Chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam

Tài liệu Chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam: ... Ebook Chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương (TechcomBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH š&› §Ò tµi: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI TRUNG TÂM KINH DOANH HỘI SỞ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN KỸ THƯƠNG VIỆT NAM - TECHCOMBANK Gi¸o viªn h­íng dÉn: PGS.TS Vò Duy Hµo Sinh viªn thùc hiÖn : §ç ThÞ Minh HiÓn Líp : TCDN Kho¸ : 44 M· sinh viªn : 441066 Hµ Néi, 04 - 2006 LỜI MỞ ĐẦU Bước sang thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có nhiều thay đổi to lớn tạo ra rất nhiều cơ hội và thách thức cho các thành phần trong nền kinh tế mở rộng và phát triển. Hệ thống Ngân hàng có tiền thân là Nha Tín dụng, được thành lập ở nước ta năm 1951 cũng nằm trong xu thế phát triển đó. Nhất là trong những năm gần đây, cùng với sự mở cửa mạnh mẽ của nền kinh tế, sự phát triển của hệ thống Ngân hàng đã đóng góp nhiều ảnh hưởng tích cực vào những thay đổi của bộ mặt kinh tế nước ta. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Với chức năng như một mắt xích liên kết giữa tất cả các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các đơn vị tổ chức xã hội… và đặt chúng vào chu kỳ vận động chung của tiền tệ. Tuy nhiên, sự phát triển của hệ thống Ngân hàng cũng không năm ngoài một quy luật chung nhất đối với tất cả các thành phần, đó là sự rủi ro ngày càng cao hơn trong quá trình hoạt động, kinh doanh khi nền kinh tế thật sự mở cửa. Hơn nữa, hệ thống ngân hàng với việc kinh doanh dựa trên một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền tệ càng khiến mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng cao hơn. Bằng việc vay để cho vay, ngân hàng thu lợi nhuận từ việc hưởng chênh lệch giữa lãi suất đi vay và lãi suất cho vay. Chính từ hai nghiệp vụ này mà mức độ rủi ro của ngân hàng được đánh giá là cao hơn so với các ngành và lĩnh vực khác. Nền kinh tế đang ngày càng phát triển với những thuận lợi và khó khăn thách thức các thành phần kinh tế cạch tranh vươn lên tồn tại và phát triển, đòi hỏi giữa chúng phải có sự gắn kết chặt chẽ trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra một hiệu quả xã hội lớn. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế ngày càng chặt chẽ không chỉ trong quá trình cung cấp, tiêu thụ, mua bán hàng hoá, mà còn trong cả quá trình tham gia các hoạt động tín dụng tại các Ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng với chức năng nhiệm vụ của mình, đang hoạt động ngày càng hiệu quả không chỉ đóng vai trò là người cung cấp các dịch vụ tín dụng mà còn là trung gian liên kết giữa các thành phần kinh tế trong quá trình thanh toán. Việc hạn chế rủi ro trong sản xuất kinh doanh của bản thân Ngân hàng cùng được đặt song song với việc hạn chế rủi ro trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, do vậy đã có rất nhiều công cụ phòng chống rủi ro được đưa ra nhằm hạn chế thấp nhất tổn thất xã hội phải gánh chịu. Bảo lãnh Ngân hàng là một trong các công cụ phòng ngừa rủi ro hiệu quả và đắc lực cho các thành phần kinh tế hoạt động an toàn, hiệu quả trong nền kinh tế thị trường thời kỳ mở cửa. Ngoài chức năng chính là hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh, Bảo lãnh còn tạo cơ hội cho các thành phần nắm bắt được nhiều cơ hội kinh doanh, tăng vòng quay của tiền tệ trong quá trình chu chuyển vốn, tạo hiệu quả lớn cho xã hội. Hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng ra đời và ngày càng trở nên quan trọng trong các giao dịch, quan hệ giữa các thành phần kinh tế, tuy nhiên Bảo lãnh Ngân hàng là một hoạt động còn mới so với các hoạt động truyền thống khác của Ngân hàng. Do vậy, nghiệp vụ Bảo lãnh vẫn cần được hoàn thiện và cần phải nâng cao chất lượng trong việc thực hiện tại Ngân hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng không chỉ mang lại lợi nhuận cao hơn cho Ngân hàng mà quan trọng hơn là tạo ra sự an toàn trong hoạt động kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế. Xuất phát từ lý do đó, sau một thời gian thực tập tại phòng Tín Dụng – Trung tâm kinh doanh - Hội sở, Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank), em đã chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam” làm chuyên đề thực tập của mình. Nội dung chuyên đề gồm ba chương sau: Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI TRUNG TÂM KINH DOANH HỘI SỞ – TECHCOMBANK Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI TRUNG TÂM KINH DOANH HỘI SỞ TECHCOMBANK Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của PGS.TS Vũ Duy Hào và các anh chị trong phòng Tín dụng doanh nghiệp tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Ngân hàng Techcombank đã giúp em trong suốt quá trình thực tập và thực hiện chuyên đề. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Khái quát về hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng Hoạt động truyền thống của một Ngân hàng thương mại (NHTM) là huy động vốn và cho vay vốn. Đây là hai nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng ngay từ khi ra đời tới nay. Tuy nhiên trong quá trình phát triển của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng đã không ngừng tạo ra những sản phẩm dịch vụ mới nhằm đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn những nhu cầu phát sinh trong quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng (BLNH) là một trong những sản phẩm mới của Ngân hàng trong quá trình phát triển, nhằm tạo ra những lợi ích lớn hơn cho nền kinh tế nói chung và cho Ngân hàng nói riêng. Vai trò của Ngân hàng ngày một trở nên quan trọng hơn, chính vì vậy các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng cũng ngày càng trở nên quan trọng. Khi nền kinh tế phát triển, các thành phần kinh tế liên kết với nhau ngày càng chặt chẽ, các giao dịch kinh tế ngày càng tăng nhiều hơn và phức tạp hơn, không chỉ là quan hệ trong nước mà còn mở rộng toàn thế giới, nhưng chính vì vậy mà rủi ro xảy ra trong các quan hệ giao dịch thương mại, từ khi ký kết hợp đồng, cho tới quá trình sản xuất tiêu thụ sản phẩm và giai đoạn thanh toán cũng cao hơn, sự tín nhiệm giữa chúng cũng thấp hơn. Để hạn chế tối đa những rủi ro đó, hoạt động bảo lãnh ra đời như một công cụ ngăn ngừa những tổn thất một cách hiệu quả và đang dần trở nên quan trọng trong các hoạt động của nền kinh tế. Bảo lãnh đã tạo ra sự yên tâm cho các bên giao dịch về việc bên kia sẽ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, từ đó khiến các bên có sự tin tưởng lẫn nhau trong mối quan hệ kinh tế và do vậy cũng tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn. Trên thực tế, có rất nhiều tổ chức tài chính và phi tài chính ngoài Ngân hàng thực hiện Bảo lãnh như: Chính phủ, công ty Chứng khoán, công ty Bảo hiểm, …hay các Tổng công ty, Công ty có uy tín lớn. Song chủ yếu và phát triển nhất vẫn là hoạt động Bảo lãnh của các Ngân hàng. 1.1.1. Khái niệm về hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng Hoạt động Bảo lãnh là một hoạt động mang tính trừu tượng cao, có liên quan đến nhiều thành phần và nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế, xã hội, vì vậy có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng, nhưng nhìn chung chúng có cùng một bản chất. Theo Bộ Luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 366 có ghi như sau về hoạt động Bảo lãnh: “ Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là người bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (gọi là người nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay thế cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà người được Bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ”. Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng và Điều 2 trong quy chế về nghiệp vụ Bảo lãnh Ngân hàng (ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/08/2000 của Thống đốc NHNN Việt Nam) định nghĩa: “Bảo lãnh là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết, khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho các tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay”. Như vậy về thực chất các định nghĩa đều cho thấy mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia trong hoạt động Bảo lãnh, trong đó thông thường tồn tại ba chủ thể chính là: Bên Bảo lãnh: Là các tổ chức tín dụng, là các bên đứng ra phát hành Bảo lãnh cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho các bên được bảo lãnh khi bên này vi phạm nghĩa vụ cam kết đối với bên nhận Bảo lãnh. Bên được bảo lãnh: Là bên yêu cầu Ngân hàng mở thư bảo lãnh. Theo quy chế Bảo lãnh (ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/08/2000 của Thống đốc NHNH Việt Nam) , bên được bảo lãnh gồm có : các doanh nghiệp nhà nước, các loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật doanh nghiệp, hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nước ngoài thamm gia hợp đồng hợp tác liên doanh và các dự án đầu tư tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án tại Việt Nam, các tổ chức tín dụng và hộ kinh doanh cá thể. Bên nhận bảo lãnh: Là các tổ chức, các cá nhân có đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Bên nhận bảo lãnh là bên có quyền thụ hưởng lợi ích từ hợp đồng bảo lãnh. Nói tóm lại, Bảo lãnh được hiểu là khái niệm chỉ ra mối quan hệ giao dịch thương mại giữa các chủ thể kinh tế trong quá trình thực hiện nghĩa vụ đối với các bên còn lại nhằm đảm bảo tôn trọng lợi ích kinh tế giữa các bên. Chính vì vậy, nghiệp vụ bảo lãnh bao giờ cũng bao gồm ba yếu tố: Phải xuất hiện nghĩa vụ cụ thể giữa các bên tham gia bảo lãnh. Nghĩa vụ đó phải là nghĩa vụ về mặt tài chính Các thành viên tham gia phải có ba bên: bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh, và bên nhận bảo lãnh. Đồng thời nghiệp vụ bảo lãnh cũng yêu cầu tối thiểu trên ba hợp đồng: Hợp đồng giữa người yêu cầu bảo lãnh (người được bảo lãnh) và người nhận bảo lãnh (hợp đồng thương mại giao dịch) Hợp đồng giữa người được bảo lãnh - người bảo lãnh (hợp đồng bảo lãnh) Hợp đồng giữa người bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Các hợp đồng này có cơ sở pháp lý ràng buộc, và vì vậy các nghĩa vụ được đảm bảo bằng pháp luật, bắt buộc phải thực hiện khi phát sinh. Ngân hàng là tổ chức tài chính thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phổ biến nhất và rộng rãi nhất, đặc biệt là trong các giao dịch lớn và các giao dịch quốc tế. Nghiệp vụ bảo lãnh cũng vì thế mà trở thành một nghiệp vụ quan trọng của Ngân hàng khi nền kinh tế ngày càng mở cửa với quốc tế. Không chỉ mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng mà hoạt động Bảo lãnh thực sự phát huy hiệu quả của nền kinh tế khi tạo ra niềm tin giữa các bên giao dịch và giúp các bên nắm bắt được nhiều cơ hội kinh doanh hơn, tiết kiệm được các nguồn lực tài chính của nền kinh tế hơn và tăng tốc độ chu chuyển của vốn hơn. Bảo lãnh Ngân hàng cũng có bản chất giống với hoạt động bảo lãnh nói chung, chỉ có điểm khác là Người bảo lãnh là các Ngân hàng thương mại. Các NHTM có năng lực tài chính lớn, cùng với uy tín của Ngân hàng và đặc điểm thống nhất trong hệ thống Ngân hàng đã khiến hoạt động Bảo lãnh trở nên phát triển nhất. Vai trò của hoạt động bảo lãnh rất lớn đối với cả Ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế: Đối với Ngân hàng: Doanh thu tăng lên do thu phí dịch vụ bảo lãnh tăng lên. Mặt khác, khi Ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp ký quỹ, thực tế Ngân hàng đã tạo ra một nguồn rẻ và ổn định, chi phí thấp thêm cho nguồn vốn cho vay của Ngân hàng, điều này gián tiếp tạo thêm doanh thu cho Ngân hàng. Bảo lãnh là một sản phẩm dịch vụ mới của Ngân hàng làm cho hoạt động của Ngân hàng ngày càng hoàn thiện và thoả mãn ngày càng nhiều hơn nhu cầu của doanh nghiệp và nền kinh tế. Ngoài ra, Bảo lãnh cũng làm tăng uy tín và vị thế của Ngân hàng, mở rộng quan hệ của Ngân hàng với các Ngân hàng, doanh nghiệp trong và ngoài nước khác. Đối với doanh nghiệp: Hoạt động Bảo lãnh làm giảm chi phí trong quá trình tìm hiểu khách hàng, giảm thời gian và tăng độ tin cậy cho doanh nghiệp khi ký kết, thực hiện hợp đồng. Chính vì thế, doanh nghiệp sẽ không bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh, tăng hiệu quả sử dụng vốn, tận dụng được nguồn vốn đáng kể đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn lưu động tối đa của doanh nghiệp trong khi doanh nghiệp chỉ phải bỏ ra một khoản phí bảo lãnh (hoặc một khoản ký quỹ) tương đối thấp. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải chịu sự giám sát chặt chẽ của Ngân hàng trong quá trình thực hiện hợp đồng. Đây cũng là một yếu tố thúc đẩy doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, uy tín hơn đối với đối tác và đối với Ngân hàng. Đối với nền kinh tế: Bảo lãnh tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, do vậy thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thu hút nguồn vốn trong nước và nước ngoài đầu tư, tạo ra nhiều cơ hội để doanh nghiệp trong nước có cơ hội mua sắm thiết bị hiện đại, ứng dụng công nghệ tiên tiến của thế giới vào sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, nhất là đối với các nước đang phát triển trong giai đoạn Công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Mặt khác, hoạt động Bảo lãnh cũng tăng cường mối quan hệ thương mại quốc tế và quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia. Mỗi quốc gia lại có những bộ luật riêng phụ thuộc vào nền chính trị, tôn giáo, định hướng phát triển của nước đó... do vậy có những bất đồng về luật pháp giữa các quốc gia, sự khác biệt trong văn hoá, sự hạn chế hiểu biết về khả năng hoạt động, sự thiếu tin tưởng lẫn nhau và khoảng cách về địa lý khiến các doanh nghiệp do dự trong lúc kí kết hợp đồng. Sự ra đời của hoạt động Bảo lãnh đã giải quyết phần lớn các mâu thuẫn đó khiến các quan hệ Thương mại trong nước và quốc tế có cơ hội phát triển. Khi thực hiện hoạt động Bảo lãnh, Ngân hàng đóng vai trò là người cung cấp công cụ đảm bảo cho Khách hàng tạo ra niềm tin cho các bên trong khi ký kết và thực hiện hợp đồng. Đồng thời, Ngân hàng cũng thực hiện chức năng kiểm soát và đôn đốc khách hàng thực hiện hợp đồng dựa trên cơ sở là mối quan hệ tài chính giữa Ngân hàng và Bên được bảo lãnh, nhằm giảm thiểu các hành vi vi phạm hợp đồng của khách hàng có thể làm ảnh hưởng tới uy tín và tài sản của Ngân hàng và của bên nhận bảo lãnh. Với những khái niệm trên đã làm sáng tỏ phần nào định nghĩa về hoạt động Bảo lãnh của Ngân hàng, tuy nhiên hoạt động Bảo lãnh còn rất nhiều khía cạnh khác cần tìm hiểu và phân tích. 1.1.2 Đặc điểm của hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng Về thực chất Bảo lãnh Ngân hàng là việc Ngân hàng lấy uy tín và khả năng tài chính của mình đứng ra bảo lãnh cho khách hàng về các nghĩa vụ đối với đối tác của khách hàng, và vì vậy BLNH vó những đặc điểm khác biệt với những loại đảm bảo khác ngoài Ngân hàng. 1.1.2.1. Bảo lãnh Ngân hàng là một mối quan hệ đa phương Ngân hàng chấp nhận phát hành một hợp đồng bảo lãnh khi đã xem xét và phân tích kỹ tình hình tài chính của khách hàng, đồng thời cũng phải xem xét hợp đồng mua bán giao dịch của khách hàng có hợp pháp và có thoả mãn điều kiện được cấp bảo lãnh hay không. Nhưng trước đó khách hàng đã phải ký kết một hợp đồng giao dịch với bên thứ ba và đã chấp nhận những nghĩa vụ phải thực hiện với bên thứ ba đó. Và sau khi kí kết hợp đồng bảo lãnh thì Ngân hàng lại phải thông báo với bên thứ ba về việc phát hành bảo lãnh của Ngân hàng đối với khách hàng đó. Như vậy xuất hiện một mối quan hệ có ba chủ thể, giữa chúng có sự liên kết chặt chẽ sau khi bảo lãnh được phát hành, bất kỳ sự thay đổi nào cũng phải dựa trên sự thoả thuận của ba bên và được sửa đổi trong cả ba hợp đồng trên. Đây chính là sự khác biệt của bảo lãnh với loại hình cho vay và bảo hiểm. 1.1.2.2. Bảo lãnh Ngân hàng mang tính chất độc lập Việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là hoàn toàn mang tính độc lập giữa các bên, thể hiện ở sự độc lập về quyền lợi và nghĩa vụ tài chính của từng bên đối với các loại hợp đồng có trong quá trình Bảo lãnh. Hợp đồng cơ sở được thiết lập giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh hoàn toàn độc lập với Ngân hàng. Ngân hàng không có quyền can thiệp vào các thoả thuận trong hợp đồng này, mà chỉ đứng trên góc độ phân tích để đưa ra quyết định về việc có chấp nhận mở bảo lãnh hay không. Hợp đồng bảo lãnh cũng hoàn toàn độc lập với bên thụ hưởng bảo lãnh. Ngân hàng chỉ có trách nhiệm thông báo với bên thụ hưởng quyết định chấp nhận bảo lãnh của mình. Hợp đồng thứ ba là Thư bảo lãnh của ngân hàng thông báo cho bên thụ hưởng về quyết định bảo lãnh của Ngân hàng đối với người yêu cầu bảo lãnh. Ngân hàng có trách nhiệm thanh toán ngay sau khi nhận được yêu cầu của bên nhận bảo lãnh theo đúng thoả thuận trong thư Bảo lãnh không phụ thuộc vào mối quan hệ của Ngân hàng với bên được bảo lãnh. Như vậy, sự tách biệt trong các quan hệ phát sinh giữa các bên cho thấy tính chất độc lập của hoạt động bảo lãnh Ngân hàng. Tuy nhiên, mức độ độc lập này cũng mang tính chất tương đối và có thể bị giảm sút tùy theo các điều kiện bảo lãnh như: bảo lãnh cần quyết định của trọng tài kinh tế, xác nhận của cơ quan hữu quan… thì việc bảo lãnh không chỉ liên quan tới hai chủ thể là Ngân hàng và bên thụ hưởng. 1.1.2.3. Bảo lãnh Ngân hàng là hoạt động ngoại bảng Bản chất của hoạt động bảo lãnh là Ngân hàng lấy uy tín của mình để “cho vay”, chứ thực chất Ngân hàng không phải bỏ một đồng vốn nào của mình khi bắt đầu phát hành bảo lãnh, chỉ khi xảy ra rủi ro bảo lãnh và Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với bên thụ hưởng thì khi đó Ngân hàng mới thực sự phải xuất tiền ra “cho vay”. Do đó, về bản chất, ban đầu khi ra quyết định phát hành bảo lãnh, bảng cân đối kế toán của Ngân hàng không hề bị ảnh hưởng và vì thế BLNH được xếp vào hoạt động ngoại bảng. Nhưng nếu rủi ro xảy ra thì Ngân hàng phải thanh toán cho bên thụ hưởng và như vậy sẽ làm ảnh hưởng tới bảng cân đối kế toán, phát sinh khoản nợ của khách hàng và được xếp vào khoản “nợ xấu” trong nội bảng, và cấu thành nên “nợ quá hạn”. Theo Luật các tổ chức tín dụng, hoạt động bảo lãnh được xếp vào hoạt động tín dụng. Song đặc điểm trên cho ta thấy chỉ khi nào phát sinh rủi ro bảo lãnh thì mới thấy được bảo lãnh là một hoạt động tín dụng. Ngoài ra, thu nhập của hoạt động bảo lãnh cũng dựa trên việc thu phí bảo lãnh, chứ không phải là dựa trên việc hưởng chênh lệch lãi suất như các hoạt động tín dụng. 1.1.2.4. Bảo lãnh ngân hàng tiến hành trên cơ sở chứng từ Ngân hàng hoạt động chủ yếu trên cơ sở chứng từ, hầu hết các hoạt động truyền thống hay các sản phẩm mới của Ngân hàng đều phải căn cứ vào cơ sở chứng từ. Hoạt động bảo lãnh cũng không là ngoại lệ. Người thụ hưởng chỉ cần xuất trình đầy đủ các chứng từ hợp lý và hợp pháp thì ngay lập tức ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính của mình. Tất cả mọi giao dịch đều phải có chứng từ làm căn cứ ra quyết định đảm bảo tính an toàn cao nhất. 1.1.3. Phân loại hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng Hoạt động BLNH rất đa dạng và được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như: cách thức phát hành, theo phạm vi bảo lãnh, theo mục đích, nội dung bảo lãnh, theo điều kiện thanh toán, hay theo bản chất bảo lãnh. 1.1.3.1 Phân loại bảo lãnh theo mục đích bảo lãnh Bảo lãnh vay vốn (Credit Guarantee, Loan Guarantee) Bảo lãnh vay vốn còn gọi là bảo lãnh tín dụng. Đây là loại bảo lãnh có mức độ rủi ro cao nhất trong các loại bảo lãnh của Ngân hàng. Do vậy khi xem xét một đơn đề nghị bảo lãnh cho hoạt động vay vốn, Ngân hàng cần phân tích kỹ lưỡng tính khả thi của dự án vay vốn, các điều kiện về tài sản đảm bảo, cầm cố, thế chấp,…để hạn chế tối đa mức độ rủi ro Ngân hàng phải gánh chịu. Số tiền và thời hạn bảo lãnh được xác định theo thoả thuận giữa các bên khi kí kết hợp đồng. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (Performance Guarantee) Đây là loại hình bảo lãnh mà Ngân hàng bảo lãnh cam kết việc thực hiện hợp đồng của nhà thầu.Trường hợp nhà thầu không thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện nộp không đủ tiền phạt cho chủ thầu thì Ngân hàng bảo lãnh sẽ phải chịu trách nhiệm trả thay nhà thầu. Trị giá của bảo lãnh sẽ tuỳ theo quy mô và loại hình của hợp đồng sẽ được tính từ 10-15% tổng giá trị hợp đồng. Trường hợp đặc biệt, mức yêu cầu bảo lãnh có thể trên 15%, nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp nhận và số tiền bảo lãnh có thể được giảm theo tiến độ thực hiện hợp đồng. Thời hạn hiệu lực của hợp đồng bảo lãnh chủ yếu được xác định tuỳ vào thoả thuận giữa các bên. Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm (Guarantee of Quanlity) Theo Quyết định số 283/2000/QĐ - NHNN14 thì bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm là bảo lãnh ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh bảo đảm khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các thoả thuận trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh thì ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết. Bảo lãnh thanh toán (Payment guarantee) Ngân hàng bảo lãnh cam kết với nhà thầu về việc thanh toán đúng hợp đồng của chủ thầu. Trong trường hợp chủ thầu không thanh toán được số tiền trong hợp đồng thì Ngân hàng bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm thay cho chủ thầu. Mục đích: cung cấp một sự đảm bảo cho nhà thầu có thể nhận được khoản thanh toán một cách thuận lợi và đầy đủ về hàng hoá, sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho chủ thầu. Giá trị và thời gian hiệu lực của loại hình bảo lãnh này do các bên thoả thuận. Tiến độ thanh toán (nếu có) thì sẽ tương ứng với tiến độ thực hiện hợp đồng và giá trị của mỗi bảo lãnh (nếu có) thì sẽ tương ứng với giá trị thanh toán của từng khâu trong tiến độ thanh toán. Bảo lãnh dự thầu (Tender Guarantee) Đây là loại bảo lãnh trong đó Ngân hàng cam kết với chủ thầu về việc tham gia đấu thầu của nhà thầu. Trong trường hợp khách hàng bị phạt do vi phạm quy định dự thầu mà không nộp hoặc nộp không đủ tiền phạt cho bên mời thầu thì tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Mục đích: đảm bảo cho người dự thầu không được rút lui hay thay đổi ý định khi trúng thầu. Nếu người dự thầu đã trúng thầu mà không ký hợp đồng với chủ thầu thì Ngân hàng sẽ rút tiền thanh toán từ bảo lãnh để trang trải cho các chi phí đấu thầu, thiệt hại do chậm trễ tiến độ thi công hay chi phí để thực hiện lại một cuộc đấu thầu khác. Trị giá của bảo lãnh thông thường từ 1%-5% giá trị hợp đồng đấu thầu. Thời hạn hiệu lực của bảo lãnh sẽ chấm dứt khi bên được bảo lãnh (là người tham gia dự thầu) không trúng thầu hoặc sau khi ký kết hợp đồng hoặc chấp nhận ký kết hợp đồng nếu bên bảo lãnh trúng thầu. Bảo lãnh hoàn thanh toán (Repayment Guarantee) Bảo lãnh hoàn thanh toán là loại hình bảo lãnh Ngân hàng do ngân hàng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng cho bên đối tác của khách hàng theo hợp đồng đã kí kết. Trường hợp khách hàng của Ngân hàng vi phạm các cam kết đã thoả thuận và phải hoàn trả tiền ứng trước nhưng đã không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ số tiền ứng trước mà bên nhận bảo lãnh đã giao cho khách hàng thì Ngân hàng phải thay khách hàng hoàn trả cho bên nhận bảo lãnh. Ngoài ra, bảo lãnh Ngân hàng còn có các loại khác như: - Bảo lãnh bảo hành sản phẩm (công trình): đối với các sản phẩm có giá trị lớn, hoặc các công trình, dự án có giá trị lớn và có thời gian hoàn thiện lâu dài thì chủ đầu tư thường yêu cầu bên thực hiện phải tiến hành bảo lãnh cho chất lượng hay thời hạn thực hiện xong của sản phẩm hoặc công trình, dự án nhận thầu. Ngân hàng cam kết sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với chủ đầu tư nếu khách hàng của Ngân hàng không đảm bảo chất lượng sản phẩm, công trình, dự án gây tổn thất cho bên đầu tư. - Bảo lãnh nộp thuế: Trường hợp này là khi tới hạn nộp thuế , khách hàng của Ngân hàng vì một lý do nào đó mà chưa thể nộp thuế đúng hạn, khách hàng sẽ xin Ngân hàng bảo lãnh cho mình với cơ quan thuế cho phép họ nộp chậm trong một khoảng thời gian theo quy định của cơ quan Thuế. - Bảo lãnh hải quan: Loại hình bảo lãnh này rất có ý nghĩa đối với các cơ quan hải quan. Khi hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ của một nước mang sang tạm nhập khẩu vào một nước khác với ý nghĩa là trưng bày, triển lãm hoặc tham gia hội trợ hay là các thiết bị máy móc công trình dùng để thi công rồi sau một thời hạn nhất định lại được xuất đi nước khác thì các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và các thiết bị công trình đó không phải chịu Thuế Nhập khẩu. Trường hợp các chủ hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ và thiết bị công trình không xuất đi đúng thời hạn thì sẽ gây tổn thất về thuế Nhập khẩu cho nước đó. Do vậy, cơ quan Hải quan để đảm bảo rằng hàng hoá là tạm nhập và sẽ được tái xuất đúng hạn thì sẽ yêu cầu phải có Bảo lãnh. Ngân hàng bảo lãnh sẽ phải trả thay cho khách hàng trong trường hợp vi phạm quy định của cơ quan Hải quan coi như một khoản nghĩa vụ thuế. Số tiền bảo lãnh được cơ quan Hải quan ấn định cho mỗi trường hợp cụ thể, thời hạn của bảo lãnh khi hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ đó được tái xuất hoặc đã thực hiện xong nghĩa vụ thuế đối với cơ quan Hải quan. - Bảo lãnh phát hành chứng khoán: Ngân hàng sẽ đứng ra bảo lãnh cho một tổ chức phát hành chứng khoán từ khâu mời thầu tới khâu bán chứng khoán. Đây là một trong các phương thức phát hành chứng khoán của doanh nghiệp. - Bảo lãnh hối phiếu - Bảo lãnh mua sắm thiết bị trả chậm: loại bảo lãnh này rất có ý nghĩa đối với doanh nghiệp mua thiết bị trả chậm của nước ngoài mà không đủ uy tín để bên nước ngoài tin cậy giao hàng. 1.1.3.2. Phân loại bảo lãnh theo phương thức phát hành Theo phương thức phát hành, Bảo lãnh được chia thành các loại sau: Bảo lãnh trực tiếp (Direct guarantee) Bảo lãnh trực tiếp là loại hình bảo lãnh mà Ngân hàng phát hành trực tiếp cho bên được bảo lãnh, và chịu trách nhiệm thông báo cho bên nhận bảo lãnh trực tiếp hoặc thông qua một chi nhánh Ngân hàng nước ngoài khác (nếu giao dịch là quốc tế) nhưng chi nhánh Ngân hàng nước ngoài đó không chịu trách nhiệm về nội dung của thư bảo lãnh hay những tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng giữa các bên. Nếu xuất hiện vai trò của Ngân hàng nước ngoài trong hợp đồng bảo lãnh trực tiếp thì Ngân hàng nước ngoài được gọi là Ngân hàng thông báo, chỉ có chức năng kiểm tra tính chính xác, tính chân thực của hợp đồng bảo lãnh như: chữ ký, mã SWIFT, mã telex…khi nhận được thư bảo lãnh từ ngân hàng phát hành, và sau đó thông báo nội dung thư bảo lãnh cho người nhận bảo lãnh. Bảo lãnh gián tiếp (Indirect guarantee) Bảo lãnh gián tiếp hay còn gọi là bảo lãnh đối ứng là loại bảo lãnh trong đó Ngân hàng phát hành bảo lãnh đối ứng cho một Ngân hàng khác – là ngân hàng đứng ra phát hành bảo lãnh cho khách hàng của mình. Bên phát hành bảo lãnh đối ứng gián tiếp đảm bảo với người nhận bảo lãnh về việc thực hiện cam kết của Ngân hàng phát hành bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh đã thoả thuận. Bảo lãnh gián tiếp thường được mở khi bên nhận bảo lãnh yêu cầu người phát hành thư bảo lãnh phải là một ngân hàng đóng tại nước của bên nhận bảo lãnh đó. Do vậy, bên được bảo lãnh phải yêu cầu Ngân hàng bảo lãnh cho mình chỉ định một Ngân hàng nước ngoài mà có trụ sở hoặc chi nhánh tại nước của bên nhận bảo lãnh phát hành một bảo lãnh đối ứng. Ngân hàng thứ nhất trong quan hệ trên gọi là Ngân hàng chỉ dẫn (Instructing Bank), còn Ngân hàng thứ hai gọi là Ngân hàng phát hành (Issuing Bank). Mối quan hệ của hai ngân hàng này thông qua văn bản của Ngân hàng chỉ dẫn đề nghị Ngân hàng phát hành thực hiện việc phát hành bảo lãnh đối ứng và văn bản của Ngân hàng chỉ dẫn cam kết bồi hoàn cho Ngân hàng phát hành nếu trường hợp Ngân hàng phát hành phải thanh toán bảo lãnh cho bên thụ hưởng. Đồng bảo lãnh (syndicate Guarantee) Đồng bảo lãnh là loại hình bảo lãnh Ngân hàng mà trong đó món bảo lãnh phải do nhiều Ngân hàng cùng tham gia bảo lãnh. Trường hợp này xảy ra là do các quy định về phòng ngừa rủi ro của chính phủ mỗi quốc gia ban hành hoặc các nguyên nhân khác mà một ngân hàng không thể thực hiện bảo lãnh đơn lẻ. Trong số các Ngân hàng cùng tham gia bảo lãnh thì sẽ có một Ngân hàng đứng ra đóng vai trò là Ngân hàng chính, thực hiện chức năng phát hành thư bảo lãnh cho toàn bộ số tiền bảo lãnh, giữ các chứng từ liên quan, thu phí bảo lãnh và chia lại cho các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ góp vốn trong tổng trị giá bảo lãnh. Các Ngân hàng thành viên chịu trách nhiệm bảo lãnh trên tùng phần đóng góp của mình bằng những văn bản bảo lãnh đối ứng. Trong trường hợp Ngân hàng chính phải thực hiện thanh toán bảo lãnh cho bên thụ hưởng thì Ngân hàng chính có quyền truy đòi trách nhiệm của các Ngân hàng thnàh viên dựa trên các văn bản đối ứng đã được thoả thuận. Mô hình của Đồng Bảo lãnh có thể được mô tả như sau: NGƯỜI ĐƯỢC BẢO LÃNH NGÂN HÀNG PHÁT HÀNH NH A (2) (1) NH B NGƯỜI THỤ HƯỞNG NH C (3) (1) : Ký kết hợp đồng cơ sở (2) : Bên được bảo lãnh nộp đơn đề nghị các Ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho mình. (3) : Quan hệ thanh toán giữa các Ngân hàng tham gia hợp đồng Đồng Bảo lãnh và bên thụ hưởng. 1.1.3.3. Phân loại bảo lãnh theo phương thức thanh toán Bảo lãnh có điều kiện (Conditional Guarantee) Khi thực hiện thanh toán, bên nhận bảo lãnh phải trình đủ các chứng từ có xác nhận của một bên thứ ba nào đó độc lập, có đủ điều kiện và khả năng chuyên môn. Bên nhận bảo lãnh cũng phải xuất trình các bằng chứng chứng minh các hành vi vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh và lập tờ trình chứng minh các thiệt hại mà bên nhận bảo lãnh phải gánh chịu vì sự vi phạm đó của bên được bảo lãnh. Đối với loại hình bảo lãnh này, quyền lợi của bên được bảo lãnh được bảo vệ, nhưng ngược lại, quyền lợi của bên thụ hưởng lại giảm đi tương đối, các yêu cầu của bên thụ hưởng về việc thanh toán nếu xảy ra rủi ro trong bảo lãnh phải có một cơ sở vững chắc về chứng từ và văn bản pháp lý. Ngoài ra, một loại hình bảo lãnh khác mà phải yêu cầu có điều kiện khi thực hiện thanh toán đó là sự can thiệp của các Trọng tài kinh tế hay cơ quan pháp luật (Toà án). Khi thực hiện thanh toán, Ngân hàng bảo lãnh yêu cầu bên thụ hưởng phải cung cấp cho Ngân hàng một phán quyết của Trọng tài kinh tế hoặc của toà án, để khẳng định việc vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh và trách nhiệm phải bồi hoàn cho người thụ hưởng. Loại bảo lãnh này ít được sử dụng trên thực tế vì tính chậm trễ của nó. Bảo lãnh vô điều kiện (Unconditional Guarantee) Khi phát hiện hành vi vi phạm của bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh chỉ phải làm một văn bản yêu cầu Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ và một tờ trình chứng minh việc vi phạm của bên được bảo lãnh mà không cần bên được bảo lãnh xác nhận hoặc một bên thứ ba nào khác. Ngoài ra, bên nhận bảo lãnh cũng không phải đưa ra một bằng chứng nào chứng minh về thiệt hại của mình. Bảo lãnh theo phương thức này mang lại thuận lợi cho bên thụ hưởng, đồng thời tạo ra nhiều thuận lợi cho Ngân hàng bảo lãnh trong việc kiểm tra chứng từ. Nhưng mặt khác, loại hình bảo lãnh này lại tạo ra một áp lực cho bên được bảo lãnh đốc thúc họ hoàn tất nghĩa vụ hợp đồng của mình, do đó khiến cho các bên có một sự đảm bảo về quyền lợi tương đối an toàn, khuyến khích các bên ký kết hợp đồng giao dịch. 1.1.3.4. Phân loại bảo._. lãnh theo bản chất của bảo lãnh Căn cứ theo bản chất thì Bảo lãnh được chia làm hai loại sau: Bảo lãnh đồng nghĩa vụ hay còn gọi là bảo lãnh bổ sung Loại bảo lãnh này cho biết hai bên: Ngân hàng và bên được bảo lãnh là đồng nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh. Nhưng trong đó thì bên được bảo lãnh chịu nghĩa vụ đầu tiên, còn Ngân hàng là nghĩa vụ bổ sung, nghĩa vụ của Ngân hàng sẽ xuất hiện khi nghĩa vụ đầu tiên của Bên được bảo lãnh không thực hiện được. Do vậy, với loại hình bảo lãnh này, Ngân hàng phải can thiệp sâu vào hợp đồng được ký kết giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh nhằm hạn chế rủi ro phải gánh chịu khi bên được bảo lãnh không thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh độc lập Bảo lãnh độc lập là loại hình bảo lãnh hiện đại, dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là: - Thứ nhất: Nguyên tắc độc lập, nghĩa vụ của hai bên, Ngân hàng và bên được bảo lãnh là độc lập tách rời nhau nhưng không hoàn toàn. Các Ngân hàng phải căn cứ trên hợp đồng cơ sở để xây dựng một hợp đồng bảo lãnh chặt chẽ. - Thứ hai: Nguyên tắc phù hợp, việc thực hiện thanh toán căn cứ vào các điều kiện và điều khoản được quy định trong Thư bảo lãnh. Loại hình bảo lãnh này đem lại sự thuận lợi cho bên nhận bảo lãnh và Ngân hàng phát hành bảo lãnh, do vậy được sử dụng rộng rãi trong quan hệ thương mại trong nước và quốc tế. 1.1.4. Quy trình hoạt động bảo lãnh Ngân hàng Sơ đồ: Quy trình hoạt động Bảo lãnh NH Ngân hàng (bên bảo lãnh) Khách hàng của ngân hàng (bên được bảo lãnh) Ngân hàng (bên bảo lãnh) Khách hàng của ngân hàng (bên được bảo lãnh) Người thứ ba (bên hưởng bảo lãnh) (2) (4) (3) (1) (a) (a): Khách hàng ký các hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, xây dựng, giao dịch hay vay vốn…bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh của Ngân hàng. (1): Khách hàng làm đơn đề nghị được cấp bảo lãnh. Ngân hàng thực hiện phân tích khách hàng, tìm hiểu về yêu cầu của bảo lãnh và mức độ rủi ro nếu ký kết hợp đồng. Nếu Ngân hàng đồng ý phát hành bảo lãnh đối với khách hàng này thì sẽ thực hiện ký kết hợp đồng bảo lãnh với nội dung về trị giá bảo lãnh, thời hạn hiệu lực, điều kiện bảo lãnh… (2): Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh và thông báo cho bên thứ ba (3): Nếu trường hợp rủi ro bảo lãnh xảy ra thì Ngân hàng sẽ thực hiện các cam kết bảo lãnh như đã thoả thuận với khách hàng và bên thứ ba. (4): Căn cứ hợp đồng bảo lãnh và các điều kiện thoả thuận Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính của khách hàng đối với Ngân hàng (trả nợ gốc, lãi và phí). Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh được xây dựng rất chặt chẽ và nghiêm ngặt. Thủ tục đòi hỏi phải qua nhiều bước thẩm định thật kỹ y như một khoản cho vay thực sự, và các văn bản cam kết phải được soạn thảo chặt chẽ, phải có tài sản thế chấp, hay cầm cố có giá trị tương đương, và phải hạch toán ngoại bảng để tránh lạm dụng và lợi dụng. Việc kinh doanh rủi ro dựa trên lòng tin đôi khi đặt ngân hàng vào tình thế phải cho vay bắt buộc để trả nợ cho khách hàng, làm ảnh hưởng không nhỏ tới tài sản và uy tín của ngân hàng. Tuy nhiên, đây cũng là một thiên chức của Ngân hàng trong sự nghiệp phát triển kinh tế quốc gia. Chất lượng hoạt động Bảo lãnh Ngân hàng 1.2.1. Khái niệm chất lượng hoạt động Bảo lãnh tại Ngân hàng Bất kỳ một nghiệp vụ bảo lãnh nào cũng phát sinh ba chủ thể chính: Ngân hàng, người được bảo lãnh, và người nhận bảo lãnh. Mối quan hệ giữa ba chủ thể này rất chặt chẽ: người yêu cầu bảo lãnh và người hưởng bảo lãnh có quan hệ hợp đồng kinh tế – là hợp đồng cơ sở làm phát sinh nhu cầu bảo lãnh. Giữa Ngân hàng và người được bảo lãnh là quan hệ giữa người cung cấp dịch vụ và khách hàng, do đó mối quan hệ này cần được thiết lập ngày càng mật thiết tạo điều kiện cho cả hai bên có những cơ hội kinh doanh thu lợi nhuận. Còn giữa ngân hàng và người nhận bảo lãnh là sự cam kết đảm bảo việc chi trả tài chính của Ngân hàng cho người thụ hưởng khi người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ đã thoả thuận trong hợp đồng kinh tế của mình. Như vậy, hoạt động bảo lãnh là có chất lượng khi đảm bảo được chất lượng của cả ba mối quan hệ kể trên. Hay nói cách khác chất lượng hoạt động bảo lãnh là việc giải quyết tốt những mâu thuẫn liên quan đến mối quan hệ giữa ba chủ thể tham gia bảo lãnh là Ngân hàng, người được bảo lãnh,và người nhận bảo lãnh. Do vậy, để đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh cần phải căn cứ trên ba giác độ: * Đối với ngân hàng: Bảo lãnh là đạt chất lượng khi đảm bảo tính an toàn trong hoạt động chung của Ngân hàng, mức độ xảy ra các rủi ro thanh toán mà Ngân hàng phải trả thay cho khách hàng là tối thiểu và không gây ra những tác động xấu tới tính thanh khoản cũng như uy tín của Ngân hàng. Mặt khác, chất lượng hoạt động bảo lãnh còn thể hiện thông qua những lợi ích về mặt tài chính mà bảo lãnh mang lại: từ việc thu phí, cho tới việc khai thác nguồn huy động vốn từ số tiền ký quỹ của khách hàng, và các phí dịch vụ khác đi kèm khi khách hàng tham gia bảo lãnh tại Ngân hàng. Hoạt động bảo lãnh phải được tiến hành phù hợp với khả năng tài chính và thực lực của Ngân hàng theo hướng tích cực để đảm bảo ngân hàng hoạt động lành mạnh và có tính cạnh tranh trên thị trường. * Đối với doanh nghiệp là khách hàng của ngân hàng Xét trên giác độ khách hàng của Ngân hàng, thì doanh nghiệp được hiểu bao gồm hai chủ thể: Người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh. Đối với người được bảo lãnh: chất lượng hoạt động bảo lãnh là khả năng của Ngân hàng đáp ứng hợp lý nhu cầu của người được bảo lãnh. Chất lượng bảo lãnh đem lại cho người được bảo lãnh nhiều cơ hội kinh doanh hơn, hoặc ký kết được những hoạt động kinh tế quan trọng, thu hút được các nguồn vốn quốc tế hay tiếp cận được công nghệ khoa học tiên tiến…Từ đó giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, hàng hoá và mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường khả năng cạnh tranh, hội nhập của doanh nghiệp Chất lượng bảo lãnh đối với người được bảo lãnh còn thể hiện ở thủ tục xin cấp bảo lãnh đơn giản, gọn nhẹ, mức phí phù hợp, tài sản đảm bảo hay tiền ký quỹ thấp. Đồng thời người được bảo lãnh sẽ được hưởng nhiều dịch vụ đi kèm khác của Ngân hàng với mức phí ưu đãi hoặc không bị tính phí. Đối với người nhận bảo lãnh: Ngân hàng phải tạo được niềm tin đối với người hưởng bảo lãnh. Ngân hàng phải đảm bảo khắc phục được những thiệt hại cho bên nhận bảo lãnh khi rủi ro bảo lãnh xảy ra. Chất lượng hoạt động bảo lãnh thể hiện ở chỗ người nhận bảo lãnh hoàn toàn tin tưởng về khả năng tài chính và uy tín của Ngân hàng. Ngoài ra, thời gian và thủ tục thanh toán bảo lãnh nhanh chóng, đơn giản cũng thể hiện một phần chất lượng của nghiệp vụ bảo lãnh. * Đối với nền kinh tế. Chất lượng hoạt động bảo lãnh được thể hiện ở các mặt: Khả năng tạo điều kiện phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, khả năng nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy sản xuất xã hội, tạo đà cho cả nền kinh tế phát triển. Khả năng mở rộng các mối quan hệ thương mại trong nước và quốc tế, nâng cao vai trò và uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Tóm lại, chất lượng bảo lãnh Ngân hàng là một chỉ tiêu tổng hợp được thiết lập dựa trên nhiều yếu tố. Đó là sự tổng hoà về quyền lợi và nghĩa vụ của ba mối quan hệ giữa ba chủ thể chính tham gia hoạt động bảo lãnh. Chất lượng hoạt động bảo lãnh không phải là kết quả tự nhiên mà là kết quả của một quy trình kết hợp hài hoà giữa lợi ích của các chủ thể kinh tế. Vai trò của hoạt động bảo lãnh rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới không chỉ hoạt động của Ngân hàng mà còn tới cả nền kinh tế nói chung, do vậy, yêu cầu phải nâng cao chất lượng trong các nghiệp vụ bảo lãnh Ngân hàng là một vấn đề cần thực hiện. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh Ngân hàng Bảo lãnh là một hoạt động khá mới mẻ so với các nghiệp vụ truyền thống của Ngân hàng nhưng đây là một hướng đi hợp lý trong quá trình mở rộng và đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ nhằm mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho bản thân Ngân hàng và nền kinh tế, và đó cũng là xu hướng phát triển chung của hệ thống Ngân hàng trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên hoạt động bảo lãnh hàm chứa nhiều rủi ro tiềm tàng, thậm chí nhiều trường hợp rủi ro xảy ra làm ảnh hưởng lớn tới khả năng tài chính và uy tín của Ngân hàng. Do vậy, mỗi Ngân hàng đều đặt ra những chỉ tiêu nhằm đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng mình. Hiện nay, chất lượng bảo lãnh Ngân hàng thương mại chưa có những chỉ tiêu cụ thể và thống nhất phản ánh hoàn toàn chính xác, nhưng thông thường để đánh giá chất lượng bảo lãnh có thể dựa trên hai nhóm chỉ tiêu sau: * Nhóm chỉ tiêu định lượng Nhóm chỉ tiêu định lượng phản ánh khá chính xác chất lượng của hoạt động bảo lãnh. Từ những chỉ tiêu tuyệt đối tới việc dùng các chỉ tiêu tương đối để so sánh, nhóm chỉ tiêu này được sử dụng phổ biến trong các NHTM để đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh. Nhóm chỉ tiêu này bao gồm các chỉ tiêu sau: Chỉ tiêu doanh thu từ hoạt động bảo lãnh Doanh thu cho biết tổng số tiền Ngân hàng thu được từ các hoạt động của Ngân hàng như: chênh lệch lãi suất cho vay, các loại phí dịch vụ hay các khoản thu bất thường khác... Doanh thu bảo lãnh được tính từ tổng số phí thu được mà khách hàng tham gia bảo lãnh đã trả và các khoản thu thông qua số tiền ký quỹ của khách hàng đem lại. Doanh thu bảo lãnh tăng thể hiện sự phát triển của hoạt động bảo lãnh và gián tiếp phản ánh chất lượng bảo lãnh đang dần được nâng cao. Tuy nhiên, doanh thu bảo lãnh tăng cao cũng cho thấy mức độ rủi ro tiềm ẩn cao hơn, và do đó yêu cầu Ngân hàng phải có mức trích lập dự phòng rủi ro cao hơn để đảm bảo chất lượng cho các món bảo lãnh. Khi so sánh mối quan hệ giữa doanh thu từ bảo lãnh với tổng doanh thu từ các hoạt động khác ta có được chỉ tiêu về tỷ trọng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh. Tỷ trọng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh (%) = Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh x 100% Tổng doanh thu Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lời và vị trí của hoạt động bảo lãnh trong toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng. Chỉ tiêu chi phí từ hoạt động bảo lãnh Phản ánh các khoản tiền mà Ngân hàng đã bỏ ra để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và các nghĩa vụ khác có liên quan đến hoạt động bảo lãnh. Chi phí này được đưa vào chi phí ngoài lãi để hoạch toán. Chi phí của Ngân hàng càng giảm càng chứng tỏ hoạt động bảo lãnh không xảy ra nhiều rủi ro, các khoản bảo lãnh lành mạnh và mang lại hiệu quả kinh doanh cho Ngân hàng. Chỉ tiêu lãi từ hoạt động bảo lãnh Lãi từ hoạt động bảo lãnh = Doanh thu – Chi phí Lãi từ hoạt động bảo lãnh góp phần tạo nguồn để Ngân hàng tái đầu tư mở rộng và phát triển. Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng bảo lãnh rõ nét nhất. Cho biết hoạt động bảo lãnh mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận cho Ngân hàng. Nếu lấy chỉ tiêu này chia cho tổng lợi nhuận của Ngân hàng thì sẽ cho ta biết tỷ trọng lợi nhuận mà hoạt động bảo lãnh đã đóng góp. Tỷ trọng lãi thu từ hoạt động bảo lãnh = Lãi thu từ bảo lãnh x 100% Tổng lợi nhuận Chỉ tiêu dư nợ bảo lãnh quá hạn Dư nợ bảo lãnh quá hạn là những khoản vốn Ngân hàng đã trả thay cho người được bảo lãnh, nhưng đến hạn thanh toán khách hàng không có đủ tiền trả hoặc không được gia hạn nợ trong khi khách hàng không chịu trả cho Ngân hàng. Dư nợ bảo lãnh quá hạn càng lớn càng thể hiện Ngân hàng đang đứng trước nguy cơ mất vốn, và chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng là không tốt. Chỉ tiêu dư nợ bảo lãnh quá hạn được xem xét kết hợp với chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ bảo lãnh quá hạn được xác định theo công thức sau: Tỷ lệ dư nợ bảo lãnh quá hạn(%) = Dư nợ bảo lãnh quá hạn x 100% Doanh số bảo lãnh Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ bảo lãnh quá hạn cho biết tỷ trọng doanh số bảo lãnh quá hạn trên tổng doanh số bảo lãnh, thể hiện % doanh số bảo lãnh đã phát sinh rủi ro. Thực tế, sau khi Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết, Ngân hàng sẽ đưa số tiền trả thay đó vào tài khoản Nợ của khách hàng. Đến kỳ thanh toán đã được thoả thuận từ trước nếu khách hàng không trả được nợ thì Ngân hàng sẽ đưa khoản tiền đó vào nợ quá hạn và áp dụng lãi phạt. Tuy nhiên, nếu khoản nợ này phát sinh từ khoản nợ bảo lãnh có thời hạn trên 1 năm thì tính chính xác của chỉ tiêu này không cao, phải được xem xét kết hợp với các chỉ tiêu khác. Chỉ tiêu này còn thể hiện sự thiếu chính xác bởi xu hướng làm đẹp bảng cân đối kế toán của Ngân hàng khi Ngân hàng cho phép gia hạn nợ đối với các khoản nợ đến hạn. Tỷ lệ dư nợ bảo lãnh quá hạn giảm khi dư nợ bảo lãnh quá hạn giảm hoặc doanh số bảo lãnh tăng. Cả hai dấu hiệu này đều thể hiện chất lượng hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng tăng lên. Nhưng việc tăng doanh số bảo lãnh trong năm đồng nghĩa làm tiềm ẩn nguy cơ nợ quá hạn trong các năm sắp tới, vì với khoản bảo lãnh trung và dài hạn năm nay sẽ chỉ phát sinh nợ quá hạn trong những năm sau. Tức là, trong cơ cấu dư nợ quá hạn bảo lãnh năm nay sẽ có một bộ phận không nhỏ là khoản trả thay bảo lãnh trung và dài hạn phát sinh từ những năm trứoc đó. Chính vì vậy, để đánh giá đúng chất lượng bảo lãnh tại đơn vị mình các Ngân hàng phải xem xét chỉ tiêu này kết hợp với các chỉ tiêu khác như: Cơ cấu dư nợ quá hạn theo thời hạn, cơ cấu doanh số bảo lãnh theo thời hạn, doanh số bảo lãnh năm nay so với năm trước… Bên cạnh tỷ lệ nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá hạn khê đọng và tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi cũng là những chỉ tiêu có ý nghĩa đối với việc đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh và việc trích lập dự phòng phải thu khó đòi. Tỷ lệ nợ quá hạn khê đọng = Nợ quá hạn từ 6 tháng đến 1 năm Tổng doanh số bảo lãnh đến hạn Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi = Nợ quá hạn trên 1 năm Tổng doanh số bảo lãnh đến hạn Đối với các khoản nợ quá hạn từ 6 tháng – 1 năm thì được xếp vào nợ quá hạn khê đọng, còn quá hạn trên 1 năm thì được xếp vào nợ khó đòi. Bên cạnh các chỉ tiêu trên, ngân hàng cũng phải xem xét một số chỉ tiêu tổng hợp khác như: chỉ tiêu tài sản đảm bảo, chỉ tiêu biểu phí bảo lãnh, chỉ tiêu đa dạng hoá các hoạt động bảo lãnh…Tài sản đảm bảo phải phù hợp với mục đích, yêu cầu của người được bảo lãnh và mức độ yêu cầu an toàn của Ngân hàng. Biểu phí của Ngân hàng phải mang tính cạnh tranh, nhằm thu hút khách hàng tham gia bảo lãnh. Không phải ngân hàng nào cũng thực hiện tất cả các loại hình bảo lãnh, và cũng có những Ngân hàng thực hiện nhiều loại hình hơn trong số các loại bảo lãnh cơ bản, đó là tuỳ theo năng lực của mỗi Ngân hàng, do vậy các loại hình bảo lãnh càng đa dạng, càng thể hiện sự phát triển của Ngân hàng đó về mọi mặt. * Nhóm chỉ tiêu định tính Nhóm chỉ tiêu định tính có vai trò không kém phần quan trọng so với nhóm chỉ tiêu đinh lượng. Đóng góp vào sự hoàn thiện và phát triển của Ngân hàng dưới nhiều góc độ khác nhau, nhóm chỉ tiêu định tính xem xét ở các khía cạnh sau: Sự phản hồi từ phía khách hàng: Đây là chỉ tiêu quan trọng bởi Ngân hàng không thể tự hoàn thiện mà không dựa trên sự đóng góp ý kiến từ phía khách hàng về hoạt động của Ngân hàng. Đứng trên hoạt động bảo lãnh thì sự phản hồi của khách hàng là các đánh giá về phong cách của cán bộ Ngân hàng phụ trách hoạt động bảo lãnh, về tính cạnh tranh mà Ngân hàng đưa ra thông qua việc so sánh biểu phí bảo lãnh, yêu cầu đảm bảo, giá trị tiền ký quỹ, tài sản cầm cố thế chấp…hay thủ tục đơn giản, quá trình xem xét cấp bảo lãnh nhanh chóng, các điều khoản thuận lợi khi thanh toán. Chất lượng hoạt động bảo lãnh sẽ được phản ánh đầy đủ khi khách hàng có sự phản hồi kết quả từ các cuộc điều tra của ngân hàng. Giá trị gia tăng được tạo ra từ hoạt động bảo lãnh: Để định lượng chỉ tiêu này một cách tương đối chính xác là rất khó. Bởi hoạt động bảo lãnh chỉ là một bộ phận tín dụng của Ngân hàng, do vậy để tính được giá trị gia tăng của hoạt động bảo lãnh phải thông qua việc tính giá trị gia tăng được tạo ra từ các khoản tín dụng và tỷ lệ phần trăm mà doanh số bảo lãnh đóng góp trong tổng doanh số tín dụng. Chỉ tiêu này chỉ dùng để tham khảo và phải đánh giá kèm theo các chỉ tiêu tổng hợp khác khi tiến hành đánh giá chất lượng bảo lãnh. Khả năng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội: Chỉ tiêu này được phân tích dựa trên cơ cấu hoạt động bảo lãnh so với cơ cấu kinh tế. Nếu những hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng thực hiện phục vụ chủ yếu các ngành nghề, lĩnh vực được ưu tiên phát triển thì chắc chắn hoạt động bảo lãnh đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế và qua đó cũng đánh gia được chất lượng hoạt động bảo lãnh đang được nâng cao. Ngoài các chỉ tiêu trên trong nhóm chỉ tiêu định tính trên, đánh giá chất lượng bảo lãnh cũng còn phải xem xét nhiều yếu tố khách quan bên ngoài và yếu tố chủ quan bên trong ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới hoạt động bảo lãnh của Ngân hàng nhằm có cái nhìn chính xác và định hướng đúng đắn cho hoạt động bảo lãnh của một Ngân hàng nói riêng và của toàn bộ hệ thống Ngân hàng nói chung. 1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động bảo lãnh Một thực thể bất kỳ nào muốn tồn tại trong cuộc sống đều phải chịu những tác động ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của thực thể đó từ bên trong bản thân và từ bên ngoài môi trường. Điều này đúng cho mọi trường hợp trong đời sống bình thường hay trong nền kinh tế. Hoạt động Ngân hàng cũng vậy, không chỉ chịu tác động từ bản thân Ngân hàng mà còn chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố từ môi trường xung quanh. Có thể phân nhóm các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động của Ngân hàng nói chung và của bộ phận bảo lãnh nói riêng làm hai nhóm sau: - Nhóm các nhân tố chủ quan, xuất phát từ bên trong bản thân Ngân hàng như: khả năng tài chính, chiến lược phát triển trong một giai đoạn thời kỳ nhất định, chính sách phát triển con người, nguồn nhân lực… - Nhóm các nhân tố khách quan, hình thành từ nhiều điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội: như môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, các yếu tố khách hàng của Ngân hàng… 1.3.1. Các nhân tố chủ quan * Chiến lược phát triển chung của Ngân hàng Chiến lược phát triển chung của Ngân hàng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới tất cả các hoạt động của Ngân hàng, trong đó có hoạt động bảo lãnh và chất lượng của hoạt động bảo lãnh. Nếu không có chiến lược phát triển cụ thể trong từng giai đoạn, từng thời kỳ thì Ngân hàng sẽ luôn rơi vào thế bị động trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Một chiến lược phát triển đúng đắn, thống nhất, có tầm nhìn xa và phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thì sẽ giúp Ngân hàng khai thác được tối đa năng lực của Ngân hàng và các yếu tố thuộc về môi trường xã hội. Đồng thời cũng giúp Ngân hàng có thể chủ động đáp ứng các nhu cầu tiềm ẩn cũng như nhu cầu phát sinh của thị trường. Cũng trên cơ sở chiến lược phát triển chung, Ngân hàng sẽ đặt ra các mục tiêu phát triển riêng cho từng bộ phận trong hệ thống nhằm mang lại hiệu quả hoạt động cao nhất. Bộ phận bảo lãnh cũng được xây dựng kế hoạch phát triển đúng đắn để có được chất lượng cao hơn vì mục đích lớn nhất là thu được nhiều lợi nhuận trong Ngân hàng và nâng cao uy tín của Ngân hàng. Trong chiến lược phát triển chung của Ngân hàng thì lại bao gồm nhiều chiến lược cụ thể khác nhau như: chiến lược marketing, chiến lược phát triển nguồn nhân lực, cải tiến cơ cấu tổ chức, chiến lược tạo nguồn huy động vốn… Tất cả các chiến lược cụ thể này lại có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực tới việc thực hiện chất lượng hoạt động bảo lãnh. * Kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh Nằm trong chiến lược phát triển chung của Ngân hàng nhưng kế hoạch phát triển của hoạt động bảo lãnh lại đi tới cụ thể áp dụng riêng cho bảo lãnh trong từng giai đoạn, trong từng thời kỳ với mục đích làm tăng chất lượng bảo lãnh và mang lại lợi nhuận cao cho Ngân hàng. Kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh thường được xác định là một hệ thống các chỉ tiêu và biện pháp mà Ngân hàng đặt ra, bao gồm: Kế hoạch phát triển vi mô, tính chất của từng loại hình bảo lãnh, mục tiêu bảo lãnh cho từng ngành kinh tế, lĩnh vực kinh tế…tuỳ thuộc vào việc đánh giá mức độ rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng, phương thức và thị trường của hoạt động bảo lãnh. Kế hoạch phát triển hoạt động bảo lãnh ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng bảo lãnh. Một kế hoạch cho hoạt động bảo lãnh được xây dựng phù hợp với xu hướng phát triển của Ngân hàng và của môi trường kinh tế xã hội trong một giai đoạn cụ thể sẽ làm cho chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh được thực hiện nghiêm túc, ngày một nâng cao và đảm bảo sự phát triển thích nghi với các biến động trên thị trường. * Quy trình bảo lãnh và công tác thẩm định khách hàng Quy trình bảo lãnh là một trong những nhân tố quan trọng nhất tác động trực tiếp tới chất lượng hoạt động bảo lãnh. Trong đó bao hàm cả yếu tố pháp lý và những tính chất, đặc điểm riêng có của mỗi Ngân hàng. Quy trình bảo lãnh bao gồm các bước để tiến hành một khoản bảo lãnh. Nó phải được áp dụng một cách thống nhất về trình tự, thủ tục và các yêu cầu của Ngân hàng đối với khách hàng xin cấp bảo lãnh trong toàn bộ hệ thống của một Ngân hàng, trong mọi loại hình, mọi khoản bảo lãnh và cho mọi cán bộ thực hiện giao dịch với khách hàng. Quy trình bảo lãnh được đặc biệt chú ý ở ba phần quan trọng là thẩm định khách hàng, xây dựng hợp đồng bảo lãnh và công tác xử lý sau bảo lãnh, trong đó việc thẩm định khách hàng là quan trọng hơn cả. Công tác thẩm định khách hàng có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi bắt đầu mở một khoản bảo lãnh cho khách hàng. Đó là điều kiện tiên quyết để Ngân hàng đưa ra quyết định có thực hiện việc bảo lãnh cho khách hàng đó hay không. Khách hàng phải được thẩm định một cách kỹ lưỡng về khả năng tài chính, về khả năng thực hiện dự án, về tư cách pháp nhân và uy tín hoạt động trong lịch sử hình và phát triển của khách hàng để ngân hàng có thể đánh giá đúng mức độ rủi ro của khoản bảo lãnh nhằm hạn chể tối đa tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu nếu rủi ro xảy ra, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh. Cũng từ đó Ngân hàng xác định tỷ lệ ký quỹ, hay giá trị tài sản mà khách hàng phải thế chấp, cầm cố làm tài sản đảm bảo (hoặc hạn mức bảo lãnh) cho khoản bảo lãnh. Công tác thẩm định khách hàng được làm tốt sẽ nâng cao chất lượng bảo lãnh và mang lại lợi ích cao hơn về cả mặt tài chính và uy tín cho Ngân hàng. Bên cạnh đó, việc xây dựng một hợp đồng bảo lãnh đảm bảo lợi ích và các điều khoản thuận lợi giữa các bên tham gia hợp đồng cũng đóng góp vào việc nâng cao chất lượng bảo lãnh. Công tác xử lý sau bảo lãnh có hai trường hợp xảy ra: đó là người được bảo lãnh thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với bên thụ hưởng bảo lãnh thì Ngân hàng chỉ việc thu phí bảo lãnh, tiến hành giải ngân các khoản ký quỹ của khách hàng, hay hoàn trả các tài sản đảm bảo mà khách hàng ký gửi tại Ngân hàng. Trong trường hợp ngược lại, Ngân hàng phải tiến hành thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho người được bảo lãnh thì Ngân hàng căn cứ trên số tiền ký quỹ hay giá trị tài sản đảm bảo, và tình hình tài chính của khách hàng để xếp loại khoản cho vay bắt buộc này theo khoản mục của hoạt động cho vay khách hàng. Công tác này được thực hiện tốt sẽ cho phép ngân hàng dễ thu hồi phí bảo lãnh, vốn đã cho vay và lãi cho vay hơn. Lợi ích của Ngân hàng cũng không bị ảnh hưởng. Quy trình Bảo lãnh áp dụng bắt buộc trong toàn hệ thống Ngân hàng, do vậy mỗi khâu trong đó đều chứa đựng những ý nghĩa có ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ bảo lãnh. Việc phân chia trách nhiệm cho các cán bộ phụ trách mỗi khâu trong quá trình bảo lãnh là quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của từng cán bộ, và cũng là của toàn bộ Ngân hàng. * Trình độ nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ nhân viên Ngân hàng. Trong nền kinh tế mới, con người được đặt vào trung tâm, là yếu tố quyết định sự thành bại của bất kỳ một đơn vị kinh tế sản suất kinh doanh nào. Điều này thể hiện trong chiến lược phát triển của mỗi đơn vị, chiến lược con người rất được chú ý xây dựng hoàn thiện, công tác đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên đang ngày càng được đi sâu và áp dụng rộng rãi. Hoạt động Bảo lãnh cũng đòi hỏi một chất lượng nghiệp vụ của cán bộ nhân viên Ngân hàng đủ khả năng để đáp ứng các yêu cầu của tính chất công việc, có khả năng làm việc trong môi trường chịu áp lực cao, và cũng phải có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường kinh doanh, môi trường kinh tế xã hội. Chất lượng đội ngũ nhân viên càng cao, thì hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động của Ngân hàng nói chung chắc chắn được thực hiện hiệu quả và do đó chất lượng Ngân hàng sẽ được nâng cao. 1.3.2. Các nhân tố khách quan * Các nhân tố thuộc về khách hàng Khách hàng là mục tiêu kinh doanh của Ngân hàng, nên các yếu tố xuất phát từ phía khách hàng cũng gây những ảnh hưởng tích cực và ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. - Khả năng tài chính, năng lực kinh doanh của khách hàng. Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở khả năng tự tài trợ bằng vốn tự có, tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn, các khả năng thanh toán, tính lỏng của tài sản và khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao thì khả năng đáp ứng các yêu cầu, điều kiện của Ngân hàng càng cao, vì thế, chất lượng khoản bảo lãnh được nâng cao hơn. - Khả năng đáp ứng các biện pháp đảm bảo mà Ngân hàng yêu cầu khi tiến hành bảo lãnh cho khách hàng. Khi doanh nghiệp xin Ngân hàng cấp bảo lãnh thì chắc chắn doanh nghiệp sẽ phải thực hiện các nghĩa vụ đảm bảo mà Ngân hàng yêu cầu. Các nghĩa vụ đó có thể chỉ là bản cam kết dựa trên uy tín sẵn có của doanh nghiệp, việc Ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp phải có một số tiền ký quỹ, hay đặt cọc tài sản theo các phương pháp tín dụng nhằm đảm bảo doanh nghiệp khách hàng sẽ thực hiện các nghĩa vụ phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo lãnh.Vì vậy, nếu khả năng đáp ứng các điều kiện về đảm bảo nghĩa vụ của doanh nghiệp tốt sẽ ảnh hưởng tích cực tới chất lượng hoạt động bảo lãnh. - Tính khả thi của dự án. Khả năng thực hiện dự án càng cao, thì tính rủi ro của khách hàng càng giảm, do vậy cũng giảm rủi ro cho hoạt động của Ngân hàng. * Các nhân tố thuộc về môi trường kinh tế - chính trị - xã hội Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội là một nhân tố tổng hợp ảnh hưởng tới mọi hoạt động nói chung của xã hội. Một môi trường chính trị xã hội ổn định sẽ là nhân tố rất thuận lợi cho kinh tế phát triển liên tục, lành mạnh. Hoạt động bảo lãnh cũng không nằm ngoài quy luật đó. Với một nền chính trị xã hội ổn định, Ngân hàng có tạo được các điều kiện thúc đẩy hoạt động của mình trong mối quan hệ với các hoạt động khác khi nền kinh tế gia tăng các hoạt động đầu tư và giao dịch thương mại. Đây cũng là một yếu tố thu hút các nhà đầu tư rót vốn kinh doanh, tác động gián tiếp tới sự phát triển và chất lượng của bảo lãnh Ngân hàng. Môi trường pháp luật cũng tác động không nhỏ tới chất lượng của hoạt động bảo lãnh. Pháp luật nghiêm minh, đồng bộ, đầy đủ sẽ là cơ sở quan trọng để Ngân hàng xây dựng các chiến lược phát triển đúng đắn, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của Ngân hàng trong đó có hoạt động bảo lãnh. Ngoài ra, các yếu tố khác của môi trường bên ngoài cũng phần nào ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động bảo lãnh dưới nhiều góc độ khác nhau. Xác định được mức độ ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài tới hoạt động của Ngân hàng sẽ tận dụng được những tác động tích cực và hạn chế được những tác động tiêu cực, giúp Ngân hàng có được sự phát triển cao nhất. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI TRUNG TÂM KINH DOANH - HỘI SỞ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN KỸ THƯƠNG VIỆT NAM 2.1. Khái quát về Trung tâm kinh doanh Hội sở Techcombank 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm kinh doanh Hội sở Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) là một trong những Ngân hàng TMCP đầu tiên xuất hiện trong bối cảnh đất nước bắt đầu bước vào thời kỳ chuyển đổi kinh tế, các ngành nghề trên mọi lĩnh vực đều có nhiều những cơ hội được mở rộng và phát triển. Tên đầy đủ: Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam Tên tiếng Anh: Vietnam Technological and Commercial Join Stock Bank Tên giao dịch: Techcombank Trụ sở: Toà nhà Techcombank – 15 Đào Duy Từ, Hà Nội Tel: (84 - 4) 8243941 Fax: (84 – 4) 8250545 Website: www.techcombank.com.vn TECHCOMBANK được thành lập ngày 27/9/1993 theo quyết định số 0040/NH-GP của Ngân hàng nhà nước Việt Nam có hiệu lực từ ngày 6/8/1993 và trong thời hạn 20 năm với vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ và số cán bộ công nhân viên là 20 người. Sau một thời gian hoạt động với nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế đất nước, ngày 18/10/1997, Techcombank đã được Ngân hàng nhà nước Việt Nam ra quyết định số 330/QĐ-NH5 kéo dài thời gian hoạt động lên 99 năm. Vốn điều lệ của Ngân hàng tính đến thời điểm ngày 25/1/2006 đã là 830,895tỷ VNĐ trải qua 26 lần tăng vốn điều lệ, trong 3-5 năm tới Ngân hàng phấn đấu là một trong những Ngân hàng tư nhân có vốn điều lệ > 1000tỷ. Số cán bộ công nhân viên đã lên tới gần 1000 người. Mạng lưới chi nhánh giao dịch ngày càng được mở rộng và hiện nay là hơn 50 chi nhánh, điểm giao dịch trên toàn quốc, phấn đấu tới năm 2010 là 200 chi nhánh và điểm giao dịch. Tốc độ tăng doanh thu và tổng tài sản hàng năm thường đạt 30%, đến nay tổng tài sản ước khoảng 10850 tỷ VND. Techcombank luôn luôn có những sự đổi mới trong hoạt động, với đội ngũ cán bộ được tuyển chọn kỹ lưỡng, có năng lực và trình độ nghiệp vụ cao, đã có nhiều sáng kiến trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật và ứng dụng những biến động trên thị trường vào hoạt động của Ngân hàng, mang lại nhiều lợi nhuận và uy tín cho Ngân hàng trên con đường phát triển và hội nhập. Về tổ chức bộ máy : hệ thống Techcombank bao gồm nhiều phòng ban có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình hoạt động nhằm duy trì mở rộng và phát triển hệ thống Ngân hàng Techcombank. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Techcombank được miêu tả như sau: Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức của toàn hệ thống Techcombank Ban kiểm soát ĐẠI HỘI CỔ ĐÔNG Văn phòng HĐQT HĐQT Hội đồng tín dụng BAN TỔNG GIÁM ĐỐC Uỷ ban quản lý tài sản có – nợ Trung tâm UD&PT sản phẩm dịch vụ công nghệ Ngân hàng Trung tâm thẻ Trung tâm thanh toán Ngân hàng đại lý Phòng kiểm soát nội bộ Phòng kế hoạch tổng hợp Phòng kế toán tài chính Phòng quản lý nguồn vốn, giao dịch tiền tệ và ngoại hối Phòng quản lý nhân sự Phòng quản lý tín dụng Phhòng tiếp thị, phát triển sản phẩm và chăm sóc khách hàng Văn phòng Ban đào tạo Ban phát triển sản phẩm dịch vụ Ngân hàng._.hất lượng hoạt động tín dụng cũng như tài sản của Ngân hàng. Do đó, quyết định bảo lãnh phải được căn cứ trên một quá trình thẩm định khách hàng kỹ lưỡng, nghiêm túc và chất lượng. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định khách hàng, thì việc thẩm định phải được dựa trên ba mặt: Tính pháp lý: Năng lực pháp lý của khách hàng phải được kiểm tra kỹ lưỡng về tư cách pháp nhân, năng lực hành vi dân sự, mục tiêu xin cấp bảo lãnh. Việc kiểm tra không chỉ dựa trên những tờ mà khách hàng nộp cho ngân hàng mà còn phải được đối chiếu với nhiều nguồn thông tin khác. Với những hợp đồng bảo lãnh có giá trị lớn, TTKD nên có sự kết hợp với các cơ quan pháp luật để đảm bảo chắc chắn tính pháp lý của các giấy tờ liên quan, tránh trường hợp giấy tờ giả mạo gây rủi ro cho TTKD. Còn đối với các khách hàng có quan hệ lâu dài, truyền thống với TTKD thì có thể giảm đi một số các thủ tục tránh gây phiền hà cho khách hàng, nhưng vẫn phải đảm bảo được mức độ rủi ro mà Ngân hàng phải gánh chịu là nhỏ nhất. Tính kinh tế: Thẩm định tính kinh tế của khách hàng bao gồm việc thẩm định khả năng tài chính của khách hàng và tính khả thi của dự án mà khách hàng đề nghị cấp bảo lãnh. Phải nâng cao chất lượng của việc thẩm định kinh tế khách hàng để đảm bảo không xảy ra rủi ro ngân hàng phải thanh toán thay bảo lãnh hoặc nếu có xảy ra rủi ro thì khách hàng cũng có khả năng thanh toán lại cho Ngân hàng. Đối với những khoản bảo lãnh yêu cầu ký quỹ 100% thì có thể bỏ qua công tác này vì rủi ro xảy ra với Ngân hàng là không có. Việc thẩm định khả năng kinh tế của khách hàng không chỉ căn cứ trên các báo cáo tài chính mà khách hàng nộp cho ngân hàng trong hồ sơ xin bảo lãnh mà còn phải căn cứ dựa trên các nguồn thông tin khác, khai thác từ thị trường, từ nhà cung cấp cho khách hàng, từ đối thủ cạnh tranh của khách hàng,… Thực tế là nhân viên ngân hàng thường không có đủ thời gian và kinh nghiệm thu thập các thông tin này một cách thật đầy đủ và chính xác, vì nếu vậy sẽ tốn rất nhiềuthời gian, đôi khi còn gây nhiều phiền hà khiến khách hàng ngại ngần tham gia bảo lãnh tại ngân hàng. Do vậy, nhân viên ngân hàng cần có khả năng nhạy cảm trong khi đánh giá về doanh nghiệp khách hàng. Đồng thời ngân hàng cũng nên tổ chức một bộ phận chuyên thu thập, tìm hiểu, đánh giá và cung cấp thông tin về khách hàng khi khách hàng tới đề nghị được cấp bảo lãnh để hỗ trợ nhân viên tín dụng đánh giá khách quan, chính xác khả năng kinh tế của khách hàng. Tính xã hội: Tuỳ từng dự án có quy mô lớn hay nhỏ, có tính chất xã hội hay không mà ảnh hưởng của nó tới xã hội cao hay thấp, mà TTKD nên xem xét để có những ưu tiên nhất định. Việc thẩm định tính xã hội của dự án hay của khách hàng phải căn cứ dựa trên những chương trình phát triển kinh tế – xã hội, và những định hướng phát triển của Chính phủ. Đứng trên ba mặt này mà TTKD nói riêng và Ngân hàng Techcombank nói chung mà có thế áp dụng một số giải pháp kinh tế sau: Công tác thu thập thông tin phải được quan tâm chú ý. Đặc biệt tránh tình trạng chỉ lấy thông tin từ phía khách hàng mà cán bộ Ngân hàng phải thực hiện việc thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, như: phỏng vấn khách hàng, yêu cầu khách hàng cung cấp những thông tin cần thiết, từ các ngân hàng khác hay từ các đối tác có giao dịch làm ăn với khách hàng. Ngoài ra, cán bộ Ngân hàng còn có thể tham khảo thông tin về khách hàng thông qua các tổ chức chuyên đánh giá về tình hình tài chính của các doanh nghiệp trên thị trường. Đồng thời tiến hành đối chiếu giữa các thông tin Ngân hàng thu thập được nhằm xác định tính chính xác, độ trung thực của mỗi thông tin. Tính đến thời điểm hiện nay, Techcombank chưa thực sự có những chỉ tiêu phân tích doanh nghiệp mang tính chất thống nhất trong toàn hệ thống làm chuẩn mực cho công tác thẩm định. Do vậy, Techcombank hội sở nên khẩn trương xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu phân tích và chấm điểm doanh nghiệp chi tiết, cụ thể để áp dụng trên toàn hệ thống. Thứ nhất: về khách hàng, Techcombank nên áp dụng các chỉ tiêu phân tích khả năng sinh lời của doanh nghiệp, và các chỉ tiêu liên quan đến hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp đó. Về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, Techcombank nên xem xét các tỷ lệ như: vòng quay tiền hàng năm ( bằng Doanh thu tiêu thụ hàng năm/ tiền mặt và các khoản tương đương tiền mặt); vòng quay dự trữ hàng tồn kho; vòng quay vốn lưu động; hiệu suất sử dụng tài sản cố định (một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong năm); hiệu suất sử dụng tổng tài sản( đo bằng doanh thu tiêu thụ trên tổng tài sản, cho biết 1 đồng tài sản mang lại bao nhiêu đồng doanh thu)… Khả năng sinh lời của doanh nghiệp phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, bao gồm các chỉ tiêu như: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm ( bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu tiêu thụ sản phẩm) – phản ánh số lợi nhuận sau thuế có được trong 100 đồng doanh thu; chỉ tiêu doanh lợi vốn tự có ( xác định bằng việc chia lợi nhuận sau thuế cho vốn tự có, phản ánh khả năng sinh lời của vốn tự có); chỉ tiêu doanh lợi vốn dùng để đánh giá khả năng sinh lời của 1 đồng vốn đầu tư ; xác định phụ thuộc vào tình hình cụ thể và phạm vi so sánh mà lựa chọn lợi nhuận trước thuế và lãi (EBIT) hoặc lợi nhuận sau thuế để đánh giá so sánh với tổng tài sản… Ngoài ra, cần phải phân tích đánh giá diễn biến của nguồn vốn, sự thay đổi và sử dụng vốn, xác định các nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng vốn. Việc phân tích này chỉ ra những điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để yài trợ những khoản đầu tư đó. Thứ hai: đối với các dự án, việc thẩm định hiệu quả của dự án để đạt được mục đích là đảm bảo các nguồn lực tài chính cho việc thực hiện có hiệu quả dự án đầu tư, trong đó có số vốn của chủ dự án tham gia. Xác định và hạn chế đến mức tối thiểu các rủi ro của dự án có thể xảy ra như: rủi ro công nghệ, rủi ro thiết bị, nguyên vật liệu, rủi ro về thị trường, bán hàng, người bảo trợ dự án, về môi trường… Các chỉ tiêu quan trọng khi thẩm định tài chính dự án đầu tư gồm có: vốn tự có/ tổng tài sản đầu tư ( lý tưởng là 50%); vốn tự có/ vốn vay (>=1); tài sản có lưu động/ tài sản nợ lưu động (>=2); (Lãi ròng sau thuế + khấu hao)/ tổng nợ đến hạn trả (>=1). Ngoài ra còn có một số chỉ tiêu khác như: tỷ lệ thanh toán lãi nợ tối thiểu, thời hạn thanh toán nợ cuối cùng từ 10-12 năm; dự án phải có ý nghĩa cơ bản và bản thân dự án phải có khả năng tồn tại. Techcombank cũng nên xem xét uy tín của người bảo trợ dự án để đánh giá uy tín của dự án có được thực hiện thành công hay không. Thứ ba: Techcombank nên liên kết, phối hợp với các cơ quan chuyên ngành như: xây dựng, kinh doanh thép, công nghệ thông tin,… để khắc phục tình trạng thiếu kinh nghiệm và kiến thức về những lĩnh vực này của các cán bộ Ngân hàng trong quá trình giao dịch với khách hàng. Đặc biệt với những khoản bảo lãnh có giá trị bảo lãnh lớn, cán bộ Ngân hàng càng phải có sự tham khảo ý kiến các chuyên gia thuộc lĩnh vực phát sinh hợp đồng bảo lãnh, để thẩm định hiệu quả nhất tính khả thi của dự án. 3.2.3. Nâng cao tính cạnh tranh của hoạt động bảo lãnh Hoạt động bảo lãnh là nghiệp vụ tương đối mới mẻ, song trong những năm gần đây, bảo lãnh đang trở nên phổ biến, hầu hết các NHTM đều cung cấp các loại hình dịch vụ này. Do vậy, tính cạnh tranh của hoạt động này cũng đang dần trở nên gay gắt hơn giữa các Ngân hàng. Để hoạt động bảo lãnh trở nên có tính cạnh tranh với các Ngân hàng khác, Techcombank phải có một chiến lược Marketing đồng bộ và toàn diện, thu hút khách hàng tham gia bảo lãnh. Trước tiên, Techcombank nên tiến hành phân nhóm khách hàng để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của từng nhóm theo tính chất, đặc điểm tương tự nhau hoặc theo thời gian giao dịch với Techcombank. Có thể phân loại khách hàng theo thời gian giao dịch với Techcombank như sau: Nhóm khách hàng mới: là nhóm khách hàng lần đầu tiên tham gia bảo lãnh tại Techcombank. Đối với nhóm khách hàng này, phải tiến hành hướng dẫn cụ thể, tận tình về thủ tục bảo lãnh tại Techcombank, so sánh các ưu, nhược điểm và đặc điểm riêng có của Bảo lãnh tại Techcombank với các Ngân hàng, tổ chức tài chính khác. Đồng thời, cán bộ tín dụng phải tiến hành thu thập đầy đủ các thông tin về khách hàng mới như: tư cách pháp lý, khả năng tài chính, tư cách của người lãnh đạo… để thẩm định kỹ lưỡng và có quyết định bảo lãnh chính xác, tránh để xảy ra rủi ro cho Ngân hàng. Mức phí áp dụng cho nhóm đối tượng khách hàng này nên cao hơn mức phí bình quân, vì chi phí của Ngân hàng bỏ ra để tìm hiểu khách hàng này là tương đối cao hơn so với bình quân, nhưng bên cạnh đó, cán bộ Ngân hàng nên tư vấn miễn phí về các sản phẩm dịch vụ của Techcombank để khách hàng hiểu biết thêm về các hoạt động của Techcombank và giúp họ nâng cao chất lượng các hợp đồng đang và sẽ ký kết với Ngân hàng. Nhóm khách hàng truyền thống: đây là nhóm khách hàng đã có quan hệ giao dịch thường xuyên, lâu dài với Techcombank, đã tạo được uy tín đối với Techcombank. Đối với nhóm khách hàng này, Techcombank nên áp dụng một số chính sách ưu đãi hơn, như: áp dụng một mức phí thấp so với bình quân, các thủ tục về giấy tờ pháp lý có thể được cắt giảm trong khi xét đơn xin bảo lãnh, có những sự quan tâm gắn bó thể hiện mối quan hệ truyền thống giữa hai bên nhằm tăng sự liên kết lâu dài, bền chặt; hơn nũa Techcombank có thể có những sự điều chỉnh hạn mức bảo lãnh, hay thời hạn thanh toán … cho phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh của mỗi khách hàng. Nhóm khách hàng đã giao dịch với Techcombank nhưng chưa tạo được niềm tin của Ngân hàng đối với các hoạt động và tình hình tài chính của mình. Đối với nhóm khách hàng này Techcombank vẫn nên thẩm định lại các điều kiện để có thể phát hành bảo lãnh cho dự án cần bảo lãnh của khách hàng. Mức phí áp dụng đối với nhóm khách hàng này nên cao hơn nhóm khách hàng truyền thống, nhưng thấp hơn nhóm khách hàng mới, để tạo điều kiện khuyến khích họ tiếp tục giao dịch với Techcombank. đồng thời Techcombank cũng nên yêu cầu cán bộ giao dịch có những báo cáo về nhóm khách hàng này nhằm tăng uy tín và sự thân thiện lẫn nhau giữa Ngân hàng và khách hàng. Sự phân nhóm khách hàng như vậy sẽ dễ dàng đáp ứng được các nhu cầu phat sinh từ phia doanh nghiệp không chỉ trong nghiệp vụ bảo lãnh mà còn trong tất cả các hoạt động khác của Ngân hàng. Thứ hai, Techcombank cần đặt ra một thị trường mục tiêu mà ở đó sản phẩm, dịch vụ của Techcombank có khả năng được ứng dụng nhất. Để tìm hiểu được thị trường riêng có, Techcombank phải tổ chức công tác đào tạo cán bộ thị trường có chất lượng cao, không những có khả năng nhận biết nhu cầu của khách hàng mà còn phải có khả năng biến những nhu cầu đó thành đối tượng phục vụ của Ngân hàng. Bên cạnh việc tìm hiểu khách hàng, việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh cũng đòi hỏi cán bộ Techcombank phải chú ý, nhằm có sự phản ứng tốt hơn đối với thị trường, và có sự điều chỉnh phù hợp hơn. Một chiến lược quảng cáo khuyếch trương hỗn hợp, rộng khắp cũng là một giải pháp mở rộng quy mô của hoạt động bảo lãnh. Với trình độ thông tin ngày càng thuận tiện, công nghệ ngày càng được đổi mới nhiều và khả năng khách hàng được tiếp xúc với thông tin ngày càng cao thì một kế hoạch Marketing hoàn chỉnh sẽ tạo ra sự khác biệt. Một số biện pháp quảng cáo như: mở những đợt khuyến mãi, những kỳ hạ lãi suất cho vay, những đợt tặng quà nhân dịp kỷ niệm, hay mở các cuộc Hội nghị khách hàng để lắng nghe ý kiến khách hàng thể hiện sự tôn trọng của Ngân hàng đối với nhu cầu và sự quan tâm của khách hàng với sản phẩm của Ngân hàng. Mặt khác, bộ phận chăm sóc khách hàng và bộ phận PR của Techcombank cũng cần có những thay đổi trong quá trình duy trì sự hoạt động của Website của Ngân hàng, bởi hiện nay, website Techcombank chứa đựng rất ít thông tin về Techcombank cũng như thị trường tài chính và những thông tin xã hội cần thiết. Cán bộ PR cần có những sự chuẩn bị cho các thông tin đưa trên Website của Ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng, thu hút sự chú ý của khách hàng. Với một kế hoạch hướng tới mục tiêu dài hạn, Techcombank nên có sự đầu tư vào các trường đại học, như: tổ chức tài trợ trao học bổng cho các sinh viên xuất sắc, sinh viên giỏi, đồng thời có chính sách ưu đãi thu hút các sinh viên giỏi về làm việc tại Ngân hàng, tạo ra một đội ngũ cán bộ có trình độ, có năng lực và trách nhiệm đối với sự phát triển của Techcombank. 3.2.4. Hoàn thiện và cải tiến quy trình bảo lãnh Tháng 12 năm 2004, Techcombank ra một quy trình bảo lãnh riêng chỉ áp dụng cho hệ thống Techcombank, nhưng khi cán bộ thực hiện, ngoài việc phải áp dụng thống nhất quy trình, thì những sáng tạo khi thực hiện vẫn cần phải được chú ý nhằm ngày một hoàn thiện quy trình, để tạo hiệu quả cao nhất cho cán bộ khi thực hiện quy trình đó. Quy trình bảo lãnh được thực hiện một cách nghiêm ngặt sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng bảo lãnh, tránh tình trạng lợi dụng những sơ hở trong quản lý để chiếm đoạt, lừa đảo tài sản của Ngân hàng.Đồng thời xây dựng tác phong chuyên nghiệp cho đội ngũ nhân viên Ngân hàng. 3.2.5. Giải pháp về tài sản đảm bảo Tài sản đảm bảo là một yêu cầu cần thiết đối với bất kỳ một khoản bảo lãnh nào khi được mở. Vì vậy, với một chính sách về tài sản đảm bảo hợp lý, sẽ không gây thiệt thòi cho khách hàng mà vẫn đảm bảo Ngân hàng phải gánh chịu rủi ro thấp nhất. Có nhiều cách để đảm bảo cho khoản bảo lãnh, nhưng chủ yếu hiện nay là việc yêu cầu khách hàng ký quỹ hay cầm có, thế chấp tài sản. Với hoạt động ký quỹ, khách hàng có xu hướng xin ký quỹ với mức thấp nhất, để không bị ứ đọng vốn tại Ngân hàng, nhưng Ngân hàng lại phải có một tỷ lệ ký quỹ đảm bảo tránh được rủi ro. Mức ký quỹ mà Ngân hàng yêu cầu được dao động tuỳ thuộc vào từng khoản bảo lãnh và từng khách hàng. Tại Techcombank mức ký quỹ thấp nhất là 5% có thể được coi là chấp nhận được. Song tuỳ vào từng chi nhánh mà có sự biến đổi phù hợp với hoạt động riêng. Với uy tín của Techcombank-Hội sở, TTKD có thể áp dụng mức ký quỹ bất kỳ, miễn là hợp lý đối với từng khoản bảo lãnh tại TTKD. Ngoài việc ký quỹ, cầm cố thế chấp tài sản là một biện pháp đảm bảo phổ bíên. Tài sản đem cầm cố, thế chấp thường là Bất động sản, hoặc nhà đất. Đối với loại đảm bảo này, cán bộ Ngân hàng gặp vấn đề là phải xác định chính xác giá trị tài sản khách hàng mang cầm cố, thế chấp. Giá trị tài sản đảm bảo được tính theo trung bình cộng của giá theo khung giá nhà đất của chính phủ và giá thị trường cách định giá này đơn giản cho cán bộ Ngân hàng, nhưng không được chính xác. Vì thế, để đánh giá đúng giá trị tài sản đảm bảo, Techcombank nên thực hiện một số giải pháp như: cập nhật thông tin một cách thường xuyên nhất, chính xác nhất phục vụ cho việc định giá và xử lý tài sản đảm bảo; Techcombank có thể thành lập một bộ phận chuyên trách việc xử lý tài sản đảm bảo; đồng thời xúc tiến việc tìm thị trường tiêu thụ cho tài sản đảm bảo để dễ dàng phát mại tài sản đó khi cần thiết. 3.2.6. Giải pháp về nhân lực và một số giải pháp khác Con người là yếu tố được quan tâm hàng đầu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, riêng đối với Ngân hàng thì yếu tố con người càng trở nên quan trọng hơn., bởi đặc tính của Ngân hàng là kinh doanh các dịch vụ tài chính. Nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ là một yếu tố quan trọng đóng góp vào thành công của Ngân hàng. Thực tế, tại Techcombank, nguồn nhân lực rất trẻ, do vậy, về mặt nhân lực, Techcombank đang có nhiều vấn đề cần khắc phục: thiếu kinh nghiệm thực tế, thiếu tinh thần gắn bó với Techcombank. Hơn thế nữa, hoạt động bảo lãnh tương đối mới, nên lại càng phức tạp đối với các cán bộ trẻ. Do vậy, công tác nhân lực cần được đặt ra để phần nào khắc phục được các bất cập đó, và nâng cao hơn chất lượng hoạt động Ngân hàng. Công tác nhân lực gồm có: công tác tuyển dụng, đào tạo, chính sách đối đãi với nhân viên của Ngân hàng. Đối với công tác tuyển dụng phải được thực hiện công bằng, khách quan và trung thực nhằm tuyển chọn được những cán bộ ưu tú, đảm bảo đủ các yêu cầu của Ngân hàng. Techcombank nên có những chương trình liên kết với các trường đại học để tuyển lựa những sinh viên giỏi, xuất sắc ngay khi còn đang học tập để đào tạo thành một đội ngũ chuyên nghiệp, kế tiếp bước phát triển của lớp nhân viên có kinh nghiệm của Ngân hàng. Đối với công tác đào tạo cán bộ. Hiện nay Techcombank đã có hẳn một ban đào tạo chuyên trách nhiệm vụ trau dồi kiến thức chuyên môn cho nhân viên Ngân hàng, tuy nhiên vấn đề đặt ra là Ban đào tạo phải hoạt động có hiệu quả, mang lại lợi ích cho nhân viên Ngân hàng khuyến khích nhân viên Ngân hàng tham gia tích cực các khóa đào tạo và chú ý tự hoàn thiện bản thân phục vụ tốt hơn nhu cầu của Ngân hàng đối với trình độ và tư cách của nhân viên. Các nhân viên mới vào Techcombank nên được huấn luyện một cách liên tục, tập trung trong khoảng thời gian ngắn từ 2-3 tuần, đồng thời được các cán bộ có kinh nghiệm chỉ bảo hướng dẫn, cùng trong quá trình tiếp xúc với công việc mới tại Ngân hàng. Techcombank nên có những đợt kiểm tra nhân viên đột xuất để thấy rõ thực lực của từng người, từ đó có những chính sách đãi ngộ hợp lý. Chính sách đãi ngộ đối với nhân viên: Techcombank cần có những chính sách khen thưởng và kỷ luật rõ ràng. Hàng kỳ Techcombank đánh giá thi đua và tổ chức công tác khen thưởng, khuyến khích nhân viên có sự cố gắng vượt bậc trong công tác hoặc có những ý tưởng sáng tạo làm tăng lợi ích cho Ngân hàng. Đồng thời cán bộ quản lý cũng phải quan tâm tới những nỗ lực thăng tiến của từng nhân viên nhằm hiểu được mong muốn phấn đấu, từ đó tạo ra động lực cho từng nhân viên cống hiến nhiều hơn cho Ngân hàng. Một số giải pháp khác như Thắt chặt công tác kiểm tra, kiểm soát đối với hoạt động bảo lãnh. Ngân hàng nên thường xuyên kiểm tra các khoản bảo lãnh đã phát hành, hoàn chỉnh và cập nhật thường xuyên hồ sơ bảo lãnh để đánh giá tiến độ thực hiện, tăng cường các biện pháp đảm bảo hoàn chỉnh lại hồ sơ thế chấp, đảm bảo cho bảo lãnh để đảm bảo tính pháp lý. Đối với các khoản bảo lãnh đến hạn trả mà người được bảo lãnh không trả, buộc Ngân hàng phải trả thay, Ngân hàng phải tiến hành điều tra rõ nguyên nhân, nếu khoản bảo lãnh này có tài sản đảm bảo thì Ngân hàng phải cương quyết tiến hành xử lý để ép khách hàng phải trả nợ Ngân hàng. Đối với các khoản cho vay bắt buộc chuyển thành nợ khó đòi, cần báo cáo với cơ quan pháp luật để có cơ sở thu hồi nợ, các tài sản đảm bảo được khách hàng gán cho Ngân hàng phải tiến hành các biện pháp bán hoặc cho thuê để thu hồi nợ. Ngoài ra, hàng kỳ, Ngân hàng nên tổ chức kiểm tra lại các món bảo lãnh có giá trị lớn, tổng kết và phân tích những thành công và sai sót, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho việc thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh về sau. Việc phân chia quyền và trách nhiệm rõ ràng giữa các nhân viên trực tiếp giao dịch để dễ dàng quy trách nhiệm và xử lý những sai phạm. Thành lập các bộ phận quản lý rủi ro như: Uỷ ban quản lý tài sản nợ – tài sản có (ALCO) trực thuộc Ban điều hành nhằm quản lý các rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại bảng hay Hội đồng quản lý rủi ro (RMC) trực thuộc Hội đồng quản trị Ngân hàng, khống chế và quản lý rủi ro tổ chức, hệ thống các rủi ro thị trường. Đồng thời tổ chức bộ máy và phương pháp làm việc của Hội đồng tín dụng trong việc phê duyệt một dự án vượt quá thẩm quyền quyết định của Giám đốc. Thực hiện việc mở rộng các đối tượng tham gia bảo lãnh. Trong một số trường hợp khách hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh muốn mở một khoản bảo lãnh tại Ngân hàng nhưng về điều kiện tài sản đảm bảo thì khách hàng này chưa đáp ứng được yêu cầu của Ngân hàng thì Ngân hàng nên có một sự xem xét lại cẩn thận tư cách khách hàng để có thể tạo được điều kiện thuận lợi cho khách hàng có thể tham gia bảo lãnh, bởi một điều thực tế là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rơi vào trường hợp trên là rất nhiều. Và do vậy, sự trợ giúp của Ngân hàng là một nguồn vốn rất lớn đóng góp vào sự thành công của dự án phát sinh bảo lãnh. Techcombank phải tăng cường hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Hiện nay Techcombank là một trong những Ngân hàng thương mại có công nghệ hiện đại nhất trong hệ thống Ngân hàng, tuy nhiên không vì điều đó mà thiếu đi việc ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động của Ngân hàng. Techcombank hoàn thiện hơn nữa hệ thống GLOBUS, triển khai ứng dụng các phần mềm vi tính, quản lý nghiệp vụ bảo lãnh, thanh toán, và giao dịch với khách hàng. Xây dựng một môi trường làm việc hiện đại, chuyên nghiệp, nhưng không thiếu tính thân thiện, hoà đồng, giúp đỡ nhau giữa các nhân viên, tạo mối liên kết bền chặt trong toàn hệ thống Ngân hàng. 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước Từ khi hệ thống Ngân hàng nước ta chuyển thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, vai trò của Ngân hàng nhà nước (NHNN) được tách biệt chủ yếu chuyển sang chức năng quản lý. Nhờ việc phân định tương đối rõ ràng chức năng của NHNN và NHTM mà việc quản lý của nhà nước đối với hoạt động Ngân hàng được thông suốt và hiệu quẩ. Trong điều kiện kinh tế phát triển với những bước đi mới, NHNN cần phải đẩy nhanh tiến độ cơ cấu lại NHTM theo hướng nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức, bộ máy, các sản phẩm dịch vụ mới, tiếp tục xử lý các khoản nợ tồn đọng theo chương trình, kế hoạch được Chính phủ phê duyệt nhằm tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM. NHNN phải sớm ban hành và hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ để hệ thống các tổ chức tín dụng chấp hành và làm căn cứ cho công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý sai phạm, đồng thời nâng cao tính hiệu quả của hoạt động Ngân hàng. Đối với hoạt động bảo lãnh nói riêng, Ngân hàng nhà nước cần có các biện pháp quản lý và giúp đỡ các NHTM trong việc thực hiện nghiệp vụ, trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Ngân hàng và thanh tra, kiểm tra hoạt động bảo lãnh. 3.3.1.1. Hỗ trợ các NHTM trong việc thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh NHNN nên hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc tổng hợp và cung cấp các thông tin về khách hàng chính xác và cập nhật, nâng cao vai trò hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (ICC) thuộc NHNN là nơi tập trung các nguồn thông tin đa dạng và phong phú, đồng thời phải tập hợp một đội ngũ chuyên gia phân tích và xử lý thông tin tài chính và tín dụng doanh nghiệp hàng đầu. Hiện nay, trung tâm ICC đã hoạt động nhưng chưa thực sự hiệu quả trong việc cung cấp thông tin cho các NHTM. Nguyên nhân có thể là do những thông tin này chưa thực sự hấp dẫn các Ngân hàng, hoặc chưa thực sự có chất lượng. NHNN nên rà soát lại các văn bản pháp quy, tiến hành tổng kết các hoạt động bảo lãnh sau 20 năm thực hiện, từ đó sửa đổi, bổ sung các quy định bảo lãnh cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Các văn bản pháp lý về hoạt động Ngân hàng và tín dụng ban hành hiện nay rất chồng chéo, thậm chí các văn bản ban hành sau mâu thuẫn với các văn bản ban hành trước, gây khó khăn cho các NHTM trong quá trình chấp hành và áp dụng. Đối với hoạt động bảo lãnh, hiện nay đang chịu sự điều chỉnh của Quy chế ban hành kèm theo Quyết định 238/2000/QĐ-NHNN14, và các văn bản sửa đổi khác. Do vậy, hoạt động bảo lãnh cũng bị giảm bớt phần linh hoạt và chủ động trong khi thựchiện nghiệp vụ. NHNN không nên quy định mức phí cao nhất của hoạt động bảo lãnh, là 2%, nhằm tăng tính cạnh tranh của hoạt động bảo lãnh. NHNN cũng nên tổ chức các phòng, các đợt nghiên cứu quy chế cụ thể thích hợp cho các loại bảo lãnh, tạo điều kiện cho các NHTM có thể thực hiện được những loại hình bảo lãnh một cách hiệu quả, an toàn nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lỹ của NHNN. 3.3.1.2. Tăng cường việc kiểm tra, thanh tra hoạt động bảo lãnh Ngân hàng là một thể thống nhất, hoạt động Ngân hàng có vai trò vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của nền kinh tế và sự tồn tại, phát triển của một quốc gia. Một ngân hàng có vấn đề sẽ gây ảnh hưởng dây chuyền tới các Ngân hàng khác, do vậy, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của NHNN đối với hoạt động của các NH TMCP là rất cần thiết. Đối với hoạt động bảo lãnh, là một dịch vụ của Ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro, thì công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát càng trở nên quan trọng để đảm bảo hoạt động của hệ thống Ngân hàng là lành mạnh và phục vụ tối đa cho việc phát triển kinh tế xã hội, tăng cường sức mạnh quốc gia. Trên thực tế, NHNN cũng đã thực hiện việc NHTM phải báo cáo lên NHNN về những khoản bảo lãnh có giá trị lớn. Nhưng nếu chỉ căn cứ vào những báo cáo thì không thể đảm bảo mức độ tin cậy. NHNN phải tiến hành thường xuyên kiểm tra hoạt động của các NHTM, để có thể phát hiện những sai sót, kịp thời chỉnh sửa và xử lý triệt để. Tuy nhiên, NHNN cũng chỉ nên can thiệp ở một mức độ nào đó, tránh gây cản trở cho các NHTM, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động của các NHTM. 3.3.2. Đối với Quốc Hội, Chính phủ và các cơ quan chức năng Thiết lập một môi trường kinh tế ổn định, công bằng, lành mạnh, phát huy được vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Các chính sách kinh tế vĩ mô cần được ban hành một cách đồng bộ, và cùng hướng tới mục tiêu chiến lược đã được hoạch định. Tăng cường phát triển thị trường mua bán Nợ, thị trường chứng khoán, tạo ra nhiều thị trường cạnh tranh tự do, lành mạnh, cùng với việc phát huy những công cụ phòng chống rủi ro cho các hoạt động Ngân hàng. Điều này vừa giúp Nhà nước kiểm soát tốt hơn các chính sách tỷ giá, lãi suất, chính sách tài chính tiền tệ phù hợp với từng giai đoạn phát triển, vừa ảnh hưởng tốt tới sự phát triển của hoạt động bảo lãnh trong hệ thống các sản phẩm dịch vụ của NHTM. Bên cạnh việc định hướng các lĩnh vực phát triển mũi nhọn, Chính phủ không nên có quá nhiều sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là sự phân biệt giữa các NHTM và ngân hàng quốc doanh, nhằm khuyến khích việc phát triển hệ thống NHTM tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Chính phủ phải xây dựng một số văn bản pháp quy nhằm quy định những chuẩn mực trong việc xem xét cấp phép hoạt động cho các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp khi bắt đầu tiến hành việc thành lập doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh. Việc cấp phép kinh doanh phải dựa trên khả năng thực sự của các chủ đầu tư, hay của các cổ đông góp vốn. Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, nên tiến hành nhanh chóng việc cổ phần hoá, tạo khả năng độc lập trong hoạt động, và làm chủ tình hình tài chính của doanh nghiệp. Về việc ban hành một hệ thống pháp lý đồng bộ, ngoài các văn bản pháp lý đã ban hành như Quy chế bảo lãnh Ngân hàng với các quyết định: QĐ 283/2000 và QĐ 386/2001 của Ngân hàng nhà nước về bảo lãnh thì nhiệp vụ bảo lãnh mới chỉ được đề cập ở mức sơ lược trong các văn bản Luật có tính pháp lý cao như: Bộ luật dân sự, Luật NHNH, Luật tổ chức tín dụng. Do vậy Quốc hội và chính phủ phải quan tâm tới việc ban hành hệ thống các văn bản có tính pháp lý cao hơn, tiến tới xây dựng bộ luật về bảo lãnh nhằm tạo cơ sở cho hoạt động bảo lãnh được thực hiện đồng bộ và thống nhất. Bên cạnh đó, các văn bản liên quan khác tới các khía cạnh của nghiệp vụ bảo lãnh như : Công chứng, quy định về cầm cố thế chấp, quy định về xác định giá trị tài sản đảm bảo, thủ tục đấu giá tài sản, đăng ký giao dịch, các chế độ về hạch toán kế toán trong doanh nghiệp và trong Ngân hàng…nhằm có cơ sở thống nhất chặt chẽ trong quá trình thực hiện bảo lãnh. KẾT LUẬN Qua sự tìm hiểu khái quát về đặc điểm và chức năng của hoạt động bảo lãnh Ngân hàng thương mại, ta có thể thấy được vai trò quan trọng của hoạt động này đối với doanh nghiệp, đối với Ngân hàng và đối với nền kinh tế. Tại Trung tâm kinh doanh - Hội sở Techcombank, hoạt động bảo lãnh đã là một hoạt động dịch vụ Ngân hàng không thể thiếu trong quá trình phục vụ nhu cầu khách hàng của Techcombank. Bảo lãnh không những mang lại lợi nhuận cao hơn cho TTKD-HO, mà còn giúp nâng cao uy tín của Techcombank trên thị trường. Tuy vậy, với sự phát triển ngày càng mạnh của hoạt động bảo lãnh trong hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tín dụng, thì sự cạnh tranh trong lĩnh vực này đang ngày càng quyết liệt và diễn ra sôi động giữa các Ngân hàng hay giữa các tổ chức tín dụng khác như: công ty tài chính, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, Chính phủ, hay các Tổng công ty lớn. Điều này đặt ra cho TTKD-HO nói riêng và Techcombank nói chung phải có những sự khác biệt trong hoạt động bảo lãnh để tạo ra sức cạnh tranh, và thu hút được khách hàng tham gia bảo lãnh tại Techcombank. Để có được điều này, Techcombank trước hết phải khắc phục được những hạn chế và tồn tại về chất lượng hoạt động bảo lãnh không chỉ tại Hội sở mà phải áp dụng tại tất cả các chi nhánh của Techcombank để có thể nâng cao chất lượng bảo lãnh một cách đồng bộ trong toàn hệ thống, từ đó tiến hành phát triển hoạt động bảo lãnh và các hoạt động khác hoàn thiện hơn đồng thời nâng cao uy tín của Techcombank hơn nữa. Với mong muốn được góp sức cùng Ngân hàng, em đã mạnh dạn tìm hiểu những hạn chế và tồn tại mà hoạt động bảo lãnh tại TTKD-HO Techcombank đang vướng mắc để tìm ra một vài giải pháp giúp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại TTKD nói riêng và trong toàn hệ thống Techcombank nói chung. Tuy nhiên, những giải pháp này chỉ mang tính chất định hướng cho việc nâng cao chất lượng bảo lãnh, còn với mỗi giai đoạn, thời kỳ hay mỗi chi nhánh của Techcombank thì lại phải xây dựng những biện pháp cụ thể hơn, phù hợp hơn, khả thi hơn với chất lượng bảo lãnh của từng chi nhánh. Điều này thuộc trách nhiệm của ban lãnh đạo Techcombank trong quá trình duy trì, mở rộng và phát triển Techcombank theo từng giai đoạn và theo xu hướng chung của nền kinh tế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện bài viết với chất lượng cao nhất, song do hạn chế về thời gian tìm hiểu, kinh nghiệm và khả năng thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho bài viết, em không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nhìn nhận, phân tích và đánh giá vấn đề, do vậy bài viết của em còn cần được nghiên cứu tiếp. Em rất mong nhận được sự phê bình, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các cán bộ Ngân hàng tại TTKD-HO để bài viết của em được hoàn thiện hơn nữa. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Vũ Duy Hào và các anh chị phòng Tín dụng doanh nghiệp Trung tâm kinh doanh - Hội sở Techcombank đã giúp đỡ em trong quá trình hoàn thiện nhận thức về hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoàn thiện bài viết Chuyên đề này. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36463.doc
Tài liệu liên quan