Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Thực trạng và giải pháp

Mở đầu Trong các quan niệm trước đây ở nước ta về quá trình công nghiệp hoá, vai trò của con người mặc dù đã được đề cao ở mức độ đáng kể, song con người với tất cả tiềm năng, hiện trạng và sức mạnh của nó thì lại chưa được nhìn nhận như là một nguồn lực của bản thân quá trình công nghiệp hoá. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho quá trình công nghiệp hoá trước đây thiếu động lực và đạt kết quả rất hạn chế. Ngày nay, do sự tác động, chi phối bởi những đặc điểm mới của thời đại,

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vị trí và đặc điểm các nguồn lực của CNH - HĐH cũng được nhìn nhận lại, trong đó con người vừa được coi là nguồn lực nội tại, cơ bản, quyết định sự nghiệp CNH - HĐH, vừa là đối tượng mà chính quá trình CNH - HĐH phải hướng vào phục vụ. Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “ Đáp ứng yêu cầu về con người và NNL là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH - HĐH”. Với tính cách là nguồn lực quyết định sự nghiệp CNH - HĐH, nguồn nhân lực thể hiện vai trò ở cả phương diện là chủ thể lẫn phương diện là khách thể của quá trình CNH - HĐH. Là chủ thể, con người khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH - HĐH. Là khách thể, con người trở thành đối tượng được khai thác triệt để cho sự thành công của CNH - HĐH; đồng thời chính con người là đối tượng được thụ hưởng những thành quả của quá trình CNH - HĐH đó. Vì vậy, ngày nay, con người được coi là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên; giữ vị trí trung tâm trong toàn bộ quá trình CNH - HĐH, CNH - HĐH là do con người và vì con người. Mặt khác, với thực trạng nguồn lực con người Việt Nam hiện nay, việc khai thác, sử dụng hợp lý nguồn lực đó sao cho có hiệu quả nhất đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH nhằm mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội đang thu hút sự quan tâm của những người làm công tác lý luận và của phần lớn các nhà khoa học thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau và những người làm công tác hoạch định chính sách cũng như chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Bởi vì, để có một chiến lược kinh tế – xã hội đúng đắn, và để thực hiện chiến lược đó cần phải phân tích, đánh giá các nguồn lực đển trên cơ sở đó khai thác và sử dụng đúng đắn các nguồn lực ấy vào sự phát triển. Mặt khác, đây cũng đang là những vấn đề bức xúc mà nhận thức và giải quyết tốt những vấn đề đó sẽ là điều kiện tiên quyết, bảo đảm cho sự thành công của CNH - HĐH. Nhận thức được tầm quan trọng của NNL nói chung và chất lượng NNL nói riêng trong quá trình CNH - HĐH, em đã chọn đề tài: “Chất lượng Nguồn nhân lực Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” để làm khoá luận tốt nghiệp của mình. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về nguồn nhân lực. Chương 2: Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam. Thông qua khoá luận tốt nghiệp của mình, với những kiến thức đã được cập nhật về thực trạng NNL ở Việt Nam hiện nay em mong muốn có thể đưa ra những định hướng cũng như những giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng NNL đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH - HĐH, đưa Việt Nam tiến kịp khu vực và thế giới. Tuy nhiên do kiến thức và hiểu biết còn hạn chế nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót; em rất mong nhận được sự góp ý và chỉnh sửa của các thầy cô và các bạn có cùng sự quan tâm. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo T.S Trần Thị Thanh Xuân đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em ngay từ những ngày đầu làm khoá luận! Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên thực hiện Phạm Thị Nga. Chương 1 Những vấn đề chung về nguồn nhân lực 1.1. Khái niệm và vai trò nguồn nhân lực 1.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực Trước khi bàn về khái niệm “nguồn nhân lực” cần tìm hiểu khái niệm “nguồn lực”. Dưới dạng tổng quát, khái niệm “nguồn lực” được hiểu là toàn bộ các yếu tố cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh cho sự phát triển và trong những điều kiện thích hợp sẽ thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia, dân tộc”. Nghĩa là, khái niệm “nguồn lực” có phạm vi bao quát rộng, hàm chứa không chỉ những yếu tố đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế, mà cả những yếu tố đang ở dạng tiềm năng; không chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra nơi bắt đầu, nơi phát sinh hoặc nơi có thể cung cấp sức mạnh, phản ánh không chỉ số lượng mà còn cả chất lượng các yếu tố, đồng thời nói lên sự biến động không ngừng của các yếu tố đó. Khái niệm “Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực” (NNL) được sử dụng từ những năm 60 của thế kỷ XX ở nhiều nước phương Tây và một số nước Châu á, và bây giờ khá thịnh hành trên thế giới dựa trên quan niệm mới về vai trò, vị trí con người trong sự phát triển. Quan niệm về NNL khá đa dạng, được đề cập đến từ nhiều góc độ khác nhau: Ngân hàng thế giới cho rằng, “Nguồn nhân lực” được hiểu là toàn bộ “vốn người” (gồm thể lực, trí tuệ, kĩ năng nghề nghiệp ) mà mỗi cá nhân sở hữu. Như vậy, ở đây, NNL được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền, công nghệ, tài ngyên thiên nhiên… Liên hợp quốc cũng có cách tiếp cận tương tự khi cho rằng: “NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước”. Quan niệm này xem xét NNL chủ yếu ở phương diện chất lượng con người và vai trò, sức mạnh của nó đối với sự phát triển xã hội. ở Việt Nam, một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học – công nghệ cấp nhà nước: “Con người Việt Nam – mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội”. Mang mã số KX – 07 do GS.TSKH Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm, cho rằng: “ NNL được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất”. Từ một số cách tiếp cận và những nôi dung nêu trên, có thể nói rằng, NNL không chỉ là lực lượng lao động hay nguồn lao động mà là một tập hợp các yếu tố: NNL được biểu hiện là sức lao động của con người, của tập thể người lao động, gồm thể lực ( sức khoẻ, tuổi tác, thâm niên, giới tính…) và trí lực ( tài năng, năng khiếu, quan điểm, lòng tin, nhân cách…). NNL khác với các nguồn lực khác ở chỗ phụ thuộc vào chính bản chất con người mà bản chất của con người là “tổng hoà các mối quan hệ xã hội” Như vậy, khái niệm NNL có nôi dung rộng lớn, bao gồm những mặt cơ bản sau: • NNL trước hết được biểu hiện ra là người lao động; là lực lượng lao động ( số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động); là nguồn lao động( đội ngũ lao động hiện có và sẽ có trong tương lai gần) • NNL phản ánh khía cạnh cơ cấu dân cư và cơ cấu lao động trong các ngành, các vùng, cơ cấu lao động đã qua đào tạo trong các khu vực kinh tế; cơ cấu trình độ lao động; cơ cấu độ tuổi trong độ tuổi lao động… • NNL thường gồm mặt số lượng và mặt chất lượng. Yếu tố quan trọng nhất trong nguồn lực con người thể hiện ở chất lượng NNL, thể hiện qua các yếu tố: sức khỏe, tuổi thọ, trình độ giáo dục và đào tạo về văn hoá và chuyên môn nghề nghiệp, năng lực sáng tạo… Khái niệm NNL, ngoài nghĩa rộng được hiểu như khái niệm “Nguồn lực con người” thường còn được hiểu theo nghĩa hẹp là “Nguồn lao động” ( tổng số người đang có việc làm, số lao động tốt nghiệp và số lao động dự phòng). Theo bộ Lao động, ở một không gian va thời gian xác định, xét về khả năng có thể sử dụng, thì khái niệm NNL đồng nghĩa với “Nguồn lao động”. ở Việt Nam, “Nguồn lao động” có nhiều cách hiểu khác nhau: - Theo giáo trình “Kinh tế lao động”của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội: “Nguồn lao động là toàn dân số trong độ tuổi ( nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 tuổi) trừ đi những người trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động. Với quan niệm này, “Nguồn lao động” sẽ không bao gồm dân số ngoài độ tuổi lao động trong thực tế làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. - Theo qui định của Tổng cục thống kê: “Nguồn lao động” bao gồm toàn bộ dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những người ngoài tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, cụ thể: “Nguồn lao động bao gồm những người từ đủ 15 tuổi trở lên có thể làm việc và những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng đang không có việc làm( thất nghiệp) hoặc đang đi học, hoặc đang làm nôi trợ cho gia đình mình, hoặc chưa có nhu cầu làm việc” (T.S Trương Thị Minh Sâm: Những luận cứ khoa học của việc phát triển NNL công nghiệp cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; Nxb Khoa học Xã hội Hà nội, 2003). Khái niệm “ Nguồn nhân lực” này được sử dụng trong điều tra mẫu quốc gia về lao động – việc làm hàng năm, trong công tác thu thập, tổng hợp thông tin thống kê về thị trường lao động ở Việt Nam từ năm 1996 trở lại đây. Khái niệm này vừa phù hợp với qui định của Bộ luật lao động về độ tuổi lao động, vừa bao gồm cả những người lao động còn đang ở dạng tích cực (đang tham gia lao động) và những người lao động còn đang ở dạng tiềm tàng ( có khả năng lao động nhưng chưa tham gia lao động); là căn cứ để tính toán qui mô gồm nguồn lao động tai một thời điểm nào đó. NNL được xem xet dưới các góc độ: số lượng và chất lượng Về số lượng: được hiểu thông qua các chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng NNL. Các chỉ tiêu về số lượng này có quan hệ mật thiết với các chỉ tiêu về qui mô và tốc độ tăng dân số. Qui mô và tốc độ tăng dân số càng cao dẫn đến tốc độ tăng NNL càng lớn và ngược lại. Về chất lượng: chất lượng NNL là tổng thể những nét đặc trưng phản ánh bản chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất và phát triển con người. Do vậy, NNL là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái, thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách lãnh đạo, lối sống và tinh thần của NNL. Trong đó, thể lực và trí lực là hai yếu tố cấu thành NNL và ảnh hưởng trực tiếp đến thể lực NNL. Như vậy, NNL với tư cách là sức mạnh tổng hợp của lực lượng lao động xã hội – những người tham gia vào sự phát triển của xã hội ở mọi lĩnh vực của đời sống, chính là sự biểu hiện năng lực của xã hội, là nhân tố nội sinh, nhân tố bên trong của sự phát triển. 1.1.2 Vai trò và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng NNL đối với sự phát triển kinh tế- xã hội. 1.1.2.1 Vai trò của NNL đối với sự phát triển kinh tế- xã hội Các nguồn lực cơ bản của sự phát triển thường gồm: Nguồn lực tự nhiên, nguồn lực con người và nguồn vốn. Hiện nay, vai trò các nguồn lực được đánh giá theo cách nhìn mới. Nếu như trước đây, vai trò của kỹ thuật, công nghệ được đánh giá cao thì hiện nay ở hầu hết các quốc gia, người ta nói nhiều đến vai trò của con người, của nguồn lực con người. Nguồn lực con người hay NNL dùng để chỉ khả năng và phẩm chất của lực lượng lao động, coi đó là một trong các nguồn vốn quan trọng. Con người được xem xét với tư cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội. Là một nguồn lực, cũng như các nguồn lực khác ( tài nguyen thiên nhiên, vốn, công nghệ…); con người tạo ra sức mạnh và tham gia vào qúa trình thúc đẩy sự phát triển của một quốc gia, dân tộc.Song nguồn lực con người khác các nguồn lực khác ở chỗ, có nó, các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và ý nghĩa tích cực đối với sự phát triển xã hội, vì thế nó là nguồn lực của mọi nguồn lực. Mặt khác, nó không chỉ là chủ thể quyết định sự vận động và phát triển xã hội, mà còn là khách thể cuả các quá trình kinh tế- xã hội; là đối tượng mà chính sự phát triển xã hội phải hướng vào phục vụ. Nghĩa là: “Nếu như các nguồn lực khác chỉ là phương tiện của sự phát triển xã hội, thì nguồn lực con người lại vừa là phương tiện (phương tiện đặc biệt), vừa là mục tiêu của chính sự phát triển xã hội” ( T.S Đoàn Văn Khái, Nguồn lực con người trong quá trình CNH – HĐH ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị 2005 ). Như vậy, khi nói đến NNLvà vai trò của nó là phải xem xét con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của các quá trình kinh tế – xã hội: Là chủ thể, con người khai thác, sử dụng các nguồn lực khác hiện có, đồng thời qua đó góp phần tạo ra các nguồn lực mới để duy trì sự tồn tại và phát triển xã hội. Là khách thể, con người trở thành đối tượng được khai thác cả về thể lực và trí lực cho mục tiêu phát triển xã hội Tuy nhiên, hai tư cách này tồn tại không tách rời nhau; bởi lẽ khi khai thác các nguồn lực khác, con người tất yếu phải sử dụng trí lực và thể lực của mình quyết định mục tiên, cách thức, nội dung và hiệu quả khai thác các nguồn lực khác. Ngược lại, quá trình khai thác trí lực và thể lực ở con người đều có quan hệ với các nguồn lực khác ở các mức độ khác nhau. “Với ý nghiã đó, con người vừa là chủ thể , vừa là khách thể, vừa là mục tiêu của các quá trình kinh tế – xã hội; và do vậy NNL giữ vị trí trung tâm không chỉ trong hệ thống các nguồn lực của sự phát triển xã hội mà còn của chính sự phát triển xã hội” (Vũ Huy Chương, Vấn đề đào tạo Nguồn nhân lực tiến hành CNH – HĐH, Nxb Chính trị Quốc gia Hà nội, 2003). 1.1.2.2. Sự cần thiết của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Thực tế cho thấy quá trình CNH – HĐH sẽ không thể thực hiện thành công nếu thiếu NNL nói chung và NNL có chất lượng cao nói riêng. Một mặt, NNL là lực lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác định muc tiêu, nội dung và những giải pháp tiến hành CNH – HĐH. Mặt khác, với những ưu thế hơn hẳn ( có thể khai thác không bao giờ cạn…) NNL là lực lượng căn bản nhất thực hiện quá trình đó. Trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ có những bước phát triển và tác động ngày càng mạnh vào đời sống xã hội như hiên nay; NNL được xem xét là yếu tố cơ bản nhất trong hệ thống các nguồn lực của quá trình CNH – HĐH; là một trong những nguyên nhân của tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, phát triển NNL trở thành yếu tố quan trọng nhất của và có ảnh hưởng mang tính quyết định đối với sự thành, bại của quá trình đẩy mạnh CNH – HĐH. Thực tiễn của nước ta cũng như các nước đi trước đã chứng minh rằng; quá trình CNH – HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, đạt được hiệu quả cao hay thấp… là do sự qui định của nhiều yếu tố; trong đó, trước hết và chủ yếu là tuỳ thuộc vào chất lượng NNL. Trong xu thế toàn cầu hóa và mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế như hiện nay; các nước có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ thuật; công nghệ thông qua con đường chuyển giao, nhập khẩu hoặc tăng nguồn vốn bằng cách vay từ các Ngân hàng; Quỹ phát triển của thế giới. Nhưng người ta lại không thể nhập khẩu hay vay mượn được khả năng sáng tạo của con người.Vì thế, có thể khẳng định rằng chất lượng NNL là yếu tố nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển xã hội; đặc biệt là trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ và xu hướng vươn tới nên kinh tế tri thức của thế giới hiện nay. Như vậy, mặc dù có được nguồn lực tự nhiên như tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý hay cơ sở vật chất – kỹ thuật được tạo ra trong các giai đoạn trước đó; hoặc nguồn lực nước ngoài dưới dạng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý…thì xưa nay nguồn lực lâu dài và quan trọng nhất trong sự phát triển của mọi quốc gia chỉ có thể là con người. Bởi lẽ: “Cho dù có đủ các nguồn lực khác mà không có những con người tương xứng, đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó và nếu không có một môi trường kinh tế – xã hội, tâm lý và dư luận xã hội thuận lợi cho con người hành động thì vị tất đã có thể đạt được sự phát triển mong muốn” ( Nguyễn Thanh, Phát triển nguồn nhân lực phục vụ CNH – HĐH đất nước, Nxb Chính trị Quốc gia Hà nội, 2002). Nói cách khác, các nguồn lực cho quá trình CNH – HĐH đều quan trọng, nhưng xét đến cùng; nếu thiếu sự hiện diệ của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa; thậm chí ngay cả khái niệm “nguồn lực” cũng không còn lý do để tồn tại. Sự khẳng định này không chỉ nói lên vai trò quyết định của NNL trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác, mà còn phản ánh một đặc điểm quan trọng hàng đầu của nó, đó là: NNL là nguồn lực duy nhất mà nhờ nó; các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng và ý nghĩa tích cực đối với qúa trình CNH –HĐH. Với ý nghĩa đó, nguồn nhân lực là yếu tố tất yếu, không thể thay thế được. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực 1.2.1. Qui định về độ tuổi lao động và qui mô, cơ cấu dân số. Độ tuổi lao động là giới hạn về những điều kiện cơ thể, tâm sinh lý xã hội mà con người tham gia vào quá trình lao động. Giới hạn về độ tuổi lao động được qui định tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế – xã hội của từng nước và trong từng thời kì. Tại điều 6 và điều 145 của Bộ luật lao động nước Cộng hoà xã hôi chủ nghĩa Việt Nam qui định độ tuổi lao động: “Nam từ 15 đến 60 tuổi và nữ từ 15 đến 55 tuổi”. Sự gia tăng dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng số lượng NNL cũng như số lượng người lao động, nhưng nhịp độ tăng dân số chậm lại cũng không làm giảm ngay lập tức nhịp độ tăng NNL. Quan điểm dân số tối ưu cho rằng: “ Một quốc gia muốn có nền kinh tế phát triển cân đối và với tốc độ cao phải có qui mô, cơ cấu dân số thích hợp, phân bố hợp lý giữa các vùng”. 1.2.2. Biến đổi kinh tế – xã hội. Tăng trưởng là nhân tố kinh tế quan trọng tác động tới NNL trên nhiều phương diện. Tăng trương kinh tế không chỉ trực tiếp góp phần cải thiện đời sống nhân dân mà còn tăng tiết kiệm và tăng đầu tư trong nước, tạo nhiều việc làm mới với thu nhập cao. Ngoài ra, nhờ thành tựu tăng trưởng, thu ngân sách tăng, nhờ đó đảm bảo nhu cầu chi thường xuyên cho các chương trình mục tiêu quốc gia, chi cho phát triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa…tác động tích cực hơn tới chất lượng NNL. Sự phát triển kinh tế với cơ cấu biến đổi theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp dẫn đến sự phân bổ lao động trong các lĩnh vực hoạt động đòi hỏi người lao động phải được đào tạo, có khả năng tự học hỏi, thích ứng với nến sản xuất mới. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, quá trình tăng trưởng kinh tế cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực đến NNL. Tăng trưởng kinh tế thường gắn liền với quá trình đô thị hóa, thay đổi trong lối sống. Các nghiên cứu cho thấy, quá trình đô thị hoá gắn liền với mức độ ô nhiễm môi trường tăng cao, tỷ lệ tai nạn gia tăng đáng kể gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ người dân. Do thu nhập tăng, sự thay đổi trong lối sống nên ở các đô thị tồn tại phổ biến đồng thời cả mô hình bệnh tật của các nước nghèo và cả “mức sống cao”. Hiện tượng này được gọi bằng thuật ngữ “gánh nặng gấp đôi”, ám chỉ những khó khăn mà người dân và hệ thống y tế xã hội ở các nước đang phát triển vấp phải. Đối với các nước trong thời kì chuyển đổi kinh tế như ở Vịêt Nam thì tác động của những biến đôi kinh tế – xã hội đến NNL còn phức tạp hơn: Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu, cơ chế thị trường thay cho quản lý tập trung đã làm cho nhiều ngành nghề, xí nghiệp lạc hậu phải giảm qui mô, đóng cửa và thất nghiệp gia tăng, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống người lao động, gây nhiều hậu quả xã hội nghiêm trọng. Gắn liền với sự phát triển của cơ chế thị trường là sự bất bình đẳng về thu nhập trong các tầng lớp dân cư, giữa các ngành cũng như các vùng kinh tế Ngoài ra, những chính sách về quản lý xã hội, quản lý kinh tế, chính sách phân phối, đặc biệt là chính sách trả công cũng có ảnh hưởng rất lớn tới NNL đặc biệt là tới chất lượng NNL.Chúng có thể kìm hãm, triệt tiêu hoặc nhân lên nhiều lần những yếu tố của chất lượng NNL. 1.2.3 Tình trạng dinh dưỡng và chăm sóc sức khoẻ. Dinh dưỡng thấp, sức khoẻ yếu không chỉ gây ra ốm yếu về thể trạng, khổ ải về tinh thần mà còn giảm năng suất lao động. Một bà mẹ suy dinh dưỡng trong giai đoạn sơ sinh và vào lúc trẻ còn nhỏ đều có thể dẫn đến bệnh tật cũng như sự khiếm khuyết trong quá trình phát triển về thể trạng và thần kinh của trẻ, do đó năng suât lao động trong tương lai sẽ bị hạn chế. Hơn nữa, sự suy dinh dưỡng và bệnh tật ở người lớn còn làm suy giảm năng lượng, tính năng lượng, tính sáng tạo, khả năng học tập và làm việc của họ.Các nước đang phát triển thường mắc kẹt trong vòng luẩn quẩn của nghèo đói, suy dinh dưỡng, năng suất lao động thấp. Tình trạng suy dinh dưỡng thường là vấn đề của người nghèo. Nguyên nhân không chỉ do thu nhập thấp mà còn vì trình độ học vấn thấp, không có khả năng tiếp cận và thu nhận thông tin cần thiết để thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lý. Ngoài vấn đề dinh dưỡng, sự phát triển của hệ thống y tế và khả năng tiếp cận của người dân cũng có ảnh hưởng quan trọng tới việc bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ. Do thành tựu của tăng trưởng và phát triển kinh tế, quy mô và năng lực của mạng lưới y tế cũng tăng lên cùng với tiến bộ khoa học – công nghệ trong y học đã góp phần nâng cao sức khoẻ, thể hiện ở tuổi thọ trung bình ngày càng tăng cao. Tuy nhiên như người ta thường nói, hệ thống y tế là xã hội thu nhỏ; điều đó có nghĩa là khả năng tiếp cận của người dân với dịch vụ y tế, đặc biệt là dịch vụ y tế chất lượng cao là không đồng đều. 1.2.4. Mức độ phát triển của giáo dục- đào tạo. Trong các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng NNL thì mức độ phát triển của giáo dục và đào tạo là yếu tố quan trọng nhất; vì nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới trình độ văn hoá; trình độ chuyên môn kỹ thuật và kỹ năng thực hành của người lao động, mà còn ảnh hưởng tới sức khoẻ và tuổi thọ của người dân. Thứ nhất, Giáo dục góp phần vào tăng trưởng. Giáo dục góp phần vào tăng trưởng kinh tế thông qua cả tăng năng suất lao động của mỗi cá nhân nhờ nâng cao trình độ và quan điểm của họ lẫn tích luy kiến thức. Vai trò của giáo dục có thể được đánh giá qua tác động của nó đối với năng suất lao động được tính toán bằng so sánh sự khác biệt giữa sản phẩm của một cá nhân làm ra trong một đơn vị thời gian trước và sau khi cá nhân đó được học một khoá đào tạo với chi phí cho khoá đào tạo đó. Kết quả này được gọi là tỷ suất lợi nhuận của xã hội khi đầu tư vào giáo dục. Các nhà nghiên cứu chứng minh tỷ suất lợi nhuận rất cao ở các nước có thu nhập vừa và thấp. Thứ hai, Giáo dục - đào tạo góp phần cải thiện sức khoẻ và nâng cao tuổi thọ của người dân. Giáo dục cung cấp trình độ văn hoá cơ bản, đó là điều kiện để tiếp thu tri thức, góp phần chống suy dinh dưỡng, cải thiện sức khoẻ. Giáo dục cơ bản ( giáo dục tiểu học và trung học) phát triển năng lực học tập; giải thích thông tin và thích nghi tri thức vào điều kiện, môi trường sống của mỗi người. Đó là nền tảng cho việc học tập suốt đời. Thứ ba, trong bối cảnh thay đổi công nghệ nhanh, giáo dục giữ vai trò chủ đạo chủ yếu trong tiếp thu và phát triển công nghệ. Giáo dục cơ bản là nền tảng tạo ra một xã hội học vấn nhưng chưa đủ để cạnh tranh trên thị trường thế giới, chỉ có giáo dục đại học mới có thể đào tạo những người có khả năng theo dõi các khuynh hướng công nghệ, đánh giá được sự thích nghi của chúng đối với những triển vọng của đất nước, giúp xây dựng triển khai một chiến lược công nghệ quốc gia thich hợp. 1.3. Kinh nghiệm quốc tế về phát triển Nguồn nhân lực. Để phát triển kinh tế – xã hội ; thúc đẩy kinh tế; phát triển mọi mặt của xã hội, các quốc gia có những chiến lược, chính sách khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều kiện nước mình.Song, hầu hết các nước đều nhằm vào “đối tượng đầu tư” chủ yếu là NNL; đặc biệt là các nước nghèo tài nguyên: Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… Thực hiện đầu tư trên ba mặt: chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng cuộc sống, và giáo dục - đào tạo. Trong đó, đầu tư có hiệu quả nhất là bằng cách phát triển giáo dục- đào tạo hay chính là muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế; thoát khỏi nghèo khổ, nâng cao đời sống nhân dân; chỉ có con đường là biến nước mình thành nước có trình độ học vấn cao. Đặc điểm nổi bật và chung nhất của tất cả các nước này là coi trọng giáo dục; lấy phát triển giáo dục - đào tạo là trung tâm của phát triển NNL. Nhật Bản: Nhật Bản đã đưa ra nhiều cải cách, trong đó rất chú trọng phát triển NNL. Một mặt, họ hạn chế những bất cập của NNL; mặt khác, chuẩn bị NNL cho kinh tế tri thức: Thứ nhất, cải cách hệ thống giáo dục - đào tạo nhằm đưa ra các phương pháp dạy vạ học theo hướng giảm thiểu phần lý thuyết suông, học thuộc lòng trong các trường phổ thông và tăng thêm phần thực hành. Đặc biệt, việc cải cách hệ thống giáo dục - đào tạo, chú trọng nhiều tới vấn đề đưa công nghệ thông tin vào nhà trường với ba mục tiêu chủ yếu: Nâng cao khả năng thành thạo thông tin của dân chúng, có lưu ý thích đáng đến những người cao tuổi, người bị khuyết tật và đưa tỷ lệ nối mạng Internet lên 60% vào năm 2005. Tăng cường các hệ thống giáo dục được công nghệ thông tin hỗ trợ ở các trường tiểu học, phổ thông cơ sở, trung học, cao đẳng và phổ cập giáo dục suốt đời về thông tin cho toàn bộ người lớn. Tăng số thạc sỹ và tiến sỹ trong các lĩnh vực có liên quan đến công nghệ thông tin cả về số lượng lẫn chất lượng để đảm bảo cung cấp đủ các chuyên gia công nghệ tiên tiến, các nhà nghiên cứu cho các trường cao đẳng cao đẳng và đại học. Đến năm 2005, số người Nhật có bằng thạc sỹ và tiến sỹ về công nghệ thông tin cao hơn của Mỹ. Ngoài ra, trong cơ cấu hệ thống giáo dục - đào tạo; Chính phủ Nhật Bản cũng đưa ra một chỉ tiêu cụ thể là tạo cho mọi công dân đều có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh vào công việc chuyên môn của mình khi đến tuổi trưởng thành. Thứ hai, có nhiệu biện pháp thu hút các công ty cũng như NNL công nghệ thông tin cao từ nước ngoài; nhằm nhanh chóng lấp đầy khoảng cách giữa cung và cầu về nhân lực chất lượng cao. Từ năm 2001- 2005; Nhật Bản đưa đưa ra kế hoạchthu hút 30.000 kỹ sư công nghệ thông tin từ nước ngoài vào làm việc ở Nhật Bản. Hiện nay, “có khoảng 3o công ty phần mềm ấn độ; 100 công ty Hàn Quốc và khoảng 500 công ty phần mềm Trung Quốc đang hoạt động ở Nhật Bản” (PGS.TS Lưu Ngọc Trịnh, Nguồn nhân lực trong trong quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức ở Nhật Bản, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 11- 2003).Người ta tính rằng, nhờ các nguồn cung cấp công nghệ thông tin từ bên ngoài như vậy, các công ty Nhật Bản có thể tiết kiệm được từ 30- 50% chi phí phát triển phần mềm. Thứ ba, tiến hành cải cách và đổi mới hệ thống quản lý lao động (dựa vào chế độ làm việc làm việc suốt đời). Theo đó, Nhật Bản sẽ chuyển từ chế độ coi trọng thâm niên và kinh nghiệm công tác, coi trọng tính tập thể và phục tùng cấp trên sang chế độ coi trọng hơn năng lực và thành tích cá nhân, đề cao tính độc lập và sáng tạo của công nhân; khuyến khích mọi người hăng hái học tập để nâng cao trình độ; khuyến khích và tạo điều kiện để mọi nhân viên có nhu cầu đều có thể tham gia vào học tập và nâng cao tay nghề tại các cơ sở đào tạo chính qui lẫn tại chức va không chính thức. Trung Quốc: Từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Trung Quốc đã bắt đầu nhìn nhận một cách hoàn toàn nghiêm túc các thách thức phát triển công nghệ cao. Sang thế kỷ XXI , Trung Quốc đặt mục tiêu năm 2010 sẽ trở thành 1 trong 10 nước khoa học công nghệ hàng đầu thế giới, nền kinh tế sẽ chuyển sang quĩ đạo dựa chủ yếu vào tiến bộ khoa học công nghệ và chất lượng người lao động (chứ không phải dựa vàokhai thác tài nguyên thiên nhiên). Báo cáo chính trị Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ rõ: “Nhân tài là nguồn tài nguyên quan trọng nhất trong phát triển kinh tế và xã hội”. Từ nhận thức đó, Trung Quốc xây dựng và thực thi dự án 211; đầu tư rất lớn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục; xây dựng một số trường Đại học cấp cao. Nhà nước khuyến khích công dân đi học ở nước ngoài theo phương châm: “ủng hộ lưu học, khuyến khích về nước, tự do đi về”. Hơn 20 năm qua; có khoảng 300 nghìn người đi du học. Những năm gần đây, bình quân mức kinh phí đầu tư cho giáo dục tăng 20%/năm. Năm 1997: 186 tỷ nhân dân tệ (2,5% GDP); năm 2000: khoảng 400 tỷ nhân dân tệ (4% GDP). Trung Quốc đã ban hành “ Luật giáo viên” để bảo vệ điều kiện nghề nghiệp và quyền lợi nhà giáo; tổ chức chương trình đào tạo lại cho giáo viên; đưa phương pháp dạy và học hiện đại vào các trường; áp dụng cơ chế mới; khuyến khích tài năng sinh viên. Các trường Đại học hàng năm chọn 5% sinh viên xuất sắc để đào tạo chương trình riêng do giáo viên giỏi giảng dạy (các sinh viên đó có thể tốt nghiệp sớm hơn một năm để tiếp tục hoc thêm bằng cấp chuyên môn khác- kể cả chương trình học sau đại học).Trung Quốc cũng rất coi trọng việc cử giáo viên giỏi đi đào tạo ở nước ngoài. Từ 1996; mỗi năm có khoảng 1400- 2000 sinh viên; nhà khoa học, giáo viên đến hơn 50 nước để học tập, nghiên cứu; học bổng do nhà nước cấp. Ngoài ra, Trung Quốc còn tạo điều kiện và khuyến khích một số trường Đại học chất lượng cao đào tạo sinh viên được chọn lọc, có tài năng. ở những trường này; trong chương trình học 5 năm, nếu hết 4 năm, sinh viên nào có năng lực thực sự thì năm thứ 5 được học chuyên sâu riêng với một giáo sư. Khi tốt nghiệp được nhà nước ưu đãi, sử dụng hoặc cử đi tu nghiệp ở các trường danh tiếng, hoặc được giới thiệu vào làm việc cho các nghiệp đoàn nổi tiếng của Trung Quốc. Như vậy, để đạt mục tiêu trở thành 1 trong 10 nước khoa học công nghệ đứng đầu thế giới vào năm 2010, Trung Quốc đã thực hiện rất nhiều biện pháp trong đó chú trọng phát triển NNL trình độ cao thông qua cải cách những hạn chế của hệ thống giáo dục - đào tạo. Đây sẽ là điều kiện hàng đầu giúp Trung Quốc rút ngắn khoảng cách về tri thức với các nước phát triển. Sau đó, Trung Quốc sẽ bước lên vị trí hàng đầu thế giới vào năm 2050 (Theo như dự báo của nhiều nhà nghiên cứu quốc tế). Hàn Quốc: Mô hình giáo dục Đại học của Hàn Quốc được xây dựng theo mô hình của Mỹ. Hàn Quốc phát triển giáo dục khoa học và họ nhận thức được rằng NNL có trình độ cao là động lực rất quan trọng thúc đẩy công nghiệp hóa. Thực tế, việc tuyển sinh vào các lĩnh vực rất nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, Hàn Quốc luôn tăng cường đưa sinh viên ra nước ngoài đào tạo và truyền thống “đi du học” được duy trì cho đến nay. Đồng thời với việc cho người đi du học nước ngoài, Hàn Quốc cũng dùng biện pháp chống hiện tượng “chảy máu chất xám” như việc Chính phủ Hàn Quốc đưa ra chính sách hấp dẫn thu hút họ trở về đất nước. Đồng thời, nhà nước thực hiện một chương trình mang tên “Góp chất xám”. Cụ thể, Chính phủ tài trợ cho các trung tâm nghiên cứu của nhà nước và ngoài nhà nước để tham gia vào một số dự án nghiên cứu phát triển NNL. Chương 2 Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam 2.1. khái quát sự biến động nguồn nhân lực ở Việt Nam Dân số Việt Nam thuộc loại dân số trẻ với mức tăng trưởng cao. Trong các nước ASEAN, Việt Nam là nước đứng thứ 2 ( chỉ sau Inđônêxia ) với tỷ lệ gia tăng dân số lớn (xem bảng 2.1). Đơn vị: nghìn người, % Chỉ tiêu Năm 1995 2000 2005 Tổng dân số 71.995,5 77.635,4 83.121,7 Tốc độ tăng dân số (%) 1,65 1,36 1,33 Số lao động 32.829,9 37.609,6 42.709,6 Số lao động nam 16.066,9 18.488,9 20.996 Số lao động dưới 40 tuổi 20.085,4 23.472,1 27.359 Số lao động có việc làm 31.494,1 36.205,4 41.305,4 (Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam 2005 – 2006 và Số liệu thống kê Lao đ._.ộng việc làm, Bộ Lao động và thương binh xã hội, 2005) Qua bảng số liệu trên ta thấy, tổng dân số và số người đến độ tuổi lao động của nước ta tăng khá nhanh và liên tục nên nguồn bổ sung vào đội ngũ lao động là rất lớn. Mặc dù tốc độ tăng dân số giảm từ 1,86 % năm 1991 xuống còn 1,65 % năm 1995; còn 1,36 % năm 2000 và còn 1.33 % năm 2005, nhưng dân số Việt Nam vẫn tăng liên tục: 71.995,5 nghìn nước lên 77.635,4 nghìn người năm 2000 và đến 2005 quy mô dân số nước ta đã lên đến 83.121,7 nghìn người, tăng 11.126,2 nghìn người so với năm 1995. Hàng năm, Việt Nam có một lượng lớn người đến độ tuổi lao động : Năm 1995: 32.829,9 nghìn người ( 45,6% dân số), năm 2000 : 37.609,6 nghìn người (48,4 % dân số), đến năm 2005 con số này là 42.709,6 nghìn người (51,4 %( dân số. Mỗi năm Việt Nam có khoảng 1,5 – 1,7 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động tạo thành đội ngũ dự bị hùng hậu bổ sung liên tục vào lực lượng lao động vốn đã đông đảo này.Trong đó số lao động nam liên tục giảm qua các năm: năm 1995 là 16.066,9 nghìn người (chiếm 49% lao động), năm 2000 là 18.488,9 nghìn người (chiếm 50,8 % lao động), đến năm 2005 con số này là 20.996 nghìn người ( chiếm 51% lao động). Trong 2 năm gần đây, số dân mỗi năm tăng tương đương số dân của một tỉnh trung bình; lực lượng lao động tăng bình quân trên 3%/ năm. Trên thực tế quy mô nguồn lao động nước ta còn lớn hơn mức gia tăng của lực lượng lao động bởi số người ra khỏi độ tuổi lao động hàng năm vẫn có nhu cầu làm việc. Như vậy, quy mô dân số và lực lượng lao động nước ta gia tăng ở mức cao. Những năm gần đây, tốc độ tăng dân số có chậm lại ( 2001: 1,35%, 2002:1,32%, 2003: 1,47%, 2004: 1,4%, 2005: 1,33%) ( Kinh tế xã hội Việt Nam qua các con số thống kê - Thời báo kinh tế Việt Nam 2005 – 2006). Tuy nhiên gần đây, tỷ lệ số người sinh con thứ 3 có xu hướng tăng, điều này tiềm ẩn nguy cơ tăng dân số cao trong những năm sắp tới. Quy mô dân số đông, lực lượng lao động dồi dào, đó là sức mạnh của quốc gia, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển. Trong điều kiện nước ta khi khả năng mở rộng và phát triển sản xuất rất hạn chế, nguồn vốn, trang thiết bị, nguyên vật liệu còn thiếu thốn nhiều, cơ sở hạ tầng yếu kém…..thì nguồn lao động tăng nhanh lại gây sức ép việc làm rất lớn. Tình trạng thất nghiệp nói chung tuy đã giảm( 4,1% năm 1995; 3,73% năm 2000; 3,28% năm 2005) và tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở thành thị nói riêng đã giảm qua các năm( năm 2000: 6,4%; năm 2001: 6,3%, năm 2002: 6%, năm 2003:5,8%; năm 2004:5,6%; năm 2005: 5,3%). Tuy nhiên số người lao động (chưa có việc làm ở Việt Nam hiện nay vẫn khá cao( 1.4042 nghìn người năm 2005). Nguyên nhân của tình trạng trên là do trong nhiều thập kỉ qua nước ta có tốc độ tăng dân số cao.Tốc độ tăng dân số thực tế qua các năm từ 1930 đến 1990 mỗi năm tăng bình quân 2,13%. Trong khi đó, nền sản xuất xã hội lại kém phát triển, không đáp ứng được yêu cầu phân công lao động xã hội. Mặt khác, ngoài số lao động gia tăng tự nhiên hàng năm, những người ngoài lực lượng lao động như người về hưu, trẻ em, học sinh đang đi học ở các trường chuyên nghiệp cũng có nhu cầu việc làm khá lớn. Ngoài ra, cần thấy rằng cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta về cơ bản vẫn là thuần nông ( 80% lao động nông nghiệp, 20% lao động phi nông nghiệp) mà đất canh tác bình quân lại thấp ( 0,1 ha/ 1 lao động) nên hệ số sử dụng quỹ thời gian lao động bình quân cho một lao động nông thôn rất thấp tuy vài năm gần đây đã được cải thiện( 2001:74,3%; 2002: 75,3%; 2003: 77,7%; 2004:79,4 %; 2005: 80,6%).( Thời báo Kinh tế Việt Nam 2005 – 2006 và Nguyễn Hữu Dũng: Về nhiệm vụ phát triển việc làm giai đoạn 2006 – 2010; Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5 – 2005 ). Hiện tại, lực lượng lao động tăng thêm hàng năm trên 1 triệu người, cộng với trên 2 triệu lao động hiện chưa có việc làm thường xuyên. Tiếp nữa, để đảm bảo đủ việc làm cho người lao động ở nông thôn, tận dụng hết quỹ thời gian lao động cần có thêm xấp xỉ 8 triệu chỗ làm việc. Chính phủ Việt Nam đã đề ra chỉ tiêu kế hoạch 2001 – 2005 chỉ tạo mới 7,5 triệu việc làm nhưng trên thực tế 5 năm 2001 – 2005 chỉ mới tạo được 4,3 triệu việc làm. Do đó, sức ép về việc làm hiện nay ở nước ta là rất lớn. Tình trạng thừa lao động, thiếu việc làm là bài toán nan giải mà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp tục giải quyết trong những thập kỷ tới. Xét về cơ cấu độ tuổi của lực lượng lao động: dân số Việt Nam nói chung và lực lượng lao động nói riêng được xếp vào loại trẻ và ngày càng tăng do những năm gần đây, tỷ lệ người sinh con thứ 3 có xu hướng tăng; hàng năm có thêm hơn 1,2 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Lực lượng lao động trẻ ( dưới 40 tuổi) ngày càng chiếm tỷ lệ cao: từ 61,2% năm 1995, lên 62,4% năm 2000 và đến năm 2005 con số này là 64,1%. Lực lượng lao động trẻ có thuận lợi về sức khoẻ, tính năng động, sáng tạo, có trình độ văn hoá khá, khả năng tiếp thu khoa học – công nghệ tiên tiến nhanh. Tuy nhiên, đội ngũ lao động có trình độ cao lại đang bị già hoá rất nhanh và đang có sự hẫng hụt lớn giữa các thế hệ. Số công nhân kỹ thuật bậc cao đa phần xấp xỉ tuổi 50, trong số trên 10.000 cán bộ khoa học bậc cao thì tuổi bình quân của tiến sỹ là 52,8%; giáo sư ở độ tuổi 51 – 70 chiếm 91%; dưới 50 tuổi chỉ có 4%; phó giáo sư độ tuổi 51 – 70 chiếm 82%; dưới 50 chỉ có 18%. Tóm lại, số lượng lao động ở Việt Nam khá dồi dào. Đây là một trong những nhân tố thuận lợi nếu chúng ta biết sử dụng một cách hợp lý, triệt để và có hiệu quả. Ngược lại, nếu chúng ta không giải quyết tốt số lượng lao động dồi dào này thì đây là nhân tố kìm hãm quá trình phát triển kinh tế đất nước. 2.2. Chất lượng NNL ở Việt Nam và thực trạng sử dụng nguồn nhân lực hiện nay. Chất lượng NNL giữ vai trò quyết định sức mạnh của NNL; nó bao gồm nhiều nhân tố như: sức khoẻ, mức sống, trình độ giáo dục, đào tạo về văn hoá và chuyên môn nghề nghiệp, trình độ học vấn, năng lực sáng tạo, khả năng thích ứng, kỹ năng lao động, văn hoá lao động,đạo đức, tâm lý, tư tưởng, tình cảm, tính cách, lối sống…Song, khái quát lại, nó bao gồm: thể lực và trí lực của con người nói chung và của con người Việt Nam nói riêng. 2.2.1. Về thể lực Từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, tầm vóc và thể lực của con người Việt Nam đang được cải thiện về chiều cao, cân nặng, tỷ lệ suy dinh dưỡng và tuổi thọ. Chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam đã tăng từ 1,56m năm 1994 lên 1,58m năm 2000. Tuổi thọ trung bình của nguời Việt Nam cũng tăng từ 65 tuổi năm 1995 lên 68,5 tuổi năm 2000 và 69,5 tuổi năm 2005. Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm từ 44,9% năm 1995 xuống còn 33,8% năm 2000 và 30,1% năm 2002. Tuy nhiên thể lực của người Việt Nam vẫn kém hơn nhiều so với một số nước trong khu vực và so với yêu cầu NNL cần có ở nước ta. Hiện tại, nước ta nằm trong số các nước có mức sống thấp nhất thế giới ( GDP tính theo đầu người là 481 USD vào năm 2001, 535 USD năm 2002; 613 USD năm 2003; 715 USD năm 2004, 837 USD năm 2005) ( Thời báo Kinh tế Việt Nam 2005 – 2006). Theo số liệu thống kê năm 2002 của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), thu nhập quốc dân bình quân đầu người của nước ta đứng thứ 105/208 nước và vùng lãnh thổ. Theo phân loại của Ngân hàng thế giới (WB), các nước có thu nhập thấp là dưới 745 USD/ người năm 2001. Trên thế giới các nước có thu nhập thấp như vậy có tổng số 2,5 tỷ người, bình quân thu nhập đầu người năm 2001 của những nước này là 430 USD. Như vậy là chỉ số này của Việt Nam còn thấp hơn mức trung bình của các nước có thu nhập thấp và thấp hơn 12 lần thu nhập bình quân đầu người của thế giới (5150 USD). Đến cuối năm 2003, Việt Nam vẫn còn 29% dân số sống dưới thu nhập 2 USD/ ngày; 12% hộ nghèo và chỉ có 55% dân số nông thôn có nước sạch.( Võ Hồng Phúc, Toàn cảnh kinh tế Việt Nam; Nxb Chính trị quốc gia, H- 2004, tr18). Với mức thu nhập thấp như vậy mà tốc độ tăng dân số vẫn còn cao; trình độ hiểu biết về dinh dưỡng và sức khoẻ của nhân dân lại thấp, nên đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống, trong đó có vấn đề giáo dục và chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ. Điều kiện lao động trong nhiều cơ sở và các ngành sản xuất cũng như trong một số cơ quan hành chính sự nghiệp cuả nước ta còn kém, thậm chí có nơi còn rất khắc nghiệt, môi trường lao động bị ô nhiễm nghiêm trọng, các yếu tố nguy hiểm và độc hại vượt quá ngưỡng giới hạn cho phép nhiều lần, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có chiều hướng tăng, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân và hợp tác xã…Tất cả những điều này cho thấy chất lượng dân số nói chung và người lao động nói riêng về mặt thể lực, sức khoẻ cũng như điều kiện lao động không bảo đảm, cần phải được cải thiện căn bản. Nói cách khác, thu nhập thấp, đời sống khó khăn, dinh dưỡng thiếu, thể lực hạn chế, đó là trạng thái chung của NNL nước ta hiện nay về phượng diện mức sống và sức khoẻ 2.2.2. Về trí lực. Chất lượng NNL được phản ánh chủ yếu qua sức mạnh trí tuệ, đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng của nguồn lao động, đặc biệt trong điều kiện trí tuệ hoá lao động hiện nay. Trình độ trí tuệ được biểu hiện ở năng lực sáng tạo, khả năng thích nghi và kỹ năng lao động nghề nghiệp của người lao động thông qua các chỉ số: trình độ văn hoá, dân trí, học vấn trung bình của một người dân, số lao động đã qua đào tạo, trình độ chuyên môn kỹ thuật… Về trình độ văn hóa: một trong những thành tựu của nước ta thời gian qua là đã nâng cao mặt bằng dân trí của dân cư. Số người biết chữ của lao động Việt Nam khá cao so với các nước có cùng mức thu nhập. Bảng 2.2: Trình độ học vấn của nguồn nhân lực Việt Nam Đơn vị: Nghìn người, % Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 1. Tổng số lao động ( nghìn người) 37.609,6 42.709,6 1.1 – Chưa biết chữ 1.504.4 1.801,9 1.2 – Biết chữ (1+2+3+4) 36.105,2 40.898,7 + Chưa tốt nghiệp tiểu học(1) 6.198,05 6.611,4 + Đã tốt nghiệp tiểu học (2) 11.019,6 13.457,8 + Đã tốt nghiệp PTCS (3) 12.407,4 12.983,7 + Đã tốt nghiệp PTTH (4) 6.480,0 7.845,8 2. Cơ cấu ( %) 100 100 2.1 – Chưa biết chữ 4,00 4,24 2.2 – Biết chữ 96,00 95,76 + Chưa tốt nghiệp tiểu học 16,48 15,48 + Đã tốt nghiệp tiểu học 29,30 31,51 + Đã tốt nghiệp PTCS 32,99 30,4 + Đã tốt nghiệp PTTH 17,23 18,37 (Nguồn: Tổng hợp từ số liệu thống kê Lao động – việc làm ở Việt Nam năm 2000, 2005, Nxb Lao động – xã hội, H, 2001, 2005) Năm 2005, tổng số lao động của Việt Nam là 42.709.6 nghìn người, trong đó có 1.810,9 nghìn lao động không biết chữ (chiếm 4,24%) và 40.898,7 nghìn lao động biết chữ ( chiếm 95,76%). Tuy tỷ lệ người lao động biết chữ giảm chút ít so với năm 2000(96%) nhưng số lao động đã tốt nghiệp tiểu học và đặc biệt là PTTH đă tăng đáng kể. Từ năm 2000 đến 2005; lao động đã tốt nghiệp PTTH tăng từ 1,14% với quy mô 1.365,8 nghìn người. Những chuyển biến về trình độ học vấn sẽ tạo ra không ít thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề cũng như giải quyết việc làm, tạo thêm việc làm mới cho người lao động trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên, đi vào phân tích cơ cấu có thể thấy tỷ lệ lao động biết chữ khá cao nhưng tỷ lệ lao động có trình độ văn hoá cấp PTCS, PTTH của nước ta năm 2005 vẫn chỉ có xấp xỉ 49%, thậm chí giảm so với năm 2000( do tỷ lệ lao động đã tốt nghiệp PTCS giảm 2,5%). Đây là một tỷ lệ thấp so với nhu cầu của công cuộc đẩy mạnh CNH - HĐH ở Việt Nam hiện nay. Mặt khác, khi nền kinh tế tri thức đang xuất hiện ở các nước phát triển, tỷ lệ người lao động đã tốt nghiệp PTTH phải từ 95-100%, tức là các nước đó đã tiến hành phổ cập giáo dục ở trình độ PTTH. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của Việt Nam trong giai đoạn tới là phải phát triển giáo dục để phổ cập giáo dục bậc PTCS và tiến tới phổ cập bậc PTTH cho lao động cả nước. Về cơ cấu lao động đã qua đào tạo, còn tồn tại nhiều bất hợp lý. ( xem Bảng 2.3). Bảng 2.3: Cơ cấu đào tạo của lực lượng lao động. Đơn vị: % Chỉ tiêu 2003 (thực tế) 2004 (thực tế) 2005 (thực tế ) 2005 (mục tiêu) 2010 (mục tiêu) Lao động đã qua đào tạo 21 22,5 25 30 40 Lao động chưa được đào tạo 79 77,5 75 70 60 (Nguồn:Kinh tế Việt Nam 2005-2006, Thời báo Kinh tế Việt Nam) Trước hết là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tuy đã tăng lên qua các năm( năm 2003:21%; năm 2004:25%, tức là mỗi năm tăng lên được 1,5%), nhưng vẫn còn thấp xa so với tỷ lệ 30% theo mục tiêu đề ra đến năm 2005 và tỷ lệ 40% theo mục tiêu đề ra đến năm 2010. Đối với lao động nữ và đối với một số vùng như Tây Bắc chẳng hạn, tỷ lệ trên còn thấp hơn nữa. Ngay cả đối với lao động đã qua đào tạo, thì cơ cấu cũng chưa hợp lý. Tỷ số người thất nghiệp các cấp đào tạo theo chuẩn mực của thế giới là 1 cao đẳng, đại học/ 4 trung cấp chuyên nghiệp/ 10 đào tạo nghề, thì ở nước ta tỷ lệ tương ứng là1/0,98/3,02, điều này gây ra tình trạng “ thiếu thợ nhiều hơn thiếu thầy”. Đó là chưa kể đến trình độ đào tạo cũng còn tồn tại nhiều vấn đề: thợ thì lý thuyết nhiều hơn tay nghề, trung cấp chuyên nghiệp thì nửa thầy nửa thợ; cao đẳng, đại học thì khoa học cơ bản chưa đủ, khoa học ứng dụng còn yếu. Việc phân công cán bộ khoa học, kỹ thuật cũng chưa hợp lý: ở các cơ quan quản lý thì nhiều, còn ở cơ sở thực tiễn thì ít. Ngoài ra còn tình trạng mua bán bằng cấp diễn ra còn khá phổ biến và nghiêm trọng. Như vậy, chưa nói đến chất lượng đào tạo và sự phù hợp giữa kiến thức đào tạo trước đây với việc làm hiện nay ra sao, mà chỉ riêng những chỉ số trên đã cho thấy tỷ lệ lao động được đào tạo là quá thấp, vì thế chất lượng lao động nói chung rất hạn chế. Đáng chú ý là số lao động đã thấp mà hiện tại vẫn còn2,2% trong tổng số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chưa có việc làm. Thêm vào đó, chỉ khoảng 70% số người có trình độ đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp làm việc đúng ngành nghề đào tạo. Trong số lao động chuyển ngành nghề đào tạo, chỉ có 42,5% được đào tạo lại, số còn lại( 57,5%) làm trái nghề, coi như chưa đào tạo. ở khu vực hành chính sự nghiệp và bộ máy sản xuất kinh doanh khu vực Nhà nước hiện có khoảng 30% cán bộ, nhân viên không đủ trình độ chuyên môn hoặc không đúng ngành, họ chủ yếu làm việc bằng kinh nghiệm…Tình hình này làm cho chất lượng NNL càng thêm hạn chế. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn rất ít, chỉ chiếm 17,05%. Không chỉ ít về số lượng, sự phân bổ không đồng đều giữa các khu vực, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn, vùng kinh tế phát triển. Lực lượng lao động trong nhiều ngành kinh tế giàu tiềm năng và quan trọng như Đồng Bằng Sông Cửu Long, Tây Nguyên có tỷ trọng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao. Về cơ cấu của lao động chuyên môn kỹ thuật còn nhiều bất hợp lý, thiên về cao đẳng và đại học. Bậc đào tạo càng cao càng có xu hướng phát triển lệch về các ngành phi sản xuất vật chất. Trình độ trên đại học trong lĩnh vực công nghiệp, khoa học kỹ thuật , khoa học tự nhiên chỉ có hơn 10%. Đây là vấn đề đáng lưu tâm bởi trong thời kỳ công nghiệp hóa cần nhiều lao động có trình độ cao trong các ngành này để tiếp thu và ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến. Mặt khác, chất lượng của lao động chuyên môn kỹ thuật còn thấp, không đáp ứng được yêu cầu công việc. Nghị quyết số07/2000/NQ-CP của Chính phủ về xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm ở nước ta giai đoạn 2000- 2005 yêu cầu: “ Đến năm 2005 phải đào tạo và bồi dưỡng được 25.000 lập trình viên thông thạo tiếng Anh…và đạt doanh số xuất khẩu phần mềm 500 triệu USD”. Nhưng hiện nay cả nước chỉ có khoảng 1500 người làm phần mềm chuyên nghiệp trong khi từ 1996-2000 các cơ sở đào tạo tin học thuộc Bộ Giáo dục- đào tạo đã tạo ra hàng chục nghìn cán bộ, gần 10.000 kỹ sư, hàng trăm thạc sỹ có trình độ tin học. Hầu hết các doanh nghiệp làm phần mềm thì nhiều nhưng vẫn thiếu người đáp ứng ngay được yêu cầu của công việc. Chất lượng của cán bộ khoa học công nghệ cũng còn nhiều vấn đề, tỷ lệ cán bộ khoa học phát huy tốt chỉ chiếm khoảng 34-35%; tỷ lệ phát huy yếu : 27-28%. Điều tra tiềm lực khoa học công nghệ của cán bộ, ngành Trung ương, nơi tập trung đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật cao nhất cho thấy tuổi đời của cán bộ có chức danh khoa học khá cao, bình quân chung 57,2 tuổi, trong đó giáo sư là 59,5 tuổi, phó giáo sư là 56,4 tuổi. Số cán bộ có chức danh khoa học ở tuổi dưới 50 chỉ có khoảng 12%, riêng giáo sư là 7,2% và phó giáo sư là 13,5%. Nhưng số liệu này cho thấy nguy cơ hụt hẫng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ trẻ có năng lực thay thế cho lớp cán bộ có trình độ cáo hầu hết đều đã lớn tuổi. Khả năng chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý còn rất hạn chế. Theo kết qủa điều tra đề tài KX- 07, có từ 20-25% cán bộ quản lý chưa đáp ứng yêu cầu công việc, chỉ có 8% cán bộ được đào tạo về quản trị kinh doanh; 12,2% được đào tạo về khoa học quản lý nói chung. Vấn đề đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học quản lý, kinh doanh, cán bộ các ngành tài chính, ngân hàng là vấn đề bức xúc, cần được xúc tiến ngay để ta có đủ năng lực thực hiện cải tổ nền kinh tế, có đủ điều kiện để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tóm lại, mặc dù có một số điểm mạnh, nhưng tình hình trên làm cho sức mạnh của lực lượng trí thức nói chung, của đội ngũ cán bộ khoc học công nghệ nói riêng bị hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Do đó, chất lượng NNL Việt Nam hiện nay còn rất thấp so với yêu cầu CNH - HĐH đất nước. 2.2.3. Thực trạng sử dụng NNL hiện nay. ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, thường có nguồn lao động rất dồi dào đến mức dư thừa. Vì vậy, sử dụng tốt số lượng lao động có tầm đặc biệt quan trọng bởi 4 lý do: Một là, lao động là một yếu tố quan trọng của tăng trưởng kinh tế . Hai là, do quy mô kinh tế còn nhỏ, năng suất lao động còn thấp, các nước này thường chưa có điều kiện để tạo lập quỹ trợ cấp thất nghiệp. Ba là, thất nghiệp và thiếu việc làm nhiều sẽ làm cho thu nhập và sức mua có khả năng thanh toán của dân cư thấp, tác động xấu lên tăng trưởng sản xuất- kinh doanh. Bốn là, thất nghiệp là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh, phát triển các tệ nạn xã hội, gây hại cho xã hội mà xã hội phải tốn nhiều công sức, tiền của để ngăn chặn và khắc phục. 2.2.3.1. Cơ cấu sử dụng NNL Xu hướng chung của quá trình công nghiệp hoá là tổng sản phẩm quốc dân và lao động chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ; giảm tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp. Trong các nước công nghiệp phát triển, không chỉ tỷ trọng lao động nông nghiệp mà trong công nghiệp cũng giảm, lao động dịch vụ tăng nhiều nhất. Đặc điểm này chứng tỏ cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học đang làm giảm dần hàm lượng nguyên vật liệu, tăng thêm hàm lượng chất xám, yêu cầu đội ngũ nhân lực có trình độ cao. Số liệu thống kê cho thấy, cơ cấu lao động Việt Nam cũng có xu hướng chuyển dịch theo hướng tăng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm lao động ngành nông- lâm- ngư nghiệp ( xem Bảng 2.4). Theo số liệu thống kê những năm gần đây ta thấy, cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế đã có sự chuyển dịch bước đầu theo hướng tích cực. Tính tích cực của sự chuyển dịch cơ cấu lao động thời gian qua là tỷ trọng lao động làm việc trong nhóm ngành nông- lâm nghiệp- thuỷ sản liên tục giảm xuống, còn tỷ trọng làm việc trong các nhóm ngành công nghiêp- xây dựng và nhóm ngành dịch vụ liên tục tăng lên mặc dù tốc độ còn chậm.Tỷ trọng lao động làm việc trong nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản đã đạt mục tiêu kế koạch đề ra cho năm 2005(56-57%), tương tự tỷ trọng lao động làm việc trong nhóm ngành dịch vụ đã vượt mục tiêu kế hoạch đề ra(22-23%). Tuy nhiên, tỷ trọng lao động làm việc trong nhóm ngành nông-lâm nghiệp- thuỷ sản tuy đã đạt kế hoạch nhưng vẫn còn rất cao, trong khi năng suất lao động trong nhóm ngành này còn rất thấp. Trong khi ở nông thôn, mức diện tích đất nông nghiệp bình quân một nhân khẩu cũng như bình quân một lao động còn rất thấp và đang có xu hướng giảm mạnh do dân số, lao động tăng lên, do diện tích đất dành cho xây dựng nhà ở, đường giao thông, khu công nghiệp, khu đô thị mới…ngày một tăng. Bảng 2.4: Số lao động và cơ cấu lao động theo nhóm ngành kinh tế. Đơn vị: Nghìn người,% Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2005 kế hoạch 1.Tổng số lao động (nghìn người) 37.609,6 38.562,7 39.507,7 40.573,8 41.590,0 42.710,0 Nông-lâm-nghiệp- thuỷ sản 24.481,0 24.468.4 24.455,8 24.443,4 24.730,7 24.259,3 24.131.2 Công nghiệp – xây dựng 4.929,7 5.551,9 6.084,7 6.670,5 7.216,5 7.645,1 8.755,6 Dịch vụ 8.198,9 8.542,4 8.967,2 9.459,9 9.639,1 10.805,6 9.609,7 Tỷ trọng(%) 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nông - lâm nghiệp - thuỷ sản 65,1 64,3 61,9 60,3 58,8 17,9 56-57 Công nghiệp – xây dựng 13,1 14,3 15,4 16,5 17,3 17,9 20-21 Dịch vụ 21,8 22,3 22,7 23,2 23,9 25,3 22-23 (Nguồn: Dương Ngọc, Lao động- vấn đề nổi cộm nhất. Thời báo Kinh tế Việt Nam 2005-2006.) Tuy nhiên, so với chỉ tiêu chuyển dịch cơ cấu mà Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra( nông-lâm nghiệp- thuỷ sản:20-21%; công nghiệp và xây dựng:38-39%; các ngành dịch vụ :41- 42%) ( Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2001, tr65 ) thì tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động còn quá chậm dẫn đến khoáng cách khá xa giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Nhưng điều đáng lưu ý hơn là cơ cấu lao động được đào tạo giữa các ngành, các khu vực sản xuất, các vùng, các dạng lao động và giữa các trình độ rất bất hợp lý. Nông thôn chiếm gần 75% dân số và lao động nhưng chỉ chiếm 47,38% lực lượng lao động được đào tạo cả nước, đặc biệt trong gần 60% lao động làm việc ở lĩnh vực nông-lâm nghiệp- thuỷ sản số được đào tạo mới chỉ chiếm 7%. Đây thực sự là trở ngại lớn nhất khi tiến hành CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Để thu hút lao động đang làm viêc ở nông nghiệp sang nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và nhóm ngành dịch vụ, nhà nước cần có chính sách phân bổ vốn đầu tư thuộc nguồn ngân sách nhà nước cho nông thôn, có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư trong nước mang vốn về cho nông thôn, đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ. ở nông thôn, hiện có giá đất rẻ hơn thành thị rất nhiều, nguồn lao động rất dồi dào và giá nhân công thấp, gần nguồn nguyên liệu, việc xử lý ô nhiễm môi trường thường thấp và thuận lợi hơn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn cũng đạt được mục tiêu đô thị hoá theo hướng “ ly nông bất ly hương” hạn chế được dòng người ồ ạt tự phát kéo ra các thành phố, thị xã gây ra những hậu quả khó lường. Đi sâu vào phân tích cơ cấu lao động phân theo thành phần kinh tế , ta cũng thấy có sự khác biệt khá rõ nét. Năm 2005 so với năm 2000, tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ nền kinh tế đã tăng thêm 5.100 nghìn người, thì số lao động làm việc trong khu vực Nhà nước chỉ tăng thêm 599 nghìn người, chiếm 11,7% tổng số lao động tăng thêm, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng thêm 456,8 nghìn người, chiếm 9% tổng số lao động tăng thêm ( Thời báo kinh tế Việt Nam 2005-2006). Có nguyên nhân từ kết quả của việc thực hiện chương trình lao động việc làm, mỗi năm giải quyết được trên dưới 1,6 triệu người, không những bù cho số lao động nghỉ việc theo chế độ mà còn giải quyết việc làm cho số lao động đến tuổi, số người hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về. Như vậy, có thể nói rằng từ việc nhận thức được vị trí quan trọng của việc sử dụng số lao động , thời gian qua chúng ta đã giành nhiều tâm sức cho vấn đề này và đã thu được những kết quả bước đầu đáng kể. Kết quả tích cực nổi bật về mặt sử dụng lao động trong thời gian qua là tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị đã liên tục giảm xuống và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn đã liên tục tăng lên ( xem Bảng 2.5). Kết quả trên càng có ý nghĩa khi đạt được trong điều kiện dân số và người đến tuổi lao động thời gian qua vẫn còn rất lớn. Mặc dù tốc độ tăng dân số giảm từ 1,86% năm 1991 xuống còn 1,65% năm 1995; còn 1,36% năm 2000 và còn 1,33% năm 2005, nhưng quy mô dân số năm 2005 đã lên đến 83.121,7 nghìn người, tăng 15.879,3 nghìn người so với năm 1991, bình quân một năm tăng 1.058,6 nghìn người. Số người đến độ tuổi lao động hàng năm vẫn còn rất lớn, lên đến trên 1 triệu người, tạo sức ép lớn về giải quyết lao động việc làm. Bảng 2.5: Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở thành thị. Đơn vị:% 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động ở thành thị 6,4 6,3 6,0 5,8 5,6 - Đồng Bằng sông Hồng 7,3 7.1 6,6 6,4 6,0 5,3 - Đông Bắc 6,5 6,7 6,1 5,9 5,5 5,6 - Tây Bắc 6,0 5,6 5,1 5,2 5,3 5,1 - Bắc Trung Bộ 6,9 6,7 5,8 5,5 5,4 4,9 - Duyên hải Nam Trung Bộ 6,3 6,2 5,5 5,5 5,7 5,0 - Tây Nguyên 5,2 5,6 4,9 4,4 4,5 5,5 - Đông Nam Bộ 6,2 5,9 6,3 6,1 5,9 4,2 - Đồng bằng sông Cửu Long 6,2 6,1 5,5 5,3 5,0 5,6 (Nguồn: Kinh tế – xã hội Việt Nam qua các con số thống kê, Thời báo Kinh tế Việt Nam 2005-2006). Bảng 2.6: Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn. Đơn vị: % Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn 74,2 74,3 75,3 77,7 79,4 4,9 - Đồng Bằng sông Hồng 75,7 75,4 75,4 78,3 80,2 80,6 - Đông Bắc 73,0 73,1 75,9 77,1 78,0 - Tây Bắc 73,4 72,8 71,1 74,3 77,4 - Bắc Trung Bộ 72,1 72,5 74,5 75,6 76,1 - Duyên hải Nam Trung Bộ 73,9 74,6 74,9 77,3 79,1 - Tây Nguyên 77,0 77,2 78,0 80,4 80,6 - Đông Nam Bộ 76,6 76,4 75,4 78,5 81,3 - Đồng bằng sông Cửu Long 73,2 73,4 76,6 78,3 78,4 (Nguồn: Kinh tế – xã hội Việt Nam qua các con số thống kê, Thời báo Kinh tế Việt Nam 2005-2006). 2.2.3.2. Nhận xét chung. Những năm gần đây, chất lượng NNL ở nước ta tuy đã được cải thiện nhiều, song hiệu quả sử dụng lại không cao. Thứ nhất, mức độ toàn dụng lao động thấp, tức là còn một bộ phận lao động khá lớn thất nghiệp và thiếu việc làm. Theo điều tra Lao động – việc làm từ 1998 đến nay, tỷ lệ thất nghiệp của lao động thành thị tuy đã giảm( Bảng 2.5) nhưng vẫn còn ở mức cao: 5-7%. Một số vùng và thành phố có tỷ lệ thất nghiệp cao là Đồng bằng Sông Hồng, Đông Bắc, Duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ. Đây quả là một sự lãng phí lớn về NNL. ở khu vực nông thôn, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động tuy cũng đẵ tăng( Bảng 2.6) nhưng vẫn còn một tỷ lệ lớn thời gian lao động chưa được sử dụng ( 20- 29%); cá biệt có vùng, có năm tỷ lệ này lên tới hơn 30%.Sự lãng phí NNL ở nước ta không chỉ thể hiện ở số lao động không có việc làm mà còn thể hiện ở số lao động làm việc không trọn ngày, trọn tháng, trọn năm. Tại Hội nghi xuất khẩu lao động và chuyên gia ( tháng 9- 2003), Thủ tướng Phan Văn Khải đã chỉ rõ: “ Lao động ở nông thôn nói thẳng thừng thì mới sử dụng hơn 100 ngày công, còn lại thiếu việc làm. Cả nước hiện nay nếu rút bớt 10 triệu lao động thì cũng không ảnh hưởng gì đến sản xuất nông nghiệp”.( Tạp chí Lao động và Xã hội , tháng 9 – 2003) Thứ hai, việc bố trí và sử dụng lao động có nhiều bất hợp lý Số lao động làm việc trái ngành nghề lớn. Theo kết quả khảo sát của đề tài KX- 07 thì chỉ có 48,8% số lao động đã qua đào tạo được sử dụng đúng ngành nghề đào tạo. Chỉ có lĩnh vực y tế, giáo dục có số tốt nghiệp làm việc đúng với ngành nghề được đào tạo cao, còn lại các lĩnh vực khác thì rất thấp: Số học sinh tốt nghiệp các trường trung cấp nông- lâm nghiệp- thuỷ sản có khoảng 40% làm việc đúng ngành nghề, còn lại 60% làm việc không đúng ngành nghề, số sinh viên tốt nghiệp đại học các chuyên ngành trên thì chỉ có khoảng 20% làm việc đúng ngành nghề, còn lại 60% làm việc không đúng ngành nghề. Tình trạng trên gây lãng phí rất lớn về thời gian và kinh phí đào tạo, mặt khác do làm việc trái ngành nghề nên năng lực sở trường của người lao động không được sử dụng và phát huy; vì thế hiệu quả sử dụng lao động không cao, làm lãng phí các nguồn lực khác thậm chí còn gây ra những hậu quả nghiêm trọng khó lường. Mặt khác, cơ cấu của lực lượng lao động theo trình độ chưa phù hợp với cơ cấu của nền kinh tế, do đó không đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Theo nhà kinh tế học F.M.Harbison: “Cơ cấu của lực lượng lao động theo trình độ tốt nhất phải là 1 kỹ sư/4 kỹ thuật viên/20 công nhân lành nghề/60 công nhân bán lành nghề và 15 lao động giản đơn. Thế nhưng hiện nay, cơ cấu này của ta là3,67kỹ sư/3,6 1kỹ thuật viên/6,82công nhân kỹ thuật đào tạo dài hạn/2,85 công nhân kỹ thuật đào tạo ngắn hạn/82,95 lao động giản đơn( Hội thảo chiến lược và quy hoạch phát triển đất nước bước vào thế kỷ 21, H, 9-2003 và Điều tra lao động việc làm 2003, Nxb Thống kê, H, 2003). Như vậy, chúng ta đang thừa rất nhiều lao động phổ thông, song lại thiếu rất nhiều lao động có chuyên môn kỹ thuật. Qua điều tra 1000 doanh nghiệp của Sở khoa học, Công nghệ và môi trường Thành phố Hồ Chí Minh năm 2003 cho thấy: các doanh nghiệp nhà nước thiếu 43,5% lao động chuyên gia kỹ thuật, trong khi đó lại thừa 30% lao động phổ thông, còn các doanh nghiệp liên doanh tư nhân thì thiếu 30% lao động chuyên gia kỹ thuật và thừa 17% lao động phổ thông. Mặt khác đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật thuật của ta lại không được sử dụng hợp lý, nên hiệu quả sử dụng lại càng thấp. Hầu hết cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật lamd việc ở các cơ quan hành chính và sự nghiệp ( chiếm 67,3%), ở khu vực sản xuất kinh doanh rất thấp ( 32,7%), trong số đó chủ yếu lại làm công tác quản lý , số trực tiếp phụ trách kỹ thuật sản xuất “ đếm trên đầu ngón tay”. Riêng đội ngũ cán bộ có trình độ tiến sỹ thì có tới 70,98% làm việc ở khu vực sự nghiệp ( trường, viện, bệnh viện); 21,64% ở khu vực hành chính ( Tổ chức chính quyền, Đảng, Đoàn thể, Hội) và chỉ có 7,38% làm việc tại các doanh nghiệp. Những bất cập trong phân bổ và sử dụng lao động nói trên chứng tỏ tính phù hợp giữa trình độ năng lực của người lao động với yêu cầu của công việc chưa được đảm bảo và do đó chắc chắn hiệu quả sử dụng lao động sẽ không cao. Thứ ba, năng suất lao động hay hiệu quả hoạt động thấp. Năng suất lao động- một chỉ tiêu chất lượng quan trọng hàng đầu( tính bằng GDP chia cho số lao động) tính theo giá thực tế năm 2005 ước đạt 19.617 nghìn đồng, tương đương với 1.240,2 USD, thuộc loại thấp so với các nước trong khu vực và trong thế giới. Năng suất lao độn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36335.doc
Tài liệu liên quan