được lòng tin của dân chúng? làm sao giữ được ổn định cho hoạt động tín dụng?
Nhận thức rõ được tầm quan trọng đó, Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách cũng như ban hành các văn bản pháp luật nhằm tạo ra một môi trường lành mạnh, an toàn cho hoạt động tài chính – tiền tệ. Riêng đối với ngành ngân hàng, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật về ngân hàng, Chính phủ cũng đã ban hành những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh một nghiệp vụ mới ở Việt Nam, đó là nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi. Qua việc học hỏi kinh nghiệm về mô hình, tổ chức quản lý về bảo hiểm tiền gửi của các quốc gia trên thế giới, lần đầu tiên tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng chính phủ. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thực hiện nhiệm vụ bảo hiểm trên cơ sở pháp lý là Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP, cùng các văn bản hướng dẫn. Trong thời gian qua, cơ sở pháp lý cho sự hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã thể hiện được nhiều ưu điểm. Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế thế giới đang ngày càng có sự liên kết, hội nhập, kinh tế đất nước đang ngày càng phát trển, đời sống nhân dân được nâng cao…thì Nghị định của Chính Phủ số 89/1999/NĐ-CP, Nghị định số 109/2005/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn vẫn còn những điểm cần được sửa đổi bổ sung để hoàn thiện hơn trong thời gian tới. Đặc biệt khi Việt Nam là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì riêng đối với ngành ngân hàng, yêu cầu an toàn, phát triển lành mạnh, ổn định lại càng cần phải được đặt ra. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý của hoạt động bảo hiểm tiền gửi mang một ý nghĩa thời sự nóng bỏng. Bởi lý do trên mà tôi quyết định chọn vấn đề “chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
- Với việc quyết định lựa chọn đề tài, tôi muốn nghiên cứu sâu những nội dung cơ bản của chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam từ khi ra đời cho tới nay.
- Tìm hiểu và đánh giá về vai trò của bảo hiểm tiền gửi đối với hoạt động tài chính-ngân hàng nói riêng và đối với sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung.
- Nghiên cứu thực trạng của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để thấy được những thành tựu và tồn tại cần khắc phục để từ đó đưa ra những phương hướng cả về lý luận và thực tiễn nhằm góp phần hoàn thiện chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ chế pháp lý điều chỉnh hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam hiện nay và thực trạng của hoạt động bảo hiểm tiền gửi, đồng thời tìm hiểu pháp luật bảo hiểm tiền gửi ở một số nước trên Thế giới để từ đó so sánh, đánh giá nhằm tìm ra phương hướng để hoàn thiện chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Trong quá trình thực hiện luận văn, đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin làm cơ sở lý luận.
Ngoài ra để thực hiện luận văn này, những phương pháp được sử dụng kết hợp như: phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống kê và phương pháp quy nạp.
Kết cấu của luận văn:
Ngoài hai phần mở đầu và kết luận chung, luận văn “chế độ bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam, thực trạng và phương hướng hoàn thiện” được trình bày theo hai chương sau:
Chương I: Những vấn đề chung về bảo hiểm tiền gửi.
Chương II: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện.
Trong khuân khổ của một luận văn tốt nghiệp, cùng với vốn hiểu biết có hạn của một sinh viên, nên bản luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong được sự góp ý của các thầy giáo, cô giáo cùng các bạn sinh viên để giúp tôi hoàn thiện kiến thức bản thân.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BHTG
VÀ CHẾ ĐỘ BHTG Ở VIỆT NAM.
1.1. Những vấn đề chung về BHTG:
1.1.1. Khái niệm chung về BHTG:
BHTG đã xuất hiện rất lâu trên thế giới, từ năm 1829, hoạt động BHTG được thực hiện tại Mỹ nhằm phòng ngừa sự đổ vỡ mang tính chất dây chuyền của ngân hàng vào thế kỷ 19. Mãi đến năm 1934, cơ quan BHTG công khai của Nhà nước Mỹ mới ra đời (FDIC) nhằm củng cố lòng tin của nhân dân vào hệ thống ngân hàng, bảo vệ người gửi tiền. Từ đó cho đến nay, các quốc gia trên thế giới cùng lần lượt cho ra đời các tổ chức BHTG nhằm bảo về người gửi tiền trước nguy cơ phá sản của các tổ chức tài chính, đảm bảo ổn định của hệ thống ngân hàng và hạn chế các cuộc khủng hoảng tài chính. Vậy BHTG là gì? có thể hiểu BHTG là loại hình bảo hiểm với những đặc điểm riêng so với loại hình bảo hiểm khác như thế nào? Đó là vấn đề hiện nay được các nhà nghiên cứu quan tâm.
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu, thì BHTG được hiểu là: “một cơ chế có giới hạn nhưng hình thức cung cấp sự bảo đảm mang tính pháp lý cho các khoản gốc (và thường cả lãi) của các khoản tiền gửi”, hay “BHTG là chính sách bảo đảm tất cả hoặc một phần tiền gửi cùng lãi nhập gốc trên tài khoản tiền gửi sẽ được thanh toán cho người gửi tiền khi ngân hàng nhận tiền gửi bị phá sản hay mất khả năng thanh toán”. Bài viết “Mô hình BHTG trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế” TS. Lê Thị Thu Thuỷ trang 6,7 ( tạp chí luật học số 12/2007-Trường đại học luật Hà Nội)
Một số quan điểm khác cho rằng: BHTG là loại hình bảo hiểm theo đó bảo đảm nghĩa vụ chi trả trong tương lai các khoản tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG, khi các tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn bị buộc giải thể hoặc phá sản.
Với các quan điểm nghiên cứu trên đây cho thấy BHTG có thể được thực hiện trong phạm vi hạn chế (các khoản tiền gửi được bảo hiểm đến một giới hạn nhất định) hoặc được bảo hiểm hoàn toàn (mọi người gửi tiền và tất cả các khoản tiền gửi đều được bảo hiểm) phụ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội của từng nước, trong từng giai đoạn khác nhau. Ví dụ, vào thời kỳ nền kinh tế ổn định, thị trường tài chính phát triển, các quốc gia thường áp dụng cơ chế bảo hiểm có giới hạn các khoản tiền gửi nhằm củng cố lòng tin của công chúng vào hệ thống tài chính, duy trì sự ổn định hoạt động của hệ thống này. Khi nền kinh tế bị khủng hoảng, các quốc gia lại áp dụng cơ chế bảo hiểm hoàn toàn nhằm ngăn chặn một cách hữu hiệu hiện tượng rút tiền đồng loạt, bởi lẽ người gửi tiền trong trường hợp nay hoàn toàn tin tưởng rằng BHTG sẽ bảo vệ quyền lợi của họ một cách triệt để khi ngân hàng nào đó bị đổ vỡ.
1.1.2. Đặc điểm của BHTG:
- BHTG là loại nghiệp vụ bảo hiểm phi thương mại, tính phi thương mại của BHTG thể hiện ở chỗ: hoạt động BHTG không nhằm mục tiêu sinh lời mà nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, thực hiện những mục tiêu xã hội, vì mục đích của cộng đồng.
Ở một số nước, BHTG là loại nghiệp vụ bảo hiểm mang tính thương mại, thực hiện theo nguyên tắc hạch toán. Chẳng hạn ở Đức, quỹ BHTG do Hiệp hội ngân hàng thương mại Đức tổ chức. Nó được thành lập, hoạt động như là một tổ chức phi Chính phủ nhằm tạo ra tính liên kết, tương trợ giữa các ngân hàng hội viên nhằm bảo đảm an toàn cho cả hệ thống. Các hội viên đóng góp tiền theo quy định vào quỹ bảo hiểm. Khi quỹ tạm thời nhàn rỗi, số tiền trong quỹ sẽ được tận dụng một cách hợp pháp để tạo khả năng sinh lời. Quỹ bảo hiểm lập ra nhằm hai mục đích là phòng ngừa các rủi ro bằng cách quỹ giúp đỡ các thành viên khi gặp khó khăn về khả năng thanh toán và để thanh toán cho khách hàng khi ngân hàng là thành viên bị phá sản Trang 116 Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam-NXB công an nhân dân năm 2007.
- Chủ thể tham gia BHTG chỉ có thể là tổ chức tài chính có nhận tiền gửi của cộng đồng dưới các hình thức nhất định. Với hệ thống BHTG công khai thì sự tham gia của tổ chức này là bắt buộc nhằm tạo sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức này, tạo nguồn vốn hoạt động cho tổ chức BHTG.
- Phí BHTG là khoản phí do pháp luật quy định, các bên tham gia quan hệ BHTG không thể thoả thuận về mức phí.
Theo điều 1 khoản 4 điểm 2 Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 24/08/2005 quy định: “Tổ chức tham gia BHTG phải nộp phí BHTG theo mức 0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG”. Như vậy theo quy định này, mức phí BHTG đã được pháp luật ấn định sẵn là 0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi, các chủ thể tham gia quan hệ BHTG (tổ chức nhận BHTG, tổ chức tham gia BHTG và người gửi tiền) không được quyền thoả thuận mức phí bảo hiểm.
Trên thế giới, pháp luật về BHTG ở hầu hết các nước đều quy định về mức phí bảo hiểm ấn định sẵn như: ở Mỹ, pháp luật BHTG quy định tổ chức BHTG của Mỹ thu phí bảo hiểm là 23 xu cho mỗi trăm đô la tiền gửi mỗi năm Bài viết “Tiền tệ - Ngân hàng và Thị trường tài chính – trang 294 – Ferederic S-mishkin” (Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2004).
. Ở Nhật Bản, luật BHTG ban hành ngày 01/04/1971 quy định về mức phí BHTG áp dụng với tỷ lệ đóng hàng năm là 0,008% trên số dư tiền gửi được bảo hiểm Bài viết “Thực hiện triển khai chính sách BHTG ở Nhật Bản” T.S. Nguyễn Thị Kim Oanh – giám đốc chi nhánh BHTG Việt Nam khu vực Hà Nội – trang 108 (Tạp chí ngân hàng số 1+2 tháng 01/2009).
. Ở Indonesia, theo quy định tại điều 15 Luật BHTG 2004 quy định: các thành viên đóng phí đồng hạng 6 tháng 1 lần là 0,1% trên tổng số tiền gửi (0,2%/năm). Tỷ lệ phí cố định có thể được điều chỉnh sang hệ thống phí theo mức độ rủi ro. Trong trường hợp thiết lập hệ thống phí điều chỉnh theo mức độ rủi ro, chênh lệch giữa các hạng phí cao nhất không được vượt quá 0,5% Bài viết “ Luật BHTG Indonesia kinh nghiệm nào cho Việt Nam” của tác giả Thuý Sen đăng trên trang web: www.div.gov.vn
.
- Đối tượng được bảo hiểm của BHTG rất đặc biệt, đó là nghĩa vụ thanh toán các khoản tiền gửi của tổ chức nhận tiền gửi đối với người gửi tiền. Người nộp phí BHTG tách rời người thụ hưởng bảo hiểm. Có thể nói rủi ro tiền gửi có mối liên quan mật thiết với hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi. Việc xác định loại tiền gửi nào được bảo hiểm là cơ sở tính phí BHTG định kỳ, phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia.
1.1.3. Vai trò của BHTG :
An toàn trong kinh doanh là yêu cầu bức thiết đối với hoạt động của các TCTD. Do hoạt động của các TCTD là hoạt động kinh doanh có độ rủi ro cao, hậu quả của rủi ro mang tính phản ứng dây chuyền; vì vậy ở các quốc gia hoạt động tín dụng được đặt trong một hành lang pháp lý chặt chẽ với những điều khoản đặc biệt, nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động của các TCTD được điều chỉnh bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD ngày 15/06/2004.
Tại điều 20 khoản 1, khoản 7 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD ngày 15/06/2004 quy định:
“TCTD là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các TCTD và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng”
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
Theo những quy định này, cho thấy TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Vậy nội dung hoạt động chủ yếu của TCTD là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán. Qua nội dung hoạt động chủ yếu này, cho thấy các TCTD luôn có 2 tư cách vừa là “chủ nợ” xong lại vừa là “người đi vay”. Với tư cách chủ nợ họ thường đặt ra cho khách hàng những yêu cầu nhằm đảm bảo cho các khoản vay, vì vậy khách hàng muốn vay tiền tại các TCTD thì đều phải có tài sản đảm bảo hay nói cách khác các TCTD luôn tìm cách “nắm đằng chuôi” trong các giao dịch cho vay. Vì vậy khi đến hạn khách hàng không trả được nợ họ sẽ áp dụng một loạt các biện pháp như: sử dụng lãi suất nợ quá hạn cao hơn mức lãi suất cho vay,thậm trí xử lí tài sản đảm bảo của khách hàng để thu hồi vốn. Xong với tư cách là “người đi vay” thì các TCTD chỉ có một đảm bảo duy nhất đối với khách hàng là uy tín của mình. Vậy khi TCTD hoạt động không hiệu quả bị giải thể,phá sản thì những người gửi tiền có được trả lại số tiền đã gửi hay không? Bởi họ là những “chủ nợ” không có bảo đảm nên theo thứ tự chi trả khi TCTD bị phá sản thì họ sẽ là những người cuối cùng được thanh toán sau khi đã thanh toán hết cho các “chủ nợ” có bảo đảm của TCTD, và như thế những người gửi tiền có thể chỉ nhận được một ít hoặc thậm trí là mất trắng số tiền họ đã tiết kiệm, giành dụm để gửi vào ngân hàng. Do tâm lý như vậy, chỉ cần một tác động hay một thông tin nhỏ, họ sẽ rút số tiền đã gửi tại ngân hàng đồng loạt, và như vậy các ngân hàng lại dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, nguy cơ đổ vỡ là khó tránh khỏi. Ngoài ra, mục đích huy động một số lượng lớn vốn nhàn rỗi trong dân cư của các ngân hàng cũng không đạt được.
Chính vì điều đó mà đặt ra vấn đề là phải tìm một giải pháp, một biện pháp tối ưu, an toàn để vừa tạo ra được niềm tin cho người gửi tiền – yếu tố quan trọng – vừa là một biện pháp để giúp cho các TCTD huy động được nhiều hơn lượng tiền nhàn rỗi vốn được xem là lớn trong dân cư, qua đó giúp cho nền kinh tế quốc gia được ổn định. Mô hình BHTG trên thế giới lần đầu tiên xuất hiện ở Mỹ vào năm 1934, sau những vụ vỡ nợ ngân hàng hàng loạt vào những năm 1930 – 1933. BHTG được thành lập như một cơ quan thực hiện việc bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng. BHTG tạo lập và duy trì niềm tin của công chúng vào ngành ngân hàng thông qua việc bảo hiểm có mức độ đối với tiền gửi của công chúng trong hệ thống ngân hàng. BHTG là sản phẩm của nền kinh tế thị trường và chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường.
Vai trò của BHTG xuất phát từ bản chất của hoạt động tài chính là luôn gắn liền với yếu tố niềm tin và mang tính nhạy cảm, lan truyền cao. Mặc dù mỗi quốc gia có mô hình tổ chức BHTG khác nhau nhưng bản chất hoạt động BHTG đều hướng tới mục tiêu chung. BHTG trước hết là vì mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Khi có ngân hàng hay TCTD nào đó bị phá sản, nếu ngân hàng đó tham gia vào cơ chế BHTG hoặc được Chính phủ tuyên bố chi trả BHTG thì những người gửi tiền tại ngân hàng phá sản đó có cơ hội được trả một phần hay toàn bộ số tiền gửi của mình. Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là BHTG sẽ làm cho tâm lý của người gửi tiền không bị hoang mang, mất lòng tin và người ta sẽ không nghĩ đến việc phải vội vã rút tiền từ các ngân hàng, điều đó tránh được sự đổ vỡ mang tính dây chuyền có thể xảy ra đối với hệ thống ngân hàng. Việc trả BHTG khi TCTD bị phá sản chỉ là giải pháp cuối cùng nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.
Cần phải nhấn mạnh rằng, với sự tham gia BHTG, các TCTD sẽ có lợi thế hơn nhiều trong huy động vốn từ tiền gửi và tính an toàn tín dụng, an toàn hệ thống được nâng lên rất nhiều, đó thực sự là cái lợi không nhìn rõ được của BHTG đối với các TCTD. Do vậy, BHTG không chỉ dừng lại ở mục tiêu bảo vệ quyền lợi trực tiếp của người gửi tiền ở ngân hàng, TCTD bị phá sản mà nó còn là một sợi dây vô hình bảo đảm an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro và tránh được sự đổ vỡ có tính dây chuyền của hệ thống tín dụng, từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách vững chắc. Theo Hiệp hội BHTG quốc tế, tính đến thời điểm này đã có gần 100 quốc gia có hệ thống BHTG Số liệu thống kê của BHTG quốc tế(IADI)năm 2007 trên trang web: www.iadi.org
. và xu hướng này đang gia tăng với thực tế là nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển thành lập hệ thống BHTG. Sự ra đời của cơ quan BHTG đã thực sự đánh dấu một bước ngoặt mới, BHTG đã trở thành chỗ dựa vô cùng quan trọng cho các TCTD trong việc củng cố, duy trì và làm tăng niềm tin của công chúng trong việc mở rộng hoạt động huy động vốn.
1.2: Chế độ BHTG ở Việt Nam:
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của chế độ BHTG ở Việt Nam:
1.2.1.1. Khái niệm chế độ BHTG ở Việt Nam:
BHTG là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng, được thực hiện từ rất sớm ở nhiều nước. BHTG hiện nay có một vị trí, vai trò quan trọng đối với hoạt động của các TCTD. Thực tế ở các nước cho thấy nhờ có BHTG đã ngăn chặn sự đổ vỡ mang tính dây chuyền trong hệ thống ngân hàng, góp phần duy trì sự phát triển ổn định, an toàn cho các TCTD. Nhờ có BHTG mà quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền được bảo đảm và từ đó các TCTD đã tạo dựng đựơc niềm tin cho người gửi tiền, góp phần tăng hiệu quả hoạt động cho hệ thống ngân hàng.
Ở nước ta, năm 1988 là năm đánh dấu sự chuyển mình trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam sang cơ chế mới – cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Nhà nước tiến hành cải cách thí điểm hệ thống ngân hàng theo mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường. Bên cạnh hệ thống ngân hàng của Nhà nước có thêm loại hình TCTD ngoài quốc doanh như: Quỹ tín dụng nhân dân, Hợp tác xã tín dụng ở đô thị… Tuy nhiên, khi chuyển sang cơ chế mới, bộ máy cũ vẫn chưa bắt kịp với những đòi hỏi của thực tế, những ảnh hưởng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung vẫn còn, thêm vào đó những thiết chế pháp lý đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của các TCTD không được đặt ra. Vì thế, sau hơn một năm hoạt động đã xuất hiện những hiện tượng thiếu khả năng trả nợ, khả năng thu hồi nợ …
Cuối năm 1989, xảy ra vụ vỡ nợ dây chuyền của hàng loạt TCTD ngoài quốc doanh. Điều này gây ảnh hưởng xấu cho nền kinh tế, làm giảm sút niềm tin của khách hàng đối với Quỹ tín dụng nhân dân, Hợp tác xã tín dụng. Ngày 23/05/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Sự ra đời của Pháp lệnh này đã tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho sự tồn tại, hoạt động và sự phát triển của hệ thống ngân hàng và TCTD ở Việt Nam. Năm 1993, Quỹ tín dụng nhân dân được thành lập theo Quyết định số 390/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/03/1993. Theo Quyết định này, Quỹ tín dụng nhân dân được thừa nhận là một tổ chức thuộc sở hữu tập thể, tồn tại dưới hình thức Hợp tác xã, hoạt động theo nguyên tắc chung của TCTD Việt Nam. Ngoài các biện pháp an toàn được áp dụng trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của TCTD nói chung, Chính phủ còn rất quan tâm đến sự bảo đảm đối với tiền gửi của khách hàng khi tham gia Quỹ tín dụng nhân dân.
BHTG bắt đầu được áp dụng vào năm 1994 theo Quyết định số 101/ TC-QĐ ngày 01/02/1994 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành các quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của Quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản tiền gửi có kì hạn. Tuy nhiên, BHTG theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính số 101/TC-QĐ chỉ là một trong những nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm do các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện. Phạm vi BHTG còn rất hạn hẹp vì đối tượng tham gia bảo hiểm chỉ là các Quỹ tín dụng nhân dân và tiền gửi được bảo hiểm chỉ với các khoản tiền gửi có kỳ hạn bằng đồng Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của BHTG đối với hoạt động ngân hàng trong thời kỳ mới, ngày 12/12/1997, Quốc hội đã ban hành Luật các TCTD, trong đó có quy định: “TCTD có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn hoặc BHTG, mức bảo toàn hoặc BHTG do Chính phủ quy định” Điều 17 luật các tổ chức tín dụng-NXB chính trị quôc gia-xuất bản năm 2008.
. Với quy định này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho sự ra đời chế độ BHTG mới ở nước ta. Ngày 01/09/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP về BHTG, quy định mục đích, tính chất của BHTG, đối tượng tham gia BHTG, các loại tiền gửi được bảo hiểm, phí bảo hiểm… Ngày 09/11/1999, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg về việc thành lập Tổ chức BHTG Việt Nam – một tổ chức độc lập chuyên thực hiên nghiệp vụ BHTG. Ngày 07/10/2000, BHTG Việt Nam chính thức đi vào hoạt động. Tổ chức BHTG Vịêt Nam có tên giao dịch quốc tế Deposit Insurance of Vietnam (viết tắt là DIV) là một tổ chức tài chính Nhà nước, do Nhà nước thành lập, được Nhà nước cấp vốn, Nhà nước bổ nhiệm người quản trị điều hành. Tổ chức BHTG ở Việt Nam hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhưng phải đảm bảo an toàn vốn và sự bù đắp chi phí, được miễn nộp các loại thuế. BHTG là loại hình bảo hiểm theo đó bảo đảm nghĩa vụ chi trả trong tương lai các khoản tiền gửi cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG, khi các tổ chức này gặp rủi ro dẫn đến tình trạng không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn bị buộc giải thể hoặc phá sản. Tập hợp các quy phạm pháp luật, điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHTG tạo thành chế độ pháp lý về BHTG.
Theo các quy định hiện hành thì BHTG là một loại hình bảo hiểm phi thương mại, theo đó TCTD và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng, có nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam của khách hàng là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh thì bắt buộc phải tham gia đóng phí BHTG cho tổ chức BHTG Việt Nam theo quy định. Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm thì tổ chức BHTG Việt Nam sẽ có trách nhiệm thay tổ chức nhận tiền gửi đó trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của các khách hàng gửi tiền ở tổ chức tham gia bảo hiểm đó.
1.2.1.2. Đặc trưng của chế độ BHTG Việt Nam:
Sự hình thành và phát triển của chế độ BHTG Việt Nam còn non trẻ. Tuy mới ra đời không lâu, nhưng BHTG Việt Nam đã thể hiện mụa đích, vai trò to lớn của mình là bảo vệ người gửi tiền, đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính - ngân hàng quốc gia. Chế độ BHTG Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau:
- BHTG ở nước ta, xét về tính chất là loại hình bảo hiểm bắt buộc. Pháp luật về BHTG có quy định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm mà các TCTD tham gia quan hệ bảo hiểm có nghĩa vụ phải thực hiện. Việc áp dụng chế độ bảo hiểm bắt buộc đối với tiền gửi không chỉ nhằm xử lý rủi ro của tổ chức nhận tiền gửi, bảo vệ lợi ích của người gửi tiền mà còn bảo vệ sự an toàn cho cả hệ thống TCTD, sự ổn định của tiền tệ quốc gia. Đồng thời nó còn tạo ra sự bình đẳng, công bằng giữa các tổ chức có hoạt động ngân hàng, góp phần nâng cao uy tín của các TCTD đối với người dân trong giai đoạn hiện này nhằm khai thác tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi để tập trung cho đầu tư phát triển kinh tế. Việc quy định bắt buộc tham gia BHTG đối với các TCTD được áp dụng ở nhiều nước.
- BHTG ở nước ta là loại hình bảo hiểm trách nhiệm pháp lý dân sự. Nếu xét về đối tượng bảo hiểm thì BHTG thuộc loại bảo hiểm trách nhiệm dân sự phát sinh trong hợp đồng. Đối tượng của BHTG chính là nghĩa vụ hoàn trả tiền gửi cả lãi lẫn gốc của tổ chức nhận tiền gửi đối với người gửi tiền. Pháp luật BHTG ở nước taxác định rõ: người tham gia bảo hiểm có nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm là tổ chức được phép nhận tiền gửi của các cá nhân bằng đồng Việt Nam, còn người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm.
- Về bản chất: BHTG ở Việt Nam mang bản chất của loại hình bảo hiểm phi thương mại. Nó không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật kinh doanh bảo hiểm mà được điều chỉnh bằng một quy chế pháp lý riêng. Tính phi thương mại của BHTG thể hiện ở chỗ, bên bảo hiểm là tổ chức BHTG Việt Nam- đây là một tổ chức tài chính Nhà nước, mục tiêu hoạt động không nhằm mục đích lợi nhuận mà nhằm mục đích bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng.
1.2.2. Nội dung cơ bản của chế độ BHTG ở Việt Nam:
Do nhận thức được đặc điểm, tính chất phức tạp về hoạt động của các TCTD ngoài quốc doanh, và bài học kinh nghiệm từ sự đổ vỡ dây chuyền của hàng loạt các TCTD ngoài quốc doanh cuối năm 1989, đồng thời để lấy lại niềm tin của người gửi tiền đối với các Quỹ tín dụng nhân dân, các Hợp tác xã tín dụng. Ngày 23/05/1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính; đó chính là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển của hệ thống ngân hàng và các TCTD ở Việt Nam. Nhưng Pháp lệnh này chưa có quy định về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân. Năm 1993, Quỹ tín dụng nhân dân chính thức được thành lập theo Quyết định số 390/TTg ngày 27/07/1993 của Thủ tướng Chính phủ. Ở đây Quỹ tín dụng nhân dân được thừa nhận là một tổ chức thuộc sở hữu tập thể, tồn tại dưới hình thức Hợp tác xã, hoạt động theo các nguyên tắc chung của các TCTD Việt Nam.
Để đảm bảo an toàn cho hoạt động của các Quỹ tín dụng nhân dân, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, ngày 01/02/1994, dưới sự uỷ quyền của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ tài chính ra Quyết định số 101/TC-QĐ về việc ban hành quy tắc bảo hiểm, trách nhiệm của Quỹ tín dụng nhân dân đối với khoản tiền gửi có kỳ hạn của khách hàng. Quyết định nêu rõ các vấn đề về phạm vi bảo hiểm, về hình thức pháp lý của BHTG, trách nhiệm của chủ thể trong việc BHTG, phí bảo hiểm… Bài viết “Một số vấn đề về BHTG ở quỹ tín dụng nhân dân” TS. Trương Thị Kim Dung trang 7 ( tạp chí luật học số 6 tháng 12/1996-Trường đại học luật Hà Nội.)
Các Quỹ tín dụng nhân dân tham gia BHTG của cơ quan bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) có tác dụng khôi phục lòng tin và thu hút được tiền gửi trong các tầng lớp dân cư, trong khi các TCTD khác chưa thực hiện.
Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm là theo quy định của Quyết định số 101/TC-QĐ của Bộ trưởng Bộ tài chính thì việc BHTG chi đặt ra đối với Quỹ tín dụng nhân dân, Bảo Việt chỉ bảo hiểm đối với tổng các khoản tiền gửi có kỳ hạn tại Quỹ tín dụng nhân dân. Các ngân hàng thương mại không đặt ra vấn đề BHTG; do đó, nếu ngân hàng thương mại có sự phá sản hoặc giải thể thì khoản tiền gửi của khách hàng ở các ngân hàng này sẽ có nguy cơ bị mất trắng. Như vậy, tâm lý người gửi tiền chỉ yên tâm khi tham gia quan hệ gửi tiền với Quỹ tín dụng nhân dân, tại đây họ sẽ được an toàn và được bồi thường BHTG khi có rủi ro và đến lúc nào đó ngân hàng thương mại sẽ không có khách hàng tham gia quan hệ gửi tiền nhàn rỗi của mình.
Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong những năm tiếp theo đã đặt ra yêu cầu cần phải có những quy định chặt chẽ và kịp thời đối với hoạt động ngân hàng của các TCTD. Khi Quốc hội thông qua hai đạo luật quan trọng trong lĩnh vực ngân hàng vào tháng 12/1997 là Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các TCTD thì vấn đề BHTG đã được quan tâm sâu sắc hơn. Sự cụ thể hoá Luật các TCTD bằng việc Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 về BHTG. Nghị định là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động BHTG ở Việt Nam. Theo đó các TCTD và tổ chức không phải là TCTD được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các TCTD phải tham gia BHTG bắt buộc. Đây là một chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta trong việc điều hành chính sách tiền tệ, góp phần bảo vệ tốt người gửi tiền, tạo ổn định cho hoạt động tài chính – ngân hàng của quốc gia. Song sau gần 6 năm đi vào thực tiễn áp dụng, do những chuyển biến không ngừng của nền kinh tế xã hội, việc áp dụng những quy định của Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ đã cho thấy một số quy định không còn phù hợp với thực tế (như: về hạn mức chi trả, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm…). Để khắc phục những hạn chế này, ngày 24/08/2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP. Tổ chức BHTG Việt Nam chính thức được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ, đồng thời quy định rõ mục tiêu của tổ chức BHTG Việt Nam là tổ chức tài chính Nhà nước, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trỡ sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh hoạt động ngân hàng.. Có thể nói các văn bản pháp luật trên và một số văn bản khác có liên quan là cơ sở pháp lý quan trọng quy định việc tổ chức, hoạt động của tổ chức BHTG ở Việt Nam.
1.2.2.1. Phạm vi áp dụng:
a/ Chủ thể quan hệ BHTG:
Chủ thể nhận bảo hiểm là tổ chức BHTG Việt Nam có tên giao dịch quốc tế là Deposit Insurance of Vietnam ( viết tắt là DIV), là tổ chức tài chính Nhà nước được thành lập theo Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 07/07/2000. BHTG Việt Nam có tư cách pháp nhân, có vốn điều lệ do Nhà nước cấp là 1.000 tỷ đồng Việt Nam và được bổ sung từ nguồn thu phí hàng năm. Với quy định như vậy, cơ quan bảo hiềm tiền gửi Việt Nam sẽ được độc lập về tài chính và được tự chủ trong quá trình hoạt động. Đây là một tổ chức do Nhà nước thành lập và cấp vốn, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiềm tiền gửi và sự phát triển an toàn lành mạnh cho hoạt động ngân hàng. Tổ chức bảo hiềm tiền gửi được miễn các loại thuế theo quy định của pháp luật, được mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, tại TCTD Nhà nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; có bảng cân đối tài khoản và được lập các quỹ phù hợp với quy định của pháp luật.
Để thực hiện mục tiêu mà Nhà nước đề ra, tổ chức bảo hiềm tiền gửi Việt Nam ngoài việc thực hiện nghiệp vụ bảo hiểm đối với các tổ chức tham gia bảo hiềm tiền gửi, còn phải thực hiện một số nhiệm vụ khác được quy định tại Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập BHTG Việt Nam như sau:
- Thu phí bảo hiềm tiền gửi của các tổ chức tham gia bảo hiềm tiền gửi theo quy định.
- Chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền trong phạm vi mức bảo hiểm tối đa theo quy định.
- Theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hàn._.h các quy định tại Nghị định của Chính phủ về bảo hiềm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiềm tiền gửi.
- Hỗ trợ cho các tổ chức tham gia bảo hiềm tiền gửi khi có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức phải đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt.
- Tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG bị phá sản.
- Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung các chủ trương chính sách về BHTG.
- Tuyên truyền về bảo hiềm tiền gửi đối với công chúng, tổ chức tập huấn, đào tạo và tư vấn về nghiệp vụ liên quan đến BHTG.
- Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước nhằm tăng cường năng lực hoạt động của bảo hiềm tiền gửi Việt Nam và của các tổ chức tham gia bảo hiềm tiền gửi.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác khi được Thủ tướng Chính phủ giao. “Điều 5 Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày 09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập BHTG Việt Nam.”
Trên thế giới, có nước áp dụng mô hình thuộc sở hữu Nhà nước, có nước được thành lập bởi Hiệp hội các ngân hàng – mang tính chất thương mại như ở Đức. Do hoạt động ngân hàng thường mang tính rủi ro rất cao và những rủi ro luôn mang tính dây chuyền. Do đó, hình thức bảo hiểm do tư nhân thành lập ít khả thi hơn so với hình thức thuộc sở hữu Nhà nước. Việc thành lập tổ chức BHTG thuộc sở hữu Nhà nước với khả năng tài chính và uy tín của tổ chức công quyền chắc chắn sẽ đem lại niềm tin lớn hơn với ngân hàng và cả người gửi tiền Bài viết “Mô hình BHTG trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế” TS. Lê Thị Thu Thuỷ-trang 72 (tạp chí luật học số 12/2007 – Trường đại học luật Hà Nội).
. Ở Việt Nam, việc thành lập tổ chức BHTG thuộc sở hữu Nhà nước là phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Trong điều kiện của hệ thống ngân hàng, TCTD chưa thực sự lớn mạnh và còn nhiều rủi ro, vai trò của Hiệp hội ngân hàng chưa thực sự đủ mạnh đứng ra để liên kết với các ngân hàng trong cơ chế tự bảo vệ, lòng tin của người dân vào hệ thống tín dụng ngân hàng chưa cao thì Nhà nước phải đứng ra thành lập tổ chức BHTG để chi trả cho người dân là một mô hình hợp lý.
Người tham gia bảo hiểm: tại điều 17 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD ngày 15/06/2004 quy định: “ TCTD có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn hoặc BHTG, mức bảo toàn hoặc bảo hiểm do Chính phủ quy định”.
Tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định của Chính phủ số 89/1999/NĐ-CP ngày 24/08/2005 quy định: đối tượng tham gia tổ chức BHTG Việt Nam là các TCTD và tổ chức không phải là TCTD được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các TCTD có nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân phải tham gia BHTG bắt buộc “Điều 1 khoản 1 điểm 1 Nghị định số 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định của Chính Phủ số 89/1999/NĐ-CP ngày 24/08/2005”.
.
“TCTD” theo Luật các TCTD đã sửa đổi bổ sung ngày 15/06/2004 là “doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật các TCTD và các quy định khác của pháp luật để hoạt động ngân hàng” Điều 20 khoản 1 Luật sửa đổi bổ sung Luật các tổ chức tín dụng ngày 15/06/2004 . NXB Chính trị quốc gia, năm 2008.
. Theo các quy định của pháp luật hiện hành, ở Việt Nam hiện nay các loại hình TCTD được sắp xếp theo theo các loại sau:
- Nếu căn cứ vào hoạt động ngân hàng mà TCTD được thực hiện thì các TCTD được phân chia thành 2 loại: các TCTD là ngân hàng và TCTD phi ngân hàng.
+TCTD là ngân hàng theo quy định tại điều 20 khoản 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD ngày 15/06/2004 bao gồm các loại hình:
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng phát triển
Ngân hàng đầu tư
Ngân hàng chính sách
Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác
+ TCTD phi ngân hàng (là loại hình TCTD được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ thanh toán. Theo điều 20 khoản 3 Luật sửa đổi bổ sung Luật các TCTD ngày 15/06/2004 quy định TCTD phi ngân hàng bao gồm: Công ty tài chính; Công ty cho thuê tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác.
- Căn cứ vào tính chất sở hữu vốn điều lệ, các TCTD ở Việt Nam được chia thành các loại sau:
+TCTD Nhà nước.
+TCTD cổ phần.
+TCTD hợp tác.
+TCTD có vốn đầu tư nước ngoài.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc các TCTD, tổ chức không phải là TCTD được pháp thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các TCTD. Việc tham gia BHTG phải được thực hiện một cách công khai bằng cách niêm yết về việc tham gia bảo hiểm tại trụ sở và các điểm giao dịch.
Người được hưởng quyền lợi bảo hiểm: theo quy định tại điều 3 của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là cá nhân bao gồm người cư trú và người không cư trú gửi tiền bằng đồng Việt Nam tại tổ chức tham gia BHTG. Như vậy theo quy định này chỉ khách hàng là cá nhân mới được hưởng quyền lợi bảo hiểm khi gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG.
Nghị định của Chính phủ số 109/2005/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP ngày 24/08/2005 quy định theo hướng mở rộng hơn phạm vi người được hưởng quyền lợi bảo hiểm so với Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ như sau: người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là các khách hàng gửi tiền bằng đồng Việt Nam tại các tổ chức tham gia BHTG bao gồm: người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh, trừ một số trường hợp sau:
+Người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia BHTG đó.
+Người gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (giám đốc),phó Tổng giám đốc (phó giám đốc) của tổ chức tham gia BHTG đó.
+Người ký gửi tiền để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của họ Điều 1 khoản 2 Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP
.
b/ Loại tiền được bảo hiểm :
Hiện nay, pháp luật các nước có quy định các loại tiền được bảo hiểm. Tuy nhiên, việc quy định chủng loại được bảo hiểm có loại khác nhau. Chẳng hạn Anh, Nhật, Bỉ, Pháp… tiền gửi được bảo hiểm chỉ là đồng bản tệ; còn ở một số nước khác như Mỹ , Đức, Hà Lan… lại quy định tiền gửi được bảo hiểm bao gồm cả đồng bản tệ và ngoại tệ Trang 118,119 giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam – trường đại học Luật Hà Nội (Nhà xuất bản Công an nhân dân,năm 2008.)
.
Theo quy định tại điều 3 Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ: “Tiền gửi được bảo hiểm là Đồng Việt Nam của các cá nhân gửi tại tổ chức tham gia BHTG” , theo quy định này BHTG Việt Nam chỉ bảo hiểm cho loại tiền bản tệ là đồng Việt Nam. Nghị định Chính phủ số 109/2005/NĐ-CP về việc sửa đổi một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP quy định tại điều 1 khoản 2: “Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia BHTG”. Như vậy Việt Nam theo nhóm nước chỉ bảo hiểm đồng bản tệ, và đồng bản tệ được bảo hiểm này là Đồng Việt Nam. Song một điểm mới của Nghị định Chính phủ số 109/2005/NĐ-CP so với Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ là đã mở rộng đối tượng được hưởng quyền lợi bảo hiểm, cụ thể: theo quy định của Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm chỉ có thể là cá nhân gửi tiền bằng đồng Việt Nam tại các tổ chức tham gia BHTG. Song Nghị định Chính phủ số 109/2005/NĐ-CP đã quy định người được hưởng quyền lợi bảo hiểm ngoài cá nhân còn có hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh gửi tiền bằng đồng Việt Nam tại tổ chức tham gia BHTG. Cùng với việc mở rộng đối tượng được hưởng quyền lợi bảo hiểm, Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ còn quy định những trường hợp tiền gửi không được bảo hiểm bao gồm :
-“Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia BHTG đó.
-Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, tổng giám đốc (giám đốc), phó tổng giám đốc (phó giám đốc) của tổ chức tham gia BHTG đó.
- Tiền gửi dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền.
-Tiền mua các giấy tờ có giá, trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam”. “Điều 1 khoản 2 điểm a,b,c,d Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về việc sửa đổi một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP .
Việc bổ sung quy định này là rất phù hợp để nhằm hạn chế việc những người trực tiếp hoặc gián tiếp có quyền Quyết định sự tồn tại của tổ chức tham gia BHTG lợi dụng quyền hạn để thực hiện những mục đích cá nhân, gây ảnh hưởng đến người gửi tiền và tổ chức BHTG Việt Nam.
Có thể thấy ở Việt Nam quy định chỉ bảo hiểm đối với đồng Việt Nam vì đây là đồng tiền được phép lưu hành trên thị trường Việt Nam. Thực chất của việc quy định này là nhằm bảo vệ chủ quyền tiền tệ quốc gia. Mặt khác, đây cũng chính là việc thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối của Nhà nước. Tuy nhiên, khi Việt Nam đang hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày một đông đảo. Việc họ đem theo những đồng ngoại tệ tới Việt Nam và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như mở tài khoản, sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng… bằng đồng ngoại tệ để phục vụ cho hoạt động đầu tư sẽ ngày càng phổ biến. Điều này đặt ra yêu cầu cần mở rộng thêm đối tượng tiền gửi được bảo hiểm là đồng ngoại tệ. Việc mở rộng này không những góp phần bảo vệ các nhà đầu tư nước ngoài,khuyến khích họ tới đầu tư tại Việt Nam, mà còn tạo điều kiện để các TCTD trong nước huy động nhiều hơn lượng vốn nhàn rỗi trong xã hội.
c/ Số tiền bảo hiểm:
Tại điều 4 khoản 1 Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ về BHTG quy đinh : “Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia BHTG, tối đa là 30 triệu đồng Việt Nam”. Song do cơ sở kinh tế-xã hội của những quy định pháp luật thay đổi, cụ thể là đời sống nhân dân ngày một tăng lên, số người gửi tiền vào các TCTD ngày một nhiều và số tiền họ gửi cũng ngày một lớn hơn. Số người gửi tiền có số dư dưới 30 triệu đồng đã trở thành số ít, và khi đó việc pháp luật quy định giới hạn số tiền bảo hiểm tối đa 30 triệu đồng đã không còn phù hợp với thực tế. Nghị định Chính phủ số 109/2005/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP đã quy định về giới hạn số tiền bảo hiểm tại điều 1 khoản 3 như sau: “Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc một người đại diện hợp pháp) tại một tổ chức tham gia BHTG thuộc đối tượng quy định tại Điều 3 của Nghị định này, tối đa là 50 (năm mươi) triệu đồng”.
Với mức BHTG tối đa ở Việt Nam được quy định 50 triệu đồng vào thời điểm ban hành Nghị định 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ là phù hợp với mức tăng trưởng của nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam, là mức vừa đủ cao để khuyến khích người gửi tiền, có khả năng ngăn chặn được sự rút tiền hàng loạt khi ngân hàng có sự cố, nhưng cũng vừa đủ thấp để người gửi tiền phải thận trọng, cân nhắc khi gửi tiền và buộc các TCTD phải hoạt động an toàn, có hiệu quả. Nhưng trong tương lai gần, khi kinh tế đất nước phát triển, đời sống nhân dân ngày một nâng cao thì hạn mức chi trả tối đa có thể sẽ cần được điều chỉnh.
Việc thay đổi số tiền bảo hiểm tối đa trên là do Chính phủ Quyết định trên cơ sở đề nghị của tổ chức BHTG và ý kiến của Ngân hàng Nhà nước, Bộ tài chính. Đối với số tiền gửi vượt quá 50 triệu đồng được tổ chức BHTG chi trả cho người gửi tiền trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG phù hợp với quy định của Luật phá sản doanh nghiệp. Việc quy định mức tiền gửi được bảo hiểm tối đa thường được xác định trên cơ sở:
- Thu nhập bình quân đầu người (GDP/người);
- Mức độ rủi ro trong nền kinh tế cũng như trong hoạt động ngân hàng;
- Khả năng tích luỹ của tổ chức BHTG;
- Thực trạng kinh tế tài chính của quốc gia;
- Tỉ lệ số người gửi tiền được bảo hiểm.
Theo thông lệ các nước trên thế giới thì giới hạn số tiền bảo hiểm thường ở mức từ 2-3 lần GDP/người; ở Việt Nam, mức giới hạn tối đa số tiền bảo hiểm hiện gấp 5-6 lần GDP/người Bài viết “BHTG duy trì ổn định hệ thống tài chính-ngân hàng” TS. Lê Thị Kim Xuân- trang 4 (tạp chí phát triển kinh tế tháng 7/2008).
.
Việc quy định về giới hạn số tiền bảo hiểm không chỉ ở pháp luật nước ta mà có ở hầu hết các nước. Chẳng hạn như ở Mỹ là 100.000 USD; ở Nhật là 10.000.000 JPY; ở Bỉ là 50.000.000 BEF; ở Anh là 20.000 GBP; Canada là 60.000 USD; Pháp là 1.000.000 FRF Trang 120, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam trường đại học luật Hà Nội-NXB Công an nhân dân,năm 2008.
. Việc quy định số tiền bảo hiểm tối đa luôn luôn là động thái giúp củng cố niềm tin cho người gửi tiền vào hệ thống tài chính quốc gia, góp phần giảm thiểu lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
1.2.2.2.Phí BHTG:
Phí BHTG là khoản tiền mà tổ chức tham gia BHTG phải nộp cho tổ chức nhận BHTG để thực hiện bảo hiểm cho số tiền gửi của khách hàng khi có sự kiện bảo hiểm.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng năm tổ chức tham gia BHTG phải nộp cho BHTG Việt Nam một khoản phí bằng 0,15% tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền được bảo hiểm tại tổ chức tham gia BHTG. Số phí bảo hiểm được tính và thu 4 lần trong một năm. Việc thu phí được thực hiện theo quý, và số tiền phí của mỗi quý được nộp vào ngày cuối của tháng đầu quý tiếp theo. Tổ chức tham gia BHTG nếu vi phạm thời hạn nộp phí bảo hiểm theo quy định thì ngoài việc nộp đủ số phí còn thiếu phải chịu phạt mỗi ngày nộp chậm bằng 0,1% số tiền nộp chậm. Nếu sau thời hạn nộp phí 30 ngày, tổ chức tham gia BHTG chưa nộp phí BHTG, kể cả tiền phạt, tổ chức BHTG có quyền: yêu cầu Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước, TCTD nơi tổ chức tham gia BHTG mở tài khoản, trích tiền trên tài khoản của tổ chức đó để nộp phí, tiền phạt. Trong trường hợp trên tài khoản của tổ chức tham gia BHTG không đủ số dư để thực hiện việc trích nộp trên thì BHTG Việt Nam yêu cầu Ngân hàng Nhà nước, TCTD hoặc Kho bạc Nhà nước trích để nộp phí BHTG trước và nộp tiền phạt sau, đồng thời thông báo bằng văn bản cho tổ chức tham gia BHTG yêu cầu nộp phần còn thiếu.
Nếu quá thời hạn nộp phí BHTG 90 ngày (kể cả ngày nghỉ cuối tuần và ngày nghỉ lễ tết) theo quy định của pháp luật mà tổ chức tham gia BHTG vẫn không nộp đủ phí BHTG thì tổ chức BHTG Việt Nam có quyền:
- Ra Quyết định chấm dứt BHTG và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
- Đề nghị Ngân hàng Nhà nước ra Quyết định ngừng huy động tiền gửi cá nhân của tổ chức đó.
Việc thu phí BHTG được thực hiện thông qua hội sở của các tổ chức tham gia BHTG hoặc theo phương thức khác do BHTG Việt Nam và tổ chức tham gia BHTG thoả thuận.
Phần lớn các quốc gia có hệ thống BHTG, phí BHTG là tài chính quan trọng để đảm bảo cho tổ chức BHTG thực hiện hoạt động của mình, thông thường xây dựng phí BHTG phải đáp ứng một số yêu cầu như:
- Phí BHTG được thu từ các tổ chức có hoạt động kinh doanh ngân hàng (cụ thể là hoạt động nhận tiền gửi) nhằm đáp ứng chi phí trả tiền BHTG trong trường hợp tổ chức tham gia BHTG giải thể, phá sản.
- Khuyến khích việc huy động tiền gửi của TCTD.
- Cân đối giữa trách nhiệm đóng góp tài chính và quyền lợi mà tổ chức tham gia BHTG nhận được.
- Tiện lợi, khả thi và giảm thiểu những rủi ro cho tổ chức tham gia BHTG thực hiện nghĩa vụ đóng góp tài chính này.
Một nghiên cứu cho thấy, hạn mức chi trả bảo hiểm của BHTG Việt Nam cao thứ 5/35 nước có đặc điểm tương đối tương đồng trong xác định phí bảo hiểm và việc áp dụng chi trả bảo hiểm được nghiên cứu gấp 5-6 lần so với thu nhập bình quân đầu người. Trong khi đó, mức phí bảo hiểm chỉ xếp thứ 14 tính từ nước có mức phí thấp nhất Bài viết “Một số vấn đề pháp lí về BHTG ở Việt Nam” Th.S Phạm Nguyệt Thảo trang 53 (tạp chí luật học số 12/2007-trường đại học luật Hà Nội).
. Điều này thể hiện chính sách BHTG Việt Nam rất quan tâm tới quyền lợi của người gửi tiền và có tác động tích cực tới việ tăng huy động tiền gửi vào TCTD.
1.2.2.3. Sự kiện bảo hiểm và việc chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, tổ chức BHTG có trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm trong phạm vi giới hạn được pháp luật quy định khi tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định là không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn, trong vòng 60 ngày kể từ ngày cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức này chấm dứt các giao dịch để tiến hành thanh lý các tài sản hoặc kể từ ngày Toà án thông báo Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Như vậy, sự kiện bảo hiểm trong BHTG được xác định dựa trên cơ sở có đồng thời cả hai căn cứ sau:
- Một là, tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định là không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
- Hai là, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, có văn bản yêu cầu tổ chức này chấm dứt các giao dịch để tiến hành thanh lý các tài sản (giải thể) hoặc Toà án thông báo Quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật về phá sản.
Nếu như TCTD chỉ mới ở tình trạng có nguy cơ mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, TCTD đó sẽ được tổ chức BHTG áp dụng biện pháp hỗ trợ như:
- Cho vay hỗ trợ để chi trả tiền gửi được bảo hiểm.
- Bảo lãnh cho các khoản vay đặc biệt để có nguồn chi trả tiền gửi được bảo hiểm.
- Mua lại nợ trong trường hợp khoản nợ đó có tài sản bảo đảm.
Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, tổ chức BHTG Việt Nam có trách nhiệm chi trả số tiền được bảo hiểm cho những người gửi tiền hoặc người đại diện, người thừa kế của người gửi tiền theo quy định của pháp luật, căn cứ vào danh sách những người gửi tiền do tổ chức tham gia BHTG lập, được tổ chức tham gia BHTG xét duyệt trên cơ sở các chứng từ hợp lệ. Số tiền chi trả bảo hiểm của tổ chức BHTG cho người gửi tiền là số tiền mà người gửi tiền đã gửi tại tổ chức tham gia BHTG đó, bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi tính đến thời điểm có sự kiện bảo hiểm, nhưng không vượt quá giới hạn tối đa số tiền bảo hiểm 50 triệu mà pháp luật đã quy định. Việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền do tổ chức BHTG trực tiếp tiến hành hoặc uỷ quyền cho TCTD thực hiện trên cơ sở hợp đồng uỷ quyền theo quy định của pháp luật.
BHTG Việt Nam chỉ chi trả cho người gửi tiền khi có đủ điều kiện sau:
- Người đó phải có tên trong danh sách được phê duyệt;
- Người đó phải có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với các khoản tiền của mình tại tổ chức tham gia BHTG cùng chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu;
- Trường hợp người gửi tiền đánh mất các giấy tờ như sổ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi có ghi danh, giấy tờ có giá, hộ chiếu, chứng minh nhân dân… thì việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền hoặc xử lý theo hướng dẫn của BHTG Việt Nam.
Việc chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền được tiến hành theo trình tự, thủ tục sau: trong vòng 15 ngày kể từ ngày có sự kiện bảo hiểm xảy ra, tổ chức tham gia BHTG phải lập xong bảng kê danh sách người gửi tiền tại tổ chức mình và gửi cho cơ quan BHTG. Cơ quan BHTG cùng với tổ chức tham gia BHTG tiến hành tra bảng kê danh sách và số tiền mà BHTG Việt Nam phải trả đối với từng người gửi tiền. Sau khi thống nhât danh sách người gửi tiền, tổng số tiền mà BHTG phải trả theo quy định để trình Hội đồng quản trị BHTG Việt Nam phê duyệt làm cơ sở triển khai việc chi trả. Sau đó cơ quan BHTG phải thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết danh sách người gửi tiền được chi trả tại trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan BHTG. Người gửi tiền sẽ thực hiện việc đăng ký nhận tiền bảo hiểm gồm nội dung như: địa điểm nhận tiền, phương thức thanh toán… cơ quan BHTG thực hiện việc chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền sau khi đã hoàn tất các thủ tục nêu trên và người gửi tiền đã có đủ điều kiện mà pháp luật quy định. Trường hợp vì lý do khách quan, người được nhận tiền bảo hiểm có thể uỷ quyền cho người khác đến nhận. Người được uỷ quyền phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, phải xuất trình giấy uỷ quyền có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền theo pháp luật Việt Nam cùng với giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu. Nếu người gửi tiền xuất cảnh để định cư ở nước ngoài hoặc chết thì BHTG Việt Nam sẽ tiến hành thủ tục chi trả theo sự uỷ quyền của chủ sở hữu và theo quy định của pháp luật Việt Nam về thừa kế tài sản.
Sau thời gian 10 ngày kể từ ngày tổ chức BHTG có thông báo đầu tiên vê việc chi trả tiền bảo hiểm, những khoản tiền bảo hiểm không có người nhận sẽ được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG và người có quyền sở hữu khoản tiền gửi được bảo hiểm sẽ không còn quyền đòi tổ chức bảo hiểm chi trả số tiền bảo hiểm đó.
Tổ chức BHTG sau khi thực hiện việc chi trả số tiền bảo hiểm sẽ trở thành chủ nợ của tổ chức tham gia BHTG với số tiền bảo hiểm đã chi trả và được tham gia vào quá trình quản lý, thanh lý, phân chia giá trị tài sản của tổ chức tham gia BHTG theo thứ tự thanh toán như đối với người gửi tiền khác theo quy định của pháp luật về giải thể, phá sản. Số tiền thu hồi được từ việc thanh lý tài sản của tổ chức tham gia BHTG bị buộc giải thể do không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn hoặc bị phá sản sẽ được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức BHTG.
1.3: Pháp luật về BHTG ở một số nước trên thế giới:
1.3.1. Pháp luật BHTG ở Mỹ:
BHTG đối với Việt Nam còn là một loại hình bảo hiểm rất mới mẻ nhưng trên thế giới đã có nhiều nước thành lập cơ quan BHTG để nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng của các TCTD cũng như tạo niềm tin cho người gửi tiền.
Sau một loạt vụ phá sản của các ngân hàng ở Mỹ vào những năm 1930 – 1933, trong đó những món nợ tiền tiết kiệm của nhiều người gửi tiền của các ngân hàng thương mại bị mất trắng. Để ngăn ngừa những tổn thất trong tương lai của người gửi tiền do những vụ vỡ nợ hệ thống ngân hàng nhận tiền gửi; năm 1934, công ty BHTG liên bang (Federal Deposit Insurance Corporation – FDIC) của Hoa Kỳ được thành lập.
Trước khi FDIC được thành lập, số ngân hàng rơi vào tình trạng phá sản rất cao, và khi một ngân hàng bị vỡ nợ thì người gửi tiền sẽ phải đợi lấy lại tiền vốn gửi của họ chỉ đến khi ngân hàng đó được thanh lí, lúc đó những người gửi tiền sẽ chỉ được thanh toán một phần của giá trị món gửi. Kể từ sau khi FDIC được thành lập,số vụ vỡ nợ ngân hàng được giảm hẳn. Nếu những năm 1930 số lượng các vụ vỡ nợ ngân hàng trung bình là 2000/năm thì từ năm 1995 đến 1999 chỉ có 16 ngân hàng tham gia BHTG bị phá sản và những người gửi tiền có số tiền gửi dưới 100.000 đô la Mỹ đều được bảo đảm thanh toán đầy đủ Bài viết “Tiền tệ - Ngân hàng và Thị trường tài chính – trang 294 – Ferederic S-mishkin” (Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2004)
. Điều này đã tạo niềm tin, sự yên tâm cho người gửi tiền và do đó họ ít có ý muốn rút tiền của họ ra khiến ngân hàng vỡ nợ. Như vậy có thể thấy rằng việc thành lập cơ quan BHTG là một giải pháp đúng đắn trong việc giải quyết bài toán vỡ nợ của ngân hàng.
Mạng lưới FDIC gồm Trụ sở chính đặt tại Washington DC, 06 chi nhánh khu vực đặt tại các tiểu bang. Dưới các chi nhánh khu vực cũn cú cỏc chi nhỏnh địa phương là cơ quan trực tiếp thực hiện việc kiểm tra tại chỗ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Vốn ban đầu của FDIC không lấy từ ngân sách liên bang mà được Chính phủ cho phát hành trái phiếu bán cho các tổ chức tài chính ngân hàng. FDIC được quyền lấy phí bảo hiểm tiền gửi để bù đắp chi phí hoạt động và bổ sung vốn điều lệ. Ngoài ra, FDIC cũn được đảm bảo khả năng thanh khoản bởi một khoản tín dụng dự phũng trị giỏ 30 tỷ USD do Cục dự trữ Liờn bang và Bộ Tài chớnh Hoa Kỳ cấp Bài viết “mô hình BHTG Liên bang Hoa Kỳ” – trang web www.div.gov.vn.
.
Hạn mức bảo hiểm ban đầu khi FDIC bắt đầu hoạt động vào ngày 01/01/1934 là 2.500 USD. Đến ngày 01/6/1934, FDIC nâng mức bảo hiểm tối đa lên 5.000 USD. Sau nhiều lần tăng, đến năm 1980, mức bảo hiểm tối đa là 100.000 USD. Ngày 01/4/2006 mức bảo hiểm tối đa cho tài khoản tiết kiệm hưu trí đó được nâng lên 250.000 USD.
Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nghĩa là việc ngân hàng sẽ đặt vào tình trạng phá sản,FDIC đã sử dụng 2 phương pháp chủ yếu để xử lí:
Phương pháp thứ nhất: gọi là “phương pháp thanh toán hết”,FDIC cho phép ngân hàng đó vỡ nợ và thanh toán hết cho các món tiền gửi tối đa tới 100.000 đô la(bằng tiền vốn thu phí bảo hiểm do những ngân hàng đã mua bảo hiểm của FDIC trả).Sau khi ngân hàng được thanh lí, FDIC sẽ cùng với các chủ nợ khác của ngân hàng này nhận phần thanh toán của mình trong số tiền thanh lí các tài sản có của ngân hàng vỡ nợ đó.Nói chung khi áp dụng “phương pháp thanh toán hết”những người có các món gửi vượt qua giới hạn 100.000 đô la chỉ được nhận lại trên 90 xu cho mỗi đô la tiền gửi. Quá trình này có thể mất một vài năm mới hoàn thành, do đó phương pháp thanh toán này ít được dùng.
Phương pháp thứ hai: gọi là “phương pháp mua và nắm quyền kiểm soát”. Theo phương pháp này, FDIC tổ chức lại ngân hàng vỡ nợ, nói chung bằng cách tìm một người chung phần sẵn lòng hợp nhất, người này nhận gánh lấy tất cả những món tiền gửi của Ngân hàng không trả được nợ. Do đó, không ai trong số những người gửi tiền ở ngân hàng vỡ nợ này bị tổn thất. FDIC có thể giúp người chung phần hợp nhất với ngân hàng vỡ nợ bằng cách cung cấp cho người đó những món tiền cho vay trợ cấp hoặc bằng cách mua một số trong những món cho vay yếu kém hơn của Ngân hàng vỡ nợ đó. Kết quả thực của “phương pháp mua và nắm quyền kiểm soát” là ở chỗ FDIC đã bảo đảm tất cả các món tiền gửi, chứ không chỉ những món tiền gửi dưới 100.000 đô la Bài viết “Một số vấn đề về BHTG ở quỹ tín dụng nhân dân” TS. Trương Thị Kim Dung , trang 10,11 (tạp chí luật học số 6 tháng 12/1996 – Trường đại học luật Hà Nội).
. “Phương pháp mua và nắm quyền kiểm soát” là phương thức phổ biến nhất của FDIC để giải quyết một Ngân hàng bị vỡ nợ, đặc biệt là khi Ngân hàng này là loại lớn và FDIC sợ rằng những tổn thất của người gửi tiền có thể khuyến khích những vụ phá sản kinh doanh và các vụ vỡ nợ Ngân hàng khác.
FDIC của Mỹ thu phí bảo hiểm là 23 xu cho mỗi trăm đô la tiền gửi mỗi năm. Theo số liệu năm 1990 thì quỹ bảo hiểm Ngân hàng của FDIC là dưới 10 tỷ đô la. Khi so sánh với tổng số các món tiền gửi có đóng bảo hiểm là 2000 tỷ đô la thì số tiền quỹ dưới 10 tỷ đô la của FDIC là quá nhỏ. Thế nhưng công chúng Mỹ vẫn tin tưởng rằng các món tiền gửi lên đến 100.000 đô la là an toàn. Bởi công chúng Mỹ đều tin tưởng vào sự cam kết ngăn ngừa các tổn thất của những người gửi tiền do Chính phủ đưa ra Bài viết “Tiền tệ - Ngân hàng và Thị trường tài chính – trang 294 – Ferederic S-mishkin” (Nhà xuất bản công an nhân dân năm 2004)
.
Có thể khẳng định mô hỡnh Bảo hiểm tiền gửi liờn bang Hoa Kỳ là một mụ hỡnh tổ chức bảo hiểm tiền gửi tiờn tiến. Thực tế hoạt động đó chứng minh vai trũ đặc biệt quan trọng của FDIC trong mục tiêu bảo vệ người gửi tiền, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân hàng tại Hoa Kỳ. Nhiều quốc gia Châu Á đó xõy dựng cơ quan bảo hiểm tiền gửi của mỡnh theo mụ hỡnh FDIC như Hàn Quốc, Đài Loan…Theo thời báo Asian Wall street ngày 28 tháng 6 năm 2006, Chính phủ Trung Quốc đó xỏc nhận FDIC là mụ hỡnh mẫu của quốc gia này trong kế hoạch xõy dựng Bảo hiểm tiền gửi Trung Quốc sắp tới. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế chung đú Bài viết “mô hình BHTG Liên bang Hoa Kỳ” – trang web www.div.gov.vn.
.
1.3.2. Pháp luật BHTG ở Indonesia:
BHTG Indonesia (IDIC) được thành lập và đi vào hoạt động vào ngày 22/09/2005 theo Luật BHTG được Quốc hội Indonesia ban hành năm 2004. Trước khi thành lập IDIC, Chính phủ Indonesia đã thực hiện bảo hiểm toàn bộ tiền gửi, đặc biệt sau khủng hoảng ngân hàng và tiền tệ ở Indonesia vào năm 1998 để lấy lại niềm tin của công chúng vào hệ thống tài chính – ngân hàng. Nhưng việc bảo hiểm đó đã dẫn tới những rủi ro về mặt đạo đức và gia tăng gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, do đó cần có sự thay đổi chính sách về BHTG cho phù hợp với tình hình mới. Luật BHTG Indonesia đã truyền tải được toàn bộ thay đổi về mặt chính sách BHTG ở quốc gia này.
Luật BHTG Indonesia bao gồm 103 điều, tập trung ở 4 nhóm vấn đề sau Bài viết “ Luật BHTG Indonesia kinh nghiệm nào cho Việt Nam” của tác giả Thuý Sen đăng trên trang web: www.div.gov.vn.
:
Nhóm 1: Những quy định chung:
- Cơ chế tham gia BHTG: theo điều 8 Luật BHTG Indonesia, tất cả các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ của Indonesia phải tham gia BHTG bắt buộc.
- Loại tiền gửi được bảo hiểm: bao gồm tiền gửi tiết kiệm, tài khoản vãng lai, chứng chỉ tiền gửi, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi bằng đồng rupiah, tiền gửi ngoại tệ, cũng như tiền gửi hồi giáo và tiền gửi thông thường.
- Hạn mức chi trả tiền gửi được BHTG: hạn mức BHTG được chi trả cho mỗi cá nhân tại một ngân hàng là 100.000.000 rupiah (11.000 đô la). Hạn mức này gấp khoảng 9,6 lần GDP bình quân đầu người của Indonesia.
Nhóm 2: Những quy định liên quan đến BHTG:
- Về năng lực tài chính: nguồn vốn của IDIC bao gồm nguồn vốn Nhà nước và vốn tư nhân. Nguồn vốn ban đầu không hoàn lại là 4000 tỷ rupiah (khoảng 435 triệu đô la). Hiện nay nguồn vốn hoạt động của IDIC khoảng 1 tỷ đô la. Nguồn vốn được sử dụng để chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm, thanh toán các chi phí khác liên quan đến việc chi trả cho người gửi tiền và để xử lý đổ vỡ ngân hàng. Quỹ mục tiêu là 2,5% tổng số tiền gửi trong hệ thống ngân hàng. IDIC được đảm bảo hỗ trợ tài chính hoàn toàn từ Chính phủ.
- Về phí BHTG: các thành viên đóng phí BHTG đồng hạng 6 tháng 1 lần là 0,1% trên tổng số tiền gửi (0,2%/năm). Theo điều 15 của Luật BHTG Indonesia quy định: tỷ lệ phí cố định có thể được điều chỉnh sang hệ thống phí theo mức độ rủi ro. Trong trường hợp thiết lập hệ thống phí điều chỉnh theo mức độ rủi ro, chênh lệch giữa các hạng phí cao nhất không được vượt quá 0,5%.
- Về các nghiệp vụ BHTG: trong các nghiệp vụ của IDIC ._.o cá số dư tiền gửi của TCTD, tổ chức kinh tế, tiền gửi bằng ngoại tệ là những đối tượng không được bảo hiểm, làm tăng chi phí không đáng có cho đơn vị, giảm đáng kể nguồn vốn trong thời gian dài mà không được phát hiện Bài viết “Một số đề xuất nhằm khắc phục sai sót trong việc tính và nộp phí BHTG đối với tổ chức tham gia BHTG” – Phạm Thị Hiền (trang web: www.div.gov.vn)”
.
b/ Trong việc quản lý và đầu tư nguồn vốn: BHTG Việt Nam thực hiện quản lý và đầu tư vốn theo đúng quy định của Nhà nước và của BHTG Việt Nam về đối tác, lượng vốn, kỳ hạn đầu tư, đồng thời đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu thanh toán của BHTG Việt Nam. Tổng lượng vốn đầu tư của BHTG Việt Nam đến cuối năm 2005 đạt 1.855,8 tỷ đồng, tăng 265 tỷ đồng so với năm 2004. Tổng vốn đầu tư đến hạn thanh toán trong năm là 1642 tỷ đồng, tổng lãi thu được là 112 tỷ đồng, tăng 13 tỷ đồng so với năm 2004 Báo cáo thường niên 2005 của DIV” đăng trên trang web: www.div.gov.vn.
. Số vốn đầu tư của BHTG Việt Nam không ngừng được tăng lên đến 31/12/2007 nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi là 2.903 tỷ đồng đã được đầu tư dưới nhiều hình thức phù hợp, đồng thời nâng cao hiệu quả tích luỹ quỹ nghiệp vụ Báo cáo thống kê của DIV năm 2007, đăng trên trang web: www.div.gov.vn.
.
Ngày 18/01/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13/2008/QĐ-TTg về quy chế quản lý tài chính đối với DIV, trong đó có quy định mức vốn điều lệ là 5.000 tỷ đồng do Ngân sách Nhà nước cấp thay cho mức 1.000 tỷ đồng trước đây được quy định tại Quyết định 218/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức BHTG Việt Nam. Tuy nhiên tính đến thời điểm hiện tại, nguồn vốn hoạt động của BHTG Việt Nam khoảng 3.015 tỷ đồng (đạt sấp sỉ 1% tổng số dư tiền gửi được bảo hiểm, trong đó vốn điều lệ của Ngân sách Nhà nước cấp là 1.000 tỷ đồng, phần còn lại là phí BHTG do các tổ chức tham gia BHTG nộp và từ hoạt động đầu tư của DIV Bài viết “BHTG, một chính sách công quan trọng của nền kinh tế hội nhập”- TS. Nguyễn Như Minh,phó tổng giám đốc BHTG Việt Nam,trang4 (tạp chí ngân hàng số 20 táng 10 năm 2008).
. Do mục đích ra đời của tổ chức BHTG Việt Nam là nhằm bảo vệ quyền và lợ ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn địnhcủa các TCTD, đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh cho hoạt động ngân hàng. Do đó việc tổ chức BHTG Việt Nam sử dụng nguồn vốn điều lệ do Nhà nước cấp và nguồn vốn thu được từ việc đóng phí của các tổ chức tham gia BHTG phải luôn đảm bảo an toàn. Vì thế khi tìm hiểu những lĩnh vực đầu tư của tổ chức BHTG Việt Nam sẽ thấy được rằng đó là những lĩnh vực có độ an toàn rất cao như: đầu tư vào trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Kho bạc Nhà nước, tiền gửi có kỳ hạn tại các TCTD Nhà nước theo đúng quy định, đảm bảo an toàn, bảo tồn vốn và bù đắp chi phí.
Thứ sáu: Đối với việc chi trả và tham gia thanh lý tài sản của tổ chức nhận tiền gửi:
Khi tổ chức tham gia BHTG bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có văn bản chấm dứt hoạt động và tổ chức đó bị mất khả năng thanh toán, BHTG Việt Nam đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền tại các tổ chức tham gia BHTG theo đúng quy định. Tính đến nay, DIV đã thực hiện chi trả tiền gửi bảo hiểm cho 1.519 người gửi tiền tại 37 quỹ tín dụng nhân dân trong phạm vi cả nước với tổng số tiền được chi trả gần 19 tỷ đồng, trong đó tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long là 8 quỹ với số tiền hơn 9 tỷ đồng của 400 người gửi tiền. Và gần đây nhất phải kể đến việc BHTG Việt Nam chi trả tiền gửi cho người gửi tiền tại Quỹ tín dụng nhân dân An Thành – Quảng Ngãi với số tiền là 705.497.200 đồng (bao gồm số tiền gốc là 681.190.000 đồng và lãi là 24.307.200 đồng) của 44 cá nhân (74 sổ tiết kiệm). Và Quỹ tín dụng nhân dân Vĩnh Phong – Kiên Giang với số tiền chi trả bảo hiểm cả gốc và lãi là 372.323.400 đồng cho 10 khách hàng gửi tiền (13 sổ tiền gửi) Bài viết của tác giả Phạm Thị Hiền, đăng trên trang web: www.div.gov.vn.
.
Sau khi chi trả tiền gửi bảo hiểm, BHTG Việt Nam đã tổ chức theo dõi hoạt động thanh lý tài sản của TCTD bị giải thể nhằm thu hồi vốn đã chi trả bảo hiểm. Trong năm 2005, BHTG Việt Nam đã trực tiếp theo dõi 33 Quỹ tín dụng nhân dân bị giải thể trên địa bàn 10 tỉnh, thành phố. Tổng thu thanh lý năm 2005 đạt 1.974 triệu đồng, nâng mức luỹ kế thu thanh lý là 18.188 triệu đồng. Tổng chi thanh lý năm 2005 là 1.953 triệu đồng, luỹ kế chi thanh lý là 15.939 triệu đồng, trong đó thanh toán cho BHTG Việt Nam là 1.348 triệu đồng, luỹ kế là 2.724 triệu đồng.
Báo cáo thường niên năm 2005 của DIV trên trang web: www.div.gov.vn
Theo số liệu thống kê năm 2007 DIV đã tham gia thanh lý 34 quỹ tín dụng bị giải thể, thu hồi tổng số tiền là 973,8 triệu đồng (tổng số thanh toán các khoản phải trả là 962,18 triệu đồng, trong đó hoàn trả DIV là 547 triệu đồng. Báo cáo thống kê của DIV năm 2007 trên trang web: www.div.gov.vn
Thứ bảy: Đối với hoạt động thông tin tuyên truyền:
BHTG là lĩnh vực hoạt động còn mới mẻ vì vậy công tác thông tin tuyên truyền có vị trí rất quan trọng. Hoạt động thông tin tuyên truyền ngày càng phong phú và đa dạng cả về nội dung và hình thức phù hợp với các đối tượng, đặc biệt là người gửi tiền. Để đưa hoạt động của BHTG đi vào cuộc sống, nhằm mục tiêu bảo vệ tốt quyền lợi của người gửi tiền, BHTG Việt Nam đã xây dựng được một mạng lưới cộng tác viên trong các nhóm truyền thông cơ bản: Đài truyền hình TW, Đài tiếng nói Việt Nam, các báo có đông đảo bạn đọc liên quan đến hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, các báo điện tử thực hiện tuyên truyền các chủ trương, chính sách về BHTG định kỳ hàng tháng với nhiều hình thức tuyên truyền: tổ chức phát tờ rơi giới thiệu về BHTG và giới thiệu về quyền lợi của người gửi tiền, xây dựng nhiều phóng sự, tổ chức họp báo nhằm tuyên truyền chủ trương chính sách mới về BHTG. Gần 10 năm qua, BHTG Việt Nam phối hợp với Ngân hàng Nhà nước tổ chức các hội nghị về hoạt động BHTG tại các địa bàn khác nhau trên cả nước. Thành phần tham dự hội nghị là các tổ chức tham gia BHTG, đại diện chính quyền, ban ngành, cơ quan báo chí trên địa bàn. Nội dung hội nghị là phổ biến các chủ trương chính sách của Nhà nước về BHTG, phối hợp với Đài phát thanh truyền hình TW và địa phương đưa tin, hình ảnh về hoạt động BHTG Việt Nam tại các tổ chức tham gia bảo hiểm. Hiện nay, BHTG Việt Nam đã triển khai xây dựng và thiết lập trang web trên mạng internet với địa chỉ www.div.gov.vn nhằm giúp công chúng có thể trực tiếp thu thập được nhiều loại thông tin về BHTG ở trên mạng. Song mặc dù tổ chức BHTG Việt Nam đã áp dụng mọi hình thưc tuyên truyền có thể để giới thiệu, phổ biến đến người dân về chính sách BHTG, nhưng phần đông dân cư, đặc biệt là người dân ở vùng nông thôn chưa biết đến BHTG. Hiện DIV đang nghiên cứu những vấn đề về hoạt động quan hệ công chúng để xây dựng chiến lược phát triển quan hệ công chúng giai đoạn 2008-2010 và tầm nhìn đến 2015.
Thư tám: Đối với việc phát triển công tác đối ngoại và công tác quốc tế:
BHTG là một hoạt động mới mẻ ở Việt Nam do đó học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực này là đặc biệt quan trọng. Sau một thời gian hoạt động, BHTG Việt Nam đã thực hiện tốt quy định của pháp luật về BHTG, hoạt động theo đúng mô hình và các tiêu chí cơ bản như các nước tiên tiến khác đã làm trong lĩnh vực BHTG. Do vậy, sau khi nghiên cứu tình hình hoạt động của BHTG Việt Nam, Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI) đã chính thức công nhận và kết nạp BHTG Việt Nam là thành viên của Hiệp hội BHTG quốc tế vào tháng 02 năm 2003, Phó Chủ Tịch khu vực Châu Á nhiệm kỳ 2006-2007. Tại diễn đàn này là cơ hội quan trọng để Việt Nam cùng với các nước thành viên khác chia sẻ những kết quả và kinh nghiệm trong lĩnh vực BHTG nhằm đóng góp vào sự ổn định của hệ thống ngân hàng và hệ thống tài chính nói chung.
Ngoài ra BHTG Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội tin học Hà Nội, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, hội viên của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, hội viên nghề nghiệp của Hiệp hội ngân hàng Châu Á . BHTG Việt Nam đã chủ động phối hợp thường xuyên và chặt chẽ với các tổ chức tài chính quốc tế như: Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB) về các hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ tài chính mang tính chất dài hạn Báo cáo thường niên năm 2005 của DIV trên trang web: www.div.gov.vn
.
Mặc dù đi vào hoạt động trong thời gian ngắn, song BHTG Việt Nam đã thực sự phát huy vai trò to lớn của mình trong hệ thống tài chính tiền tệ nước ta. Cùng với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, BHTG Việt Nam vừa tranh thủ học hỏi kinh nghiệm về quản lý, tổ chức… vừa nhằm quảng bá nâng cao vị thế của mình. BHTG Việt Nam đã tham gia các hội thảo quốc tế về quản lý rủi ro và BHTG, tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo để nắm bắt thông tin và yêu cầu phát triển từ nền kinh tế cũng như xây dựng các định hướng phát triển BHTG Việt Nam từ các tổ chức tài chính, ngân hàng quốc tế. Từ khi trở thành thành viên của Hiệp hội BHTG quốc tế, BHTG Việt Nam đã tham gia tích cực trong những hoạt động chung của Hiệp hội, những hội nghị quan trọng mà BHTG Việt Nam đã tham gia như:
- Hội nghị thường niên hiệp hội BHTG quốc tế lần 2 ( tháng 10/2003) tại Seoul- Hà Quốc;
- Hội nghị thường niên hiệp hội BHTG quốc tế lần 3 ( 26-27 tháng 10/2004) tại Brunnen – Switzeland;
- Hội nghị thường niên hiệp hội BHTG quốc tế lần 4 (26-27 tháng 09/2005) tại Grand Hotel – Taipei – Taiwan;
- Hội nghị quốc tế Hiệp hội BHTG quốc tế 2006. Do PDIC phối hợp với ADB tổ chức với chủ đề “hội nhập giám sát tài chính và vai trò của BHTG” (16-17 tháng 02/2006) tại Manila – Philippines;
- Hội nghị thường niên hiệp hội BHTG quốc tế lần 5 (15-17 tháng 11/2006) tại Copacabana Palace Hotel – Rio de janeiro – Brasil;
- Hội nghị thường niên Uỷ ban BHTG Châu á lần thứ 5 (ARC 5) và hội thảo quốc tế về BHTG. Do DIV phối hợp với ADB tổ chức với chủ đề “nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG” (ngày 29/03/2007) tại khách san Daewoo – Hà Nội – Việt Nam “phần sự kiện trang web: www.div.gov.vn”
.
Trong thời gian tới, BHTG Việt Nam tiếp tục tham gia mạnh mẽ hơn vào các ban nghiên cứu chính sách của Hiệp hội BHTG quốc tế, xây dựng và triển khai nghiên cứu sao cho phù hợp với hoạt động thực tiễn của Việt Nam và phù hợp với quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của đất nước.
2.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật BHTG Việt Nam:
Mặc dù mới đi vào hoạt động không lâu; song BHTG Việt Nam đã tỏ rõ vai trò to lớn của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, trở thành một công cụ đảm bảo an toàn cho hoạt động của hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia. Trong thời gian qua, BHTG Việt Nam đã đạt được những thành tích đáng kể; song qua quá trình kiểm nghiệm hoạt động thực tế cho thấy một số những hạn chế bất cập trong quy định pháp luật về BHTG cần phải được hoàn thiện theo hướng ban hành, sửa đổi, bổ sung, thay thế nhằm phúc đáp yêu cầu đổi mới và hội nhập của nền kinh tế đất nước. Để nâng cao vị thế của BHTG Việt Nam và hoạt động của cơ quan BHTG Việt Nam cần thiết phải có những phương hướng hoàn thiện pháp luật về BHTG cụ thể :
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động BHTG ở Việt Nam: trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng, nhất là khi Việt Nam đã tham gia tổ chức thương mại thế giới (WTO), chúng ta vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với những thách thức không nhỏ. Điều quan trọng là phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật theo cơ chế thị trường và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý theo quy định của WTO. Trong điều kiện nền kinh tế ngày càng chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, với cơ sở pháp lý ở mức Nghị định đã bộc lộ một số hạn chế, tồn tại và bất cập có ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả hoạt động của BHTG Việt Nam trong thời gian qua. Để xây dựng BHTG Việt Nam trở thành một định chế tài chính lớn mạnh, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, nâng cao niềm tin công chúng, góp phần ổn định hệ thống tài chính quốc gia, cần thiết phải nâng tầm hoạt động của BHTG Việt Nam trên cơ sở xây dựng Luật BHTG, nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động BHTG Việt Nam trong thời gian tới theo hướng:
Mở rộng đối tượng tham gia BHTG tới tất cả các tổ chức có nhận tiền gửi bằng Việt Nam đồng của tổ chức cá nhân (như tiết kiệm bưu điện, công ty bảo hiểm nhân thọ, công ty nhận uỷ thác đầu tư chứng khoán…) để vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền đồng thời tránh được những mâu thuẫn trong quy định của pháp luật về BHTG Bài viết “Một số vấn đề pháp lý về BHTG ở Việt Nam” – Th.S Phạm Nguyệt Thảo , trang 50 (Tạp chí Luật học số 12/2007-trường đại học luật Hà Nội.)
.
Luật BHTG cần mở rộng tiền gửi được bảo hiểm bao gồm cả tiền gửi nội tệ và ngoại tệ để đảm bảo công bằng bình đẳng trong nền kinh tế, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền bằng ngoại tệ.
Quy định phí BHTG trên cơ sở rủi ro. Song theo ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng do đặc điểm của các tổ chức tham gia BHTG ở nước ta mới thành lập, phát triển chưa bền vững nên hoạt động còn tiềm ẩn nhiều khó khăn, nhất là các TCTD quy mô nhỏ như các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Theo pháp luật hiện hành quy định các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ở nước ta bắt buộc phải tham gia BHTG. Quy định này là cần thiết, góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống quỹ tín dụng nhân dân.
Song một thực tế là các TCTD quy mô nhỏ mà điển hình là các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hoạt động khó khăn hơn rất nhiều các TCTD có quy mô lớn, những rủi ro luôn tiềm ẩn trong hoạt động của chúng. Do đó, nếu quy định thu phí BHTG trên cơ sở rủi ro thì vô tình sẽ tạo thêm gánh nặng đối với các TCTD quy mô nhỏ như quỹ tín dụng nhân dân cơ sở. Bởi rủi ro càng cao thì phải nộp phí BHTG càng cao, điều này sẽ làm tăng thêm rủi ro và trở nên khó khắc phục khó khăn đối với các TCTD nhỏ. Hơn nữa, việc đánh giá xếp loại các TCTD ở nước ta còn yếu và mới mẻ, chưa thể làm cơ sở cho việc xác định tỷ lệ phí BHTG trên cơ sở rủi ro được chính xác. Do đó, Luật nên quy định lộ trình của việc xác định mức phí BHTG theo từng giai đoạn phù hợp với thực tế phát triển kinh tế-xã hội.
Nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm:
Hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm là một nội dung rất quan trọng của Luật BHTG và được người gửi tiền quan tâm nhất. Mức chi trả tối đa cao hay thấp sẽ có tác động đến tâm lý của người gửi. Theo phân tích của một số nhà nghiên cứu hạn mức chi trả hiện tại của BHTG Việt Nam là thấp so với thực tế; do đó cần nâng hạn mức chi trả tiền gửi được bảo hiểm tối đa cho mỗi cá nhân, tổ chức gửi tiền tại một tổ chức tham gia BHTG cao hơn mức đang áp dụng theo quy định hiện hành. Theo TS. Đinh Dũng Sĩ – Phó trưởng ban Pháp chế Văn phòng Chính phủ cho rằng: nên nâng hạn mức chi trả tối đa số tiền bảo hiểm cho mỗi cá nhân là 100 triệu và 200 triệu cho một tổ chức gửi tiền tại tổ chức tham gia BHTG. Trong giai đoạn này, với hạn mức chi trả tối đa mà TS. Đinh Dũng Sĩ đưa ra là phù hợp. Song do kinh tế xã hội luôn biến động không ngừng, vì vậy trong trường hợp mức quy định trên đây không còn phù hợp với thực tiễn hoạt động thì giao Chính phủ quy định trên cơ sở đề nghị của Ngân hàng Nhà nước và tổ chức BHTG Việt Nam.
Nâng cao vị trí pháp lý của tổ chức BHTG Việt Nam:
Để nâng cao trách nhiệm của tổ chức tham gia BHTG và xử lý kịp thời vi phạm trong lĩnh vực BHTG cần quy định về thẩm quyền xử lý vi phạm của tổ chức BHTG Việt Nam. Cụ thể như:
Tổ chức BHTG phụ trách xử lí những vấn đề liên quan tới: việc chậm nộp hoặc không nộp phí BHTG; vi phạm về nội dung và thời hạn nộp thông tin báo cáo của tổ chức tham gia BHTG Việt Nam; thu hồi giấy chứng nhận BHTG trong trường hợp vi phạm các quy định về chứng nhận đã được Luật quy định; xử lí các tổ chức tham gia BHTG trong trường hợp vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng.
Tổ chức BHTG Việt Nam trình cấp có thẩm quyền xử lí các vi phạm sau: trường hợp tổ chức tham gia BHTG vi phạm nghiêm trọng các quy định an toàn trong hoạt động ngân hàng, có thể dẫn tới việc đổ vỡ ngân hàng và đe doạ đến ổn định hệ thống tài chính; đơn vị cá nhân thuộc tổ chức BHTG Việt Nam vi phạm các quy định bảo mật thông tin, báo cáo của tổ chức tham gia BHTG; đơn vị, cá nhân thuộc tổ chức BHTG Việt Nam vi phạm trong việc tiếp nhận,quản lí và sử dụng nguồn lực vốn do Nhà nước giao.
Đồng thời cần quy định rõ sự phối hợp giữa BHTG Việt Nam với Ngân hàng Nhà nước trong việc tiếp nhận, xử lý các tổ chức tham gia BHTG phá sản, giải thể.Việc quy định sẽ tạo tính chủ động và chịu trách nhiệm của các cơ quan nêu trên, đảm bảo nguyên tắc kịp thời, tránh đổ vỡ dây chuyền trong hệ thống ngân hàng.
2.3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTG Việt Nam:
Thứ nhất: Nâng cao năng lực tài chính cho tổ chức BHTG Việt Nam:
Ngày 18/01/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 13/2008/QĐ-TTg về quy chế quản lý tài chính đối với DIV, trong đó có quy định mức vốn điều lệ là 5.000 tỷ đồng do Ngân sách Nhà nước cấp thay cho mức 1.000 tỷ đồng trước đây. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, nguồn vốn hoạt động của BHTG Việt Nam vào khoảng 3.015 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ do Ngân sách Nhà nước cấp là 1.000 tỷ đồng, phần còn lại là phí BHTG do các tổ chức tham gia BHTG nộp và từ hoạt động đầu tư của DIV. Theo PGS.TS. Lê Quốc Lý – Vụ trưởng Vụ tài chính tiền tệ, Bộ kế hoạch và đầu tư cho rằng: “tiềm lực tài chính của BHTG Việt Nam còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với nhiệm vụ đang và sẽ phải đảm đương” Bài viết “BHTG và vấn đề nâng cao năng lực tài chính” – PGS.TS. Lê Quốc Lý – Vụ trưởng Vụ tài chính tiền tệ, Bộ kế hoạch và đầu tư (Trang 40 Tạp chí ngân hàng số 12 tháng 06/2008)
. Từ nhận xét này cho thấy thực tế tổ chức BHTG ở Việt Nam chưa đủ tiềm lực tài chính để có thể đảm đương tốt được những nhiệm vụ của mình. Vậy cần thiết phải nâng cao tiềm lực tài chính cho tổ chức BHTG ở Việt Nam bằng cách như: cấp bổ sung vốn điều lệ từ Ngân sách Nhà nước cho BHTG Việt Nam, mở rộng lĩnh vực đầu tư mà tổ chức BHTG Việt Nam được phép tham gia…
Khi vị trí vai trò của BHTG Việt Nam ngày một tăng lên, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế có nhiều biến động lại càng đòi hỏi phải nâng cao tiềm lực tài chính của BHTG Việt Nam một cách nhanh chóng, để BHTG Việt Nam có thể đảm đương được vai trò của mình trong việc giữ ổn định hệ thống ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và xã hội.
Thứ hai: Đẩy mạnh hoạt động công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức công chúng về chính sách BHTG:
Là lĩnh vực hoạt động mới nên hoạt động tuyên truyền để nâng cao sự hiểu biết của công chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với tổ chức BHTG. Trong thời gian qua, hoạt động thông tin tuyên truyền tuy đã đạt được những kết quả đáng kể, song vẫn còn một số hạn chế nhất định như: chưa thực sự tuyên truyền sâu rộng những nội dung chính sách BHTG tới người dân, các hình thức tuyên truyền còn đơn điệu chưa mang lại hiệu quả cao. Do đó, phần lớn người dân, đặc biệt là những người dân vùng nông thôn vẫn chưa biết đến BHTG. Do đó BHTG Việt Nam cần đẩy mạnh, đổi mới các hình thức tuyên truyền quảng bá một cách rộng rãi để công chúng hiểu đầy đủ và an tâm về chính sách BHTG Việt Nam trong xu thế hội nhập sâu rộng, nâng cao chất lượng website và các loại tờ rơi, ấn phẩm có logo của BHTG Việt Nam để giúp công chúng dễ nhận biết thông tin, vai trò của tổ chức BHTG ở Việt Nam. Từ đó tạo lòng tin cho người dân, đồng thời giúp các tổ chức nhận tiền gửi có thể huy động một lượng vốn nhàn rỗi lớn, đáp ứng nhu cầu vốn phát triển kinh tế đất nước.
Thứ ba: Cần tiếp tục hoàn thiện bộ máy tổ chức theo mô hình giảm thiểu rủi ro và đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới trong xu thế hội nhập:
Trên Thế giới hiện có 3 mô hình tổ chức BHTG đó là: mô hình chuyên chi trả, mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng và mô hình giảm thiểu rủi ro.
- Mô hình tổ chức BHTG chuyên chi trả: là mô hình chủ yếu thực hiện chức năng bảo vệ thụ động người gửi tiền, thực hiện chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền sau khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản.
- Mô hình tổ chức BHTG chi trả với quyền hạn mở rộng: là mô hình thực hiện chi trả và có bổ sung một số chức năng tuỳ thuộc đặc thù của từng quốc gia.
-Mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro: là mô hình có các thẩm quyền nhằm bảo vệ tốt nhất người gửi tiền, đảm bảo sự an toàn hệ thống tài chính Bài viết “BHTG góp phần duy trì ổn định hệ thống tài chính – ngân hàng” T.S. Lê Thị Kim Xuân (Tạp chí phát triển kinh tế tháng 7/2008).
.
Ở Việt Nam hiện nay đang thực hiện mô hình tổ chức BHTG với quyền hạn mở rộng. Ngoài việc chi trả tiền bảo hiểm thì tổ chức BHTG Việt Nam còn hỗ trợ cho các tổ chức tham gia bảo hiểm khi mất khả năng chi trả nhưng chưa đến mức đặt trong tình trạng kiểm soát đặc biệt, tổ chức BHTG Việt Nam tham gia vào hoạt động giám sát rủi ro và xử lý các vi phạm của tổ chức tham gia BHTG…Song, so sánh với mô hình tổ chức mà BHTG Việt Nam đang áp dụng hay mô hình tổ chức BHTG chuyên chi trả thì mô hình tổ chức BHTG giảm thiểu rủi ro có các thẩm quyền nhằm bảo vệ tốt nhất người gửi tiền: đánh giá, giám sát rủi ro, đảm bảo an toàn của hệ thống tài chính – ngân hàng. Với mô hình này, tính phòng ngừa được thể hiện rất rõ, đồng thời mô hình cũng phản ánh một cách đầy đủ nhất bản chất của bảo hiểm là luôn gắn với rủi ro. Vì thế một tổ chức BHTG được coi là hiệu quả phải có các quyền hạn và chức năng tương ứng cho phép tổ chức này hạn chế đến mức tối đa rủi ro của quốc gia, của từng ngành dịch vụ, tài chính, và người gửi tiền. Tức là phải giảm đến mức thấp nhất những tổn thất xã hội trong quản trị rủi ro Bài viết “BHTG giảm thiểu rủi ro – mô hình cho mạng lưới an toàn tài chính hiệu quả”. Thuỳ Dương . Trang 35 (Tạp trí ngân hàng số 22 tháng 11 năm 2008)
.
Một trong năm nội dung chiến lược phát triển BHTG Việt Nam là: tái cấu trúc bộ máy, phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước. Để nâng cao hiệu quả hoạt động BHTG, đáp ứng yêu cầu của tổ chức giảm thiểu rủi ro, BHTG Việt Nam đã xác định được mô hình cơ cấu tổ chức và xác định rõ chức năng nhiệm vụ của các phòng nghiệp vụ theo nhóm khách hàng, các bộ phận hỗ trợ, hậu cần phù hợp với nghiệp vụ, có khả năng làm việc chủ động, sáng tạo và hiệu quả cao trên tinh thần hợp tác đáp ứng yêu cầu của BHTG Việt Nam trong xu thế hội nhập. Từ kinh nghiệm triển khai và kết quả thực hiện tái cấu trúc bộ máy chi nhánh theo định hướng lấy khách hàng làm tâm điểm, BHTG Việt Nam cần sớm tiếp tục triển khai tái cấu trúc bộ máy tại Trụ sở chính để tạo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống, vừa đáp ứng được tính chuyên môn hoá, vừa đảm bảo tính liên kết giữa các nghiệp vụ, nâng cao tính chuyên nghiệp trong quản lý rủi ro và góp phần nâng cao chất lượng quản lý khách hàng. Mặt khác, hiệu quả hoạt động của tổ chức BHTG Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nguồn nhân lực của tổ chức, do đó cần tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn nghiệp vụ để xây dựng được đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, đảm bảo các tiêu chuẩn về chuyên môn ngày càng đáp ứng yêu cầu đối mới trong xu thế hội nhập.
Thứ tư: Tăng cường sự phối hợp giữa BHTG Việt Nam với các tổ chức liên quan:
Hoạt động tài chính ngân hàng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chịu sự chi phối của các quan hệ kinh tế, chính trị trong nước và quốc tế. Vì vậy sự phối kết hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan để kịp thời xử lý các tình huống có thể xảy ra mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Tổ chức BHTG Việt Nam xây dựng theo mô hình giảm thiểu rủi ro cần được thu nhận thông tin của các cơ quan liên quan, đồng thời chia sẻ thông tin có được qua hoạt động giám sát, kiểm tra và cảnh báo sớm để có một hệ thống đánh giá khách quan, toàn diện và chính xác về an toàn hoạt động của tổ chức tham gia BHTG. Vì vậy, tổ chức BHTG Việt Nam cần phối kết hợp với các cơ quan liên quan như: Uỷ ban giám sát, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính… trong hoạt động của mình.
Thứ năm: Tăng cường công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế:
Kinh nghiệm quốc tế đối với hoạt động BHTG còn quá mới mẻ ở Việt Nam là rất cần thiết. Do đó Việt Nam cần tăng cường hơn nữa những hoạt động giao lưu với các tổ chức BHTG trên thế giới, từ đó trao đổi những kinh nghiệm cũng như thành tích đã đạt được nhằm tiếp thu những kinh nghiệm quý báu của nước bạn trong quản lí, tổ chức, hoạt động… của BHTG. Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức tài chính quốc tế đồng thời tăng cường tham gia các diễn đàn tài chính-ngân hàng để tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật và hỗ trợ tài chính cho hoạt động hiệu quả của tổ chức bảo hiẻm tiền gửi Việt Nam.
Theo dự báo, thị trường tài chính thế giới năm 2009 tiếp tục diễn biến xấu đi và gia tăng mức độ ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam, hệ thống tài chính tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn trầm trọng hơn. Trong bối cảnh đó, việc đảm bảo an sinh xã hội là hết sức cần thiết, mục tiêu này gắn liền với hiệu quả của việc tổ chức triển khai gói giải pháp tài chính. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Về chính sách tiền tệ, Chính phủ chỉ đạo tiếp tục thực hiện chính sách tài chính, tiền tệ linh hoạt hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và kích thích tăng trưởng. Trên cơ sỏ đó BHTG Việt Nam phải nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ Chính phủ giao thông qua việc chủ động phát huy nội lực và tận dụng tối đa sự trợ giúp từ những yếu tố bên ngoài.
Có thể nói sau gần 10 năm hoạt động, BHTG Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền, giữ vững niềm tin của công chúng , góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân hàng. Bên cạnh những thành tích đáng kể nêu trên, thì những khó khăn thách thức vẫn còn thường trực đối với BHTG Việt Nam, điều đó đòi hỏi BHTG Việt Nam cần phải cố gắng nỗ lực hết mình. Là công cụ tài chính của Chính phủ, BHTG Việt Nam cần thực hiện đồng bộ những giải pháp trên để từ đó nâng cao hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ của mình.
KẾT LUẬN
Tài chính – ngân hàng là lĩnh vực vô cùng nhạy cảm, trong đó người gửi tiền là đối tượng dễ “tổn thương” nhất trước mỗi biến động của thị trường tài chính. Đôi khi chỉ cần một tin đồn thất thiệt có thể dẫn tới đổ vỡ một ngân hàng, thậm chí cả một hệ thống ngân hàng vì người gửi tiền ồ ạt rút tiền tại các tổ chức nhận tiền gửi. Mọi chuyện còn có thể đi xa hơn, đó là mất ổn định về kinh tế-xã hội. Mặt khác cần hiểu rằng những khoản tiền gửi của người dân không phải là những con số “lạnh lùng” mà đây là tiền tiết kiệm, có khi là những dự kiến, kế hoạch cả đời người. Theo ông Mai Minh Đệ chủ tịch Hội đồng quản trị bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cho rằng “bảo hiểm tiền gửi ra đời không chỉ là biện pháp bảo đảm kinh tế thông thường mà còn có ý nghĩa an sinh xã hội rất lớn”.
Sau gần 10 năm đi vào hoạt động, mặc dù vẫn còn những thiếu sót nhưng bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động của ngành ngân hàng nói riêng.Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã góp phần không nhỏ trong việc ổn định phát triển lành mạnh của các tổ chức tín dụng. Hơn thế nữa nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi cũng đã bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, là nhân tố quan trọng trong việc phát huy nguồn vốn nội lực để phát triển kinh tế, giữ vững ổn định, an ninh kinh tế, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Đó là minh chứng khẳng định vị trí, vai trò, sự cần thiết của một biện pháp bảo đảm quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và mạng lưới an toàn tài chính quốc gia nói riêng. Với các chi nhánh được thành lập ở các vùng trong cả nước, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã thể hiện tốt vai trò và mục đích của mình.
Theo dự báo, thị trường tài chính thế giới năm 2009 tiếp tục diễn biến xấu đi và gia tăng mức độ ảnh hưởng tới nền kinh tế Việt Nam, hệ thống tài chính tiếp tục phải đối mặt với những khó khăn trầm trọng hơn. Với vai trò và trách nhiệm là tổ chức tài chính Nhà nước thực hiện nhiệm vụ bảo vệ người gửi tiền, giữ vững niềm tin của công chúng, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống tài chính - ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cần thực hiện tốt nhiệm vụ, nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính- ngân hàng trên cơ sở xây dựng nền tảng cơ chế chính sách tốt, năng lực tài chính đủ mạnh và một bộ máy hoạt động hiệu quả. Đó cũng là nhiệm vụ quan trọng đang được Đảng và Nhà nước ta quan tâm để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đưa Việt Nam hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài: 1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài: 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: 2
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài: 2
5. Kết cấu của luận văn: 3
CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BHTG 4
VÀ CHẾ ĐỘ BHTG Ở VIỆT NAM. 4
1.1. Những vấn đề chung về BHTG: 4
1.1.1. Khái niệm chung về BHTG: 4
1.1.2. Đặc điểm của BHTG: 5
1.1.3. Vai trò của BHTG : 6
1.2: Chế độ BHTG ở Việt Nam: 9
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của chế độ BHTG ở Việt Nam: 9
1.2.1.1. Khái niệm chế độ BHTG ở Việt Nam: 9
1.2.1.2. Đặc trưng của chế độ BHTG Việt Nam: 11
1.2.2. Nội dung cơ bản của chế độ BHTG ở Việt Nam: 12
1.2.2.1. Phạm vi áp dụng: 14
a/ Chủ thể quan hệ BHTG: 14
b/ Loại tiền được bảo hiểm : 18
c/ Số tiền bảo hiểm: 20
1.2.2.2.Phí BHTG: 21
1.2.2.3. Sự kiện bảo hiểm và việc chi trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm: 23
1.3: Pháp luật về BHTG ở một số nước trên thế giới: 25
1.3.1. Pháp luật BHTG ở Mỹ: 25
1.3.2. Pháp luật BHTG ở Indonesia: 28
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BHTG Ở VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN 33
2.1: Thực trạng pháp luật về BHTG ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng: 33
2.1.1. Đánh giá thực trạng những quy định pháp luật hiện hành về BHTG ở Việt Nam: 33
Thứ nhất: Quy định về đối tượng tham gia BHTG: 33
Thứ hai: Quy định về người được hưởng quyền lợi bảo hiểm: 35
Thứ ba: Quy định về loại tiền gửi được bảo hiểm: 36
Thứ tư: Quy định về phí BHTG: 38
Thứ năm: Quy định về hạn mức chi trả BHTG: 40
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật BHTG ở Việt Nam: 44
2.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật BHTG Việt Nam: 57
2.3. Phương hướng nâng cao hiệu quả hoạt động của BHTG Việt Nam: 60
KẾT LUẬN 65
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2115.doc