Chất lượng tín dụng đối với Công ty cổ phần XNK vật tư nông nghiệp và nông sản tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Bách Khoa

LỜI MỞ ĐẦU * Tính cấp thiết của đề tài Trong số các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại hiện nay, tín dụng là hoạt động sinh lợi chủ yếu nhất, thường chiếm tới 70-80% tổng thu nhập của ngân hàng. Đặc biệt với điều kiện của nước ta hiện nay, khi mà thị trường tài chính mới bắt đầu hình thành và phát triển, các hoạt động đầu tư sinh lợi khác ngoài tín dụng chưa nhiều nên tín dụng càng có vai trò quan trọng đối với ngân hàng. Thế nhưng, tín dụng cũng là lĩnh vực đem lại cho ngân hàng nhiều rủi

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chất lượng tín dụng đối với Công ty cổ phần XNK vật tư nông nghiệp và nông sản tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Bách Khoa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ro nhất. Do đó nghiên cứu về các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn cho khoản vay là một trong những nội dung quan trọng mà các nhà làm ngân hàng luôn phải lưu tâm. Trong bối cảnh nước ta hiện nay, với tốc độ phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế cùng với xu thế hội nhập toàn cầu thì nâng cao chất lượng tín dụng đã thực sự trở thành nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. * Mục đích nghiên cứu Nhận thấy đây là vấn đề thực sự rất quan trọng và có tính thực tiễn rất cao, trong quá trình thực tập tìm hiểu thực tế tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa, em đã dành nhiều thời gian nghiên cứu và quyết định chọn đề tài “Nâng cao chất lượng tín dụng đối với công ty CP XNK vật tư nông nghiệp và nông sản tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa” để đưa ra một số giải pháp về vấn đề này. Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của chuyên đề gồm ba phần chính: Chương 1: Tín dụng và chất lượng tín dụng ở ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng tín dụng với công ty CP XNK vật tư nông nghiệp và nông sản tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa đối với công ty CP XNK vật tư nông nghiệp và nông sản * Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu về thực trạng quan hệ tín dụng giữa công ty cổ phần xuất nhập khẩu vật tư nông nghiệp và nông sản Số liệu được tổng hợp từ báo cáo tài chính của chi nhánh và công ty trong ba năm, từ 2004 đến 2006 *Phương pháp nghiên cứu Bằng phương pháp phân tích thống kê kết hợp với phương pháp biện pháp duy vật biện chứng để phân tích và phát triển vấn đề. Với thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế, chắc rằng báo cáo chuyên đề của em không tránh khỏi những sai sót và nhầm lẫn, rất mong được sự góp ý của thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng- Tài chính cũng như các anh chị đang làm việc tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa để giúp em có sự hiểu biết hoàn thiện hơn và sâu sắc hơn về vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Nam, phó hiệu trưởng nhà trường cùng tập thể cán bộ phòng tín dụng tầng 4, toà nhà Vietnamtea - chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa đã tận tình hướng dẫn, cung cấp tài liệu và đóng gớp ý kiến để em hoàn thành đề tài này! DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT NHTM : Ngân hàng thương mại NHNo&PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn CP : Cổ phần XNK : Xuất Nhập khẩu CHƯƠNG 1: TÍN DỤNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Ngân hàng và tín dụng ngân hàng 1.1.1 Khái niệm ngân hàng Ngân hàng ra đời khởi đầu từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho những người chủ sở hữu nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, người chủ sở hữu sẽ phải trả cho người giữ một khoản tiền công. Khi công việc này mang lại nhiều lợi ích cho những người gửi, các đồ vật cần gửi ngày càng phong phú đa dạng hơn, và đại diện cho các vật có giá trị như vậy là tiền, dần dần, ngân hàng trở thành nơi giữ tiền cho những người có tiền. Khi thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn, tức là phát sinh nhu cầu vay tiền ngày càng lớn trong xã hội. Khi có trong tay một lượng tiền, những người giữ tiền nảy ra nhu cầu cho vay số tiền đó, vì lượng tiền trong tay họ không phải bao giờ cũng bị đòi trong cùng một thời gian, nghĩa là có sự chênh lệch lượng tiền cần gửi và lượng tiền cần rút của những người gửi tiền Có thể nói ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Tuy nhiên để có thể hiểu được thực chất khái niệm về ngân hàng hoàn toàn không đơn giản. Rất nhiều tổ chức khác có chức năng giống ngân hàng thậm chí sâu rộng hơn, và vì vậy rất dễ gây nhầm lẫn. Theo những gì mà Peter S.rose viết trong cuốn Quản trị Ngân hàng thương mại thì Ngân hàng được hiểu “..là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế..” Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là các “Bách hoá tài chính” Trong khi đó theo luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó “hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.” Nói tóm lại có thể hiểu một cách sơ lược về ngân hàng đó là một doanh nghiệp mà đối tượng kinh doanh của nó là tiền tệ, đóng vai trò là một trung gian tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng bao gồm tiết kiệm, tín dụng, dịch vụ thanh toán và các loại hình dịch vụ khác. Ngày nay, có rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm các công ty tài chính, công ty chứng khoán, quỹ tương hỗ, và các công ty bảo hiểm đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng, chính vì vậy, bên cạnh phát triển về quy mô các ngân hàng đã nỗ lực mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện thêm nhiều dịch vụ mới khác để đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. 1.1.2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại Hoạt động ngân hàng ngày nay đang không ngừng phát triển. Sự phát triển đó có thể được nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có quy mô lớn toàn cầu được tạo ra từ làn sóng sát nhập hợp nhất. người ta phân chia các nghiệp vụ của NHTM theo nhiều tiêu thức khác nhau nhưng một trong những phương pháp phân chia khá phổ biến và có hiệu quả nhất là căn cứ trên cơ sở Bảng cân đối kế toán của ngân hàng. Bao gồm các nghiệp vụ: - Nghiệp vụ huy động vốn (Nghiệp vụ Nợ) - Ngiệp vụ sử dụng nguồn vốn (Nghiệp vụ Có) - Nghiệp vụ trung gian - Nghiệp vụ ngoài Bảng cân đối kế toán (nghiệp vụ ngoại bảng). 1.1.2.1 Nghiệp vụ huy động vốn (nghiệp vụ Nợ) Để có thể hoạt động một cách trôi chảy, ổn định và hiệu quả thì bất kỳ một ngân hàng thương mại nào cũng phải tạo lập cho mình một nguồn vốn nhất định. Có nguồn vốn dồi dào, giá thấp là điều kiện quan trọng để ngân hàng thu được lợi nhuận cao trong tương lai. Bên cạnh nguồn vốn ban đầu của ngân hàng là vốn chủ sở hữu thì phần lớn vốn mà ngân hàng có được là thông qua việc huy động và đi vay. Đây mới là nguồn vốn chính của ngân hàng, vì vậy ngân hàng có hai nghiệp vụ về nguồn là huy động vốn và đi vay. 1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng nguồn vốn (nghiệp vụ Có) Sau quá trình huy động, nguồn vốn sẽ được ngân hàng sử dụng vào rất nhiều mục đích khác nhau. Một trong số các nguyên tắc trong hoạt động của ngân hàng là thực hiện dự trữ một phần dưới dạng tiền thanh khoản như tiền mặt, vàng, bạc, kim khí quý...phần còn lại sẽ được sử dụng để vào các nghiệp vụ cho vay, đầu tư nhằm tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Lợi nhuận của ngân hàng xuất phát từ chênh lệch lãi suất cho vay và huy động, từ hoạt động đầu tư và các hoạt động dịch vụ, mục tiêu là phải đảm bảo lợi nhuận đủ để bù đắp các chi phí hoạt động và có lãi. Nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân hàng khá đa dạng, phong phú. Căn cứ vào tính chất nghiệp vụ có 3 nghiệp vụ chính là: - Nghiệp vụ chiết khấu: là quá trình ngân hàng mua lại các loại giấy tờ có giá như tín phiếu kho bạc, thương phiếu, các giấy nợ như trái khoán, hối phiếu chấp nhận thanh toán... với mức giá thấp hơn mệnh giá, qua đó hưởng một mức lợi tức chiết khấu tương ứng với chi phí vốn và những rủi ro mà ngân hàng phải chịu khi sở hữu các loại giấy tờ có giá này. Sau khi thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, ngân hàng có thể giữ lại đến khi đáo hạn để hưởng toàn bộ lợi nhuận hoặc thực hiện tái chiết khấu hoặc bán lại trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn nếu có nhu cầu về vốn. - Nghiệp vụ đầu tư tài chính: là nghiệp vụ ngân hàng tiến hành mua bán các loại chứng khoán kể cả niêm yết và chưa niêm yết với mục đích để thu lợi tức bao gồm cổ tức của chứng khoán do các công ty cổ phần đưa ra và lợi nhuận thu được từ việc bán lại chứng khoán với mức giá cao hơn so với mức giá mua vào. - Nghiệp vụ cho vay: đây là nghiệp vụ rất quan trọng, là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho ngân hàng (khoảng 70-80% trên tổng thu nhập). Tuy nhiên đây cũng là một nghiệp vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất như rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản... Hiện nay, các ngân hàng đang có chiều hướng dịch chuyển sang các hoạt động dịch vụ, tăng thu nhập từ hoạt động này, qua đó giảm bớt được tỷ lệ thu nhập từ hoạt động cho vay, giảm được rủi ro cho hoạt động của ngân hàng. 1.1.2.3. Nghiệp vụ trung gian Đó là các hoạt động dịch vụ của ngân hàng. Hiện nay, đây là hướng phát triển mới của các ngân hàng, thông qua việc thực hiện các dịch vụ cho khách hàng ngân hàng thu được phí dịch vụ. Trong tình hình môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và nhu cầu khách hàng ngày càng đa dạng, thì việc nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ là vấn đề quan trọng cần lưu tâm. Một số dịch vụ hiện nay được các ngân hàng đưa ra: - Dịch vụ thanh toán hộ (thu hộ - chi hộ) - Dịch vụ chuyển tiền cho khách hàng - Dịch vụ trả lương qua tài khoản ngân hàng - Dịch vụ thẻ - Dịch vụ bảo quản các tài sản và chứng từ có giá cho khách hàng - Dịch vụ môi giới bất động sản, môi giới đầu tư chứng khoán - Dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp - Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm Bên cạnh đó, còn rất nhiều dịch vụ khác đang được các ngân hàng khẩn trương xây dựng và đưa vào triển khai trong thời gian tới, hứa hẹn sẽ là những bước đột phá không chỉ trong hệ thống phạm vi của ngành mà là sự đột phá mang tầm quốc tế. 1.1.2.4. Các nghiệp vụ ngoại bảng Trước đây, hoạt động ngân hàng còn chậm chạp và thiếu chủ động, do đó chỉ thực hiện chủ yếu các nghiệp vụ nội bảng như cho vay, đầu tư...Tuy nhiên trong bối cảnh hiện nay, khi mà môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt với sự xuất hiện ngày càng nhiều của các công ty tài chính, công ty bảo hiểm. Để đảm bảo tính hiệu quả và nâng cao khả năng cạnh tranh, ngân hàng đã mở rộng thêm hoạt động ngoại bảng: - Hoạt động uỷ thác đầu tư: khách hàng có nguồn vốn nhàn rỗi, nhưng không có thời gian, điều kiện để đầu tư hiệu quả có thể uỷ thác để ngân hàng quản lý hộ và ngân hàng sẽ có trách nhiệm thực hiện đầu tư khoản tiền nhàn rỗi đó để tỷ suất sinh lời là cao nhất. - Hoạt động bán các khoản nợ: trong hoạt động ngân hàng, luôn tiềm ẩn rủi ro phát sinh những khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi, đây là nguyên nhân chính gây ra tình trạng hoạt động kém hiệu qủa của ngân hàng. Để giải quyết tình trạng này, ngân hàng thực hiện bán quyền sở hữu về các khoản thu nhập hoặc quyền sở hữu hoàn toàn đối với các khoản vay của mình cho các công ty chuyên thực hiện đòi nợ, hoặc các công ty quản lý nợ và tài sản. Đây là giải pháp phổ biến mà hiện nay các ngân hàng đang áp dụng trong việc giải quyết các khoản nợ khó đòi, ngân hàng sẽ nhanh chóng thu hồi được một phần giá trị của khoản vay, giảm được tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn, góp phần lành mạnh hoá tình hình tài chính của ngân hàng, hạn chế rủi ro mà ngân hàng sẽ gặp phải. - Hoạt động chứng khoán hóa: cũng giống như việc cổ phần hoá một doanh nghiệp, chứng khoán hoá tài sản là việc phát hành chứng khoán đối với những nhóm tài sản nhất định, có giá trị rất lớn, chủ yếu là các khoản nợ. Qua đó, ngân hàng có được các khoản thu phí từ các dịch vụ như dịch vụ quản lý, kiểm tra, giám sát, thu nợ; đồng thời giúp ngân hàng đẩy nhanh được tốc độ chu chuyển, vòng quay của vốn tín dụng, làm tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng. - Hoạt đông bảo lãnh: đây là hoạt động khá phổ biến hiện nay. Có rất nhiều nhu cầu về bảo lãnh như bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán....Khi thực hiện bảo lãnh ngân hàng sẽ cam kết dưới hình thức hợp đồng bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi mà khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. 1.1.3 Hoạt động tín dụng của ngân hàng 1.1.3.1 Khái niệm Theo nghĩa nguyên thuỷ của khái niệm tín dụng (credit) là tin mà đưa tiền cho sử dụng, có nghĩa là sự tin tưởng và tín nhiệm lẫn nhau. Còn theo quan điểm của K.Marx, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng. Sau một thời gian nhất đinh, lượng giái trị này quay lại nhưng có giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Như vậy theo quan điểm này thì khái niệm tín dụng có ba nội dụng chính, đó là tính chuyển nhượng tạm thời của một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả. Trong mối quan hệ tín dụng, người đi vay và người cho vay sẽ thỏa thuận trước với nhau về những điều kiện vay như thời gian cho vay, thời gian hoàn trả, lãi suất… Người cho vay tin tưởng rằng người đi vay sẽ sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng theo những điều kiện đã thỏa thuận, làm ăn có lãi và hoàn trả cả gốc và lãi theo đúng thời hạn cam kết. Như vậy tín dụng ngân hàng được hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Tín dụng hoàn toàn khác các nghiệp vụ tài trợ dạng cấp vốn của nhà nước cho doanh nghiệp. Trong quan hệ tín dụng, quyền sử dụng tạm thời tách rời quyền sở hữu. Có thể nói hoạt động tín dụng là hoạt động tiêu biểu của hầu hết các ngân hàng, hoạt động này đòi hỏi ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, ít nhất cũng là dự tính, để phán đoán khả năng này. 1.1.3.2 Đặc trưng của tín dụng ngân hàng Là một hình thức của tín dụng nên tín dụng ngân hàng mang những đặc trưng chung của tín dụng như: - Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay: đây là giai đoạn vốn tiền tệ chuyển từ ngân hàng đến với người vay. - Sử dụng vốn: người đi vay sau khi nhận được vốn vay sẽ sử dụng vào những mục đích khác nhau như sản xuất hoặc tiêu dùng. Tuy nhiên, người đi vay chỉ được quyền sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định chứ không được toàn quyền sở hữu. - Hoàn trả tín dụng: Đây là giai đoạn kết thúc một chu trình quay vòng của vốn vay. Vốn tín dụng được quay trở lại hình thức cấp tín dụng ban đầu nhưng lại có thêm một phần giá trị tăng thêm, tức là người đi vay phải hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Ngoài ra nó còn mang những đặc trưng riêng mà các hoạt động tín dụng khác không có: - Hoạt động tín dụng ngân hàng chủ yếu xuất phát từ hoạt động huy động vốn, tức là sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi huy động từ tổ chức dân cư để thực hiện nghiệp vụ cho vay. - Hoạt động tín dụng ngân hàng chứa đựng rất nhiều rủi ro, không chỉ đơn thuần là rủi ro tín dụng (rủi ro mà khách hàng không trả được nợ) mà còn có rất nhiều rủi ro khác như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản... 1.1.3.3 Vai trò của hoạt động tín dụng ngân hàng Đối với ngân hàng: đây là hoạt động cơ bản, mang lại thu nhập chính cho mỗi ngân hàng. Vì vậy, hoạt động tín dụng là hoạt động quyết định sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay với tính cạnh tranh ngày càng gay gắt. Hoạt động tín dụng thường chiếm tỷ trọng lớn so với tổng tài sản có của ngân hàng (từ 70-80%). Thu nhập từ hoạt động này chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng. Mặc dù hiện nay có xu hướng tăng lợi nhuận từ các hoạt động ngoại bảng và hoạt động dịch vụ, song thu nhập từ hoạt động tín dụng vẫn ở mức rất cao, ở các nước phát triển là 60%, còn ở những nước đang phát triển thì lên tới 90%. Như vậy có thể thấy vai trò quan trọng đặc biệt của tín dụng ngân hàng là đối với ngân hàng, là nguồn thu nhập chính, tạo nên sự hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng. Đối với khách hàng: Trong nền kinh tế hiện nay, vốn là một yếu tố rất quan trọng. Với bất kỳ một doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân nào đang thực hiện quá trình hoạt động kinh doanh thì nhu cầu về vốn là luôn thường trực. Khi có đủ vốn, họ sẽ dễ dàng hơn trong các hoạt động đầu tư hay xây dựng của mình, ngược lại khi thiếu vốn, họ sẽ gặp khó khăn trong thanh khoản, trong các quyết định của mình. Ngay cả khi có nguồn vốn nhàn rỗi thì doanh nghiệp cũng mất đi chi phí cơ hội của vốn. Vì vậy, các doanh nghiệp thiếu vốn phải tìm kiếm nguồn vốn khác đề bù đáp sự thiếu hụt và các doanh nghiệp thừa vốn tạm thời, có nguồn vốn nhàn rỗi thì lại có nhu cầu cho vay. Tuy nhiên do thông tin là không hoàn hảo, tìm kiếm được những cá nhân thừa vốn hoặc thiếu vốn để vay hoặc cho vay là một vấn đề rất khó khăn. Chính vì thế, tín dụng ngân hàng trở thành một công cụ rất quan trọng, là cầu nối giữa những người có nhu cầu vay vốn với những người có nhu cầu cho vay. Việc đáp ứng nhu cầu vốn sẽ trở nên hiệu quả hơn trong nền kinh tế. Hơn thế nữa, hoạt động tín dụng ngân hàng có sự đáp ứng tối ưu vốn cả về quy mô và tính kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh, tiền tệ được luân chuyển một cách liên tục và hiệu quả. Đối với nền kinh tế: với nền kinh tế, tín dụng ngân hàng có rất nhiều vai trò khác nhau. Một mặt nó tạo ra thu nhập cho ngân hàng, nhưng mặt khác nó cũng góp phần tạo ra nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Hơn thế nó còn là công cụ để nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông, thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Thực tế cho thấy, trong nền kinh tế tồn tại những ngành có xu hướng phát triển đối lập. Những ngành đã xuất hiện từ lâu, có nhiều thuận lợi và thế mạnh, tuy nhiên có một số ngành khác lại hạn chế phát triển. Tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia mà có những chiến lược phát triển khác nhau, và việc phát triển ngành nghề nào, hạn chế ngành nghề nào cũng là đặc trưng riêng của mỗi nước. Và từ đó xác lập nên cơ cấu kinh tế của từng nước. Vấn đề này được giải quyết nhờ có vốn, đơn giản là vốn được đầu tư vào ngành nghề nào thì ngành nghề đó có nhìều cơ hội để phát triển. Và tín dụng của ngân hàng chính là phương thức để đáp ứng mục tiêu đó. Hoạt động tín dụng ngân hàng cấp vốn cho nền kinh tế đã góp phần rất lớn đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và thiết lập môi trường cạnh tranh lành mạnh. Trong bất kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng đều có nhu cầu vốn để đầu tư máy móc thiết bị, mua nguyên vật liệu, đổi mới công nghệ, nghiên cứu, triển khai sản phẩm mới, hoạt động marketing… Chính từ việc vay vốn từ ngân hàng, với áp lực trả nợ đầy đủ, đúng hạn buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích, làm ăn thực sự có hiệu quả hơn, tăng hiệu quả của vốn vay, từ đó thu được lợi nhuận đủ để trả nợ cho ngân hàng và gia tăng giá trị vốn chủ sở hữu Hoạt động tín dụng ngân hàng còn đóng vai trò là đòn bẩy kinh tế, góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng và giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế. Có thể nói, xu hướng hội nhập ngày càng sâu rộng trong nền kinh tế hiện nay. Quan hệ làm ăn giữa các đối tác trong và ngoài nước ngày càng phổ biến. Vì thế hoạt động thanh toán quốc tế cũng ngày càng mở rộng, cho vay để thanh toán, mở L/C, chiết khấu bộ chứng từ... thực hiện tín dụng trong nước và quốc tế đã không còn là điều xa lạ và đã góp phần đưa nền kinh tế trong nước gần hơn với nền kinh tế thế giới. 1.1.3.4 Phân loại tín dụng Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản cho vay theo các nhóm dựa trên rất nhiều tiêu thức khác nhau * Căn cứ vào thời gian cho vay Theo căn cứ này tín dụng được chia ra làm 3 loại sau: - Tín dụng ngắn hạn là loại cho vay chỉ có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. - Tín dụng trung hạn là loại cho vay có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định,cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, cho vay trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới thành lập. - Tín dụng dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên tới 20 – 30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên tới 40 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở; mua sắm các thiết bị, phương tiện vân tải có quy mô lớn; xây dựng các xí nghiệp mới. * Căn cứ vào mục đích sử dụng khoản vay Dựa vào căn cứ này tín dụng thường được chia ra làm các loại sau: - Tín dụng bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản như nhà ở, đất đai, các bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Tín dụng công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. - Tín dụng nông nghiệp là loại cho vay để trang trải cho các chi phí sản xuất trong ngành nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu… - Tín dụng cho các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác. - Tín dụng cá nhân là loại cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân như mua sắm các vật dụng đắt tiền, và các khoản cho vay để trang trải các chi phí sinh hoạt thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng (credit card) - Tín dụng Cho thuê là hình thức tín dụng bằng tài sản thực. Tài sản thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị. * Căn cứ vào phương thức tài trợ Theo căn cứ này tín dụng được chia làm các loại sau: - Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá: là nghiệp vụ ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu hoặc một giấy nợ chưa đến hạn. - Cho vay: là nghiệp vụ ngân hàng đưa tiền cho khách hàng của mình vay với cam kết khách hàng sẽ trả cả gốc và lãi cho ngân hàng đúng theo thời gian đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. - Bảo lãnh: là nghiệp vụ của ngân hàng với cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh là ngân hàng sẽ thay khách hàng thực hiện nghĩa vụ tài chính khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. - Cho thuê: là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Ngân hàng mua tài sản, sau đó đem cho khách hàng thuê theo thời hạn đủ để ngân hàng thu hồi được gốc và một phần lợi nhuận. *Căn cứ vào phương thức cấp tín dụng Theo căn cứ này tín dụng được chia làm các loại sau: - Thấu chi: là nghiệp vụ cho vay đối với những khách hàng có số dư tiền gửi tại ngân hàng, cho phép khách hàng được quyền chi trội (vượt) quá số dư trên tài khoản đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. - Cho vay từng lần: là hình thức cho vay đối với khách hàng không có nhu cầu thường xuyên, không đủ điều kiện cấp hạn mức thấu chi. Mỗi một lần vay lập một bộ hồ sơ vay vốn hoàn toàn độc lập với những lần vay khác. - Cho vay theo hạn mức là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng một mức hạn mức tín dụng. Đó là dư nợ tối đa mà khách hàng có thể thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. - Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, hàng hoá quay vòng nhiều lần, có nhu cầu vay vốn vào những thời điểm nhất định thường tham gia vào nghiệp vụ này. - Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời gian tín dụng đã thoả thuận trong hợp đồng. - Cho vay gián tiếp: là việc ngân hàng thực hiện cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Việc cho vay này hạn chế khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích. * Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng Theo căn cứ này tín dụng được chia làm hai loại: - Tín dụng không có bảo đảm( cho vay tín chấp) là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự đảm bảo của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vài uy tín của bản thân khách hàng. Với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, thu nhập ổn định, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần có một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. - Tín dụng có bảo đảo là loại cho vay dựa trên các biện pháp bảo đảm như thế chấp, cầm cố tài sản, giấy tờ có giá hoặc có sự bảo lãnh trả nợ của bên thứ ba. Với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng thì khi vay vốn đòi hỏi phải có bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ 2, bổ sung cho nguồn thu nợ thú nhất thiếu chắc chắn. 1.2 Chất lượng tín dụng ở Ngân hàng thương mại 1.2.1 Khái niệm chất lượng tín dụng Nâng cao chất lượng tín dụng là điều kiện để bất cứ một tổ chức tín dụng nào đứng vững và phát triển trong nền kinh tế. Chất lượng tín dụng đóng vai trò lớn, quyết định trực tiếp đến khả năng sinh lời và an toàn của ngân hàng. Tuy nhiên việc đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng rất phức tạp. Không hẳn là chỉ đánh giá trên góc độ ngân hàng như trước đây, tức là chỉ xem xét chất lượng tín dụng trên cơ sở đo lường những tổn thất phát sinh trực tiếp từ rủi ro đối với mỗi món vay. Tín dụng như đã tìm hiểu ở trên thực chất là mối quan hệ giữa hai chủ thể là ngân hàng và khách hàng. Do đó, hoạt động tín dụng được đánh giá là có chất lượng khi nó thoả mãn được nhu cầu của cả hai chủ thể trên, bên cạnh đó nó cũng phải đảm bảo phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội. Như vậy chất lượng tín dụng có thể hiểu một cách khái quát nhất là sự đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, đồng thời phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội. Chất lượng tín dụng được thể hiện ở các khía cạnh: Về phía ngân hàng, chất lượng tín dụng được thể hiện ở chất lượng các khoản vay, mức độ rủi ro của các khoản vay. Nâng cao chất lượng tín dụng đối với ngân hàng là phải đảm bảo khách hàng trả nợ đầy đủ, đúng hạn thông qua những biện pháp bảo đảm của mình, nhưng đồng thời vẫn phải đảm bảo được tính cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Mặc dù ngân hàng luôn cố gắng đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng, tuy nhiên để đảm bảo chất lượng tín dụng, thì việc đáp ứng đó phải phù hợp với năng lực của mỗi ngân hàng. Vì với mỗi ngân hàng có một khẩu vị rủi ro khác nhau, mặc dù vậy nhưng mục tiêu cao nhất và cuối cùng của các ngân hàng vẫn là sự an toàn và khả năng sinh lợi. Về phía khách hàng, khách hàng là người có nhu cầu về vốn, và nguồn vốn đó chỉ được coi là hiệu quả khi nó được sử dụng kịp thời với các chi phí hợp lý. Khi vay vốn ở ngân hàng, khách hàng sẽ được ngân hàng đáp ứng tối đa nhu cầu hợp lý của mình. Và sự đáp ứng một cách kịp thời và đầy đủ vốn cho khách hàng chính là phản ánh chất lượng của tín dụng, nguồn vốn đi vay sẽ được sử dụng có hiệu quả và sinh lời. Bên cạnh đó, sự phù hợp của các yếu tố như lãi suất, kỳ hạn hay các biện pháp bảo đảm cũng là cơ sở đánh giá chất lượng tín dụng. Trên cơ sở đó mới giúp khách hàng tạo ra được lợi nhuận để đảm bảo khả năng hoàn trả của mình. Không chỉ xem xét trên góc độ từ phía ngân hàng và khách hàng, chất lượng tín dụng cũng cần được nhìn nhận từ góc độ của nhà nước. Về phía Nhà nước, mục tiêu cơ bản về lâu về dài của nhà nước cũng là nâng cao hiệu quả quản lý của mình, chính vì vậy chất lượng tín dụng phải thoả mãn được các mục tiêu phát triển chung của Nhà nước về mặt kinh tế - xã hội. Nguồn vốn được cấp từ phía ngân hàng phải được sử dụng vào mục đích hợp pháp và có hiệu quả. Góp phần đẩy mạnh quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng hiệu quả xã hội... 1.2.2 Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng tín dụng 1.2.2.1. Với bản thân ngân hàng Mất an toàn trong cho vay, nếu xẩy ra sẽ có những tác hại rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của NHTM. Mục tiêu quan trọng và cuối cùng của mỗi ngân hàng là lợi nhuận. Trong đó, hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu, là nguồn đem lại lợi nhuận lớn nhất cho mỗi ngân hàng. Chính vì vai trò sống còn của chất lượng tín dụng với ngân hàng nên để thu được lợi nhuận tối đa thì ngân hàng có các chính sách tín dụng hợp lý để nâng cao chất lượng tín dụng. Với khách hàng chất lượng tín dụng là sự đáp ứng tối đa nhu cầu vốn vay hợp lý một cách đầy đủ và kịp thời, nhưng vẫn phải phù hợp với khả năng và thực lực của ngân hàng. Đảm bảo an toàn tín dụng phải đi đôi với sự mở rộng của quy mô tín dụng thì mới tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển bền vững. Do đó với ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng mang ý nghĩa hết sức quan trọng. - Chất lượng tín dụng cao không chỉ góp phần mở rộng quy mô của tín dụng, tăng trưởng thị phần của ngân hàng mà còn nâng các hoạt động của ngân hàng lên một tầm cao mới, nhất là trong các nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng. Một doanh nghiệp khi có nhu cầu vay vốn, trước tiên phải tiến hành lựa chọn ngân hàng để cung ứng vốn cho mình. Và căn cứ quan trọng để có thể lựa chọn ngân hàng đó là uy tín và thương hiệu của ngân hàng, ngân hàng càng có quan hệ tín dụng tốt với nhiều doanh nghiệp trên thị trường thì càng có nhiều uy tín. Mà uy tín của ngân hàng được đánh giá trên cơ sở chất lượng tín dụng của ngân hàng. Như vậy, có nghĩa là những ngân hàng có chất lượng tín dụng tốt sẽ được các doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn. Nhờ đó mà thị phần của ngân hàng sẽ gia tăng nhanh chóng, từng bước khẳng định được uy tín và thương hiệu của mình. - Nâng cao chất lượng tín dụng còn góp phần hạn chế được những rủi ro tín dụng, các khoản vay đều đảm bảo trả đầy đủ và đúng hạn, từ đó đảm bảo sự tăng trưởng trong t._.hu nhập của ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng có nghĩa là hạn chế tối đa những khoản nợ quá hạn và nợ khó đòi, tránh tình trạng tổn thất hoặc mất vốn của ngân hàng. Chất lượng tín dụng cao cũng là yếu tố quyết định đến mức lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc tăng cường thế mạnh cho các sản phẩm tín dụng (về lãi suất, kỳ hạn, phương thức thanh toán) của ngân hàng và giảm thiểu các chi phí phát sinh không cần thiết (chi phí tái thẩm định, chi phí xử lý tài sản bảo đảm...) - Nâng cao chất lượng tín dụng làm tăng uy tín và thương hiệu của ngân hàng. Nó cho phép làm giảm nợ xấu đến mức thấp nhất, nhờ đó góp phần làm lành mạnh hoá được tình hình tài chính, đảm bảo sự an toàn cho cả ngân hàng. Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, hoạt động tín dụng của ngân hàng được dựa trên cơ sở tín nhiệm lẫn nhau, chính vì vậy uy tín của ngân hàng đối với khách hàng là rất quan trọng, là căn cứ để khách hàng lựa chọn ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Với chất lượng tín dụng tốt, ngân hàng có thể tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thương trường 1.2.2.2. Với khách hàng Bất cứ một doanh nghiệp nào, khi bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh đều muốn sử dụng vốn vay, vì khi sử dụng vốn vay sẽ tạo được đòn bẩy tài chính. Do vậy, rất nhiều doanh nghiệp có cơ cấu vốn là sự kết hợp của vốn tự có và nguồn vốn đi vay, cơ cấu vốn hợp lý sẽ góp phần giúp doanh nghiệp có được chi phí vốn rẻ hơn. Với mức vốn chủ sở hữu khiêm tốn ban đầu, rất khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn luôn là vấn đề được đặt ra trước tiên. Khi đó, các doanh nghiệp sẽ tìm kiếm và lựa chọn ngân hàng để vay vốn, thực hiện việc kết hợp nguồn vốn đi vay và nguồn vốn tự có để sử dụng vốn một cách tối ưu nhất. Một trong những điều kiện giúp doanh nghiệp có thể sử dụng tối ưu nguồn vốn mà mình có đó là khi chi phí vốn trung bình (WACC) đạt ở mức thấp nhất. Việc sử dụng vốn tự có kết hợp với vốn vay sẽ cho phép doanh nghiệp có được một khoản tiết kiệm nhờ thuế vì lãi trả cho vốn vay được hạch toán trước khi tính thuế doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp chỉ sử dụng vốn tự có mà không đi vay thì họ đã không tiết kiệm được một khoản thuế. Ngược lại nếu như doanh nghiệp chỉ sử dụng nguồn vốn đi vay thì đây cũng không phải là một giải pháp hiệu quả vì khả năng tự chủ tài chính của mỗi doanh nghiệp trên thị trường được đánh giá một phần thông qua khoản vốn tự có. Tỷ lệ tự tài trợ của doanh nghiệp quá thấp, tức là mức vốn tự có rất nhỏ so với tổng nguồn vốn thì sẽ làm giảm khả năng thanh khoản của doanh nghiệp, tác động đến khả năng hoàn trả vốn vay. Vì thế, khi xem xét cho vay đối với các doanh nghiệp, nếu như mức vốn tự có của doanh nghiệp quá thấp hoặc không có ngân hàng có thể quyết định không cho vay vì như vậy rủi ro tín dụng là quá lớn. Có thể nói chất lượng tín dụng của ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào khách hàng, vì chỉ khi khách hàng hoàn trả đủ và đúng hạn cả gốc và lãi thì món vay đó mới được coi là đảm bảo an toàn, khi ấy mới có thể khẳng định là ngân hàng có chất lượng tín dụng, không để xảy ra tình trạng nợ xấu hay nợ khó đòi… Với các doanh nghiệp, tín dụng của ngân hàng sẽ đáp ứng một cách nhanh chóng và kịp thời nhu cầu hợp lý về vốn vay của khách hàng. Như vậy chất lượng tín dụng ngân hàng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp luôn gắn liền với nhau. Chỉ khi doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, thì mới có đủ khả năng hoàn trả đủ và đúng hạn vốn vay cho ngân hàng, khi đó chất lượng tín dụng mới được đánh giá là tốt và ngược lại, chất lượng tín dụng có tốt thì các doanh nghiệp mới có thể được vay vốn từ ngân hàng với lãi suất hợp lý, quy trình thủ tục đơn giản từ đó cho phép doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng thêm hiệu quả hoạt động. 1.2.2.3. Với nền kinh tế Nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ là điều kiện để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng mà nó còn là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế. Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế luôn luôn tồn tại hai nhóm chủ thể chính, một là nhóm có nhu cầu về vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư, trong khi đó nhóm còn lại có một nguồn tiền nhàn rỗi chưa sử dụng vì thế nảy sinh nhu cầu cho vay, ngân hàng với chức năng của mình sẽ đứng ra làm cầu nối giữa các chủ thể này, đóng vai trò làm người trung gian, làm cho cung và cầu vốn sớm gặp nhau, góp phần làm cho tất cả các nguồn vốn trong nền kinh tế có thể được sử dụng tối ưu và có hiệu quả nhất. Mặt khác, hoạt động tín dụng là còn đóng vai trò tạo tiền, thay đổi mức cung tiền của nền kinh tế, vì thế đây cũng là công cụ quan trọng để Ngân hàng Nhà nước sử dụng để thực hiện chính sách tiền tệ của mình. Nâng cao chất lượng tín dụng sẽ giúp cho Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc gia, góp phần ổn định giá trị đồng tiền, hạn chế lạm phát ở mức hợp lý, giảm tỷ lệ thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế. 1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Chất lượng tín dụng được đánh giá thông qua các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng. Để có thể đánh giá một cách chính xác và có hiệu quả chất lượng tín dụng ở trong mỗi ngân hàng, không thể tách rời mà cần phải có sự kết hợp phân tích các chỉ tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng; đồng thời phải thường xuyên theo dõi sự biến động của các chỉ tiêu qua từng năm, từng thời kỳ. Trong quá trình đánh giá chất lượng tín dụng tại một ngân hàng, chúng ta có thể so sánh các chỉ tiêu này với chỉ tiêu bình quân tương ứng trong cùng hệ thống của NHTM. Chúng ta cũng có thể so sánh các chỉ tiêu của ngân hàng đang nghiên cứu với các chỉ tiêu bình quân tương ứng của ngân hàng cùng loại, với chỉ tiêu bình quân tương ứng của toàn ngành, trên cơ sở đó có những nhận định khách quan và chính xác hơn. 1.2.3.1. Các chỉ tiêu định tính Việc so sánh dựa trên các chỉ tiêu định tính rất khó khăn, chỉ mang tính tương đối. Vì vậy với mỗi ngân hàng sẽ có những chỉ tiêu định tính riêng, phù hợp với ngân hàng của mình để có những đánh giá chính xác về chất lượng tín dụng. Nói chung đánh giá chất lượng tín dụng về mặt định tính được xem là tốt chủ yếu dựa trên khả năng đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vay vốn hợp lý của khách hàng. Một số chỉ tiêu định tính hay được các NHTM sử dụng bao gồm: - Hệ thống thông tin hiện đại, đội ngũ cán bộ tín dụng nhanh nhạy, đánh giá chính xác được nhu cầu tín dụng và mức độ rủi ro của khách hàng. - Chính sách quản lý của khách hàng xin vay phải đúng đắn và phù hợp với thực tế hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong từng giai đoạn. Ngoài ra còn phải chú trọng đến cả cách tổ chức văn phòng của khách hàng, cách thích ứng thị trường, mô hình độc tài hay dân chủ... - Quá trình cho vay phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cho vay theo quy định trong luật các tổ chức tín dụng như: vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả; vốn vay phải được hoàn trả đủ gốc và lãi theo đúng kỳ hạn đã cam kết; ngân hàng tài trợ dựa trên các phương án, dự án có tính khả thi và hiệu quả cao. - Một chỉ tiêu quan trọng nói lên chất lượng tín dụng của ngân hàng đó là uy tín của ngân hàng được tạo dựng trong nền kinh tế và thông qua mối quan hệ với các khách hàng. Nếu như ngân hàng được đánh giá là có uy tín tức là chất lượng tín dụng tại ngân hàng đó cũng được đánh giá là tốt. Với uy tín và thương hiệu của mình, ngân hàng có thể nâng cao được sức cạnh tranh, khả năng thu hút khách hàng, chiếm lĩnh được thị trường. Và để có thể làm được điều này thì các ngân hàng cần phải mở rộng hơn nữa thị phần của mình, thông qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ và các hoạt động marketing quảng bá giới thiệu hình ảnh,quan hệ công chúng (PR). 1.2.3.2. Các chỉ tiêu định lượng * Các chỉ tiêu tuyệt đối - Chỉ tiêu doanh số cho vay: Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô hoạt động tín dụng của NHTM. Nếu ngân hàng có doanh số cho vay càng lớn có thể thấy mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng là nhiều.Và lợi nhuận của ngân hàng được tạo ra chủ yếu bởi hoạt động tín dụng. Do đó, chỉ tiêu này càng lớn cho thấy ngân hàng có khả năng tạo ra lợi nhuận càng cao. Tuy nhiên, đi kèm với khả năng sinh lợi cao ngân hàng cũng phải đối mặt với sự gia tăng các rủi ro đối với các khoản vay của mình. - Chỉ tiêu tổng doanh số thu nợ: Là chỉ tiêu phản ánh khả năng thu hồi nợ gốc và lãi của ngân hàng. Nếu doanh số thu nợ thấp thì điều đó cũng có nghĩa là khả năng thu hồi nợ gốc và lãi là thấp, tình trạng nợ quá hạn cao, làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, tín dụng của ngân hàng được đánh giá là có chất lượng khi doanh số cho vay lớn di kèm với doanh số thu nợ cao. - Chỉ tiêu dư nợ hiện tại: Chỉ tiêu này cho biết số vốn của ngân hàng hiện đang được đầu tư trên thị trường, phản ánh thu nhập của ngân hàng trong tương lai. Đây là một chỉ tiêu quan trọng được các ngân hàng theo dõi từng ngày để có thể kiểm soát được lượng vốn của ngân hàng và biết được việc sử dụng vốn của khách hàng có đúng mục đích không. Dư nợ hiện tại sẽ quyết định chất lượng tín dụng của ngân hàng trong tương lai. - Chỉ tiêu lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng: Mục tiêu quan trọng mà ngân hàng luôn hướng tới là lợi nhuận. Thông qua chỉ tiêu này sẽ cho biết doanh số lợi nhuận mà ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng là bao nhiêu. Nếu lợi nhuận thu được thấp cho thấy khả năng thu hút khách hàng của ngân hàng còn kém nên. Nhưng ngược lại, nếu như lợi nhuận thu được cao thì cũng không hẳn đồng nghĩa với việc chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt. Vì vậy để đánh giá tốt chất lượng tín dụng thì ta không chỉ sử dụng chỉ tiêu này mà cần kết hợp với các chỉ tiêu khác. Từ chỉ tiêu này có thể tính được tỷ trọng của thu nhập từ hoạt động tín dụng trong tổng lợi nhuận mà ngân hàng thu được, tỷ trọng này phản ánh được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng so với các hoạt động sinh lời khác của ngân hàng. - Chỉ tiêu dư nợ quá hạn, nợ khó đòi: Chỉ tiêu này cho biết khoản vay mà khách hàng chưa trả được mặc dù thời hạn tín dụng đã hết. Chỉ tiêu này càng lớn cho thấy khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng là rất thấp, rủi ro mất vốn là rất cao. Nó còn làm giảm khả năng tài chính của ngân hàng từ đó ảnh hưởng xấu đến uy tín cũng như hiệu quả hoạt động của toàn ngân hàng. Chính vì vậy các NHTM luôn muốn duy trì chỉ tiêu này ở mức tối thiểu vì nó là chỉ tiêu quan trọng cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng là tốt hay xấu. * Các chỉ tiêu tương đối - Chỉ tiêu hệ số sử dụng vốn: Hệ số sử dụng vốn = Doanh số cho vay Nguồn huy động Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng sử dụng nguồn vốn huy động để cho vay, nó cho biết ngân hàng đã cho vay được bao nhiêu so với tổng nguồn vốn huy động được. Hệ số sử dụng vốn luôn luôn nhỏ hơn 1 và lớn hơn 0. Nếu hệ số này ngày càng lớn tức là ngày càng tiến gần tới 1, thì càng thể hiện khả năng mà ngân hàng có thể cho vay trên vốn huy động tốt. Do các ngân hàng thu lợi nhuận từ các khoản cho vay để chi trả lãi cho các khoản huy động được. Vì vậy, nếu ngân hàng cho vay quá ít, không giải ngân được nguồn vốn đã huy động, làm cho nguồn vốn huy động bị ứ đọng trong ngân hàng thì sẽ dẫn đến tình trạng thua lỗ. Chính vì vậy, các ngân hàng cần tận dụng triệt để tất cả các nguồn vốn huy động được, đồng thời phải tạo ra các khoản tín dụng an toàn,lành mạnh và có hiệu quả. - Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng: Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ trong kỳ Dư nợ bình quân Vòng quay vốn tín dụng là chỉ tiêu thường được các ngân hàng tính toán hàng năm để đo lường, đánh giá khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng của ngân hàng trong việc đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. Trên cơ sở đó, đánh giá được chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng, nó cho biết trong một khoảng thời gian nhất định thì vốn tín dụng quay được bao nhiều vòng. Vòng quay của vốn tín dụng càng lớn, chứng tỏ nguồn vốn vay của ngân hàng được luân chuyển càng nhanh, tham gia nhiều vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và quá trình lưu thông hàng hoá. Khi hệ số này cao, biểu hiện trước tiên là khả năng thu nợ tốt, tức là hiệu quả cho vay cao. Tuy nhiên, cũng cần xem xét một yếu tố quan trọng nữa trong chỉ tiêu này là Dư nợ bình quân. Khi Dư nợ bình quân trong kỳ giảm cũng có thể làm cho Vòng quay vốn tín dụng tăng lên nhưng việc giảm dư nợ bình quân lại cho thấy khả năng cho vay của ngân hàng đã giảm sút, vốn huy động bị ứ đọng, gây tình trạng thua lỗ cho ngân hàng, do đó trong trường hợp này dù vòng quay tín dụng tăng lên lại không phản ánh chất lượng của tín dụng. Vì vậy, cần kết hợp xem xét chỉ tiêu này cùng với chỉ tiêu Hệ số sử dụng vốn. - Chỉ tiêu nợ quá hạn/ Tổng dư nợ đến hạn: Chỉ tiêu này là chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá độ an toàn và chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hầu hết các khoản nợ quá hạn đều là các khoản nợ có rủi ro mất vốn rất cao, ngân hàng có thể bị mất một phần hoặc toàn bộ vốn. Chỉ tiêu này thấp biểu hiện chất lượng tín dụng tại ngân hàng ở thời điểm hiện tại là tốt và ngược lại. Tuy nhiên, do tỷ lệ này chỉ đề cập đến việc hoàn trả khi đã quá thời hạn cam kết trong hợp đồng chứ không xét đến dư nợ có rủi ro nguy cơ quá hạn. Do đó, nếu có sự gia tăng mạnh mẽ của các khoản cho vay thì việc sử dụng chỉ tiêu này để đánh giá chất lượng tín dụng có thể không chính xác. Tổng dư nợ tăng lên nhanh trong khi đó số nợ đến hạn chỉ tăng khi các khoản nợ đến kỳ hạn phải trả, vì vậy chỉ tiêu này sẽ giảm xuống nhưng mức độ rủi ro thì không giảm thậm chí còn tăng lên. Và như thế nó sẽ dần che dấu đi các vấn đề nợ quá hạn. Mặt khác ở một số ngân hàng mặc dù có nợ quá hạn thấp nhưng khả năng xử lý các khoản nợ đó không hiệu quả, và điều này cũng không được phản ánh trong chỉ số này. Vì vậy, để có thể đánh giá chính xác hơn chất lượng tín dụng tại mỗi ngân hàng ngoài việc phân tích các chỉ tiêu trên nên phối hợp phân tích thêm các chỉ tiêu như: Nợ quá hạn có khả năng thu hồi/ Nợ quá hạn, Nợ khó đòi không có khả năng thu hồi/ Nợ quá hạn... 1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng là một trong những hoạt động rất quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại mỗi ngân hàng. Như chúng ta đã biết chất lượng tín dụng được phản ánh trên cả ba góc độ đó là từ phía ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế do đó khi bàn về các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, chúng cũng được xem xét từ ba đối tượng trên, đó là các nhân tố thuộc về phía ngân hàng, thuộc về phía khách hàng và thuộc về môi trường kinh tế - xã hội. 1.2.4.1 Các nhân tố thuộc về phía bản thân ngân hàng a. Chính sách tín dụng của ngân hàng Với mỗi ngân hàng, chính sách tín dụng đóng vai trò là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng, đó là toàn bộ các vấn đề có liên quan đến việc cấp tín dụng nói chung như: quy mô, lãi suất, kỳ hạn, phương thức bảo đảm... Thông qua chính sách tín dụng có thể thấy được chính sách tài trợ của mỗi ngân hàng, như là một hướng dẫn chung nhất cho các cán bộ tín dụng và các nhân viên của ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích tín dụng, nhằm tạo ra được sự thống nhất chung để hạn chế rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Chính vì vai trò quan trọng của chính sách tín dụng đối với việc nâng cao chất lượng tín dụng, do đó mỗi ngân hàng phải xây dựng một chính sách tín dụng đúng đắn, không chỉ phù hợp với đặc điểm của ngân hàng mà còn đồng thời phải phù hợp với nhu cầu vốn trên thị trường, với từng loại khách hàng, trong thời kỳ nhất định và với đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước. Chính sách tín dụng đúng đắn, ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng thị phần, thu hút được nhiều khách hàng, nâng cao được khả năng sinh lời bằng cách phân tán rủi ro, bảo đảm an toàn của mỗi món vay, thực hiện tuân thủ pháp luật, các quy định, quyết định đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. b. Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng là một hướng dẫn bao gồm các bước cần thực hiện trong quá trình cho vay và thu nợ nhằm đảm bảo an toàn cho vốn tín dụng. Quy trình được đưa ra với mục đích giúp cho quá trình cho vay diễn ra thống nhất hiệu quả, phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng, đồng thời quy trình này cũng xác định người thực hiện công việc và trách nhiệm của các cán bộ liên quan trong quá trình cho vay. Mỗi một quy trình đều được bắt đầu từ giai đoạn thu thập thông tin, thẩm định, xét duyệt cho vay, giải ngân, cho đến khi kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng và thu hồi nợ. Chất lượng tín dụng có được hay không tuỳ thuộc vào việc có thực hiện tốt các quy định ở từng bước hay không và cũng cần phải có sự kết hợp nhịp nhàng giữa các bước trong quy trình tín dụng. Một số bước thực hiện trong quy trình: Thứ nhất là giai đoạn thu thập thông tin. Đây là giai đoạn đầu tiên, khi mà cán bộ tín dụng tiếp xúc lần đầu với khách hàng. Thông qua phỏng vấn, các giấy tờ mà khách hàng giao nộp, ngân hàng sẽ có được nhưng thông tin cơ bản nhất về khách hàng của mình, từ đó tạo điều kiện cho công việc thẩm định tiếp theo. Thứ hai là giai đoạn thẩm định, đây là giai đoạn quan trọng nhất trong quy trình tín dụng, vì nếu làm tốt công việc này sẽ góp phần hạn chế rủi ro đến mức tối thiểu, từ đó tác động trực tiếp ngay đến chất lượng tín dụng. Thứ ba là giai đoạn kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng. Sau khi giải ngân, ngân hàng phải thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát khách hàng để thu thập thêm thông tin về khách hàng, đảm bảo khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích. Nếu như các thông tin thu thập thêm cho thấy một chiều hướng tốt, thì chất lượng tín dụng đang được đảm bảo. Còn nếu nhận thấy có những dấu hiệu có thể dẫn đến tình trạng mất vốn, hoặc cố tình sử dụng vốn sai mục đích thì cần phải có ngay những biện pháp xử lý kịp thời. Thứ tư là giai đoạn thu hồi nợ, tức là thời điểm mà khách hàng hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng.Nếu như việc hoàn trả diễn ra bình thường, không có bất kỳ phát sinh gì thì có thể nói chất lượng tín dụng được đảm bảo. Trong trường hợp các khoản tín dụng rơi vào tình trạng không được hoàn trả hoặc chỉ hoàn trả một phần thì ngân hàng cần phải xác định rõ nguyên nhân để đưa ra biện pháp xử lý phù hợp như là gia hạn, hoặc xử lý tài sản đảm bảo thu hồi vốn cho ngân hàng c. Khả năng tổ chức thu thập và xử lý thông tin Do đối tượng khách hàng của ngân hàng rất là đa dạng và phong phú, từ doanh nghiệp, tổ chức đến cá nhân trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, vì vậy để có căn cứ ra quyết định cấp tín dụng với khách hàng của mình đòi hỏi ngân hàng phải có sự hiểu biết nhất định về mỗi một khách hàng cụ thể. Điều này tuỳ thuộc vào khả năng tổ chức thu thập và xử lý thông tin của mỗi ngân hàng. Nếu như ngân hàng có nhiều thông tin về khách hàng của mình, và có khả năng xử lý các thông tin một cách hiệu quả, thì sẽ giảm rủi ro tín dụng đến mức tối thiểu, các quyết định cấp tín dụng sẽ hợp lý hơn, trên cơ sở đó nâng cao được chất lượng tín dung cho ngân hàng. Trong thời đại bùng nổ về thông tin hiện nay, vai trò của thông tin trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, với một hệ thống thông tin tín dụng hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện cho những nhà lãnh đạo ngân hàng có được một cái nhìn đầy đủ hơn về môi trường mà ngân hàng đang hoạt động cũng như những thay đổi về giá cả trên thị trường, mức lãi suất cơ bản của các ngân hàng trong nước và trên thế giới, các lực lượng tham gia trên thị trường… Từ đó, đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. d. Hệ thống thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại là một hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên hoạt động kiểm tra kiểm soát là thường xuyên và cần thiết. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm soát nội bộ sẽ làm cho hoạt động tín dụng luôn luôn đúng hướng, thực hiện đúng các nguyên tắc tín dụng, các quy định của toàn ngành ngân hàng cũng như các quy trình tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ còn là hoạt động mang tính phòng ngừa hạn chế các sai sót của cán bộ tín dụng, giúp cho hoạt động tín dụng luôn đi đúng hướng và từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Hoạt động kiểm toán của các cơ quan kiểm toán bên ngoài và các hoạt động kiểm tra của thanh tra Nhà nước luôn giữ vai trò quan trọng để có thể đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Tuy nhiên, việc thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nội bộ vẫn là công cụ quan trọng nhất trong quá trình quản lý và điều hành của lãnh đạo ngân hàng. Từ đó nhanh chóng kịp thời phát hiện được những sơ hở và yếu kém còn tồn tại, những sai phạm trong công tác quản lý; đồng thời đưa ra các biện pháp tối ưu nhất để khắc phục những sơ hở yếu kém và phòng tránh những tổn thất có thể xảy ra, đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng được diễn ra một cách thường xuyên, liên tục, an toàn và có hiệu quả. e. Tổ chức nhân sự Trong thời đại ngày nay, mặc dù khoa học công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất chính nhưng con người vẫn không ngừng khẳng định vị trí trung tâm của mình: vừa đóng vai trò là chủ thể, vừa là mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với NHTM con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh cũng như trong vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Trong hoạt động tín dụng, vai trò của cán bộ tín dụng là hết sức quan trọng, việc tạo ra một khoản tín dụng có chất lượng tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào khả năng phân tích, xử lý thông tin và ra quyết định của người cán bộ tín dụng. Như vậy, để nâng cao chất lượng tín dụng thì một yêu cầu được đặt ra là ngân hàng phải có một đội ngũ cán bộ tín dụng có đủ trình độ, năng lực, trách nhiệm, được đào tạo một cách bài bản, đồng thời phải nắm bắt được những kiến thức ở nhiều lĩnh vực khác nhau, có nhiều kinh nghiệm trong chuyên môn. Bên cạnh những yêu cầu về nghiệp vụ thì đòi hỏi một cán bộ tín dụng phải có tư cách phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết,tuân thủ pháp luật và các quy định của ngân hàng. f. Công nghệ thông tin Trong thời đại ngày nay công nghệ thông tin là một nhân tố không thể thiếu, nó tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng nói riêng. Sự tác động của nhân tố này đến chất lượng tín dụng được thể hiện ở trên hai hệ thống: - Thứ nhất là hệ thống quản lý rủi ro tín dụng: do mỗi loại tín dụng có tính chất và mức độ rủi ro rất khác nhau,vì vậy yêu cầu có những giải pháp quản lý rủi ro cụ thể phù hợp với mỗi loại. Hệ thống quản lý rủi ro ra đời nhằm đáp ứng mục đích này, hỗ trợ cán bộ tín dụng có thể kiểm soát và đưa ra biện pháp xử lý đối với những khoản vay có vấn đề. - Thứ hai là hệ thống thu thập và xử lý thông tin: Công nghệ có tác động rất lớn tới khả năng thu thập và xử lý thông tin của một ngân hàng. Nếu một ngân hàng được trang bị những công nghệ mới nhất và trang thiết bị hiện đại sẽ không chỉ thu hút được số lượng khách hàng lớn mà còn tăng cưởng khả năng thu thập, phân tích và xử lý thông tin được đầy đủ, toàn diện. Trên cơ sở đó, đưa ra các quyết định cho vay và xử lý các khoản vay có hiệu quả, đảm bảo được an toàn tín dụng, cải thiện tình hình tài chính và nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. 1.2.4.2 Các nhân tố từ phía khách hàng Món vay từ ngân hàng được coi là đạt chất lượng tín dụng khi khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích và tạo ra được lợi nhuận từ món vay đó. - Các nhân tố về năng lực, kinh nghiệm quản lý của khách hàng: trình độ năng lực và kinh nghiệm quản lý của khách hàng là yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng, mặt khác đây cũng là cơ sở cho ngân hàng xem xét khả năng trả nợ của khách hàng, từ đó đưa ra quyết định cấp tín dụng. Trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động đặc biệt là giá cả nguyên vật liệu, thiết bị máy móc, nhân lực...tạo ra những rủi ro cho khách hàng, làm sai lệch đi những dự đoán ban đầu của doanh nghiệp về tiến độ thu hồi vốn. Muốn khắc phục được những rủi ro này đòi hỏi người quản lý phải có trình độ, năng lực và kinh nghiệm để có thể đánh giá và phân tích đúng về tình hình tài chính doanh nghiệp và biến động của thị trường giá cả, từ đó đưa ra các biện pháp để hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Nếu như người quản lý thiếu năng lực và kiến thức sẽ dẫn đến tình trạng kinh doanh thua lỗ, đồng nghĩa với việc khách hàng rơi vào tình trạng mất khả năng trả nợ ảnh hưởng xấu đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. - Uy tín, đạo đức của khách hàng: đây là yếu tố mà ngân hàng luôn xem xét trước khi đưa ra quyết định cấp tín dụng cho khách hàng, vì đây là yếu tố quyết định nhất khả năng khách hàng trả nợ đầy đủ và đúng hạn. Nếu như khách hàng có uy tín và đạo đức tốt, họ luôn nhận thức và có trách nhiệm trong việc hoàn trả món vay cho ngân hàng, nhưng nếu như khách hàng thiếu uy tín, thì món vay tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đạo đức, khách hàng trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng, sử dụng vốn sai mục đích từ đó tác động xấu đến sự an toàn của món vay, làm giảm chất lượng tín dụng. 1.2.4.3 Các nhân tố từ môi trường kinh tế - xã hội Thứ nhất là môi trường kinh tế: Mọi hoạt động của ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng đều nằm trong khuôn khổ của nền kinh tế, do đó nó chịu sự tác động trực tiếp từ những biến động của nền kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đảm bảo khả năng trả nợ và có lãi, đẩy nhanh vòng quay của vốn tín dụng, nhờ đó chất lượng tín dụng được đảm bảo. Nhưng khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái kéo theo sự sụp đổ, kinh doanh thua lỗ của một loạt các doanh nghiệp, điều này ngay lập tức ảnh hưởng đến nguồn trả nợ cho ngân hàng, rủi ro mất vốn là điều không thể tránh khỏi. Không chỉ giới hạn trong phạm vi của quốc gia, chất lượng tín dụng của ngân hàng còn bị tác động bởi sự biến động của môi trường kinh tế thế giới như là các biến động về giá cả xăng dầu, giá vàng, giá ngoại tệ... Thứ hai là môi trường pháp lý: do đặc thù của hoạt động kinh doanh ngân hàng là kinh doanh tiền tệ, nguồn vốn mà NHTM sử dụng chủ yếu dựa trên nguồn vốn huy động, sự sụp đổ của ngân hàng sẽ kéo theo sự sụp đổ của cả nền kinh tế vì vậy hoạt động của ngân hàng luôn được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của các quy định ràng buộc về pháp luật. Chính vì vậy hoạt động tín dụng cũng bị tác động rất lớn bởi các vấn đề pháp lý. Với hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn chỉnh và thống nhất sẽ tạo môi trường pháp lý lành mạnh, hiệu quả, tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế và công tác nâng cao chất lượng tín dụng tại mỗi ngân hàng. Thứ ba là môi trường chính trị: sự ổn định về chính trị sẽ góp phần tạo tâm lý yên tâm cho hoạt động của tất cả các doanh nghiệp và hoạt động của các ngân hàng. Bất kỳ một sự bất ổn nào về chính trị cũng ngay lập tức kéo theo những hậu quả về kinh tế, ngân hàng khó khăn trong việc tăng trưởng tín dụng, các khoản cho vay khó có khả năng thu hồi, và chất lượng tín dụng sẽ trở nên tồi tệ. Vì vậy chỉ có sự ổn định về chính trị thì kinh tế mới phát triển bền vững, khi đó công tác huy động vốn và cho vay của ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi, đảm bảo được chất lượng tín dụng cho ngân hàng. Thứ tư là môi trường xã hội: Trong xã hội hiện nay, vấn đề đạo đức xã hội có liên quan rất nhiều đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu như khách hàng có ý đồ lừa đảo, hoặc trình độ dân trí thấp, kém hiểu biết...có thể dẫn đến tình trạng làm ăn kém hiệu quả, không đủ khả năng trả nợ cho ngân hàng, gây ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÍN DỤNG VỚI CÔNG TY CP XNK VẬT TƯ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG SẢN TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT BÁCH KHOA 2.1 Giới thiệu một vài nét về Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Bách Khoa 2.1.1 Quá trình hình thành và cơ cấu tổ chức của chi nhánh 2.1.1.1 Quá trình hình thành Năm 2001 Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Bách Khoa (Chi nhánh cấp II) thuộc chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Láng Hạ đã được thành lập với 17 cán bộ ban đầu (khai trương và hoạt động từ 1/8/2001). Ban đầu chi nhánh Bách Khoa chỉ thực hiện chức năng của phòng giao dịch, chủ yếu là nhận tiền gửi tiết kiệm. Sau khi có quyết định số 123/QĐ-HĐQT ngày 4/6/2002 của chủ tịch hội đồng quản trị của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, chi nhánh Bách Khoa được nâng cấp thành chi nhánh cấp 2 loại 5 và sau đề án hiện đại hoá công nghệ ngân hàng thì tiếp tục được nâng cấp thành chi nhánh cấp 2 loại 4. 2.1.1.2 Cơ cấu, chức năng nhiệm vụ các phòng ban Hiện nay chi nhánh Bách Khoa được tổ chức theo mô hình của chi nhánh cấp 2, bao gồm phòng tín dụng, phòng kế toán và phòng hành chính, tổ chức cán bộ. Ngoài ra còn có một tổ thẩm định và một ban kiểm soát chi nhánh. Dưới chi nhánh còn có hai phòng giao dịch là phòng giao dịch số 4 và phòng giao dịch số 9 cũng được đặt trong địa bàn quận Hai Bà Trưng. Giám đốc của chi nhánh là ông Trương Minh Hoàng, người đã có thời gian gắn bó rất lâu với chi nhánh, ngay từ những ngày đầu thành lập, khi chi nhánh mới chỉ là một phòng giao dịch trên địa bàn thành phố. Giám đốc chi nhánh Phòng kế toán và ngân quỹ Phòng tín dụng Phòng hành chính và tổ chức cán bộ Tổ thẩm định Ban kiểm tra kiểm soát tín dụng độc lập Bộ phận rất quan trọng của chi nhánh là phòng tín dụng. Do chỉ với phạm vi của chi nhánh cấp 2, hạn chế về quy mô và nhân lực nên phòng tín dụng phải đảm nhận hầu hết mọi công việc, từ việc nghiên cứu xây dựng chiến lược khách hàng tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng, sản xuất lưu thông với tiêu dùng. Phân tích kinh tế theo ngành, nghề kinh tế kỹ thuật, danh mục khách hàng lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt hiệu quả cao. Thẩm định và đề xuất cho vay các phương án tín dụng theo phân cấp uỷ quyền, thẩm định các dự án, hoàn thiện hồ sơ trình ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cấp trên theo phân cấp uỷ quyền. Phòng tiếp nhận thực hiện các chương trình, dự án thuộc nguồn vốn trong nước nước ngoài. Trực tiếp làm dịch vụ uỷ thác nguồn vốn thuộc chính phủ, bộ ngành khác và các tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước. Xây dựng và thực hiện các mô hì._.rủi ro, ngăn ngừa những rủi ro tín dụng không xảy ra với ngân hàng, đồng thời qua đó đánh giá khả năng cân đối vốn của ngân hàng. Trên cơ sở đánh giá rủi ro về tín dụng, ngân hàng sẽ đưa ra được chính sách tín dụng thích hợp đối với từng đối tượng, từ đó thực hiện trích lập dự phòng rủi ro phù hợp với tính chất rủi ro của các khoản đầu tư. Thực hiện hiệu quả đánh giá rủi ro tín dụng góp phần nâng cao chất lượng thẩm định, mở rộng tín dụng một cách thận trọng, đảm bảo phát triển bền vững và hiệu quả. Hiện tại chi nhánh Bách Khoa cũng đã có một tổ thẩm định, tuy nhiên do quy mô còn nhỏ và mỏng về lực lượng nên công tác đánh giá rủi ro còn gặp nhiều khó khăn, quá trình còn chậm và nhiều bất cập, tuy nhiên trong một vài năm tới tổ thẩm định sẽ được mở rộng và phát triển thành một phòng với đầy đủ các chức năng của bộ phận thẩm định. 3.2.1.2 Xây dựng chính sách tín dụng rõ ràng Hoạt động tín dụng phải trong khuôn khổ các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật thường chỉ quy định những điều khoản có tính chất khung, ít quy định cụ thể và chi tiết về những vấn đề có liên quan đến việc bảo đảm chất lượng tín dụng. Vì vậy những quy định cụ thể và chi tiết về những vấn đề nhằm bảo đảm an toàn khi cho vay do ngân hàng tự quy định và thường được thể hiện trong chính sách tín dụng của mỗi ngân hàng. Chính sách tín dụng vừa là yêu cầu và đòi hỏi của bản thân ngân hàng nhằm có được định hướng phù hợp cho ngân hàng trong việc sử dụng vốn sao cho an toàn và hiệu quả nhất, lại vừa đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng. Hoạt động tín dụng của ngân hàng có liên quan đến rất nhiều đối tượng, từ các doanh nghiệp, các hãng kinh doanh, các cá nhân, các cơ quan quản lý, do đó, nguy cơ rủi ro rất đa dạng, yêu cầu phòng chống rủi ro luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mỗi ngân hàng. Bởi vậy chính sách tín dụng phải có được những quy định (có tính ràng buộc) rõ ràng và cụ thể về các loại cho vay, quy mô cho vay, lãi suất, chính sách ưu đãi, các yếu tố cần thiết để bảo đảm an toàn tiền vay. Ngoài ra, một điều kiện để giảm bớt rủi ro cho hoạt động tín dụng ngân hàng phải luôn có trong chính sách tín dụng đó là mức cho vay tối đa (hay còn gọi là giới hạn tín dụng). Giới hạn tín dụng hiểu theo nghĩa chung nhất là phạm vi, mức độ nhất định nào đó của việc cấp tín dụng không thể hoặc không được cấp phép vượt qua. Sở dĩ việc cấp tín dụng của ngân hàng thương mại cần có giới hạn là xuất phát từ yêu cầu giám sát của ngân hàng trung ương đối với hoạt đông cho vay của ngân hàng thương mại, nhằm phân tán bớt rủi ro khi cho vay. Chính sách tín dụng rõ ràng và cụ thể là một điều kiện cần thiết góp phần nâng cao chất lượng tín dụng của mỗi khoản vay, tuy nhiên đây cũng là một bất cập tại chi nhánh Bách Khoa, như sự thiếu linh hoạt trong lãi suất, chính sách khách hàng còn chưa đa dạng, các phương thức bảo đảm còn nghèo nàn...do vậy với hướng phát triển của mình, đối với chi nhánh, việc sớm hoàn thiện chính sách tín dụng trong thời gian tới là hết sức cần thiết. 3.2.1.3 Hoàn thiện quy trình tín dụng và nâng cao chất lượng thẩm định Hiện nay đối với khách hàng, yếu tố gây khó khăn và cản trở nhiều nhất khi tiếp cận với các dịch vụ của ngân hàng là quy trình, thủ tục rườm rà, phức tạp.. thủ tục còn quá cứng nhắc, thiếu linh hoạt, có rất nhiều trường hợp khách hàng có thông tin rất tốt, nhưng vì thủ tục làm mất quá nhiều thời gian nên vuột mất cơ hội đầu tư, và kéo theo là giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, mất hợp đồng với đối tác. Vì vậy, để thu hút khách hàng, nâng cao tính cạnh tranh của ngân hàng, cần phải đơn giản hoá thủ tục vay vốn, làm sao để các thủ tục trở nên đơn giản, dễ hiểu đối với mọi trình độ của khách hàng mà vẫn đầy đủ, đảm bảo được sự an toàn cho ngân hàng. Xây dựng và thực hiện đồng bộ một hệ thống quy chế, quy trình nội bộ về quản lý rủi ro, trong đó đặc biệt chú trọng việc xây dựng chính sách khách hàng vay vốn, sổ tay tín dụng, quy đinh về đánh giá, xếp hạng khách hàng vay, đánh giá chất lượng tín dụng và xử lý các khoản nợ xấu. Vấn đề nâng cao chất lượng thẩm định là vấn đề quan tâm hàng đầu không chỉ của riêng chi nhánh mà của tất cả các ngân hàng hiện nay. Đây là khâu quan trọng nhất quyết định ngân hàng sẽ cho vay vốn hay không và quyết định trực tiếp đến chất lượng tín dụng của mỗi khoản vay. Công tác thẩm định tốt sẽ tạo cho ngân hàng có những khoản vay vừa đảm bảo an toàn vừa đảm bảo được khả năng sinh lợi cao. Trong quá trình thẩm định cần lưu ý một số vấn đề: Thứ nhất là tư cách, năng lực pháp lý: Điều này được thể hiện ở tư cách pháp nhân (với tổ chức) hoặc thể nhân (với cá nhân) thông qua các giấy tờ mà khách hàng cung cấp như: chứng minh nhân dân, hộ khẩu, giấy đăng ký kết hôn, giấy phép đăng ký kinh doanh, điều lệ của tổ chức....thông qua đó sẽ thấy được tư cách pháp lý và xem xét có thuộc đối tượng được phép vay vốn hay không. Thứ hai là năng lực điều hành, quản lý: Điều này được thể hiện ở trình độ học vấn, năng lực, kinh nghiệm của mỗi khách hàng, có thể thông qua bằng cấp, chứng chỉ, bằng khen, giấy bổ nhiệm... được cấp bởi các trường, các tổ chức đào tạo có tên tuổi... Thứ ba là tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh: Đây là yếu tố quyết định khả năng trả nợ của khách hàng, thấy được một số rủi ro mà ngân hàng sẽ gặp phải. Mặt khác cũng cho thấy khách hàng sẽ sử dụng vốn vay hiệu quả đến đâu, có khả năng sinh lợi không và ở mức độ nào, thể hiện qua các báo cáo tài chính hàng năm bao gồm: bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính...ngoài ra còn thông qua xác minh thực tế của nhân viên tín dụng tại cơ quan nơi khách hàng làm việc. Thứ tư là tình hình tài chính của khách hàng: đây sẽ là cơ sở để cán bộ tín dụng có được cái nhìn tổng quan về tình hình tài chính của khách hàng trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu tài chính từ các báo cáo tài chính hoặc bảng xác minh thu nhập của khách hàng có xác nhận bằng dấu cơ quan...tuy nhiên đây chỉ là những con số trong quá khứ, vì vậy cần phải có sự kết hợp của những tài liệu khác thì mới có kết luận chính xác được về tình hình tài chính của khác hàng. Thứ năm là phương án sử dụng vốn vay và phương thức đảm bảo vốn vay: phương án sử dụng vốn vay là yếu tố rất quan trọng, nếu phương án vay vốn mà hiệu quả và khả thi, khả năng trả nợ của khách hàng là rất cao, nhưng nếu như phương án vay vốn không rõ ràng, hoặc sử dụng vốn không đúng mục đích, trái pháp luật đây sẽ là cơ sở để cho ngân hàng từ chối cho vay. Vì thế, trong quá trình thẩm đinh, cán bộ tín dụng cần phải xác minh được rõ và chính xác phương án vay vốn của khách hàng. Phương thức bảo đảm vốn vay là một biện pháp bảo đảm quan trọng khi có rủi ro tín dụng xảy ra, góp phần hạn chế tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu. Tuỳ theo mỗi khách hàng mà có thể bảo đảm bằng bất động sản hay động sản dưới hình thức cầm cố hoặc thế chấp. Ngoài các vấn đề có liên quan đến khách hàng, trong quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng cũng phải chú ý đến những mối quan hệ của khách hàng, như là với đối tác, nhà cung cấp, đối thủ cạnh tranh và đưa ra các phân tích dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh tới hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. 3.2.1.4 Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát Các món vay sau khi đã giải ngân, nếu không có sự giám sát chặt chẽ của ngân hàng, khách hàng có thể sử dụng vốn vay không đúng mục đích, hoặc sử dụng vốn một cách lãng phí không hiệu quả, từ đó gây ra các rủi ro khác mà ngân hàng không lường trước được, dẫn đến tình trạng nợ xấu, nợ khó đòi, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng. Chính vì vậy, sự giám sát và kiểm tra của ngân hàng sau khi giải ngân là rất cần thiết, không chỉ giúp khách hàng trả nợ và lãi đúng hạn mà trong quá trinh giám sát có thể có biện pháp hỗ trợ vốn cho khách hàng khi cần thiết. Mặt khác nắm bắt được tiến độ của dự án sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn và giảm bớt rủi ro nhiều hơn. Bên cạnh việc kiểm tra giám sát đối với khách hàng, ngân hàng cũng phải tăng cường việc kiểm tra giám sát trong nội bộ, để phát hiện ra những sai phạm, tiêu cực trong quá trình thẩm định, tránh tình trạng câu kết giữa khách hàng và cán bộ tín dụng nhằm chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, những yếu kém trong quản lý...từ đó có những biện pháp quản lý phù hợp, phát triển ngân hàng theo hướng bền vững. 3.2.1.5 Xúc tiến các hoạt động marketing ngân hàng Hiện nay số lượng các ngân hàng trong nước là rất lớn, môi trường cạnh tranh rất gay gắt, không chỉ từ phía các ngân hàng nội mà đáng lo ngại hơn là từ phía các ngân hàng ngoại, những ngân hàng với tiềm lực rất lớn về vốn, về công nghệ, và đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp. Chính vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, mở rộng thêm thị phần, thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm năng thì hoạt động marketing cần phải được đặt lên hàng đầu. Với nhận định như vậy, chi nhánh Bách Khoa đã và đang không ngừng hoàn thiện chính sách marketing hỗn hợp bao gồm các chính sách về khách hàng, giá cả, sản phẩm và các đối thủ cạnh tranh. Về khách hàng: Do đặc điểm dịch vụ ngân hàng là rất dễ bắt chước do vậy rất khó giữ được bản quyền, vì vậy để có thể thu hút và giữ chân khách hàng, ngân hàng cần phải có những chính sách đặc biệt đối với khách hàng mà các ngân hàng khác không có. Tất cả phải được chương trình hoá bắt đầu từ việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng cho đến khi sản phẩm dịch vụ đến tay khách hàng, thoả mãn tối đa nhu cầu của họ. Ngân hàng sẽ chủ động gặp gỡ mời chào khách hàng đến vay vốn trên cơ sở đã nắm bắt thông tin về họ, thực hiện tư vấn miễn phí cho khách hàng về toàn bộ sản phẩm của ngân hàng, để kích thích họ nảy sinh nhu cầu muốn vay vốn. Với những khách hàng truyền thống ngân hàng có những chính sách ưu đãi riêng như lãi suất ưu đãi, mở rộng hạn mức thấu chi, hay là hạn mức tín dụng... để tăng thêm sự trung thành cho khách hàng. Về giá cả: đối với các hàng hoá thông thường thì giá cả biểu hiện là giá trị của hàng hoá đó, nhưng đối với ngân hàng, giá cả lại được biểu hiện bằng lãi suất, đây không phải là số tiền vay mà là phần lãi ngân hàng nhận được từ mỗi món vay. Hiện nay cuộc đua lãi suất đang diễn ra rất gay gắt, tuy nhiên mức lãi suất chỉ có thể biến động trong một khung giới hạn nhất định nên việc cạnh tranh bằng lãi suất rất hạn chế. Tuy nhiên chi nhánh Bách Khoa cũng đã áp dụng một số hình thức có tác dụng làm giảm giá nhưng không phải thay đổi lãi suất như là miễn phí một số dịch vụ: tư vấn, chuyển khoản trong nội thành, các thủ tục làm hồ sơ... Một số sản phẩm của ngân hàng như mua nhà hay mua ô tô áp dụng các hình thức trả góp hay lãi suất linh hoạt cũng tạo nên sự khác biệt về giá so với các ngân hàng khác. Về sản phẩm: Chúng ta biết rằng thị trường hoạt động ngân hàng là một thị trường hết sức đơn điệu cả về đối tượng khách hàng cũng như các loại sản phẩm. Do vậy việc đưa ra một sản phẩm mới là một việc làm khó khăn và đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên ngân hàng lại là đơn vị duy nhất không thể độc quyền về một sản phẩm mới (vì việc bắt chiếc các sản phẩm dịch vụ ngân hàng là rất dễ dàng lại không phạm pháp) vì thế cần phải có những chiến lược marketing nhằm tạo ra sự khác biệt hoá trong dịch vụ của mình nhằm thu hút khách hàng. Hơn nữa ngay khi chiếm lĩnh được thị trường, ngân hàng cũng cần phải tiến hành ngay các chiến lược bảo vệ cũng như chiến lược củng cố thị trường để nhằm đảm bảo đối thủ cạnh tranh không thể nhanh chóng sao chép mô phỏng, tiến tới chiếm lĩnh thị trường mới mở của ngân hàng. Hiện tại chi nhánh đang thực hiện đa dạng hoá các hình thức tín dụng, mở rộng đối tượng cho vay để nhằm thu hút thêm khách hàng, tăng quy mô tín dụng và phân tán rủi ro tín dụng. Về đối thủ cạnh tranh: thực tế cho thấy những nỗ lực nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, chiếm lĩnh thị trường của chúng ta chỉ có hiệu quả khi mà đối thủ cạnh tranh chưa có những hành động tương tự hoặc đã có nhưng mức độ thoả mãn thấp hơn. Chính vì thế marketing không chỉ nghiên cứu về khách hàng mà còn nghiên cứu phân tích các đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở hiểu rõ về tiềm lực của đối thủ các nhà quản trị marketing sẽ có những dự đoán về phản ứng cũng như chiến lược mà đối thủ định tiến hành và có giải pháp đối phó. Như vậy, chính nhờ việc tiến hành các hoạt động marketing theo tư duy chiến lược trên cơ sở có tính toán trước đến sức mạnh của đối thủ cạnh tranh nên ngân hàng luôn ở thế chủ động, không bị rơi vào tình thế lúng túng khi bị đối thủ cạnh tranh phản kháng hay tấn công, do vậy khả năng thành công cao hơn. 3.2.1.6 Giải pháp về thông tin và công nghệ *Thông tin là yếu tố cực kỳ quan trọng, đặc biệt trong kỷ nguyên bùng nổ thông tin như hiện nay. Với một hệ thống thông tin hoàn hảo, vấn đề đánh giá rủi ro sẽ hiệu quả hơn rất nhiều lần,ngân hàng có thể dự đoán được các rủi ro mà mình sẽ gặp phải, dự báo được triển vọng trong tương lai. Tuy nhiên trong thực tế lại ngược lại, chúng ta luôn thiếu thông tin. Việc tiếp nhận thông tin được diễn ra theo nhiều hình thức và bằng nhiều công cụ khác nhau. Khi tiếp nhận dữ liệu về một khách hàng, với một cán bộ tín dụng có khả năng khai thác thì lượng thông tin thu được sẽ rất lớn và việc đánh giá sẽ chính xác hơn. Chất lượng của thông tin tuỳ thuộc vào nguồn mà ngân hàng lấy thông tin, hiện nay ngân hàng chủ yêu lấy thông tin khách hàng thông qua phỏng vấn. Tuy nhiên lượng thông tin này vẫn chưa đủ và nhiều khi thiếu khách quan vì được lấy trực tiếp từ phía khách hàng, những người đang rất muốn vay vốn. Hiện tại chi nhánh đang mở rộng và tìm kiếm thông thêm thông tin từ một số nguồn sau: - Thông qua việc kiểm tra trực tiếp nơi làm việc của khách hàng, chúng ta sẽ có nhiều thông tin hơn, và khách quan hơn như cơ quan làm việc có đúng như lời miêu tả không, to đẹp hay lụp xụp quá cũng là một yếu tố đáng lưu tâm, hỏi những người cùng làm việc với khách hàng mình để xác minh những thông tin đã có, quan sát mọi người và phong cách làm việc, trách nhiệm và thái độ ra sao...qua kiểm chứng chúng ta sẽ thấy được sự trung thực, uy tín của khách hàng và khả năng trả nợ có đúng theo như phương án vay vốn đã thể hiện hay không. - Thông tin từ các báo cáo tài chính cũng hết sức hữu dụng nếu biết khai thác và sử dụng nó. Các báo cáo tài chính hiện nay thường phải qua kiểm toán mới được ngân hàng chấp nhận, vì thế những số liệu mà nó cung cấp có độ chính xác cao. Thông qua phân tích, đánh giá các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, khả năng tự tài trợ, khả năng sinh lợi mà ngân hàng sẽ thấy được những thế mạnh cũng như điểm yếu của doanh nghiệp, có thể đánh giá về khả năng trả nợ cho ngân hàng và từ đó ra quyết định cho vay hay không. - Thông tin lấy từ một nguồn khác rất quan trọng và ở một số ngân hàng hiên nay là bắt buộc là từ trung tâm thông tin tín dụng quốc gia (CIC). Đây là trung tâm lưu trữ thông tin tình hình dư nợ của các khách hàng (thể nhân và pháp nhân) tại tất cả các ngân hàng trong nước. Nếu khách hàng có dư nợ quá cao, hoặc đã có nợ xấu ở bất kỳ một tổ chức tín dụng nào thì khi tiến hành thủ tục vay vốn ở một tổ chức tín dụng khác cũng không thể che dấu được. Đây là nguồn thông tin hỗ trợ rất lớn, hữu ích và rất đáng tin cậy. - Ngoài ra thông tin có thể lấy từ một số nguồn khác như qua các phương tiện truyền thông: vô tuyến, radio, báo, tạp chí... đặc biệt là thông qua mạng internet, đây là nguồn thông tin cực kỳ phong phú và đa dạng, bạn có thể dễ dang tìm kiếm được thông tin mà mình muốn tìm, tuy nhiên tính tin cậy của những nguồn này không cao, đòi hỏi phải xác minh lại từ các nguồn khác. Về việc phân tích thông tin: sau khi đã thu thập đầy đủ thông tin, công việc tiếp theo rất quan trọng là người cán bộ tín dụng phải biết phân tích tất cả thông tin mà mình có được để đưa ra quyết định cho vay hay không. Cũng có rất nhiều phương pháp phân tích khác nhau, tuỳ theo từng đối tượng khách hàng mà chú trọng vào phần thông tin nào. Mục tiêu cuối cùng vẫn là đảm bảo được khả năng trả nợ cho ngân hàng và triển vọng phát triển của khách hàng trong tương lai. *Công nghệ : chất lượng tín dụng cũng bị tác dụng rất lớn bởi công nghệ. Với một công nghệ ngân hàng hiện đại, được trang bị đầy đủ máy móc với các phần mềm công việc hỗ trợ thì việc tổng hợp, phân tích, lấy số liệu không phải là điều khó khăn. Hơn thế nữa với một công nghệ hiện đại, tất cả các dữ liệu sẽ được link trực tiếp với nhau, việc đưa dữ liệu vào chỉ thao tác một lần, như vậy giảm được sai sót và nhầm lẫn, mọi tính toán đều thực hiện trên máy tính, cực kỳ chính xác. Máy tính sẽ quản lý và cảnh báo đối với các khoản nợ đến hạn và khoản nợ đã quá hạn. Và như vậy thời gian xử lý sẽ giảm xuống rất nhiều, giảm bớt được khối lượng công việc và quy trình thủ tục sẽ đơn giản gọn nhẹ hơn. Có thể nói công nghệ cũng đang là một điểm nhấn trong cuộc cạnh tranh găy gắt hiện nay, chạy đua về mặt công nghệ sẽ là nền tảng cho một ngân hàng hiện đại trong tương lai. Hiện tại chi nhánh Bách Khoa được trang bị một hệ thống máy tính với phần mềm Core banking xử lý mọi thông tin trên máy, cán bộ tín dụng chỉ cần nhập dữ liệu vào một lần và ngay lập tức máy sẽ tự động tính toán và đặt các chế độ nhắc nhở tự động: như là ngày trả lãi, ngày trả gốc, nợ đã quá hạn...Tuy nhiên điểm hạn chế là các máy tính hiện nay đều có cấu hình quá cũ, vì vậy việc xử lý thông tin diễn ra còn chậm, và nhiều khi không thực hiện được. Trong thời gian tới chi nhánh sẽ nâng cấp toàn bộ và trang bị thêm một số các thiết bị hiện đại khác nữa như máy đếm và lọc tiền tự động, hệ thống bảng điện tử báo giá hàng ngày... 3.2.1.7 Giải pháp về nhân lực Yếu tố con người lúc nào cũng là yếu tố hàng đầu. Trong quá trình thẩm định món vay nếu người cán bộ tín dụng là người thực sự có năng lực và có trình độ về chuyên môn sẽ phát hiện được những rủi ro tiềm ẩn mà bình thường khó có thể nhận thấy, việc này máy móc không làm được. Vì vậy đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ có năng lực có trình độ là điều rất quan trọng. Hơn thế nữa, nếu người cán bộ không có đủ đạo đức, chấp nhận những cám dỗ, câu kết với khách hàng cũng sẽ gây tổn thất cho ngân hàng, làm giảm uy tín của ngân hàng. Như vậy bên cạnh việc đào tạo về mặt chuyên môn, yêu cầu với cán bộ tín dụng là còn phải rèn luyện về cả đạo đức. Trong bối cảnh hiện nay, khi mà công nghệ ngày càng hiện đại, đòi hỏi trình độ năng lực của con người ngày càng phải nâng cao mới có thể sử dụng và phát huy tối đa hiệu suất hoạt động của các công nghệ đó. Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, sắp tới chi nhánh Bách Khoa sẽ mở các chương trình đào tạo ngắn hạn về nghiệp vụ, tin học, tiếng anh...bên cạnh đó tổ chức sắp xếp lại cán bộ vào đúng vị trí, phù hợp với năng lực mỗi người để tạo động lực làm việc cho cán bộ, tạo môi trường làm việc nghiêm túc và chuyên nghiệp, từ đó có thể phát huy tối đa khả năng của mỗi cá nhân. Đồng thời cũng phải chú trọng tới chính sách khen thưởng kịp thời thoả đáng, tránh tình trạng cán bộ bất mãn, rồi dẫn đến thoái hoá hoặc chuyển sang làm việc ở đơn vị khác, đó sẽ là tổn thất rất lớn của chi nhánh. Trong chính sách tuyển dụng, ngân hàng nên ban hành và cụ thể hoá các chính sách thu hút nhân tài, đặc biệt là những chuyên gia giỏi, những người có trình độ cao nhằm tạo ra năng lực cạnh tranh cho ngân hàng trong bối cảnh hiện nay. 3.2.2 Đối với công ty CPXNK vật tư nông nghiệp và nông sản Hiện nay công ty CPXNK vật tư nông nghiệp và nông sản là khách hàng truyền thống của chi nhánh, thường xuyên giao dịch với ngân hàng và chưa hề phát sinh nợ xấu. Chất lượng tín dụng hiện nay được đánh giá là rất tốt. Tuy nhiên, trong lĩnh vực XNK, rủi ro luôn tiềm ẩn, bất cứ khi nào cũng có thể xảy ra tổn thất, vì vậy để đảm bảo an toàn tín dụng giữa ngân hàng và công ty, cần lưu ý một số giải pháp: * Giảm bớt các quy trình thủ tục khi tiến hành với những món vay mới. Thực tế là công ty đã là khách hàng truyền thống của chi nhánh, hơn thế nữa đây lại là khách hàng rất uy tín, vay trả đủ và đúng hạn. Do đó, để tăng cường sự trung thành và tạo sự ưu đãi đối với khách hàng truyền thống, khi thực hiện những món vay mới, hoặc những giao dịch khác, hoặc gia tăng hạn mức của cho công ty, ngân hàng nên cải tiến các thủ tục sao cho vừa gọn nhẹ nhưng cũng vẫn phải đảm bảo tính an toàn cho hoạt động tín dụng. * Thường xuyên đánh giá, phân tích lại tình hình thông tin của công ty, chú ý nhiều đến các vấn đề như tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, năng lực điều hành quản lý công ty. Đây là công việc hết sức quan trọng. Như chúng ta đã biết thị trường luôn luôn biến động và vì thế kéo theo rủi ro tiềm tàng cho bất kỳ một doanh nghiệp nào, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, tính rủi ro lại càng cao hơn nữa. Việc thường xuyên đánh giá, phân tích lại tình hình công ty cho phép ngân hàng có những nhận định chính xác về hoạt động của công ty, từ đó có thể quyết định tiếp tục cho vay hay không, và giải ngân kịp thời vốn cho doanh nghiệp. * Theo dõi để đảm bảo thu lãi và gốc hàng tháng đúng hạn. Để không phát sinh nợ xấu, cũng như tăng tính chủ động cho công ty, khi đến gần thời điểm nộp tiền lãi và gốc, cán bộ tín dụng quản lý hồ sơ sẽ liên lạc trực tiếp với kế toán trưởng của công ty, vì vậy, công ty sẽ chủ động thu xếp tiền và trả gốc và lãi đúng hạn. * Nắm bắt thông tin nhanh nhạy kịp thời, thông tin cập nhật hàng ngày, nhất là các thông tin liên quan đến khách hàng, thông tin về ngành hàng, về giá cả thị trường. * Để khuyến khích hơn nữa với khách hàng, nên có những chính sách ưu đãi riêng như về mở rộng quy mô vốn vay, giảm lãi suất, đưa ra nhiều loại hình dịch vụ để hỗ trợ cho công ty. * Trong trường hợp phát sinh nợ quá hạn, tuỳ theo tình hình, nhận thấy công ty đang gặp tình trạng khó khăn thực sự ngân hàng sẽ thực hiện thủ tục gia hạn hoặc bổ xung thêm vốn để hỗ trợ cho khách hàng. Nếu trong trường công ty cố tình chây ỳ, hoặc trốn tránh trách nhiệm trả nợ thì ngân hàng sẽ ngay lập tức lên kế hoạch trong việc thu hồi nợ quá hạn, xử lý nghiêm túc và quyết liệt. * Phân công những cán bộ có đủ năng lực, đạo đức để đảm nhiệm công việc quản lý, theo dõi, phân tích và đánh giá khách hàng một cách thường xuyên. 3.3 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa 3.3.1 Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam - Ngân hàng No&PTNT Việt Nam nên nhanh chóng hoàn thiện công tác hiện đại hoá ngân hàng, đơn giản hoá các quy trình cho vay, thay đổi một số nguyên tắc quản lý đã quá cũ so với tình hình mới, tăng tính chủ động cho các ngân hàng cấp chi nhánh, như vậy vừa tạo thuận lợi cho cả khách hàng mà cũng vừa tạo thuận lợi cho chi nhánh phát huy được hết khả năng, tiềm lực của mình - Đề nghị cho phép chi nhánh nâng mức phán quyết cho vay và cơ chế cho vay đối với phòng giao dịch của chi nhánh để có điều kiện quan hệ tín dụng, tiếp cận các nguồn vốn trong thanh toán của doanh nghiệp. - Đẩy mạnh đầu tư mới thêm nhiều trang thiết bị máy móc để hỗ trợ cho hoạt động của chi nhánh, cho chi nhánh được nối mạng internet để cập nhật tỷ giá, truy cập mã BIC,CODE, tra thông tin rủi ro cảnh báo tín dụng từ CIC, nhanh chóng hoàn tất đề án hiện đại hoá hệ thống ngân hàng giai đoạn hai, chuẩn bị cho chủ trương cổ phần hoá sắp tới. - Tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ nhân viên ngân hàng có điều kiện học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng cho cán bộ về chủ trương chính sách mới, đồng thời nên có những chính sách ưu tiên, khuyến khích cán bộ tự nâng cao trình độ, tự đào tạo như là hỗ trợ thêm kinh phí khi cán bộ theo học tại chức, các bậc học cao hơn, hỗ trợ thêm cho người có trình độ ngoại ngữ, trình độ chuyên môn cao, để khuyến khích nhân viên tự học hỏi bồi dưỡng kiến thức. 3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng nhà nước với vai trò là cơ quan quản lý điều hành hoạt động của các ngân hàng thương mại, định hướng cho sự phát triển của các ngân hàng thương mại, và cũng đồng thời là cơ quan thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, quản lý lượng cung tiền trong nền kinh tế. - Với vai trò và chức năng như vậy, ngân hàng nhà nước nên có những chủ trương, chiến lược cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước, tạo điều kiện cho các ngân hàng trong nước tiến gần hơn tới các chuẩn mực quốc tế, nhất là trong thời điểm Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO). - Đưa ra những văn bản và quyết định hợp lý, tạo cho các ngân hàng có môi trường kinh doanh thông thoáng, hiệu quả mà vẫn đảm bảo được sự an toàn trong toàn hệ thống. - Tăng cường thực hiện kiểm tra giám sát chặt chẽ hơn nữa hoạt động của các ngân hàng thương mại, bảo vệ quyền lợi của khách hàng, tránh sự đổ vỡ, phá sản của ngân hàng thương mại mà kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống. - Nhanh chóng hoàn thiện cơ cấu tổ chức của hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại, đẩy mạnh quá trính cổ phần hoá các ngân hàng quốc doanh, khi thực hiện cổ phần hoá các ngân hàng mới có điều kiện gia tăng nguồn vốn, tăng khả năng cạnh tranh, kinh doanh có hiệu quả. - Một vấn đề cần có sự can thiệp của ngân hàng nhà nước đó là sự thiếu thống nhất trong toàn hệ thống các ngân hàng, sự đấu đá một cách cục bộ hình thành nên các liên minh dẫn đến tình trạng giảm sức cạnh tranh trên toàn hệ thống. Điều này rất đáng lo ngại trước tình trạng khi mà các ngân hàng nước ngoài đang chuẩn bị thành lập chi nhánh hay ngân hàng mới tại nước ta, nếu không thống nhất và đoàn kết thì kết quả là sẽ có nhiều ngân hàng bị phá sản, giải thể hoặc tự sát nhập. Chỉ có ngân hàng nhà nước mới có thể đứng ra thống nhất các liên minh từ đó tạo ra một khối thống nhất chung, thúc đẩy toàn hệ thống đi lên. 3.3.3 Kiến nghị với Chính phủ Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất, quản lý tất cả các lĩnh vực của quốc gia, vì vậy chính phủ phải có những chính sách, chương trình phát triển đồng bộ thống nhất giữa các lĩnh vực, tạo ra môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định để từ đó các ngân hàng mới hoạt động một cách có hiệu quả. - Có nhiều ưu đãi hơn nữa đối với ngành Nông nghiệp, ngành mà mức thu nhập của người dân còn thấp và còn thiều vốn để sản xuất. Khuyến khích phát triển kinh tế hộ trang trại, liên kết các hộ sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp để tạo động lực và sức mạnh tổng hợp cho nông nghiệp nông thôn phát triển. - Không nên có sự can thiệp vào hoạt động của ngân hàng như chỉ định vay vốn hay cho vay ưu đãi, tạo sự chủ động và tính linh hoạt cho hoạt động của các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quốc doanh. - Đẩy mạnh công tác xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng, điện đường trường trạm, tạo thuận lợi cho sinh hoạt cũng như sản xuất kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh kéo theo sự phát triển của hệ thống ngân hàng. 3.3.4 Kiến nghị với công ty CPXNK vật tư kỹ thuật nông nghiệp và nông sản - Để góp phần hỗ trợ cho chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa giảm bớt rủi ro trong tín dụng, đảm bảo an toàn của món vay, công ty phải thường xuyên cung cấp thông tin, số liệu liên quan tình hình hoạt động của mình, nếu có biến động hoặc thay đổi trong quá trình hoạt động phải lập tức báơ cho ngân hàng để kịp thời xử lý. - Bên cạnh đó, phải hỗ trợ chi nhánh trong quá trình kiểm tra giám sát, tạo điều kiện để cán bộ tín dụng hoàn thành nhiệm vụ của mình. Hoàn thành đúng, đủ nghĩa vụ thanh toán nợ gốc và lãi đúng thời hạn, tránh để tình trạng dây dưa, nợ đọng kéo dài. - Cùng với ngân hàng xây dựng mối quan hệ hợp tác lâu dài, củng cố niềm tin của cả hai phía để cùng hướng tới sự phát triển chung KẾT LUẬN Mặc dù đã có nhiều thành công trong công tác bảo đảm an toàn vốn vay, tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn ở dưới mức an toàn, tuy nhiên trong thời gian tới chi nhánh Bách Khoa vẫn sẽ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện những giải pháp tiếp theo để nâng cao hơn nữa chất lượng tín dụng, không chỉ với riêng công ty CP XNK vật tư nông nghiệp và nông sản mà còn với cả hoạt động tín dụng của ngân hàng nói chung. Đây là hướng đi hết sức đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển hiện nay. Trước sức ép cạnh tranh ngày càng lớn, mở rộng, nâng cao chất lượng tín dụng càng nhiều sẽ tạo ra lợi thế lớn, tăng cường uy tín của ngân hàng mình đối với khách hàng cũng như là với các đối thủ cạnh tranh. Trong tương lai không xa, khi đề án tái cơ cấu và hiện đại hoá ngân hàng tại chi nhánh NHNo&PTNT hoàn thành xong, vấn đề về chất lượng trong hoạt động tín dụng sẽ có những bứt phá ngoạn mục, và lúc đó cũng là thời điểm ngân hàng sẵn sàng với cuộc cạnh tranh khốc liệt với cả ngân hàng nội và ngân hàng ngoại. Suốt thời gian nghiên cứu đề tài đã giúp em tìm hiểu được rất nhiều vấn đề, có cơ hội được tiếp xúc với những tình huống hết sức thực tế. Hy vọng rằng thông qua đề tài này có thể đóng góp những ý kiến hữu ích, góp phần nhỏ bé vào sự phát triển của ngân hàng. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Ngân hàng thương mại - TS Phan Thị Thu Hà NXB thống kê, 2004. Tài chính doanh nghiệp - TS Lưu Thị Hương NXB thống kê, 2005. Quản trị Ngân hàng thương mại - Peter Rose, Nhà xuất bản tài chính 2001. Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính- Feredric S.Miskin, NXB Khoa học và kỹ thuật, 1994. Ngân hàng thương mại - Eward W. Reed và Eward K. Gill Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh. Nghiệp vụ tín dụng - Học viện ngân hàng Sổ tay tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh từ năm 2004-2006 của Chi nhánh NHNo&PTNT Bách Khoa Báo cáo tài chính từ năm 2004-2006 của công ty CP XNK vật tư nông nghiệp và nông sản Thời báo ngân hàng, thời báo kinh tế và một số tạp chí khác Lịch sử phát triển chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ Chỉ thị của thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 02/2005/CT-NHNN ngày 20/4/2005 về việc nâng cao chất lượng tín dụng, tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng huy động vốn và kiểm soát rủi ro, đảm bảo an toàn hệ thống. Chỉ thị của thống đốc Ngân hàng Nhà nước số 04/2004/CT-NHNN ngày 1/4/2004 về việc tăng cường quản lý, giám sát nhằm đảm bảo hoạt động tín dụng an toàn - hiệu quả - bền vững. 14. Một số website: www.vietnamnet.vn; www.vneconomy.com.vn; www.agrbank.com.vn Môc lôc ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36553.doc
Tài liệu liên quan