mục lục
Lời nói đầu 4
Chương I. Nội dung cơ bản của chế định về quyền SHTT liên quan đến thương mại theo các hiệp định của WTO 7
I ) Khái niệm về quyền SHTT và các điều ước quốc tế về quyền SHTT 7
1. Khái niệm quyền SHTT 7
2. Các điều ước quốc tế về SHTT 15
II ) Nội dung cơ bản của Hiệp định TRips 25
1. Các điều khoản chung và nguyên tắc cơ bản 25
2. Các tiêu chuẩn về việc xác lập phạm vi và sử dụng các quyền SHTT 26
3. Thực thi quyền SHTT 28
4. Thủ tục để hưởng và duy trì các q
80 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Chế định về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại của WTO và việc hoàn thiện các quy định tương ứng của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyền SHTT và thủ tục khác theo yêu cầu của các bên liên quan 29
5. Ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp 30
6. Các quy định chuyển tiếp 31
7. Các thoả thuận về thể chế và điều khoản cuối cùng 32
Chương II. Thực trạng pháp luật Việt nam về SHTT liên quan đến thương mại, so sánh với các quy định tương ứng của WTO 34
I ) Thực trạng pháp luật Việt nam về SHTT 34
1. Thực trạng pháp luật Việt nam về sở hữu công nghiệp 35
2. Thực trạng pháp luật Việt nam về quyền tác giả 41
3. Thực tiễn giải quyết tranh chấp về quyền SHTT tại các Toà án Việt nam 52
II ) Những điểm khác biệt của pháp luật Việt nam về SHTT so với quy định tương ứng của WTO 57
1. Những điểm khác biệt về sở hữu công nghiệp 57
2. Những điểm khác biệt về quyền tác giả 61
3. Khác biệt về chế độ đãi ngộ quốc gia 63
4. Khác biệt về chế độ đãi ngộ tối huệ quốc 64
5. Khác biệt về thực thi và triển khai các quy định về SHTT 64
Chương III. Hoàn thiện pháp luật Việt nam về SHTT tiến tới gia nhập WTO 68
I ) Phương hướng hoàn thiện 68
1. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền SHTT 68
2. Đổi mới và hoàn thiện bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT 69
3. Đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền SHTT 70
II ) Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền SHTT 70
1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nội dung quyền SHTT 70
2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT 73
3. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về bảo hộ quyền SHTT 75
Kết luận 79
Tài liệu tham khảo 80
Lời nói đầu
Ngày nay, SHTT đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Bảo hộ quyền SHTT là một việc làm không thể thiếu được trong các hoạt động pháp lý kinh tế, thương mại, khoa học, công nghệ trong giai đoạn hiện nay.
ở Việt nam, trong lĩnh vực SHTT, kể từ năm 1989 đến nay cơ chế điều chỉnh pháp luật về quyền SHTT đã có những bước phát triển đáng kể. Đặc biệt là trong Bộ luật Dân sự (1995) lần đầu tiên đã có những quy định khá cụ thể, chi tiết về quyền SHTT nhằm bảo hộ cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đang có hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt nam.
Kể từ khi Bộ luật Dân sự chính thức có hiệu lực (từ ngày 01/07/1996), việc đăng ký bảo hộ các đối tượng của quyền SHTT ở Việt nam ngày càng tăng. Số lượng các tổ chức, cá nhân Việt nam đăng ký bảo hộ các đối tượng SHTT xấp xỉ bằng số lượng đơn của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, đặc biệt là ở các thành phố lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng. Tuy nhiên, các hoạt động đăng ký và bảo hộ pháp lý quyền SHTT ở Việt nam còn có nhiều hạn chế thể hiện ở các mặt sau đây:
Luật về bảo hộ quyền SHTT hiện nay còn chưa hoàn toàn phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (Hiệp định Trips), một số quy định về bảo hộ quyền SHTT còn thiếu. Điều này gây khó khăn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trong việc xin đăng ký bảo hộ quyền SHTT. Điều đó thể hiện qua việc số lượng đơn xin đăng ký bảo hộ quyền SHTT trong thời gian qua còn thấp so với nhịp độ phát triển của nền kinh tế Việt nam và còn thấp so với các nước khác trong khu vực (Số lượng đơn chỉ xấp xỉ bằng 10% số lượng đơn đăng ký hàng năm của một nước ASEAN).
Tổ chức bộ máy thực thi pháp luật về quyền SHTT của nước ta còn cồng kềnh, kém hiệu quả, nhất là sự phối hợp không đồng bộ giữa các Bộ, ngành hữu quan. Hiệu quả của việc bảo hộ quyền SHTT cho các đối tượng đã được Nhà nước công nhận còn rất thấp. Nhiều trường hợp vi phạm không được giải quyết dứt điểm dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật kéo dài.
Chưa thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền pháp luật về bảo hộ quyền SHTT đến các tổ chức và cá nhân trong nước. Việc tiếp cận với các thông tin về quyền SHTT trên thế giới của các đơn vị trong nước còn nhiều hạn chế.
Với tình hình thực tế như trên, để tìm hiểu một cách đầy đủ hơn nữa các quy định về quyền SHTT của Tổ chức Thương mại thế giới đồng thời góp phần hoàn thiện thêm các quy định tương ứng của Việt nam trong lĩnh vực này, tác giả chọn đề tài "Chế định về quyền SHTT liên quan đến thương mại của WTO và việc hoàn th0iện các quy định tương ứng của Việt nam" làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
Khoá luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, khoá luận còn sử dụng phương pháp so sánh, tổng hợp, kết hợp lý luận với thực tiễn.
Nội dung của khoá luận được chia làm các phần cơ bản sau:
* Chương I. Nội dung cơ bản của chế định về quyền SHTT liên quan đến thương mại theo các hiệp định của WTO.
* Chương II. Thực trạng pháp luật Việt nam về SHTT liên quan đến thương mại, so sánh với các quy định tương ứng của WTO.
* Chương III. Hoàn thiện pháp luật Việt nam về SHTT tiến tới gia nhập WTO.
Do thời gian nghiên cứu có hạn và vấn đề SHTT còn khá mới mẻ ở nước ta, vì vậy trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót về lý luận cũng như phong cách ngôn ngữ khoa học. Do đó tác giả mong nhận được sự góp ý quý báu, chân thành của thầy cô giáo và các bạn sinh viên để những vấn đề khoá luận nêu ra được giải quyết thuyết phục hơn.
Để hoàn thành bản khoá luận này, tác giả đã nhận được sự chỉ dẫn trực tiếp của PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết - Trường Đại học Ngoại Thương Hà Nội. Qua đây tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết và tới các tác giả có các công trình nghiên cứu đã được sử dụng trong quá trình hoàn tất bản khoá luận này.
Chương I
Nội dung cơ bản của chế định về quyền SHTT liên quan đến thương mại theo các hiệp định của WTO
I ) Khái niệm về quyền SHTT và các điều ước quốc tế về quyền SHTT
1. Khái niệm quyền SHTT
Hiện nay SHTT là một trong những vấn đề thu hút sự quan tâm rất lớn của các quốc gia trên thế giới. Sở dĩ như vậy là vì lĩnh vực SHTT đã và đang khẳng định mạnh mẽ vai trò của mình trong nền kinh tế và thương mại thế giới, tỷ trọng trí tuệ trong sản phẩm công nghiệp, dịch vụ và thương mại ngày càng tăng, tăng trưởng kinh tế ngày càng phụ thuộc hơn vào khoa học công nghệ.
Từ trước đến nay có nhiều quan điểm khác nhau về SHTT.
Quan điểm thứ nhất coi các sản phẩm sáng tạo trí tuệ như các sản phẩm lao động khác, do đó người tạo ra các sản phẩm này có quyền tư hữu, Nhà nước bảo hộ các quyền tư hữu trí tuệ đó.
Quan điểm thứ hai lại coi các sản phẩm sáng tạo trí tuệ là thuộc toàn xã hội, không thừa nhận quyền tư hữu trí tuệ. Người tạo ra sản phẩm trí tuệ được Nhà nước thừa nhận có một số quyền nhất định và được thưởng công hoặc ghi công.
Quan điểm thứ ba không phủ nhận quyền tư hữu đối với sản phẩm trí tuệ nhưng cũng không công khai thừa nhận quyền đó, nhất là các trường hợp sản phẩm được tạo ra ở nước ngoài có giá trị đối với kinh tế trong nước.
Các nước phát triển trên thế giới chấp nhận quan điểm thứ nhất, còn các nước đang phát triển chấp nhận quan điểm thứ hai, trong đó có Việt nam. Tuy nhiên tình hình này đã thay đổi nhiều ở Việt nam, đặc biệt từ khi các quy định pháp luật về quyền SHTT và chuyển giao công nghệ tạo thành một chương độc lập trong Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam.
Sở hữu trí tuệ là loại hình sở hữu liên quan đến những mẩu thông tin có thể kết hợp chặt chẽ với nhau trong những vật thể hữu hình xuất hiện trong cùng một thời gian với số lượng bản sao không giới hạn ở những địa điểm khác nhau trên thế giới. Quyền sở hữu trong trường hợp này không phải là quyền sở hữu bản thân các bản sao mà chính là các thông tin chứa đựng trong các bản sao đó. Giống như quyền sở hữu động sản hay bất động sản, quyền sở hữu trí tuệ cũng bị những hạn chế nhất định như hạn chế về thời hạn, hiệu lực, lãnh thổ.
Sở hữu trí tuệ được chia thành hai lĩnh vực : Sở hữu công nghiệp và Quyền tác giả.
1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp
Ban đầu thuật ngữ "Sở hữu công nghiệp" xuất hiện từ các nước công nghiệp phát triển, nhưng cho đến nay thuật ngữ này đã được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới, trong sách báo cũng như trong các văn bản pháp luật. Nó chủ yếu đề cập tới các vấn đề bảo vệ quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu (nhãn hiệu hàng hoá và nhãn hiệu dịch vụ), kiểu dáng công nghiệp, tên gọi xuất xứ hàng hoá..., hạn chế cạnh tranh thái quá, chống lại các hoạt động ngược lại với sự hành nghề trung thực trong công nghiệp.
Trong tiếng Anh, quyền sở hữu công nghiệp là "Industrial Property". Chữ này được hợp bởi hai từ : Industrial (công nghiệp) và Property (quyền sở hữu). Như vậy quyền sở hữu công nghiệp thường được định nghĩa là "quyền sở hữu đối với các đối tượng là sản phẩm sáng tạo phục vụ cho mọi lĩnh vực sản xuất công nghiệp". Tuy nhiên, quyền "sở hữu công nghiệp" ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng nhất, không chỉ áp dụng cho công nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà còn cho cả các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản phẩm công nghiệp và sản phẩm tự nhiên như rượu, ngũ cốc, hoa quả, gia súc, khoáng sản...
Theo chương VIII, Luật Thương mại Pháp năm 1993, quyền sở hữu công nghiệp được định nghĩa như sau: "Sở hữu công nghiệp là độc quyền khai thác của những người có những quyền phi vật chất trong công nghiệp đã được Nhà nước công nhận".
Theo Bộ luật Dân sự Nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, "Quyền sở hữu công nghiệp là quyền sở hữu cá nhân, pháp nhân đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, quyền sử dụng đối với tên gọi xuất xứ hàng hoá và quyền sở hữu khác do pháp luật quy định".
Điều đó có nghĩa rằng khi một người có những đối tượng được pháp luật bảo hộ thì anh ta có quyền sản xuất, sử dụng và bán các đối tượng đó. Như vậy, quyền sở hữu công nghiệp có thể được hiểu là khả năng của các sở hữu chủ tự mình thực hiện những hành vi nhất định để thoả mãn lợi ích của bản thân và những khả năng đó được bảo đảm bởi Nhà nước, thể hiện ở quyền làm chủ, chi phối đối tượng sở hữu công nghiệp. Chủ sở hữu công nghiệp có thể tự khai thác lợi ích vật chất hoặc cho phép người khác sử dụng, khai thác thông qua hợp đồng.
ở các nước khác nhau, quyền sở hữu công nghiệp được định nghĩa khác nhau, nhưng nhìn chung quyền sở hữu công nghiệp được hiểu theo hai nghĩa.
Theo nghĩa khách quan, quyền sở hữu công nghiệp là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong qua trình chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các đối tượng sở hữu công nghiệp được Nhà nước bảo hộ.
Theo nghĩa chủ quan, quyền sở hữu công nghiệp là các quyền dân sự cụ thể của các chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các đối tượng của sở hữu công nghiệp.
Quyền sở hữu công nghiệp có những đặc điểm sau: Quyền sở hữu công nghiệp là một loại quyền nhân thân phi tài sản mang tính giới hạn bởi không gian và thời gian. Theo pháp luật của các nước trên thế giới, quyền sở hữu công nghiệp chỉ phát sinh trên cở sở văn bằng bảo hộ do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cấp và chỉ có hiệu lực trong lãnh thổ của Nhà nước đó. Quyền sở hữu công nghiệp cũng bị giới hạn bởi thời gian theo thời hạn hiệu lực của văn bằng bảo hộ. Đó là một khoảng thời gian hợp lý đủ đảm bảo quyền lợi của các sở hữu chủ phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia.
Quyền sở hữu công nghiệp là loại quyền dân sự tuyệt đối. Khi một chủ sở hữu được Nhà nước công nhận và cấp bằng bảo hộ độc quyền thì cũng có nghĩa là người đó có được toàn quyền trong việc khai thác, sử dụng đối tượng đó vào sản xuất kinh doanh. Người chủ sở hữu đối tượng công nghiệp có quyền thực hiện các hành vi ngăn chặn người khác tiến hành sản xuất, sử dụng hoặc bán đối tượng sở hữu công nghiệp. Đồng thời mọi cá nhân, tổ chức khác đều có nghĩa vụ phải kiềm chế không được thực hiện các hành vi xâm hại tới các quyền của chủ sở hữu công nghiệp.
ở Việt nam, quyền sở hữu công nghiệp là một khái niệm tương đối mới. Khái niệm này lần đầu tiên xuất hiện tại Việt nam năm 1957 trong Luật 12/57 ngày 01/08/1957 và Luật 13/57 ngày 01/08/1957, tiếp sau đó là Luật số 14/59 ngày 11/06/1959 về chống sản xuất hàng giả của luật nguỵ quyền miền Nam. Từ sau giải phóng hoàn toàn miền Nam 04/1975 và thống nhất đất nước vào 07/1976, việc bảo hộ pháp lý các đối tượng sở hữu công nghiệp tại Việt nam tạm thời bị gián đoạn. Trong những năm 1980, các đối tượng sở hữu công nghiệp như sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích lần lượt được bảo hộ. Tuy nhiên việc bảo hộ các đối tượng trên mới chỉ dựa trên các văn bản pháp lý do Chính phủ ban hành.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới mở rộng không ngừng, sự phụ thuộc giữa các ngành kinh tế ngày càng tăng lên. Ngày nay không một nước nào có thể phát triển mà đóng cửa không quan hệ với các nước khác. Để đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế, các nước phải mở của giao lưu hợp tác với nhau, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt nam. Con đường nhanh nhất và hiệu quả nhất để đạt được mục đích đó là hợp tác kinh tế và hợp tác công nghệ. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là một công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển công nghệ và giảm xung đột thương mại giữa các nước.
Nhận thức sâu sắc vai trò và vị trí của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, năm 1995, các quy định pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp đã chính thức được đưa vào Bộ luật Dân sự, và Việt nam cũng đã tham gia vào các Hiệp ước quốc tế quan trọng sau đây về quyền sở hữu công nghiệp, đánh dấu bước quan trọng trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu công nghiệp tại Việt nam:
Công ước Pari về bảo hộ sở hữu công nghiệp (từ 08/03/1949)
Thoả ước Madrid về đăng ký quốc tế các nhãn hiệu hàng hoá (từ 08/03/1949)
Công ước Stockholm về việc thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (từ 02/07/1976)
Hiệp ước hợp tác Patent (PCT) (từ 10/03/1993)
Việc đưa các quy định về bảo hộ sở hữu công nghiệp vào Bộ luật Dân sự và tham gia các điều ước quốc tế thể hiện quyết tâm lớn của Việt nam trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, hoà nhập kinh tế Việt nam với kinh tế thế giới.
Các quan hệ sở hữu công nghiệp là các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực sáng tạo, khai thác, ứng dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp được Nhà nước bảo hộ vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Chủ thể trong quan hệ sở hữu công nghiệp có thể là các cá nhân, các tác giả, đồng tác giả không hạn chế về độ tuổi cùng sáng tạo ra các đối tượng sở hữu công nghiệp bằng chính sức lao động sáng tạo của mình được đứng tên tác giả trong văn bằng bảo hộ. Các chủ sở hữu công nghiệp nước ngoài cư trú ở nước ngoài được Nhà nước Việt nam cấp văn bằng bảo hộ theo các điều ước quốc tế Việt nam đã ký kết hoặc tham gia. Các sở hữu chủ công nghiệp nước ngoài là cá nhân hoặc pháp nhân nước ngoài có cơ sở kinh doanh hoặc thường trú tại Việt nam được Nhà nước Việt nam cấp văn bằng bảo hộ cho các đối tượng sở hữu công nghiệp của mình hoặc được chuyển giao hợp pháp quyền sở hữu.
Đôi khi chủ thể trong quan hệ sở hữu công nghiệp cũng có thể là Nhà nước. Tuy nhiên Nhà nước là một chủ thể đặc biệt luôn được hưởng các quyền miễn trừ trong lĩnh vực tố tụng dân sự. Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Nhà nước không chỉ tham gia với tư cách là chủ thể quản lý mà trong nhiều trường hợp còn tham gia với tư cách chủ thể quan hệ dân sự, ví dụ Nhà nước có thể tham gia vào quan hệ thừa kế một đối tượng sở hữu công nghiệp nào đó.
Khách thể của quan hệ pháp luật về sở hữu công nghiệp là các đối tượng sở hữu công nghiệp được Nhà nước bảo hộ. Theo định nghĩa được ghi tại Điều 2 (8) của Công ước thành lập Tổ chức quyền sở hữu trí tuệ thế giới, các đối tượng sở hữu chủ yếu được công nhận và bảo hộ gồm các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu (bao gồm nhãn hiệu thương mại và dịch vụ), tên gọi nguồn gốc hàng hoá hay tên gọi xuất xứ hàng hoá, các bí mật kinh doanh thương mại... sự hạn chế cạnh tranh không liên quan tới độc quyền.
Tại Việt nam đối tượng sở hữu công nghiệp được công nhận bảo hộ là: các sáng chế, giải pháp hữu ích, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi xuất xứ hàng hoá mà không trái với lợi ích công cộng, trật tự xã hội và các đối tượng khác mà pháp luật quy định sẽ được bảo hộ. Pháp luật Việt nam cũng quy định cụ thể những đối tượng không được bảo hộ như: các nguyên lý khoa học, các phương pháp và hệ thống quản lý kinh tế, các chương trình máy tính điện tử, các vi mạch điện tử, các giống cây, giống con, các chủng vi sinh, các phương pháp và hệ thống giáo dục, đào tạo, nuôi dưỡng...
Nhìn chung pháp luật Việt nam quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cơ bản là phù hợp với tình hình đất nước đang trong quá trình đổi mới lúc bấy giờ. Tuy nhiên, cần xem xét lại một số đối tượng không được pháp luật bảo hộ, chẳng hạn như các chương trình vi tính, quy trình công nghệ sinh học...sao cho phù hợp với xu hướng chung của thế giới và tạo điều kiện thuận lợi cho Việt nam trong quá trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế quốc tế.
1.2. Khái niệm quyền tác giả.
Đời sống con người không đơn thuần là đời sống vật chất mà còn bao gồm cả đời sống tinh thần với các nhu cầu ngày càng cao cần được thoả mãn. Một phần khá lớn các nhu cầu trong đời sống tinh thần của con người được đáp ứng thông qua việc tiếp cận các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học do chính con người sáng tạo ra. Đó là các sáng tạo mang tính nghệ thuật như bản nhạc, bài thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết... hoặc mang tính khoa học như các bài giảng, sách giáo khoa, các công trình nghiên cứu khoa học...
Như vậy, việc tác giả sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học đã làm xuất hiện quyền của tác giả đối với tác phẩm của mình (author's right). ở phương diện này, khái niệm quyền tác giả được dùng để đề cập đến chính các quyền của tác giả - người sáng tạo ra tác phẩm. Có hai loại quyền trong quyền tác giả: quyền kinh tế (ở ta gọi là quyền tài sản) và quyền tinh thần (ở ta gọi là quyền nhân thân). Quyền kinh tế là quyền của tác giả được hưởng lợi ích về mặt tài chính từ việc cho phép người khác sử dụng tác phẩm của mình. Quyền tinh thần nhằm đảm bảo cho tác giả đưa ra và thực hiện những công việc cụ thể nhằm duy trì mối liên hệ cá nhân giữa bản thân tác giả với tác phẩm. Vì vậy có thể đưa ra khái niệm về quyền tác giả như sau: Quyền tác giả là các quyền kinh tế (còn gọi là quyền tài sản) và quyền tinh thần (còn gọi là quyền nhân thân) của tác giả với tư cách là người sáng tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
Quyền kinh tế của tác giả được thực hiện thông qua việc cho phép người khác sử dụng tác phẩm của mình đã được bảo hộ bằng luật quyền tác giả. Các luật quyền tác giả đều ghi nhận rằng tác giả có quyền cho phép hoặc ngăn cấm người khác thực hiện các công việc cụ thể liên quan tới tác phẩm như sao chép tác phẩm, trình diễn tác phẩm trước công chúng, phát thanh tác phẩm hoặc chuyển tải tác phẩm tới công chúng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng khác, dịch tác phẩm, chuyển thể tác phẩm...
Quyền sao chép tác phẩm là quyền rất cơ bản theo luật quyền tác giả. Thông qua việc thực hiện quyền này mà các bản sao tác phẩm được chuyển đến công chúng từ một bản gốc của tác phẩm, bất kể bản sao đó được tạo ra từ phương tiện sao chép nào. Một số quyền khác được công nhận tuỳ theo pháp luật của từng quốc gia nhưng thực chất nhằm bảo đảm cho quyền sao chép được tôn trọng. Ví dụ: quyền cho phép phân bố các bản sao tác phẩm, quyền cho phép cho thuê các bản sao tác phẩm theo danh sách cụ thể...
Quyền trình diễn tác phẩm được hiểu là bất kỳ việc trình diễn một tác phẩm nào tại một địa điểm mà công chúng được xem hay có thể được xem. Trên cơ sở quyền trình diễn tác phẩm, tác giả có thể được phép trình diễn sống động một tác phẩm của mình trước công chúng. Ví dụ: trình diễn một vở kịch ở sân khấu kịch hoặc trình diễn giao hưởng ở nhà hát...
Ngoài ra, quyền kinh tế của tác giả còn bao gồm quyền được hưởng lợi ích tài chính từ việc cho phép người khác sử dụng tác phẩm bằng nhiều hình thức khác như phát thanh, truyền hình, trưng bày, triển lãm tác phẩm, dịch tác phẩm...
Cùng với quyền kinh tế, quyền tinh thần của tác giả cũng có vai trò không kém phần quan trọng, thậm chí quyền này còn được coi là tiên đề, là xuất phát điểm của quyền kinh tế. Bởi nếu không có quyền tinh thần phát sinh từ sự sáng tạo tác phẩm thì tác giả cũng không có quyền kinh tế. Theo thông lệ và tập quán quốc tế quyền tinh thần dành cho tác giả bao gồm: quyền được đòi hỏi xác định chặt chẽ mối quan hệ giữa tác giả với tác phẩm, quyền được phản đối sự sửa đổi hoặc bóp méo hoặc xuyên tạc tác phẩm và quyền lên án, tố cáo những hành vi phạm pháp liên quan tới tác phẩm làm phương hại đến thanh danh của tác giả. Các quyền tinh thần được xem là độc lập với quyền kinh tế và nói chung vẫn được dành cho tác giả, kể cả sau khi tác giả đã chuyển giao quyền kinh tế của mình cho tổ chức, cá nhân khác. Thậm chí nếu một ai đó là chủ sở hữu quyền kinh tế của tác phẩm (ví dụ: nhà xuất bản...) thì cũng chỉ riêng cá nhân sáng tạo được hưởng quyền tinh thần mà thôi.
Tóm lại, sự bảo hộ quyền tác giả bằng những quy định cho phép và bảo đảm cho tác giả được hưởng các quyền nhân thân và các quyền tài sản từ sự sáng tạo tác phẩm có ý nghĩa rất lớn trong việc khuyến khich tác giả tìm tòi, nghiên cứu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học có giá trị, đồng thời đảm bảo giữ gìn và phát huy bản sắc, truyền thống dân tộc trong phát triển văn hoá - xã hội.
2. Các điều ước quốc tế về SHTT
Để bảo hộ quyền SHTT trong phạm vi quốc tế các nước đã ký kết các điều ước quốc tế sau đây:
2.1. Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp
Hơn một trăm năm trước đây con người đã cố gắng để loại bỏ hạn chế do tính chất lãnh thổ quốc gia tuyệt đối của quyền sở hữu công nghiệp đem lại, đi đầu là Công ước Paris về sở hữu công nghiệp năm 1883. Công ước này được ký kết năm 1883, được hình thành bởi một nghị định thư ở Madrid năm 1891, được sửa đổi tại Brussel năm 1990, tại Washington năm 1911, tại Hugue năm 1934, tại Lisbon năm 1958 và tại Stockholm năm 1967, được bổ sung năm 1979. Công ước không hạn chế với tất cả các nước trên thế giới.
Theo văn bản mới nhất, Công ước Paris quy định hai nguyên tắc cơ bản:
Nguyên tắc thứ nhất - Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia: Công dân của các nước tham gia Công ước được hưởng chế độ đãi ngộ quốc dân trên lãnh thổ của các nước này. Công dân của các nước không ký kết công ước này cũng được Công ước bảo vệ nếu họ cư trú tại một trong những nước ký kết hoặc có cơ sở công nghiệp hiệu quả và thực thụ hoặc sự thiết lập tài chính có hiệu quả trong một nước ký kết. Điều đó cũng có nghĩa rằng các Đơn đăng ký quyền sở hữu công nghiệp được nộp phù hợp với Công ước của tất cả công dân hoặc cư dân của các nước thành viên đều được các nước thành viên Công ước đối xử công bằng, không phân biệt đối xử.
Nguyên tắc thứ hai - Nguyên tắc công nhân quyền ưu tiên: Công ước trao quyền ưu tiên cho bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá - dịch vụ, kiểu dáng công nghiệp. Quyền ưu tiên có nghĩa là Đơn đăng ký quyền sở hữu công nghiệp tại bất kỳ quốc gia thành viên nào cũng có ngày được chấp nhận để làm ngày tính quyền ưu tiên, tức là các Đơn nộp ở các quốc gia khác cũng có quyền lợi tương tự nếu chúng được nộp trong một thời hạn nhất định: 1 năm đối với bằng sáng chế và mẫu hữu ích, 6 tháng cho kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá thương mại đăng ký. Cụ thể là trên cơ sở Đơn trình đầu tiên theo đúng thủ tục, tại một nước ký kết, người nộp đơn có thể áp dụng sự bảo vệ trong bất cứ một nước ký kết khác trong một giai đoạn nào đó (1 năm đối với bằng sáng chế và mẫu hữu ích, 6 tháng đối với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu), những Đơn trình sau đó của người nộp đơn sẽ được xem xét như các Đơn trình cùng ngày với Đơn trình đầu tiên, hay nói một cách khác, những Đơn trình sau này sẽ có đặc quyền hơn những Đơn trình trong cùng một giai đoạn bởi những người khác cho một sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá - dịch vụ và kiểu dáng công nghiệp. Hơn nữa những Đơn trình sau đó được dựa trên cơ sở Đơn trình đầu tiên sẽ không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ sự kiện nào có thể xảy ra. Một trong những thuận lợi lớn nhất của điều khoản này là khi một người nộp Đơn muốn sự bảo vệ trong một vài nước, người đó sẽ không bị buộc phải trình tất cả Đơn xin trong cùng một thời điểm nhưng có 6 hoặc 12 tháng được tuỳ ý quyết định chọn quốc gia nào người đó muốn sự bảo vệ.
Công ước xác nhận một vài quy tắc chung cho tất cả các nước ký kết phải tuân thủ:
- Đối với bằng sáng chế: Các bằng sáng chế được cấp ở những nước ký kết khác nhau là độc lập với nhau; việc cấp một bằng sáng chế trong một nước ký kết không bắt các nước ký kết khác phải cấp một bằng sáng chế. Một bằng sáng chế có thể không bị từ chối, huỷ bỏ hay hết hiệu lực trong một nước ký kết này nhưng nó lại có thể bị từ chối, huỷ bỏ hay hết hiệu lực ở bất kỳ một nước khác.Việc bán sản phẩm có chứa đựng các yếu tố của tiến trình sáng chế bị lệ thuộc hoặc giới hạn của luật quốc gia (Ví dụ: Tân dược, các sản phẩm chịu thuế tiêu thụ đặc biệt...). Mỗi quốc gia ký kết có thể dùng các biện pháp bắt buộc nhằm ngăn cản sự lạm quyền (vì tính độc lập của bằng sáng chế).
Khi có sự lạm dụng, Công ước cho phép bằng sáng chế có thể bị cấp lixăng không tự nguyện hoặc bị huỷ bỏ. Tuy nhiên Công ước không quy định cụ thể trường hợp được cấp bằng sáng chế và quyền lợi bằng sáng chế mang lại cho chủ sở hữu.
- Đối với nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ: Công ước quy định không được thật rõ ràng về nhãn hiệu hàng hoá. Các điều kiện cho việc trình và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ được quy định trong mỗi nước ký kết bởi luật trong nước. Nếu nhãn hiệu hàng hoá được đăng ký tại một quốc gia thì chúng không thể bị từ chối đăng ký tại một quốc gia khác trừ một số trường hợp ngoại lệ. Vì vậy không một Đơn đăng ký nhãn hiệu của một công dân một nước ký kết có thể bị từ chối hoặc bị mất hiệu lực chỉ do việc trình và đăng ký không được thực hiện trong một nước xuất xứ. Khi một Đơn đăng ký được chấp nhận một lần ở một nước ký kết, đăng ký đó là độc lập với các nước khác, kể cả nước xuất xứ. Vì vậy sự mất hiệu lực hay sự huỷ bỏ một đăng ký nhãn hiệu trong một nước ký kết này sẽ không ảnh hưởng đến giá trị của đăng ký trong một nước ký kết khác. Khi một nhãn hiệu được đăng ký đầy đủ trong một quốc gia gốc, nó phải được chấp nhận Đơn trình và phải được bảo vệ theo nguyên bản của nó trong một nước ký kết. Tuy nhiên, sự đăng ký có thể bị từ chối trong một vài trường hợp được xác định rõ, ví dụ: nhãn hiệu đăng ký xâm phạm quyền lợi trước đó tại quốc gia đó, hoặc không có những dấu hiệu rõ ràng hoặc chỉ gồm các dấu hiệu sử dụng trong thương mại để phân biệt chủng loại, chất lượng, số lượng, giá trị, nơi xuất xứ hoặc thời gian sản xuất hàng hoá hoặc đã trở thành những cụm từ phổ biến hoặc trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng hoặc là sự dối trá.
Nếu trong bất kỳ nước ký kết nào, việc sử dụng một nhãn hiệu có đăng ký là bắt buộc thì sự đăng ký không thể được huỷ bỏ trước một giai đoạn nào đó nếu người chủ sở hữu công nghiệp không thể tự bào chữa cho việc không hoạt động của người đó. Mỗi một nước ký kết phải từ chối đăng ký và cấm sử dụng các nhãn hiệu mà nó được làm lại, bắt chước hoặc định tạo ra sự lẫn lộn với một nhãn hiệu mà được các quan chức Nhà nước có thẩm quyền đánh giá là được biết đến ở nước đó, nhãn hiệu đó của một người được ghi nhận là độc quyền tài phán của Công ước và được sử dụng cho hàng hoá tương tự, đồng nhất. Ngoài ra Công ước còn có quy định về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp các nhãn hiệu dịch vụ (không cần thiết qua đăng ký) và các nhãn hiệu tập thể thuộc về các tổ chức. Công ước tạo điều kiện cho người phát minh được ghi tên của mình trong bằng sáng chế và cung cấp biện pháp bảo vệ biểu tượng, cờ và huy hiệu của các tổ chức quốc tế. Mỗi một nước ký kết phải từ chối đăng ký và cấm sử dụng các nhãn hiệu mà sử dụng không có phép các biểu tượng Nhà nước. Ký hiệu chính thức và dấu xác nhận tiêu chuẩn phải được thông qua bởi Văn phòng quốc tế của WIPO. Huy hiệu, cờ, các biểu tượng khác viết tắt và tên của các tổ chức Chính phủ nào đó cũng áp dụng điều khoản tương tự.
Tuy những điều khoản này chỉ điều chỉnh trực tiếp những nhãn hiệu đăng ký đầu tiên ở quốc gia thành viên khác, nhưng phải hiểu là chúng cũng được áp dụng cho tất cả mọi loại nhãn hiệu, vì thật là không thực tế nếu áp dụng các quy định khác nhau cho nhãn hiệu hàng hoá phụ thuộc vào nơi nộp Đơn đăng ký đầu tiên.
Công ước còn có nhiều điều khoản phụ khác, ví dụ:
- Đối với kiểu dáng công nghiệp: Kiểu dáng công nghiệp cũng phải được bảo vệ trong mỗi quốc gia ký kết, và sự bảo vệ có thể bị mất nếu các mặt hàng kết hợp thiết kế không được sản xuất ở các quốc gia đó.
- Đối với tên thương mại: Tên cơ sở kinh doanh thương mại có thể được bảo vệ trong mọi nước ký kết mà không cần phải đăng ký.
- Đối với tên gọi xuất xứ hàng hoá: Mỗi một nước ký kết phải sử dụng các biện pháp chống lại sự sử dụng dù là gián tiếp các dấu hiệu giả nguồn hàng, dấu hiệu sai đặc tính của người sản xuất, xí nghiệp và thương gia.
- Chống cạnh tranh không lành mạnh: Các nước ký kết phải bảo vệ có hiệu quả, chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh.
Công ước còn có nhiều điều khoản chi tiết nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ sáng chế và chủ nhãn hiệu hàng hoá, dịch vụ.
Tuy nhiên, đối với bằng sáng chế, Công ước không quy định những phát minh nào được cấp bằng sáng chế, cách thành lập và phạm vi bảo vệ, quyền lợi có được khi làm chủ bằng sáng chế.
2.2. Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật
Theo các tài liệu của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Công ước Berne đề ra ba nguyên tắc cơ bản và bao gồm một loạt các điều khoản quy định mức bảo hộ tối thiểu phải có, cũng như các điều khoản đặc biệt dành cho các nước đang phát triển. Nguyên tắc cơ bản về "chính sách đãi ngộ quốc gia" quy định rằng các tác phẩm có xuất xứ tại một nước thành viên phải được hưởng sự bảo hộ tại mỗi nước thành viên khác như sự bảo hộ mà mỗi nước đó dành cho công dân nước mình. Sự bảo hộ đó có tính chất tự động và vô điều kiện về mặt thủ tục hình thức. Sự bảo hộ quyền tác giả quốc tế cũng được coi là có tính "độc lập", tức là độc lập với việc tồn tại sự bảo hộ tại nước xuất xứ của tác phẩm. Tại một nước ._.thành viên quy định thời gian bảo hộ dài hơn so với thời hạn tối thiểu do Công ước quy định, việc bảo hộ tác phẩm có thể bị từ chối nếu tác phẩm bị chấm dứt bảo hộ tại nước xuất xứ.
Công ước Berne quy định rằng việc bảo hộ phải bao trùm "mọi sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, không phân biệt phương thức hoặc hình thức biểu hiện".
Trừ các bảo lưu, giới hạn hoặc ngoại lệ nhất định, các quyền phải được bảo hộ bao gồm: quyền dịch, quyền sửa đổi và quyền cải biên tác phẩm, quyền biểu diễn công khai các tác phẩm sân khấu, nhạc kịch, âm nhạc, quyền đọc kể lại công khai các tác phẩm văn học, quyền truyền thông đại chúng các buổi biểu diễn các tác phẩm nói trên, quyền phát thanh, truyền hình, quyền bản sao dưới mọi hình thức, quyền sử dụng tác phẩm để tạo ra tác phẩm nghe nhìn và quyền sao chép, phổ biến, biểu diễn công khai hoặc truyền hình công khai tác phẩm nghe nhìn đó.
Công ước Berne cũng quy định về "quyền tinh thần", tức là quyền xưng danh là tác giả của tác phẩm và quyền phản đối việc cắt xén, chuyển thể hoặc cải biên tác phẩm, hoặc các hành động khác làm giảm giá trị của tác phẩm mà có thể gây tổn hại đến danh dự và uy tín của tác giả.
Quy tắc tổng quát liên quan đến thời hạn bảo hộ là việc bảo hộ phải kéo dài đến 50 năm sau khi tác giả chết. Ngoại lệ, áp dụng cho các tác phẩm khuyết danh hoặc ký bút danh không rõ tác giả, là thời hạn bảo hộ kết thúc khi hết 50 năm sau khi tác phẩm được công bố một cách hợp pháp, trừ trường hợp xác định được tác giả hoặc tác giả tự xưng danh trong thời gian đó thì phải áp dụng quy tắc tổng quát.
2.3. Công ước Rome về bảo hộ các nhà biểu diễn, các nhà sản xuất băng/đĩa âm thanh và các tổ chức phát thanh
Công ước Rome bảo đảm việc bảo hộ các buổi biểu diễn của các nhà biểu diễn, các băng/đĩa âm thanh của các nhà sản xuất và các buổi phát thanh truyền hình của các tổ chức phát thanh truyền hình. Các nhà biểu diễn (diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công và những người biểu diễn các tác phẩm văn học, nghệ thuật) được bảo hộ chống các hành vi sau đây: phát thanh truyền hình và truyền thông đại chúng trái phép về các buổi biểu diễn trực tiếp của họ; ghi các buổi biểu diễn, sao chép các bản ghi nói trên nếu bản ghi đầu tiên được tạo ra không được sự đồng ý của họ hoặc nếu việc sao chép đó nhằm các mục đích khác với những mục đích mà họ cho phép.
Các nhà sản xuất băng, đĩa âm thanh có quyền cho phép hoặc ngăn cấm việc trực tiếp hoặc gián tiếp sao chép các băng, đĩa âm thanh của họ. Băng, đĩa âm thanh được định nghĩa trong Công ước Rome là bất kỳ băng, đĩa nào ghi âm thuần tuý các âm thanh của buổi biểu diễn hoặc các âm thanh khác.
Nếu băng đĩa âm thanh được sản xuất nhằm mục đích thương mại lại dẫn đến việc sử dụng lần thứ hai (như phát thanh truyền hình hoặc truyền thông đại chúng dưới bất kỳ hình thức nào), người sử dụng phải trả cho người biểu diễn hoặc nhà sản xuất băng, đĩa âm thanh hoặc cho cả hai người đó một khoản thù lao thoả đáng. Tuy nhiên, các nước thành viên không bắt buộc phải áp dụng quy tắc này hoặc có thể giới hạn việc áp dụng quy tắc này.
Các tổ chức, phát thanh, truyền hình có quyền cho phép hoặc ngăn cấm một số hoạt động nhất định, đó là: phát lại hoặc ghi lại các chương trình phát thanh, truyền hình của họ; làm bản sao các bản ghi đó; truyền thông đại chúng về các chương trình vô tuyến truyền hình của họ nếu việc truyền thông đó được tiến hành tại những địa điểm mà công chúng phải trả tiền vào cửa.
Công ước Rome cho phép các luật quốc gia được quy định ngoại lệ, gồm việc sử dụng các tác phẩm được bảo hộ nhằm mục đích cá nhân, việc sử dụng các đoạn trích dẫn ngắn để đưa tin thời sự, việc ghi tạm thời do các tổ chức phát thanh, truyền hình của chính các tổ chức đó, việc sử dụng chỉ nhằm mục đích giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa học và trong bất kỳ trường hợp nào khác mà luật quốc gia quy định ngoại lệ về quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật, trừ các li xăng không tự nguyện không phù hợp với Công ước Berne. Một khi mà người biểu diễn đã cho phép ghi lại buổi biểu diễn vào băng, đĩa ghi hình hoặc băng đĩa ghi âm - hình thì các quy định về quyền của người biểu diễn không còn đưọc áp dụng nữa.
Việc bảo hộ theo Công ước Rome phải kéo dài ít nhất 20 năm.
2.4. Hiệp định TRIPs thoả thuận về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT
Hiệp định TRips (Trade - Related Aspects of Intellectual Property Rights, including Trade in Counterfeit Goods) điều chỉnh toàn bộ lĩnh vực SHTT và đưa ra các tiêu chí cơ bản công nhận nhiều quyền khác nhau, tiêu chuẩn, phạm vi và ứng dụng của chúng.
Trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp Trips có các quy định sau
Đối với bằng sáng chế, Hiệp định quy định rằng tất cả lĩnh vực công nghệ đều phải được cấp bằng sáng chế và người được cấp bằng phải được hưởng quyền lợi đối với sáng chế của mình không phân biệt nơi phát minh, hay sản phẩm được nhập khẩu hay sản xuất trong nước. Các phát minh liên quan đến phương pháp chữa bệnh cho người và súc vật (bằng phẫu thuật hay phương pháp chữa bệnh khác), thực vật, động vật hoặc trái với đạo đức hoặc trật tự công cộng thì không được bảo hộ.
Quyền lợi có được cho phép chủ bằng sáng chế ngăn chặn việc sản xuất, sử dụng, đề nghị bán, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm được cấp bằng sáng chế hoặc sản phẩm của quy trình sản xuất đã được cấp bằng sáng chế. Hiệp ước này cũng quy định không có hạn chế đối với quyền lợi, ví dụ không cho phép được sử dụng cho mục đích thí nghiệm.
Hiệp ước này còn có một điều khoản lớn đề cập đến các trường hợp "sử dụng khác", ví dụ cho phép sử dụng phù hợp với li - xăng không tự nguyện, hay trong trường hợp khẩn cấp quốc gia, hay vì mục đích phi thương mại công cộng, chủ Patent phải nhận được sự đền bù xứng đáng. Hơn nữa nếu tập quán riêng của người được cấp bằng được coi là chống cạnh tranh, lúc đó không áp dụng một điều kiện đặc biệt nào cho việc cấp bằng. Hiệp ước này không định nghĩa tập quán chống cạnh tranh, nhưng có thể đưa ra định nghĩa rằng việc không thể cung cấp cho thị trường đầy đủ với những điều kiện hợp lý là chống cạnh tranh.
Trips cho phép suy xét cẩn thận trước khi huỷ bỏ bằng sáng chế, trong thời hạn 20 năm, và quy định việc cung cấp bằng chứng trong trường hợp bằng sáng chế quy trình sản xuất ra sản phẩm mới bị xâm phạm thuộc trách nhiệm của người bị coi là xâm phạm quyền lợi.
Về vấn đề quyền tác giả, Trips quy định cụ thể về các vấn đề sau đây:
Chương trình máy tính sẽ được bảo hộ như các tác phẩm văn học theo Công ước Berne. Việc bảo hộ này áp dụng cho cả hai dạng mã nguồn và mã máy với thời hạn bảo hộ trong vòng chuẩn mực là 50 năm
Các sưu tập dữ liệu sẽ được bảo hộ như là các sáng tạo trí tuệ (tác phẩm) được quy định có cùng tiêu chuẩn như bản gốc thông qua việc lựa chọn hoặc sắp xếp nội dung của dữ liệu. Việc bảo hộ sẽ áp dụng liên quan tới bất kỳ việc sưu tập nào tồn tại ở dạng hình thức máy độc lập hay những hình thức khác.
Quyền trong lĩnh vực cho thuê mang tính thương mại sẽ được áp dụng bản sao chương trình máy tính (trừ khi bản thân chương trình đó không phải là yếu tố cần thiết để cho thuê) và trong các tác phẩm điện ảnh (tuy vậy điều này không áp dụng khi việc cho thuê dẫn tới việc sao chép một cách tràn lan mà thực chất là làm hỏng quyền sao in riêng biệt). Quyền trong lĩnh vực cho thuê này cũng được áp dụng trong việc thu thanh.
Thời hạn bảo hộ đối với các tác phẩm không được tính từ khi tác giả qua đời mà là 50 năm kể từ thời điểm cuối cùng của năm được phép công bố. Nếu việc công bố đó không được thực hiện thì thời hạn này tính từ thời điểm cuối cùng của năm sáng tạo ra sản phẩm.
Cuối cùng là các quy định cụ thể được dành cho việc có thể đưa ra những hạn chế về quyền. Những hạn chế này sẽ được áp dụng đối với những trường hợp đặc biệt mà không xung đột với việc khai thác bình thường của tác phẩm và không có lý do nào là cơ sở làm phương hại tới lợi ích hợp pháp của tác giả.
Sau đây chúng ta sẽ xem xét cụ thể nội dung cơ bản của Hiệp định Trips.
II ) Nội dung cơ bản của hiệp định TRIPs
1. Các điều khoản chung và nguyên tắc cơ bản
Mục tiêu của Hiệp định là việc bảo hộ và thực thi quyền SHTT nhằm góp phần vào thúc đẩy đổi mới công nghệ và chuyển giao phổ biến công nghệ, vào thuận lợi chung của người tạo ra và người sử dụng kiến thức công nghệ và theo cách thức hướng tới phúc lợi xã hội và kinh tế và vào sự cân bằng về quyền và nghĩa vụ.
Để đạt được mục tiêu trên TRIPs quy định các Thành viên phải thi hành mọi điều khoản của Hiệp định. Tuy nhiên, các Thành viên, có thể không bắt buộc, được phép áp dụng trong luật của nước mình những biện pháp bảo hộ mạnh hơn các yêu cầu của TRIPs, miễn là các biện pháp bảo hộ đó không trái với các điều khoản của Hiệp định. Những biện pháp phù hợp có thể được sử dụng để ngăn chặn sự lạm dụng các quyền SHTT bởi những người nắm quyền hoặc ngăn chặn các hành vi gây cản trở hoạt động thương mại một cách bất hợp lý hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chuyển giao công nghệ quốc tế.
Trong các điều khoản của mình TRIPs đề cập đến "Chế độ đãi ngộ quốc gia" và "Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc". Việc áp dụng hai chế độ này trong điều khoản của mình nhằm tạo ra sự đối xử công bằng, bình đẳng đối với mọi tổ chức, cá nhân của các Thành viên trong Hiệp hội. Tuy nhiên TRIPs cũng đề ra một số ngoại lệ được quy định tương ứng trong Công ước Paris (văn bản Stockholm của Công ước đó, ký kết ngày 14/07/1967), Công ước Berne (văn bản Paris của Công ước đó, ký kết ngày 24/07/1971), Công ước Rome và Hiệp ước về sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực mạch tích hợp. Các Thành viên khi áp dụng các ngoại lệ nêu trên phải thông báo cho Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT (Hội đồng TRIPs).
Ngoài ra, các Thành viên có thể áp dụng một số ưu tiên, chiếu cố đặc biệt đối với một hoặc một vài Thành viên khác (không phải với mọi Thành viên) nếu các ưu tiên, chiếu cố đặc biệt trên được quy định trong các Thoả ước quốc tế về bảo hộ SHTT có hiệu lực trước TRIPs và trong các Thoả ước đa phương được ký kết dưới sự bảo trợ của WIPO với điều kiện các Thoả ước đó được thông báo cho Hội đồng TRIPs và không tạo nên sự đối xử tuỳ tiện hoặc bất hợp lý đối với công dân của các Thành viên khác.
2. Các tiêu chuẩn về việc xác lập phạm vi và sử dụng các quyền SHTT
Các đối tượng SHTT được bảo hộ trong TRIPs bao gồm: Bản quyền và các quyền liên quan, Nhãn hiệu hàng hoá, Chỉ dẫn địa lý, Kiểu dáng công nghiệp, Patent, Thiết kế bố trí mạch tích hợp, Thông tin bí mật.
Đối với việc bảo hộ các đối tượng SHTT, TRIPs có những quy định riêng, cụ thể cho từng loại đối tượng nhưng nhìn chung có những điểm cơ bản sau:
- Chủ sở hữu đối tượng SHTT được bảo hộ phải có quyền cấm những người không được phép của mình sử dụng, sản xuất, sao chép các đối tượng SHTT đó nếu các hành vi nói trên được thực hiện nhằm mục đích thương mại.
- Các thành viên có thể quy định một số ngoại lệ nhất định đối với việc bảo hộ các đối tượng SHTT nói trên với điều kiện là các ngoại lệ đó không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường các đối tượng SHTT đã được bảo hộ và không làm tổn hại một cách bất hợp lý tới lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu đối tượng đã được bảo hộ và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.
TRIPs quy định về thời hạn bảo hộ đối với từng đối tượng SHTT như sau:
- Bản quyền và các quyền liên quan: Trừ tác phẩm nhiếp ảnh và tác phẩm nghệ thuật ứng dụng, nếu thời hạn bảo hộ tác phẩm không được tính theo đời người, thời hạn đó không được dưới 50 năm kể từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được công bố một cách hợp pháp, hoặc 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được tạo ra nếu tác phẩm không được công bố một cách hợp pháp. Thời hạn bảo hộ đối với những người biểu diễn và sản xuất bản ghi âm phải kéo dài ít nhất là hết 50 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà việc ghi âm hoặc buổi biểu diễn được tiến hành. Thời hạn bảo hộ đối với các tổ chức phát thanh và truyền hình phải kéo dài ít nhất là 20 năm tính từ khi kết thúc năm dương lịch mà chương trình phát thanh truyền hình được thực hiện.
- Nhãn hiệu hàng hoá: Đăng ký lần đầu và mỗi lần gia hạn đăng ký một nhãn hiệu hàng hoá phải có thời hạn hiệu lực không dưới 7 năm. Hiệu lực đăng ký một nhãn hiệu hàng hoá phải có khả năng không giới hạn số lần gia hạn.
- Kiểu dáng công nghiệp: Thời hạn bảo hộ ít nhất phải là 10 năm
- Patent: Thời hạn bảo hộ không được kết thúc trước khi hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn.
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp: Tại những nước Thành viên quy định rằng đăng ký là điều kiện bảo hộ, thời hạn bảo hộ không được kết thúc trước khi hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn đăng ký hoặc từ ngày việc khai thác nhằm mục đích thương mại xẩy ra lần đầu tiên ở bất kỳ nơi nào trên thế giới. Tại những nước Thành viên không quy định đăng ký là điều kiện để bảo hộ, các thiết kế bố trí phải được bảo hộ trong thời hạn không dưới 10 năm tính từ ngày việc khai thác nhằm mục đích thương mại xẩy ra lần đầu tiên ở bất kỳ nơi nào trên thế giới.
Ngoài ra trong phần này TRIPs cũng đề cập đến việc khống chế các hoạt động chống cạnh tranh trong các hợp đồng li - xăng. Để tạo điều kiện cho các hoạt động thương mại và chuyển giao, phổ biến công nghệ được tiến hành một cách thuận lợi, đạt hiệu quả cao, TRIPs cho phép các Thành viên được cụ thể hoá trong luật pháp quốc gia của mình các hoạt động hoặc các điều kiện cấp li- xăng có thể bị coi là lạm dụng quyền SHTT. Các Thành viên có thể áp dụng các biện pháp thích hợp để ngăn ngừa hoặc khống chế các hoạt động trên miễn là phù hợp với quy định củaTRIPs và luật pháp của quốc gia đó.
3. Thực thi quyền SHTT
TRIPs quy định các Thành viên phải đảm bảo rằng các thủ tục thực thi quyền SHTT phải được quy định trong luật quốc gia của mình để tạo khả năng khiếu kiện có hiệu quả đối với mọi hành vi xâm phạm các loại quyền SHTT được đề cập trong Hiệp định này. Trong đó có các biện pháp chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm và những biện pháp chế tài nhằm ngăn chặn không để các hành vi xâm phạm tái diễn. Các thủ tục đó phải được áp dụng sao cho tránh tạo ra các hàng rào cản trở hoạt động thương mại hợp pháp và để quy định các biện pháp đảm bảo cho các thủ tục đó không bị lạm dụng. Các quyết định phán xử vụ việc nên được thể hiện bằng văn bản và nêu rõ lý do. Các quyết định đó ít nhất phải được trao cho các bên tham gia khiếu kiện mà không được chậm trễ quá mức. Quyết định phán xử vụ việc chỉ được dựa vào chứng cứ mà các bên đã được trình bày.
Sau khi có phán xét của Toà án ra lệnh chấm dứt các hành vi xâm phạm, các cơ quan có thẩm quyền được phép áp dụng các chế tài dân sự và hành chính để thực thi quyền SHTT. Người xâm phạm buộc phải trả cho người nắm giữ quyền khoản đền bù thoả đáng để bồi thường thiệt hại mà người nắm giữ quyền đã phải gánh chịu do hành vi vi phạm gây ra. Ngược lại, các cơ quan xét xử cũng có quyền ra lệnh buộc bên đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp chế tài và đã lạm dụng các thủ tục thực thi phải trả cho bên đã bị áp dụng các biện pháp đó hoặc bị hạn chế một cách sai trái khoản bồi thường tương xứng với thiệt hại mà bên thứ hai đã phải gánh chịu.
Ngoài ra, các cơ quan xét xử cũng phải có quyền ra lệnh áp dụng một cách khẩn cấp và hữu hiệu các biện pháp tạm thời:
- Nhằm ngăn chặn bất kỳ hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nào, và đặc biệt nhằm ngăn chặn hàng hoá nhập khẩu vừa mới hoàn thành thủ tục hải quan vào các kênh thương mại thuộc phạm vi quyền hạn của mình.
- Nhằm bảo tồn các chứng cứ liên quan đến hành vi bị kiện là xâm phạm quyền.
Đối với các yêu cầu đặc biệt liên quan đến các biện pháp kiểm soát biên giới, TRIPs quy định các Thành viên có thể tiến hành đình chỉ thông quan tại các cơ quan Hải quan nếu nhận được khiếu nại của người nắm quyền khi họ có những căn cứ hợp lý để nghi nghờ rằng việc nhập khẩu các hàng hoá mang nhãn hiệu giả mạo hoặc vi phạm bản quyền có thể xẩy ra. Thông báo về việc đình chỉ thông quan phải được gửi ngay tới người nhập khẩu và nguyên đơn. Trong thời hạn không quá 10 ngày làm việc kể từ khi nguyên đơn được thông báo về việc đình chỉ thông quan, nếu các cơ quan Hải quan không được thông báo rằng thủ tục xét xử vụ việc đó đã được tiến hành hoặc các cơ quan được uỷ quyền đã thực hiện các biện pháp tạm thời để kéo dài thời hạn đình chỉ việc thông quan đối với hàng hoá đó, thì hàng hoá đó phải được thông quan nếu đáp ứng mọi điều kiện đối với việc nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Trong những trường hợp thích hợp, thời hạn này có thể gia hạn thêm 10 ngày làm việc. Trong lĩnh vực này, các Thành viên có thể áp dụng cả chế tài dân sự và hình sự.
4. Thủ tục để hưởng và duy trì các quyền SHTT và thủ tục khác theo yêu cầu của các bên liên quan
Các Thành viên có thể quy định rằng một trong những điều kiện để đạt được hoặc duy trì các quyền SHTT là phải tuân thủ các trình tự và thủ tục hợp lý. Các trình tự và thủ tục đó sẽ phải phù hợp với các quy định của TRIPs.
Trường hợp việc đạt được quyền SHTT phụ thuộc vào thủ tục cấp quyền hoặc đăng ký quyền, các Thành viên phải đảm bảo rằng các thủ tục cấp hoặc đăng ký quyền phụ thuộc vào việc đáp ứng các điều kiện về bản chất đối tượng SHTT, được hoàn thành trong một thời hạn hợp lý để tránh rút ngắn một cách tuỳ tiện thời hạn bảo hộ.
Các thủ tục liên quan đến việc đạt được và duy trì các quyền SHTT, và thủ tục hành chính về huỷ bỏ hiệu lực và, nếu luật quốc gia quy định, các thủ tục theo yêu cầu của bên liên quan như phản đối , huỷ bỏ và đình chỉ hiệu lực, phải phù hợp với các nguyên tắc sau:
- Các thủ tục liên quan đến việc thực thi các quyền SHTT phải đúng đắn và công bằng. Các thủ tục đó không được phép phức tạp một cách không cần thiết hoặc tốn kém, hoặc quy định những thời hạn bất hợp lý hoặc những sự trì hoãn vô thời hạn.
- Các quyết định phán xử vụ việc nên được thể hiện bằng văn bản và nêu rõ lý do. Các quyết định đó ít nhất phải được trao cho các bên liên quan mà không được chậm trễ quá mức. Quyết đinh phân xử vụ việc chỉ được dựa vào chứng cứ mà các bên đã được trình bày ý kiến về chứng cứ đó.
5. Ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc ngăn ngừa các tranh chấp về xâm phạm quyền SHTT, các luật và các quy định, các quyết định xét xử cuối cùng và các quyền quyết định hành chính để áp dụng chung, do Thành viên ban hành, liên quan đến Hiệp định này (khả năng đạt được, phạm vi, việc đạt được, thực thi và ngăn ngừa sự lạm dụng các quyền SHTT) phải được công bố, hoặc nếu việc công bố đó không có khả năng thực hiện, phải tiếp cận được một cách công khai, bằng ngôn ngữ quốc gia, theo cách thức mà để các Chính phủ và những người nắm quyền có thể biết rõ về các văn bản đó.
Các Thành viên phải thông tin về các luật và các quy định nêu trên cho Hội đồng TRIPs để giúp Hội đồng đánh giá việc thi hành Hiệp định này. Hội đồng phải cố gắng giảm đến mức tối thiểu nghĩa vụ này cho các Thành viên và có thể quyết định miễn nghĩa vụ thông tin về các luật và quy định đó trực tiếp cho Hội đồng nếu việc thương lượng với WIPO về việc thành lập một hệ thống chung để đăng ký các luật và quy định pháp luật đó đạt kết quả.
Theo yêu cầu bằng văn bản của mỗi Thành viên, mỗi Thành viên khác phải sẵn sàng cung cấp thông tin về các vấn đề được quy định như trên. Tuy nhiên TRIPs không buộc các Thành viên tiết lộ những thông tin bí mật có thể cản trở việc thực thi luật hoặc trái với lợi ích xă hội hoặc có thể gây tổn hại cho lợi ích thương mại hợp pháp của doanh nghiệp cụ thể nào đó, thuộc Nhà nước hoặc tư nhân.
Về việc giải quyết tranh chấp TRips dẫn chiếu đến các quy định tại các Điều XXII và XXIII của Thoả ước chung về Thuế quan và Thương mại 1994 được chi tiết hoá và áp dụng trong Thoả thuận về giải quyết tranh chấp.
6. Các quy định chuyển tiếp
Đối với các nước đang phát triển, TRIPs cho phép miễn nghĩa vụ phải thực thi Hiệp định trong một thời hạn chung là 1năm kể từ khi Hiệp định bắt đầu có hiệu lực.
Các nước đang phát triển cũng được phép hoãn thời hạn thi hành Hiệp định thêm 4 năm so với thời hạn chung, trừ các quy định về việc áp dụng Chế độ đãi ngộ quốc gia, Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, các Thoả thuận đa phương về việc đạt được hoặc duy trì hiệu lực bảo hộ.
Đối với Thành viên là nước kém phát triển, do những nhu cầu và yêu cầu đặc biệt, những nhu cầu bức bách về kinh tế, tài chính và hành chính, và nhu cầu cần có sự linh hoạt để tạo ra một nền tảng công nghệ bền vững của các Thành viên này, các Thành viên đó không bị bắt buộc phải thi hành các quy định của Hiệp định này, trừ việc áp dụng các Chế độ đãi ngộ quốc gia, Chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, các Thoả thuận đa phương về việc đạt được hoặc duy trì hiệu lực bảo hộ, trước khi hết 10 năm kể từ thời hạn chung. Hội đồng TRIPs phải gia hạn thời hạn này theo yêu cầu chính đáng của Thành viên là nước kém phát triển.
Trong phần này, TRIPs cũng yêu cầu các nước phát triển phải hợp tác về kỹ thuật và tài chính để giúp đỡ những nưóc đang và kém phát triển.
7. Các thoả thuận về thể chế và điều khoản cuối cùng
Hội đồng TRips phải điều hành hoạt động của Hiệp định này, và phải tạo điều kiện cho các Thành viên cơ hội trao đổi ý kiến về những vấn đề liên quan đến các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT. Hội đồng phải làm tròn những trách nhiệm khác do các Thành viên giao phó và đặc biệt phải đáp ứng mọi yêu cầu trợ giúp của các Thành viên trong các thủ tục giải quyết tranh chấp. Khi thực hiện các chức năng của mình, Hội đồng có thể tham khảo và tìm kiếm thông tin từ bất cứ nguồn nào mà Hội đồng cho là thích hợp. Hội đồng phải đánh giá việc thực thi Hiệp định này sau khi kết thúc thời hạn chuyển tiếp. Dựa trên những kinh nghiệm rút ra từ việc thi hành Hiệp định này, sau 2 năm kể từ thời điểm nói trên và tiếp đó cứ 2 năm một lần, Hội đồng phải xem xét lại việc thi hành Hiệp định. Những sửa đổi chỉ nhằm thích ứng với việc bảo hộ ở mức cao hơn các quyền SHTT đã đạt được và đang có hiệu lực trong các Thoả ước đa phương khác và được tất cả các Thành viên của WTO chấp nhận.
Những bảo lưu liên quan đến bất kỳ quy định nào của Hiệp định này đều không được ghi nhận nếu không được tất cả các Thành viên khác nhất trí.
Đối với những ngoại lệ về an ninh, TRIPs quy định như sau:
- Thành viên không buộc phải cung cấp bất cứ thông tin nào mà việc bộc lộ thông tin đó bị coi là trái với các lợi ích cơ bản của an ninh quốc gia.
- Thành viên được phép thực hiện bất cứ hành động nào mà Thành viên đó coi là cần thiết đối với việc bảo vệ các lợi ích cơ bản của an ninh quốc gia.
- Thành viên được phép thực hiện bất cứ hành động nào phù hợp với nghĩa vụ của mình theo Hiến chương Liên hợp quốc đối với việc giữ gìn hoà bình và an ninh quốc tế.
Chương II
Thực trạng pháp luật Việt nam về SHTT liên quan đến thương mại, so sánh với các quy định tương ứng của WTO
I ) Thực trạng pháp luật Việt nam về SHTT
Hệ thống pháp luật về quyền SHTT của Việt nam mới được hình thành từ đầu thập kỷ 80 song đã được thường xuyên bổ sung và hoàn thiện, hiệu lực pháp luật của các văn bản pháp luật từng bước được nâng cao nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong các lĩnh vực kinh tế xã hội. Từ những nghị định của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) đến các pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước và gần đây nhất là Bộ luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam mới được Quốc hội khoá IX thông qua ngày 28/10/1995 trong đó quyền SHTT đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của Bộ luật (phần thứ 6: "Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ"). Hệ thống pháp luật về quyền SHTT đã trở thành cơ sở pháp lý vững chắc để triển khai toàn bộ các hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở Việt Nam. Hoạt động này đã bước đầu phát huy tác dụng tích cực đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường đang được mở rộng, đóng góp đáng kể vào việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đầy quan hệ kinh tế đối ngoại và khuyến khích các hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hoá - nghệ thuật. Những kết quả đó cũng tạo ra những điều kiện ban đầu hết sức cần thiết cho việc tiếp tục phát triển và hoàn thiện hệ thống bảo hộ quyền SHTT ở Việt nam trong tương lai.
1. Thực trạng pháp luật Việt nam về sở hữu công nghiệp
Ngày 23/01/1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 31/CP về sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hoá sản xuất và sáng chế. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam đề cập đến việc bảo hộ đối với sáng chế - một trong những đối tượng quan trọng nhất của quyền sở hữu công nghiệp.
Nghị định 31/CP quy định cụ thể tiêu chuẩn của một giải pháp kỹ thuật có khả năng bảo hộ là sáng chế, thủ tục xác lập quyền, thủ tục khiếu nại, giải quyết khiếu nại, tranh chấp liên quan đến việc xác lập quyền và vi phạm quyền của chủ sáng chế và của tác giả sáng chế.
Nghị định 31/CP quy định hai hình thức bảo hộ sáng chế: Bằng tác giả sáng chế và bằng sáng chế độc quyền do Cục sáng chế (nay là Cục sở hữu Công nghiệp) cấp, có thời hạn 15 năm kể từ ngày nộp đơn. Bằng tác giả sáng chế bảo hộ quyền sở hữu sáng chế của Nhà nước và quyền tác giả sáng chế; khi sáng chế được cấp bằng và công bố thì mọi cơ quan, đơn vị của Nhà nước đều có quyền sử dụng và có nghĩa vụ trả thưởng cho tác giả theo quy định của Nghị định
Chủ sáng chế (có thể là tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế) được độc quyền sử dụng sáng chế, cho phép người khác sử dụng sáng chế hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu sáng chế cho người khác trên cơ sở hợp đồng.
Mặc dù Nghị định 31/CP quy định tác giả hoặc người thừa kế hợp pháp của tác giả có quyền lựa chọn một trong hai hình thức bảo hộ trên cho sáng chế của mình nhưng trong thực tế Bằng tác giả sáng chế chủ yếu dành cho người nước ngoài có nhu cầu bảo hộ sáng chế ở Việt nam. Đó chính là một hình thức sáng chế mà phần lớn các nước xã hội chủ nghĩa (trước đây) áp dụng cho đến cuối thập niên 80.
Mặc dù còn có những nhược điểm và hạn chế nhất định, Nghị định 31/CP đã mở đầu cho hoạt động sở hữu công nghiệp ở Việt nam hình thành và phát triển mạnh mẽ.
Sau khi ban hành nghị định 31/CP, Cục sáng chế (nay là Cục sở hữu Công nghiệp) được thành lập, Việt nam tham gia Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và trở thành thành viên của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới; các công việc chuẩn bị để triển khai toàn diện hoạt động sở hữu công nghiệp được đẩy mạnh, trong đó có việc nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các văn bản pháp lý nhằm bảo hộ các đối tượng khác của sở hữu công nghiệp.
Hàng loạt các nghị định của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) được ban hành:
- Nghị định 197/HĐBT ngày 14/12/1982 về nhãn hiệu hàng hoá.
- Nghị định 85/HĐBT ngày13/05/1985 về kiểu dáng công nghiệp.
- Nghị định 200/HĐBT ngày 28/12/1988 về giải pháp hữu ích.
- Nghị định 201/HĐBT ngày 28/121988 về mua bán quyền sở hữu sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết kỹ thuật.
Các nghị định trên đã đưa ra định nghĩa và tiêu chuẩn của từng loại đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ; loại văn bằng bảo hộ và thời hạn hiệu lực; thủ tục xác lập quyền cũng như thủ tục giải quyết khiếu nại, tranh chấp liên quan đến việc xác lập quyền và vi phạm quyền sở hữu công nghiệp. Các nghị định trên cũng đã thể hiện nội dung cơ bản của các quyền sở hữu công nghiệp được bảo hộ ở Việt nam, đó là: trong thời hạn hiệu lực của Văn bằng bảo hộ, chủ của Văn bằng bảo hộ được độc quyền sử dụng, cho phép người khác sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp cho người khác dưới hình thức hợp đồng đăng ký tại Cục sở hữu Công nghiệp.
Để hướng dẫn thi hành các nghị định của Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước (nay là Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường), Bộ Tài chính đã ban hành các thông tư hướng dẫn thi hành đối với từng nghị định.
Như vậy, tính đến cuối năm 1988, bốn đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp (sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, giải pháp hữu ích) đã lần lượt được triển khai bảo hộ tại Việt nam theo từng nghị định riêng rẽ của Hội đồng Bộ trưởng.
Để hoàn chỉnh và nâng cao hiệu lực pháp lý của hệ thống văn bản pháp luật sở hữu công nghiệp, ngày 11/02/1989 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước đã ký lệnh công bố "Pháp lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp". Đây là mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của hoạt động bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp ở Việt nam.
Nội dung cơ bản của Pháp lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam công nhận và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp của các cá nhân, pháp nhân bao gồm: quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và quyền sử dụng tên gọi xuất xứ hàng hoá; Nhà nước cũng thừa nhận và bảo hộ quyền tác giả sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp. Bất cứ cá nhân, pháp nhân nào, không phân biệt thành phần kinh tế, đều có thể trở thành chủ thể của quyền sở hữu công nghiệp nếu có sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ và thực hiện đầy đủ các thủ tục đăng ký tại Cục sáng chế (nay là Cục sở hữu Công nghiệp), quyền sở hữu công nghiệp của các chủ thể nước ngoài cũng có thể được bảo hộ ở Việt nam theo các điều ước quốc tế mà Việt nam tham gia hoặc theo các nguyên tắc có đi có lại.
Pháp lệnh cũng quy định tiêu chuẩn cụ thể của từng loại đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật bảo hộ; văn bằng bảo hộ cho từng loại đối tượng và thời hạn hiệu lực, thủ tục công nhận quyền sở hữu công nghiệp cũng như thủ tục giải quyết khiếu nại, tranh chấp, xử lý vi phạm liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp. Như vậy là Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đã khái quát và tổng hợp tất cả những quan điểm, những nội dung chủ yếu đã được thể hiện trong các nghị định của Hội đồng Bộ trưởng.
Tuy nhiên để khắc phục các tồn tại còn nảy sinh trong quá trình triển khai việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, để hệ thống pháp luật về quyền sở hữu công nghiệp phù hợp với sự chuyển đổi cơ chế quản lý từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và để nâng cao hiệu lực pháp luật của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp có một số quy định mới, trong đó đáng chú ý là:
- Đối với sáng chế, Nhà nước._.n và không sử dụng vào mục đích khác thì không bị coi là xâm phạm bản quyền đối với một chương trình máy tính. Ngoài ra các chương trình máy tính lại có nhiều dạng thể hiện khác nhau như thuật toán , mã nguồn , mã máy... nên không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng xác định được một dạng thể hiện chương trình máy tính cụ thể nào đó đã bị sao chép hay chỉ là ý tưởng của chương trình đó bị sao chép (ý tưởng thì không được bảo hộ quyền tác giả). Qua đó, chúng ta có thể thấy được tính chất phức tạp trong việc bảo hộ đối tượng này. Việc ban hành một văn bản hướng dẫn bảo hộ đối tượng này là cần thiết và cấp bách trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Nó sẽ giúp cho việc bảo hộ các chương trình máy tính và các bộ sưu tập dữ liệu thuận lợi và chính xác hơn. Đồng thời hạn chế việc ăn cắp bản quyền và tạo điều kiện cho ngành công nghiệp phần mềm của Việt nam phát triển. Thêm nữa nó khuyến khích các công ty máy tính nước ngoài đầu tư nhiều hơn vào ngành công nghiệp non trẻ mang lại giá trị gia tăng to lớn này của Việt nam, góp phần vào việc thực hiện chiến lược của Chính phủ coi công nghệ thông tin là một ngành mũi nhọn trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước.
2.3. Các tác phẩm khuyết danh và bí danh
Điều 9.1 Hiệp định TRIPs và Điều 15.3 của Công ước Berne quy định nhà xuất bản có ghi trên tác phẩm được xem là đại diện của các tác giả và có thẩm quyền bảo hộ và thự c thi các quyền của tác giả đối với các tác phẩm khuyết danh và bí danh. Quyền này của nhà xuất bản sẽ chấm dứt khi tác giả tiết lộ danh tính và chứng minh mình là tác giả.
Các quy định về bảo hộ quyền tác giả của Việt nam lại chưa đề cập đến vấn đề này và như vậy nó chưa hoàn toàn phù hợp với Hiệp định TRIPs. Việc bổ xung quy định này sẽ là cần thiết nhằm hoàn thiện công tác bảo hộ quyền tác giả tại Việt nam.
3. Khác biệt về chế độ đãi ngộ quốc gia
Hiệp định TRIPs quy định mỗi thành viên của WTO phải dành cho các công dân của các nước thành viên chế độ đối xử như quốc gia đó dành cho công dân của nước mình về việc bảo hộ quyền SHTT. Nói một cách khác, quy định muốn nói đến nghĩa vụ của một nước thành viên WTO bất kỳ phải đối xử với những người nứơc ngoài từ những nước thành viên WTO khác theo một phương thức giống như nước thành viên WTO đó dành cho công dân của nước mình. Cơ sở của nguyên tắc này là mọi nước thành viên phải bình đẳng trong đối xử công dân đối với việc bảo hộ quyền SHTT không phân biệt biên giới quốc gia.
Trong thực tế hiện nay, chế độ phí và lệ phí trong hệ thống bảo hộ SHTT của Việt nam vẫn chưa phù hợp với quy định của TRips về đãi ngộ quốc gia. Tồn tại hai hệ thống phí và lệ phí sở hữu trí tuệ cho công dân Việt nam và người nước ngoài. Đây là một điểm không phù hợp với TRIPs mà Việt nam cần thay đổi khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này sẽ làm ngân sách Nhà nước bị thất thu một khoản tài chính không nhỏ. Đồng thời, lượng đơn xin đăng ký bảo hộ các đối tượng SHTT tại Việt nam có thể sẽ tăng lên gây khó khăn cho công tác quản lý vẫn còn đang non yếu của Việt nam.
4. Khác biệt về chế độ đãi ngộ tối huệ quốc
Hiện nay, Việt nam đã có hợp tác song phương về quyền SHTT với một số nước. Một số văn bản song phương đã được ký kết như Hiệp định về quyền tác giả đối với Hoa Kỳ, Hiệp định hợp tác về quyền sở hữu công nghiệp đối với Thái Lan, Pháp. Tuy nhiên, cho đến nay Việt nam đều đối xử bình đẳng với tất cả các nước trong vấn đề bảo hộ quyền SHTT mà không hề có đãi ngộ tối huệ quốc cho bất kỳ một quốc gia nào .
5. Khác biệt về thực thi và triển khai các quy định về SHTT
Trong khi có thể không mấy khó khăn để Việt nam tạo được ra một khung pháp luật về bảo hộ SHTT phù hợp với TRIPs thì việc thực thi trên thực tế lại là một vấn đề khó khăn hơn nhiều. Một hệ thống pháp luật chỉ thực sự là tốt nếu nó được thực thi tốt.
Cùng với việc phát triển mạnh mẽ các quan hệ kinh tế đối ngoại, hợp tác đầu tư của Việt nam như hiện nay, việc thực thi quyền SHTT sẽ là thách thức lớn đối với Chính phủ Việt nam cả trên bình diện quốc gia cũng như quốc tế. Vấn đề này ngày càng được quan tâm nhiều hơn từ phía Nhà nước, các doanh nghiệp cũng như toàn xã hội. Do phạm vi bảo hộ các đối tượng SHTT rất rộng, cũng như công tác bảo hộ phải được đảm bảo bằng hệ thống hành chính truyền thống hiện hành nên việc đặt ra các chuẩn mực tối thiểu cho việc thực thi quyền SHTT là rất khó. Chính vì vậy mà quyền thực thi SHTT hiện nay của Việt nam còn nhiều điều cần phải xem xét khi tham gia TRIPs.
Xem xét hệ thống các quy định để đảm bảo thực thi quyền SHTT tại Việt nam hiện nay, chúng ta thấy còn những khoảng cách lớn so với yêu cầu của TRIPs như sau:
- Các Điều 42 đến Điều 48 và Điều 50 của Hiệp định TRIPs quy định về các thủ tục dân sự đối với việc thực thi quyền SHTT. Công văn số 97-KHXX ngày 21/08/1997 của Toà án Nhân dân Tối cao về thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp quy định các tranh chấp về quyền SHTT tại Việt nam thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương. Nếu một trong hai bên đương sự là tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thì tranh chấp sẽ do toà án Hà nội hoặc Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết theo yêu cầu của nguyên đơn.
Tuy hiện nay Việt nam đã có những quy định về thủ tục xét xử dân sự đối với các hành vi vi phạm quyền SHTT, nhưng trong thực tế có rất ít các vi phạm về quyền SHTT được giải quyết tại Toà án do hình thức này chỉ mới xuất hiện tại Việt nam, chưa tạo thành thói quen trong xã hội. Điều này gây ra những khó khăn không nhỏ cho công tác thực thi của Việt nam theo yêu cầu của TRIPs. Bên cạnh đó, các nhà doanh nghiệp đều không mong muốn các vi phạm về SHTT bị đem ra công khai tố tụng trước toà. Điều đó sẽ làm mất tín nhiệm và triển vọng kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhận thức chung cũng cho rằng các thủ tục tố tụng thường quá phức tạp và tốn kém.
Đồng thời, với tính chất là quyền được xác lập bởi Bộ luật Dân sự, quyền SHTT phải được bảo hộ thông qua các thủ tục tố tụng dân sự. Tuy vậy cho đến nay, Việt nam vẫn chưa có Bộ luật tố tụng dân sự để các cơ quan chức năng có thể thực hiện được các thủ tục tố tụng cần thiết trong việc thực thi quyền SHTT.
- Điều 49 của TRips quy định trong những trường hợp nhất định, các thủ tục hành chính có thể thay thế các thủ tục dân sự trong chừng mực mà hai loại thủ tục đó tương đương về bản chất. Có thể thấy đây là một quy định khá quan trọng của TRips đối với vấn đề thực thi quyền mà Việt nam chưa đáp ứng được do hiện tại vẫn thiếu các quy định và thủ tục xử phạt hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền SHTT.
- Mục IV từ Điều 51 đến Điều 60 của TRIPs quy định về các yêu cầu đặc biệt liên quan đến các biện pháp kiểm soát biên giới. Các biện pháp kiểm soát biên giới được quy định trong TRips chủ yếu liên quan đến hàng hoá mang nhãn hiệu và hàng hoá được bảo hộ bản quyền. Nội dung chính của nguyên tắc này là chủ bản quyền hoặc chủ nhãn hiệu hàng hoá chủ động yêu cầu Hải quan thu giữ hàng hoá xâm phạm, hoặc cơ quan Hải quan thu giữ hàng hoá xâm phạm và sau đó chủ nhãn hiệu hàng hoá hoặc chủ bản quyền liên quan yêu cầu cơ quan Hải quan thu giữ hàng hoá đó.
Các nguyên tắc của TRIPs trong phần này tuy khá đơn giản nhưng lại thấy rõ ràng việc thực thi các quy định này đối với một nước như là Việt nam lại không phải là việc dễ dàng. Hải quan Việt nam là cơ quan duy nhất có khả năng, thẩm quyền và trách nhiệm kiểm soát thương mại đối với quyền SHTT tại biên giới. Do vậy, nó là một trong những cơ quan giữ vai trò quan trọng bậc nhất đối với việc bảo hộ một cách hiệu quả quyền SHTT. Nhưng hiện tại vai trò và khả năng của cơ quan này lại chưa được phát huy trọn vẹn do vẫn chưa có các quy định pháp lý đầy đủ giao quyền kiểm soát về SHTT cho Hải quan, nhất là thẩm quyền sử phạt vi phạm hành chính về SHTT trong hoạt động xuất nhập khẩu; chưa có các quy định về thủ tục hành chính trong việc kiểm soát biên giới trong lĩnh vực SHTT.
Mục V Điều 61 Hiệp định TRIPs đề cập đến các chế tài hình sự có tính chất bắt buộc áp dụng đối với các hành vi cố ý làm giả nhãn hiệu hàng hoá và hàng xâm phạm bản quyền với quy mô thương mại. Chế tài hình sự áp dụng cho việc thực thi quyền SHTT tại Việt nam quy định tại Điều 167 Bộ luật Hình sự đối với hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả. Tuy nhiên khung phạt cho loại tội này lại quá rộng gây khó khăn cho việc định hình phạt một cách phù hợp và nhất quán.
Tuy còn nhiều điểm chưa phù hợp với Hiệp định TRIPs nhưng hệ thống pháp luật về SHTT của Việt nam trong những năm qua đã đạt được những thành tựu nhất định góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, thương mại phát triển. Việt nam còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật SHTT cho phù hợp với những yêu cầu và thông lệ quốc tế, khó khăn lớn nhất đối với Việt nam là các biện pháp để thực thi khuôn khổ pháp lý đó. Tuy nhiên , đây cũng chính là cơ hội và thách thức để Việt nam tự khẳng định vị thế của mình trên phạm vi quốc tế.
Chương III
Hoàn thiện pháp luật Việt nam về SHTT tiến tới gia nhập WTO
I ) Phương hướng hoàn thiện
Xuất phát từ thực trạng của cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ SHTT của nước ta hiện nay, căn cứ vào các đòi hỏi khách quan phải đổi mới, việc hoàn thiện pháp luật Việt nam về SHTT có các phương hướng cơ bản sau đây:
1. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền SHTT
Cho đến nay, hệ thống pháp luật về quyền SHTT của Việt nam đã được nhiều lần sửa đổi và đã gần gũi hơn nhiều với các văn bản pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên trong hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn còn tồn tại một số bất cập mà việc sửa đổi và bổ sung những bất cập này là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Nó cũng phù hợp với đường lối chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay đó là mở rộng và hội nhập hơn nữa với nền kinh tế thế giới. Và với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật như vũ bão hiện nay, việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền SHTT là điều kiện tiên quyết để Việt nam có được công nghệ mới, tạo đà cho việc theo kịp các nền kinh tế phát triển.
Với các yêu cầu nêu trên, hiện nay Việt nam cần ban hành, bổ sung các văn bản pháp luật còn thiếu để tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực thi quyền SHTT tại Việt nam. Ngoài những quy định về SHTT trong Bộ luật Dân sự, Việt nam cần có một luật riêng về SHTT cho phù hợp với hệ thống pháp luật chung của thế giới. Luật mới này phải gần hơn với các luật, các Công ước, Hiệp ước quốc tế; khuyến khích sự sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, công bằng, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của người tiêu dùng. Chính phủ cũng cần xem xét việc Việt nam tham gia một cách đầy đủ, tích cực hơn nữa vào các văn bản pháp luật quốc tế về SHTT như: Công ước Berne, Hiệp định Trips..., vì đây chính là bước đi cần thiết để Việt nam tiến tới hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
2. Đổi mới và hoàn thiện bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT
Tình hình vi phạm nghiêm trọng quyền SHTT ở Việt nam hiện nay ngoài sự thiếu hiểu biết về pháp luật của người dân, sự lỏng lẻo thiếu sót của hệ thống pháp luật còn có phần trách nhiệm không nhỏ của bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT. Sự yếu kém về chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ quản lý và việc không thống nhất trong quá trình thực thi bảo hộ quyền SHTT của các Bộ, ngành hữu quan là nguyên nhân không nhỏ trong việc vi phạm này. Do vậy, việc đổi mới và hoàn thiện bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT là đòi hỏi cấp bách trong quá trình cải cách kinh tế ở Việt nam hiện nay.
Các bộ có trách nhiệm thực thi quyền SHTT đó là: Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan, Bộ Thương mại. Cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan đến việc xác lập và bảo hộ quyền SHTT là Cục sở hữu Công nghiệp thuộc Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường và Cục Bản quyền Tác giả thuộc Bộ Văn hoá - Thông tin.
Để đáp ứng yêu cầu về thực thi quyền SHTT trong nền kinh tế thị trường như hiện nay đòi hỏi các Bộ, các ngành liên quan cần đổi mới tổ chức và hoạt động của mình theo hướng phát triển cơ cấu. Tăng cường về số lượng và chất lượng cho cán bộ quản lý. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng của các Bộ, ngành, tạo ra một hệ thống liên lạc thông suốt giữa các cơ quan hữu quan giúp cho việc thực thi quyền SHTT được tiến hành đồng bộ và thuận lợi. Ban hành các thông tư liên bộ hướng dẫn thực thi quyền SHTT.
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần hỗ trợ cho việc thành lập các hiệp hội, các tổ chức đại diện SHTT như: Hội sở hữu công nghiệp Việt nam, Hội quảng cáo Việt nam, Hiệp hội phim ảnh Việt nam, Hiệp hội âm nhạc Việt nam... Các hiệp hội này ra đời sẽ hỗ trợ các cơ quan của Chính phủ trong việc thực thi quyền SHTT một cách có hiệu quả.
3. Đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền SHTT
Hiện nay, việc giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền SHTT ở Việt nam còn bị đánh giá là quá phiền phức, tốn nhiều thời gian của các bên đương sự. Do đó dẫn đến tình trạng tồn đọng một số lượng lớn hồ sơ các vụ kiện chưa được giải quyết. Để cải thiện tình hình này, Việt nam cần mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án, trao quyền rộng rãi hơn cho các cơ quan Hải quan trong việc kiểm soát biên giới, nâng cao các biện pháp xử phạt nhằm giảm bớt sự vi phạm.
II ) Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt nam về SHTT
1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nội dung quyền SHTT
Như đã nêu ở trên, ngoài Bộ luật Dân sự có hiệu lực từ ngày 01/07/1996 Việt nam cần xây dựng một luật mới về SHTT. Luật này cần đảm bảo những yêu cầu sau:
- Luật mới về SHTT phải thừa kế và phát triển các hệ thống pháp luật đã có về SHTT.
- Luật mới về SHTT phải tiếp thu những kinh nghiệm thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian qua kể cả những khía cạnh thành công và không thành công và thể hiện sự đổi mới quan hệ pháp luật và chế tài áp dụng pháp luật.
- Luật mới về SHTT phải gần hơn với các luật, các công ước hiệp ước quốc tế. Từ thực tiễn nước ta chuyển từ cơ chế quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, quyền SHTT từ chỗ phần lớn thuộc về Nhà nước nay chuyển sang sở hữu tư nhân, việc nước ta phải điều chỉnh pháp luật cho phù hợp với luật pháp quốc tế về SHTT là bước đi thích hợp để Việt nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại quốc tế. Do vậy luật pháp của chúng ta phải gần gũi hơn với luật pháp quốc tế thì mới thúc đầy mạnh mẽ quá trình đầu tư kinh tế, thương mại.
- Luật mới về SHTT phải đầy đủ và cụ thể hơn tạo ra cơ sở pháp lý đầy đủ để bảo hộ quyền SHTT. Điều này là cần thiết vì hiện nay Bộ luật Dân sự chủ yếu là các quy định liên quan đến các khía cạnh dân sự của SHTT. Những quy định về thủ tục hành chính nhất là thủ tục xác lập quyền SHTT bằng biện pháp hành chính cũng như các quy định về trình tự tố tụng liên quan tới SHTT, các biện pháp kiểm soát biên giới (là những quy định có tầm quan trọng hàng đầu đối với việc bảo hộ SHTT) đều không có trong Bộ luật Dân sự hoặc chỉ có trong các văn bản dưới luật thì pháp luật sẽ kém có hiệu lực và dẫn đến việc thực thi sẽ gặp nhiều khó khăn. Luật mới về SHTT phải đủ cụ thể để tránh việc vận dụng tuỳ tiện trong việc thừa nhận quyền và xử lý tranh chấp.
- Luật mới về SHTT phải khuyến khích sự sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, công bằng, chống mọi hành vi cạnh tranh thiếu trung thực, làm hàng giả, bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, của người tiêu dùng.
Những nội dung đề nghị đổi mới trong Luật về SHTT so với các quy định của Bộ luật Dân sự và pháp luật hiện hành:
* Về đối tượng SHTT: Trong Bộ luật Dân sự, Điều 749 quy định về các tác phẩm không được Nhà nước bảo hộ. Điều này không phù hợp với nội dung của Công ước Berne, do đó trong Luật mới về SHTT nên được sửa lại như sau: "Nhà nước không bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm trái với luật pháp hay đạo đức xã hội hoặc có hại cho an ninh quốc gia và lợi ích công cộng".
* Về thời hạn bảo hộ: Điều 791 (BLDS) quy định các đối tượng sở hữu công nghiệp được bảo hộ trong thời hạn văn bằng bảo hộ có hiệu lực và được gia hạn theo quy định của pháp luật những lại không quy định cụ thể thời hạn có hiệu lực và gia hạn của văn bằng bảo hộ. Vì vậy, trong Luật mới nên quy định cụ thể như sau: Thời hạn hiệu lực văn bằng bảo hộ là 20 năm đối với sáng chế, 10 năm đối với giải pháp hữu ích và 5 năm đối với kiểu dáng công nghiệp (có thể giới hạn thêm một lần 5 năm nữa).
* Về thủ tục xác lập quyền: Đây là phần nội dung lớn nhất trong Luật mới về quyền SHTT. Các điều trong luật mới bắt buộc phải chi tiết đến mức tạo ra cho các văn bằng bảo hộ hiệu lực pháp lý đầy đủ của một văn bằng bảo hộ quyền được xác nhận theo luật. Nội dung của phần này được quy định tuân theo nguyên tắc đơn giản hoá thủ tục, bãi bỏ các thủ tục phiền hà và khác biệt với thủ tục thường có tại các nước khác, cố gắng phù hợp với các điều ước mà nước ta đang là thành viên hoặc chuẩn bị tham gia. Trong đó có một số điểm cụ thể như sau:
- Quyền nộp đơn cần được quy định rõ thêm nhất là đối với nhãn hiệu hàng hoá và đối với việc nộp đơn ra nước ngoài.
- Trình tự xem xét đơn sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp cần bổ sung khâu công bố trước khi cấp bằng để nâng cao độ tin cậy của văn bằng, giảm bớt số văn bằng được cấp nhưng không đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ do thiếu thông tin dữ liệu.
- Trình tự xét nghiệm sáng chế chuyển từ chế độ xét nghiệm nội dung bắt buộc đối với tất cả các đơn sáng chế sang chế độ xét nghiệm theo yêu cầu để giảm bớt tải trọng và chi phí xét nghiệm.
- Các quy định về điều kiện duy trì hiệu lực bảo hộ văn bằng bảo hộ nhãn hiệu cần được làm rõ hơn, chặt chẽ và phù hợp hơn nhất là đối với nhãn hiệu không được sử dụng liên tục hoặc sáng chế bị huỷ bỏ quyền sở hữu.
* Về chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, đãi ngộ quốc gia cần được quy định cụ thể trong phần các quy định chung và các nguyên tắc cơ bản của Luật mới về SHTT.
Ngoài ra, Việt nam cũng cần phải từng bước tham gia đầy đủ và sâu rộng hơn vào hệ thống các công ước quốc tế về SHTT bằng cách quy định trong Luật về SHTT các điều khoản thi hành các công ước quốc tế mà Việt nam đã tham gia hoặc ký kết. Việc trở thành thành viên của các công ước này là điều kiện quan trọng để có được thành công trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực kinh tế.
2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT
ở Việt nam cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan đến việc xác lập và bảo hộ quyền SHTT là Cục sở hữu Công nghiệp và Cục Bản quyền Tác giả và các Bộ ngành liên quan. Tiến hành hoàn thiện các quy định pháp luật về bộ máy thực thi bảo hộ quyền SHTT chính là việc quy định đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan này.
Đối với Cục sở hữu Công nghiệp: Do nhu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước cùng với việc phát triển mạnh mẽ kinh tế đối ngoại và đầu tư nước vào Việt nam, số lượng đơn đăng ký các đối tượng SHTT của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước ngày càng tăng làm cho tải trọng công việc của Cục sở hữu Công nghiệp ngày càng lớn. Trước tình hình đó, cơ cấu tổ chức của Cục sở hữu Công nghiệp sẽ phải thay đổi theo xu hướng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Đó là việc tăng cường số lượng cán bộ nhân viên trong đó phải có 70% là cán bộ đảm nhận công tác xét nghiệm các đối tượng sở hữu công nghiệp; cân đối giữa các xét nghiệm sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá. Trung tâm thông tin tư liệu sở hữu công nghiệp phải phát triển và đáp ứng ngày càng nhanh cho các nhu cầu tra cứu cũng như nghiên cứu và xét nghiệm đơn, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ, nối mạng với hai trung tâm lớn là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh và với các Bộ ngành liên quan như Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan, Công an kinh tế... Các phòng đăng ký đơn với phòng chuyên môn phải được nối mạng với nhau để tạo thành một hệ thống thông tin sở hữu công nghiệp hoàn chỉnh phục vụ cho việc quyết định cấp văn bằng bảo hộ chính xác và có độ tin cậy cao. Một trong những vấn đề vô cùng quan trọng là phải nâng cao nhận thức và tầm quan trọng về bảo hộ quyền SHTT thông qua việc tăng cường công tác đào tạo, mở các lớp bồi dưỡng lý luận về pháp luật, tổ chức các Hội thảo quốc tế cho cán bộ của các đơn vị hữu quan.
Đối với Cục Bản quyền Tác giả: Cần phải tăng cường số lượng và chất lượng cán bộ thông qua việc mở các lớp đào tạo chuyên ngành, tổ chức các cuộc Hội thảo quốc tế có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài nhiều kinh nghiệm. Thiết lập một mạng lưới thông tin rộng rãi không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà còn cần tiến tới nối mạng với các Hiệp hội, tổ chức quốc tế đại diện cho quyền tác giả.
Đối với các Bộ các ngành, để đổi mới và hoàn thiện hoạt động bảo hộ quyền SHTT, cần phải có sự phối hợp đồng bộ và có hiệu quả cao giữa các cơ quan bảo hộ pháp luật, giải quyết nghiêm minh các vụ vi phạm. Các đơn vị thuộc Bộ ngành đó phải tuân thủ pháp luật về bảo hộ SHTT, tổ chức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chuyên trách, xây dựng các chức năng nhiệm vụ về SHTT thuộc ngành mình. Thiết lập hệ thống thông tin tra cứu cập nhật cho tất cả các đơn vị thực thi pháp luật: Hải quan, thương mại, đầu tư, công an kinh tế của các địa phương...Có như vậy mới xử lý nhanh chóng và kịp thời các vụ việc có liên quan đến tranh chấp, vi phạm quyền SHTT. Ngoài ra, các cơ quan nói trên cũng cần phải thống nhất ban hành một thông tư liên bộ tạo điều kiện cho việc thực thi quyền SHTT được tiến hành một cách thuận lợi.
Ngoài các tổ chức Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức đại diện SHTT cũng có vai trò hết sức quan trọng. ở các nước có nhiều Hiệp hội và Hội ra đời: như Hiệp hội đại diện Patent châu á (APAA), Hiệp hội nhãn hiệu hàng hoá cộng đồng châu Âu (ECTA), Hội nhãn hiệu hàng hoá quốc tế (INTA)... Các Hội và Hiệp hội này có điều lệ cương lĩnh rõ ràng và hoạt động rất mạnh nhằm hỗ trợ các cơ quan của Chính phủ bảo đảm việc thực thi có hiệu quả việc bảo hộ quyền SHTT. Nguồn tài chính của Hội là do các hội viên đóng góp. Do đó sự phát triển hoàn thiện hệ thống bộ máy bảo hộ quyền SHTT phải kể đến việc thành lập và đi vào hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ. Nhà nước cần phải khuyến khích và tạo điều kiện thành lập các Hội đại diện cho SHTT như: Hội sở hữu công nghiệp Việt nam, Hội quảng cáo Việt nam, Hiệp hội phim ảnh Việt nam, Hội âm nhạc Việt nam...Các tổ chức này đóng một vai trò hết sức quan trọng, góp phần hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trong việc xác lập và bảo hộ quyền SHTT.
3. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về bảo hộ quyền SHTT
Nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm về bảo hộ quyền SHTT, cần bổ sung vào pháp luật các nội dung sau đây:
- Quy định biện pháp khẩn cấp tạm thời: trong qua trình giải quyết vụ án, Toà án tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện kiểm sát, của đương sự có thể áp dụng những biện pháp cần thiết để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo vệ bằng chứng (như kê biên sản phẩm đã sản xuất lưu thông vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, buộc người sản xuất đình chỉ những việc đó). Quyết định của Toà án phải thi hành ngay nhưng đương sự có quyền khiếu nại và Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Chánh án Toà án xem xét lại quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Quy định phương pháp hoà giải: trước khi xét xử tại Toà án nên tiến hành hòa giải tranh chấp giữa tổ chức, cá nhân được bảo hộ và bên vi phạm quyền SHTT. Nếu hoà giải thành công và sau một thời hạn là 15 ngày mà các đương sự không thay đổi ý kiến hoặc Viện kiểm sát không phản đối sự thoả thuận đó thì Toà án ra quyết định công nhận sự hoà giải giữa các bên. Trong trường hợp ngược lại thì Toà án đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục tố tụng.
- Đổi mới việc xét xử các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp theo hướng tăng nặng hình phạt. Toà án xử phạt các hành vi vi phạm theo khung phạt của luật hình sự:
+ Khung 1 (cấu thành cơ bản) có mức phạt tù từ 2 đến 10 năm.
+ Khung 2 (cấu thành tăng nặng) có mức phạt tù từ 7 đến 15 năm áp dụng trong các trường hợp sau:
- Hàng giả là lương thực, thực phẩm , thuốc chữa bệnh, phòng bệnh, vật liệu xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu.
- Có tổ chức hoặc có tính chuyên nghiệp, hàng giả có số lượng lớn.
+ Khung 3 (cấu thành đặc biệt tăng nặng) có mức phạt tù từ 13 đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình trong trường hợp gây chết người.
- Mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án trong việc bảo hộ quyền SHTT.
Hiện nay do chế độ thực thi quyền SHTT chưa đạt được hiệu quả cao vì vậy cẩn phải thiết lập một chế độ thực thi quyền SHTT một cách toàn diện thông qua mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án trong việc bảo hộ quyền SHTT. Toà án có quyền ra lệnh khẩn cấp tạm thời. Toà án có quyền tiến hành các thủ tục thực thi để cho phép việc kiện có hiệu quả chống lại bất kỳ hành vi vi phạm quyền SHTT nào. Toà án đòi hỏi phải bồi thường nhanh chóng để ngăn ngừa các vi phạm và các khoản bồi thường để ngăn ngừa những vi phạm tiếp theo. Các thủ tục này của Toà án được áp dụng theo một cách nào đó để tránh tạo ra các hàng rào đối với hoạt động thương mại hợp pháp. Các thủ tục của Toà án liên quan đến việc thực thi quyền SHTT phải hợp lý và công bằng, các thủ tục đó không được phức tạp hoá một cách không cần thiết hoặc tốn kém, hoặc đòi hỏi những hạn chế về thời gian một cách bất hợp lý. Ngoài ra Toà án có quyền ra lệnh rằng các hàng hoá được phát hiện có liên quan đến vi phạm, phải đưa ra khỏi vòng lưu thông thương mại mà không có bất kỳ một sự bồi hoàn nào, để có thể tránh bất cứ thiệt hại nào có thể gây ra cho chủ sở hữu.
- Trao quyền rộng rãi hơn cho các cơ quan Hải quan trong việc kiểm soát biên giới nhằm bảo hộ quyền SHTT.
Hải quan có quyền tạm giữ hàng hoá bị nghi nghờ là hàng giả hoặc hàng vi phạm quyền SHTT trên đường vận chuyền căn cứ vào yêu cầu của chủ sở hữu quyền hoặc tự mình chủ động tiến hành theo các quy định của pháp luật. Điều này hoàn toàn phù hợp với các quy định của các văn bản pháp luật quốc tế. Ngoài việc áp dụng biện pháp tạm giữ hàng hoá bị nghi nghờ là hàng giả hoặc vi phạm quyền Hải quan còn có quyền tạm giữ hàng hoá trong các trường hợp vi phạm khác về quyền SHTT như trong trường hợp hàng hoá mang dấu hiệu trang trí bên ngoài xâm phạm quyền đối với một kiểu dáng công nghiệp đã được đăng ký hoặc trường hợp hàng hóa có liên quan đến hoạt động sản xuất hàng hoá xâm phạm quyền đối với một quy trình đã được cấp bằng sáng chế. Việt nam cũng cần phối hợp với Tổ chức Hải quan thế giới (WCO) để giải quyết và thực thi quyền SHTT.
Ngoài các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về SHTT, tác giả cũng kiến nghị đổi mới nội dung quản lý Nhà nước đối với các hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở các ngành và các địa phương.
Quản lý Nhà nước các hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở các ngành và các địa phương cần phải đổi mới nội dung theo các hướng sau đây:
- Theo dõi tình hình các văn bản pháp luật về SHTT tại địa phương, kiến nghị các biện pháp cụ thể hoá việc vận dụng các chính sách của Nhà nước về bảo hộ quyền SHTT và tổ chức thực hiện các chính sách đó.
- Xây dựng hệ thống quản lý Nhà nước các hoạt động bảo hộ quyền SHTT ở các địa phương và thực hiện các biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả của hệ thống đó.
- Tổ chức tuyên truyền chính sách pháp luật về bảo hộ quyền SHTT.
- Tư vấn, tổ chức công tác thông tin về SHTT.
- Góp phần thẩm định các dự án đầu tư, chuyển giao công nghệ.
Kết luận
Ngày nay vấn đề bảo hộ quyền SHTT đang nổi lên như là một trong những điểm mấu chốt của các mối quan hệ kinh tế - thương mại được nhiều quốc gia quan tâm. Trong những năm qua, trên thế giới đã có những quan điểm khác nhau, song việc bảo hộ quyền SHTT trên phạm vi quốc tế cũng như ở mỗi quốc gia đều gắn liền với pháp luật và cơ chế điều chỉnh pháp luật. Cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền SHTT có vai trò quan trọng trong việc góp phần thúc đẩy các hoạt động sáng tạo, đổi mới kỹ thuật, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, triển khai đầu tư và chuyển giao công nghệ, bảo vệ lợi ích quốc gia. ở Việt nam, cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền SHTT đã có những bước tiến đáng kể nhưng vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, những tồn tại cần phải được đổi mới và hoàn thiện. Đây là đòi hỏi cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mà đường lối Đại hội VIII của Đảng đã vạch ra, là đòi hỏi khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, là đòi hỏi của thị trường công nghệ, của chính sách kinh tế đối ngoại hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực của chúng ta hiện nay. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền SHTT là một quá trình thường xuyên, liên tục để Việt nam hoà nhập vào cộng đồng quốc tế, xây dựng đất nước Việt nam ngày càng hạnh phúc và phồn vinh.
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, 1992.
2. Bảo hộ có hiệu quả quyền SHCN giải quyết vi phạm quyền SHCN. Tài liêu hội thảo, Văn phòng quốc tế WIPO xuất bản, Thành phố Hồ Chí Minh, 1992.
3. Các văn bản pháp luật về sáng kiến và SHCN. Cục sáng chế, Uỷ ban Khoa học Nhà nước, Hà Nội, 1992.
4. Về các biện pháp xử lý đối với hành vi vi phạm quyền SHTT. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 12, Bộ Tư pháp, 1994.
5. Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, 1995.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
7. Hệ thống pháp luật về SHTT của Việt nam. Tài liệu hội thảo, Cục sở hữu Công nghiệp, Hà Nội, 1996.
8. Các văn bản pháp luật về SHCN. Bộ Công nghiệp, Vụ quản lý công nghệ và chất lượng sản phẩm, 1999.
9. Các văn bản pháp luật về quyền tác giả. Bộ Công nghiệp. Vụ quản lý công nghệ và chất lượng sản phẩm, 1999.
10. Báo cáo Dự án VIE/95/024.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36789.doc