BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------------------------
Ngô Thị Bảo Châu
CẤU TRÚC, NGỮ NGHĨA, NGỮ DỤNG
CỦA PHÉP NỐI TRONG TIẾNG VIỆT
(SO SÁNH VỚI TIẾNG ANH)
Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRỊNH SÂM
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
So với các phân môn khác, ngữ pháp văn bản là một trong những phân môn
xuất hiện khá muộn và có
264 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2807 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối trong tiếng Việt (so sánh với tiếng Anh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lịch sử chưa dày.
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng,
chúng tôi thiết nghĩ đây là một trong những vấn đề đáng quan tâm. Thật sự, phép
nối đóng vai trò là thành tố tạo tính mạch lạc cho văn bản, là một trong những
yếu tố trọng yếu của vấn đề tạo lập và tiếp nhận văn bản.
Thế nhưng, thực tế là, nhiều nhà Việt ngữ học xem xét phép nối thông qua
phát ngôn, mà chưa xem xét nó thông quan khái niệm cú (clause). Chúng tôi,
đứng trên quan điểm “cú”, sẽ phân tích những đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa,
ngữ dụng của phép nối tiếng Việt.
Đặc biệt, trong khi tiếp xúc với tiếng Anh, người viết thấy có những điểm
tương đồng và khác biệt giữa phép nối của ngôn ngữ này với tiếng Việt; do đó,
người viết tiến hành so sánh phép nối giữa hai ngôn ngữ. Chính những sự tương
đồng phản ánh sự qui luật chung về tư duy, diễn đạt ý tưởng chung của nhân
loại; còn sự dị biệt lại phản ánh sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ cũng như sự
nghiêng về mặt hình thức ngữ pháp – tiếng Anh hay ngữ nghĩa – tiếng Việt của
hai ngôn ngữ.
Đồng thời, việc nghiên cứu đề tài này cũng phục vụ trực tiếp cho việc giảng
dạy phân môn Ngữ pháp văn bản, Tiếng Việt thực hành cũng như việc rèn luyện
ngoại ngữ của người viết.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Ngoài nước
Năm 1976, nhà xuất bản Lodon và Nework đã cho ra đời quyển “Cohesion
in English” –Phép Liên kết trong tiếng Anh của M.A.K Halliday và Ruqaiya
Hassan [108]. Đây có thể xem là công trình đầu tiên đánh dấu lịch sử nghiên cứu
về phép nối. Trong quyển sách, hai tác giả đã trình bày khá kỹ về các phép liên
kết: Quy chiếu (Reference), Phép thế (Substitution), Phép tỉnh lược (Ellipsis),
Phép liên kết từ vựng (Lexical cohesion) và trong đó có Phép nối (Conjunction).
Về phép nối, Halliday và Hassan nhấn mạnh rằng sự nối kết phải dựa trên mối
quan hệ ngữ nghĩa của chúng. Nhưng đó không phải là mối quan hệ cố định, mà
là “cái theo sau được kết nối một cách hệ thống với cái đã đi trước”. Đây là công
trình nghiên cứu khá kỹ và đi vào chi tiết vào phép nối nói riêng, các phép liên
kết khác nói chung. Sau đi đưa ra khái niệm về phép nối, Halliday và Hassan đã
phân phép nối thành 4 loại chính theo quan hệ ngữ nghĩa của chúng: i.Bổ sung
(Additive), ii.Đối lập (Adversative), iii.Nhân quả (Causal) và iv.Quan hệ thời
gian. Đồng thời, tác giả cũng thống kê một số liên từ biểu hiện những quan hệ
ngữ nghĩa trong phép nối, và phân tích một số liên từ tiêu biểu. Nhìn chung,
đóng góp lớn của công trình là về lí thuyết văn bản nói chung, phép nối nói riêng
cũng như những quan hệ ngữ nghĩa trong phép nối.
Đến năm 1998, ấn bản lần 2 của M.K.Halliday về “An Introduction to
Functional Grammer” - Dẫn luận ngữ pháp chức năng, (được tái bản lần 6) do
Hoàng Văn Vân dịch [31]. Trên cơ sở công trình thứ nhất năm 1976, Halliday
tiến hành bổ sung và sữa chữa những vấn đề có liên quan, đặc biệt về liên kết.
Công trình trình bày và phân tích khá kỹ về khái niệm Cú (Clause) và xem cú là
khái niệm cơ sở để soi sáng các góc độ của văn bản. Đây là công trình được
nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao và được xem là công trình không thể không
biết đến khi nghiên cứu ngữ pháp văn bản nói chung, phép nối nói riêng. Đầu
tiên, tác giả làm rõ khái niệm cú đứng trên ba kiểu ý nghĩa khu biệt hàm chứa
trong cấu trúc của một cú: i.Cú như là một thông điệp – “clause as a masage”
(cấu trúc Đề - Thuyết, ), ii. Cú như là một sự trao đổi – “clause as an exchange”
(hệ thống ngữ pháp và hệ thống thức (mood), Chủ – Vị (chủ ngữ ngữ pháp) và
iii.Cú như là sự thể hiện – “clause as a representation” (chủ ngữ logic: hành
thể, cú được xem như chứa đựng một nguyên tắc cơ bản để mô hình hóa kinh
nghiệm, tức là cú được xem xét như là một quá trình - process). Sau đó,
M.K.Halliday mở rộng khái niệm Cú - dưới cú (những tổ hợp nhỏ hơn cú) và
trên cú (những tổ hợp lớn hơn cú). Công trình cũng đưa ra sự biện luận khá kỹ
về việc chọn cú làm đơn vị cơ bản đề nghiên cứu ngữ pháp chức năng. Từ những
kiến thức nền tảng về “cú”, tác giả soi sáng vào khái niệm: Liên kết và Ngôn bản
(mục 9) - đây là nội dung trọng tâm mà chúng ta cần nghiên cứu. Ở mục này, tác
giả cũng trình bày những phép liên kết cơ bản, nhưng sự phân chia có khác
trước. M.K.Halliday nhập tỉnh lược và thay thế làm một; như vậy, từ năm phép
liên kết, trong công trình này chỉ còn bốn. Tác giả phân chia tỉ mỉ Phép nối theo
ba lĩnh vực: i.Chi tiết hóa (Elaboration), ii.Bành trướng (Expantion) và iii.Tăng
cường (Enhancement). Theo chúng tôi, cách nhìn nhận liên kết dựa trên khái
niệm “cú” của M.K.Halliday có nhiều ưu điểm, nó mang tính khái quát cao. Và
chúng tôi, trong luận văn này, phần lớn theo quan điểm của M.K.Halliday để
nghiên cứu phép nối của tiếng Việt. Đồng thời, trong công trình này, Halliday
cũng trình bày khá kỹ về các quan hệ ngữ nghĩa của phép nối. Trên cơ sở kế
thừa, chúng tôi soi sáng vào phép nối tiếng Việt; đồng thời phân chia lại, thay
đổi một số thuật ngữ để phù hợp với một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt.
Tóm lại, Halliday là một trong những người đặt những viên gạch đầu tiên
để xây dựng nền móng cho việc tìm hiểu phép nối nói riêng, liên kết nói chung.
Đến năm 1992, nhà xuất bản Philadelphia ở Amsterdam cho ra mắt bạn
đọc công trình của J.R.Martin [120] về “English Text – System and Structure”
(Văn bản tiếng Anh - Hệ thống và Cấu trúc). Đây có thể xem là công trình
nghiên cứu khá kỹ về các phép liên kết, trong đó có phép nối. Chính tác giả này
đưa đến bạn đọc khái niệm Nối bên trong (Internal relations) và Nối bên ngoài
(External relations) - điểm mới của tác giả so với Halliday. Và Martine đã đưa ra
những tiêu chí phân biệt hai loại quan hệ nối này. Đặc biệt, tác giả đã dựa vào
ngữ cảnh cụ thể (Circumtaintial identifying relationals) để phân biệt Nối bên
ngoài (External relations), và dựa vào khái niệm Phóng chiếu (Projection) để
nhận dạng kiểu Nối bên trong (Internal relations). Tác giả cũng chia từng loại
nối bên trong và bên ngoài theo các loại quan hệ: i.Bổ sung (Addictive relations),
ii.Nhân quả (Consiquential relations), iii.So sánh (Comparative relations),
iv.Thời gian (Temporal) và v.Định vị (Locative relations). Ở mục thứ 6 của
quyển sách, tác giả có đề cập đến: Conhesion and register (Liên kết và ngữ vực)
và Cohesive harmony analysis (Phân tích tính hài hòa liên kết). Ở phần thứ nhất
(Conhesion and register), tác giả chủ yếu tóm tắt và trích dẫn lại một số nhận
định của M.K.Halliday và Ruaqaiya Hassan về vấn đề có liên quan đến liên kết
và ngữ vực. Phần còn lại – Cohesive harmony analysis (Phân tích tính hài hòa
trong liên kết), J.R.Martin đề cập đến kỹ năng (hay thủ thuật – Procedure) khảo
sát sự tương tác của chuỗi sở chỉ, chuỗi từ vựng và ngữ pháp kinh nghiệm. Thủ
pháp Cohesive harmony analysis chủ yếu để xem xét sự liên kết trong đơn vị văn
bản; do đó, nó chú ý đến môi trường tồn tại của phép liên kết. Tuy nhiên, công
trình chỉ là những bước phát thảo sơ bộ về phép nối.
Năm 2000, quyển “English Grammer - An Introduction” của Peter Collins
và Carmella Hollo [93] được tái bản (lần 2). Quyển sách gồm hai phần
A.Grammatical Decription (Mô tả ngữ pháp) và B.Looking at language in
context (Xem xét ngôn ngữ trong ngữ cảnh). Ở phần thứ 2, mục Cohesion – Liên
kết và Analysis of Cohesion in sample texts – Phân tích phép liên kết trong
những văn bản tiêu biểu - đã đề cập đến vấn đề liên kết và phép nối. Theo hai tác
giả, ở cấp độ vĩ mô, có các loại phép liên kết: 1).Deictic (Trực chỉ), 2).Generic
(Loại Thể) và 3).Logical signposts (Dấu hiệu logíc). Ở cấp độ vi mô, liên kết có
các loại: 1).Đồng sở chỉ (Co-reference), 2).Thay thế (Substitution) và 3).Tỉnh
lược (Ellipsis).
Theo hai tác giả này, 1).trực chỉ (deictic) là những đơn vị định vị các nhân
vật tham gia giao tiếp, định vị không gian, thời gian (ngữ cảnh hội thoại và thời
gian hội thoại). Cụ thể đó là: i.Participant identification (Nhận ra người tham
gia giao tiếp), ii.Place and time indicators (yếu tố chỉ không gian, thời gian),
iii.Temporal ordering expressions (Sự diễn đạt theo trật tự thời gian) và iv.Tense
and aspect (Thì và Thể - cũng là một yếu tố xác định thời gian của hành động).
Về 2).Loại thể (Generic), đó là những yếu tố làm cho bố cục của văn bản trở nên
rõ ràng, theo một mẫu thức xác định: “in set patterned ways”, chẳng hạn như
phân chia văn bản thành từng chapter (chương), paragraphs (đoạn)…Về 3).Dấu
hiệu logic (Logical signposts), đó là những dấu hiệu trình bày ngữ liệu theo một
chuỗi logic, chuỗi trật tự thời gian như: first (đầu tiên), then (sau đó)…, on one
hand (một mặt), on the other hand (mặt khác)…Tóm lại, ba ý nghĩa ở cấp độ vĩ
mô trên chính là những quan hệ ý nghĩa chỉ thời gian, không gian và trật tự diễn
đạt.
Và hai tác giả đi sâu vào từng khía cạnh: i.Text Orientation (Định hướng
văn bản), ii.Grammatical cohesion (Liên kết ngữ pháp), iii.Logical connectors
(Những yếu tố liên kết logíc) và iv.Lexical Cohesion (Liên kết từ vựng). Trong
mỗi phần vừa nêu, Peter Collins và Carmella Hollo đều có đề cập ít nhiều đến
phép nối. Chẳng hạn, trong phần Text Orientation (Định hướng văn bản), hai tác
giả có kể đến: Temporal ordering expression – Diễn đạt trật từ thời gian (Tr164)
và liệt kê liên từ như: First, second, next... Đến mục Logical connectors, tức
những yếu tố liên kết logic, tác giả lại đưa ra bốn loại liên kết logíc: i.Addictive
(Bổ sung), ii.Adversative (Tương phản), iii.Causal (Nhân-quả) và iv.Temporal
(Thời gian) (tr171-172). Bốn kiểu này là những loại phép nối mà M.K.Halliday
và các tác giả khác đã nêu. Do đó, trên cơ sở kế thừa, chúng tôi sẽ tiến hành bổ
sung và điều chỉnh những vấn đề trùng lắp.
Ngoài ra, lấy cú làm đơn vị phân tích cơ bản, Peter Collins và Carmella
Hollo còn đề cập đến những loại cú (clause types) và những mối quan hệ giữa
các cú hay câu như: Đẳng lập (coordination) và Chính phụ (subordination). Nhìn
chung, có đề cập đến lí thuyết, nhưng công trình chủ yếu đi vào các khía cạnh
ứng dụng của phép nối.
Năm 2008, công trình bằng tiếng Anh của David Nunan [64] “Introduction
Discourse Analysis” - “Dẫn nhập phân tích diễn ngôn” được hai dịch giả Hồ Mỹ
Huyền và Trúc Thanh dịch sang tiếng Việt. Sau khi đề cập đến khái niệm diễn
ngôn cũng như phân biệt khái niệm diễn ngôn và văn bản, Nunan đề cập đến liên
kết, trong đó có phép nối. Ngoài việc đề cập đến khái niệm phép nối, tác giả còn
đề cập đến bốn loại quan hệ ngữ nghĩa chủ yếu trong phép nối, đó là: i.Nghich
đối, ii.Bổ sung, iii.Thời gian và iv.Nguyên nhân. Ngoài ra, công trình còn đề cập
đến khái niệm và phân tích một vài cấu trúc đề thuyết trong diễn ngôn. Do vậy,
những lí thuyết của công trình có thể được xem là cơ sở lí thuyết để nghiên cứu
ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối trong tiếng Việt.
Như vậy, trong khả năng bao quát tư liệu có thể chưa đầy đủ của chúng
tôi, phép nối đã được nhiều nhà Anh ngữ học chú ý đến; và những thành tựu của
nó, nhất là về mặt lí thuyết cũng đạt được những nền móng cơ bản.
2.2. Trong nước
Phạm vi trong nước, cũng có khá nhiều công trình đề cập đến văn bản, liên
kết và cấu trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng của phép nối.
Năm 1980, Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội đã
giới thiệu với bạn đọc công trình “Ngữ pháp tiếng Việt” của Hoàng Trong Phiến
[66]. Trong công trình này, điểm đóng góp nổi bật của tác giả chính là đưa ra các
mô hình của câu ghép ứng với từng loại quan hệ trong câu ghép - mà theo quan
niệm của chúng tôi là phép nối như: i.câu nhân quả, ii.câu điều kiện, iii.câu nhân
nhượng, iv.câu mục đích, v.câu so sánh, vi.câu đồng loại, vii.câu tương phản,
viii.câu lựa chọn và ix.câu gộp. Chính những mô hình này là tài liệu vô cùng quí
báu để chúng tôi xem xét các quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối cũng như
bổ sung thêm vào phép nối một hệ thống liên từ thể hiện sự nối kết giữa các cú
hay phát ngôn.
Năm 1985 (tái bản vào 05/04/1999), công trình của Trần Ngọc Thêm [76]
về “Hệ thống liên kết và văn bản Tiếng Việt” đã được công bố. Đây là công trình
có giá trị và đánh dấu một bước phát triển mới của ngữ pháp văn bản nói chung,
phép nối nói riêng. Công trình nghiên cứu sâu rộng các khía cạnh của văn bản;
khái quát cả ba bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng của phép nối. Công
trình trình bày ba phần chính. Phần 1 gồm ba chương, đề cập về các khái niệm
và cái nhìn khái quát về “Liên kết văn bản”. Ở phần 2, tác giả bắt đầu đi vào
“Các phương thức liên kết giữa các phát ngôn”. Đây là chương đề cập đến các
phương thức (phép) liên kết ở mặt hình thức, trong đó có phép nối. Trần Ngọc
Thêm dựa trên các loại phát ngôn, chia phép liên kết thành hai loại cơ bản: Phép
nối lỏng (dựa trên phương thức liên kết hợp nghĩa và phát ngôn hợp nghĩa) và
Phép nối chặt (dựa trên phương thức liên kết trực thuộc và phát ngôn trực thuộc
(mà tác giả gọi là ngữ trực thuộc). Trong phép nối lỏng, Trần Ngọc Thêm còn
trình bày mô hình của các yếu tố từ vựng làm thành phần chuyển tiếp hay các từ
làm phụ tố có ý nghĩa so sánh (mà chúng tôi gọi chung là liên từ) như: cũng, lại,
vẫn, càng, còn, cứ…Tác giả cũng đề cập đến cấu trúc khái quát của phép nối:
ArB cũng như trình bày những quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối. Dựa trên
quan hệ ngữ nghĩa, tác giả chia phép nối theo ba quan hệ cơ bản, mỗi quan hệ lại
có những tiểu loại cơ bản: i.Quan hệ định vị (thời gian, không gian); ii.Quan hệ
logic diễn đạt (bao gồm: Trình tự diễn đạt, Thuyết minh- bổ sung và Xác minh –
nhấn mạnh); và iii.Quan hệ logic sự vật (bao gồm: Nhân quả, và Tương phản –
đối lập). Còn phần 3, tác giả đề cập đến khái niệm liên kết ở mặt nội dung. Tóm
lại, đứng trên quan điểm phát ngôn, Trần Ngọc Thêm đã mô tả những đặc điểm
cơ bản của một phép nối nói chung. Từ mô hình lí thuyết chung này, chúng tôi
kế thừa có điều chỉnh để khảo sát mô hình của một số tiểu loại phép nối. Có thể
nói, đây là một trong những công trình nghiên cứu sâu và kỹ về phép nối của
tiếng Việt.
Năm 2001, Nhà xuất bản Giáo Dục đã ra mắt bạn đọc công trình của
Nguyễn Thị Việt Thanh [74] về “Hệ thống kiên kết lời nói tiếng Việt”. Đối tượng
nghiên cứu là ngôn bản, đề cập khá sâu về những vấn đề khái quát chung liên
quan đến liên kết lời nói, tác giả chia liên kết lời nói thành hai phương thức
i.“Bằng phương thức ngữ kết học” và ii.“Bằng phương thức ngữ dụng học”.
Trong phương thức liên kết ngữ kết học lại được chia thành ba tiểu loại: Liên kết
duy trì chủ đề, Liên kết phát triển chủ đề và Liên kết logic. Trong đó, phép nối
thuộc phương thức liên kết logic. Tác giả cũng đã đề cập đến phép nối không có
liên từ: “mặc dù từ nối không được sử dụng nhưng quan hệ ngữ nghĩa vẫn được
xác lập” [74;50]. Nhưng chung qui lại, đóng góp chủ yếu của công trình là
nghiên cứu các phương tiện liên kết trên ngữ liệu lời nói.
Năm 2006, quyển “Văn bản và liên kết trong tiếng Việt: Văn bản, Mạch
lạc, liên kết, đoạn văn” của Diệp Quang Ban [6] được tái bản (lần thứ ba). Trong
công trình, tác giả trình bày thành từng bài mục rõ ràng về bốn nội dung đã nêu
trong nhan đề sách, rất tiện cho việc tham khảo. Ở phần 2, tác giả đã đề cập đến
phép liên kết, trong đó có Phép nối (từ tr132-134). Lấy phát ngôn làm cơ sở
nghiên cứu như Trần Ngọc Thêm, Diệp Quang Ban cũng chia phép nối thành hai
loại cơ bản: Phép nối lỏng và Phép nối chặt. Đặc biệt, ở phần một, tác giả đã đưa
ra khoảng 15 cách hiểu về khái niệm về văn bản, phân biệt khái niệm văn bản và
diễn ngôn, ngôn ngữ nói và viết và nêu lên những đặc trưng của một văn bản nói
chung. Trần Ngọc Thêm cũng đã đề cập đến cấu trúc đề thuyết – cấu trúc mang
ý nghĩa thông báo trong văn bản.
Năm 2007, nhà xuất bản Đại học Sư phạm đã cho ra mắt bạn đọc quyển
“Văn bản” của tác giả Diệp Quang Ban [7] theo dự án đào tạo giáo viên THPT
cuả Bộ Giáo dục và Đào Tạo. Phải công nhận đây là công trình viết khá bao quát
về các khía cạnh của văn bản; công trình đề cập hầu hết các phép liên kết, trong
đó có phép nối. Trong bài viết của mình, Diệp Quang Ban đã đề cập đến phép
nối và các phương tiện nối; và các quan hệ ý nghĩa thường gặp trong phép nối.
Về phương tiện nối, ông chia làm hai loại lớn: Quan hệ từ (bình đẳng / phụ
thuộc) và Từ ngữ nối kết (đại từ thay thế/những tổ hợp từ ngữ có ý nghĩa quan hệ
và có tác dụng liên kết). Còn về các quan hệ thường gặp trong phép nối, ngoài 4
quan hệ mà Halliday đã nêu: i.bổ sung, ii.tương phản, iii.thời gian, iv.nhân quả;
Diệp Quang Ban còn đề cập thêm hai loại quan hệ nữa: mục đích và điều kiện.
Nhìn chung, các công trình là một sự tổng hợp từ các công trình đi trước nên sự
đóng góp của nó là không đáng kể.
Năm 2002, (tái bản 2005) công trình của Hoàng Văn Vân [31] ra đời “Ngữ
pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”.
Đây là công trình mà tác giả viết dựa chủ yếu vào luận án tiến sĩ được tiến hành
tại Khoa Ngôn ngữ học, đại học Macquarie, Australia với nhan đề tiếng Anh “An
Experiential Grammer of the Vietmam clause: A functional Description”. Công
trình dựa trên lý thuyết của M.K.Halliday về cú (clause) trong công trình “An
Introduction to Functional Grammer” (Dẫn luận ngữ pháp chức năng) để soi
sáng vào tiếng việt. Thật sự, công trình có một ý nghĩa đột phá, đem đến một
cách hiểu mới về ngữ pháp văn bản, bên cạnh cách hiểu cũ – dựa vào phát ngôn.
Nhìn chung, công trình là sự vận dụng của ngữ pháp Châu Âu vào tiếng Việt. Dù
chưa nghiên cứu sâu về phép nối, nhưng công trình ít nhiều đã khẳng định vai
trò, ý nghĩa của cú trong việc biểu thị kinh nghiệm (cú như là một sự thể hiện
“clause as a representation” để mô hình hóa kinh nghiệm theo quan điểm chức
năng hệ thống; do đó, nó có ý nghĩa về mặt lí thuyết cho việc chọn cú làm đơn vị
cơ sở của phép liên kết nói chung, phép nối nói riêng.
Nhìn chung, những công trình trên đã đề cập khá toàn diện về những vấn
đề chung về văn bản, liên kết và phép nối.
Năm 1995, Đỗ Thị Kim Liên [56] đã đề cập đến “Quan hệ ngữ nghĩa
trong câu ghép không liên từ” - Ngôn ngữ số 2/1995. Trong công trình này, tác
giả đã trình bày khá kỹ về quan niệm của các nhà ngữ pháp đi trước: một là
không đề cập đến loại câu ghép không liên từ, hai là không tách câu ghép không
liên từ thành một đối tượng nghiên cứu riêng. Tác giả cũng đề cập đến “những
nhân tố tạo nghĩa trong câu ghép không liên từ”. Đó chính là cấu trúc chuyền tải
ý nghĩa; các phương tiện liên kết như phụ từ tình thái, trật tự trước sau…; hay ý
nghĩa của các thành tố trong loại câu ghép này. Về quan hệ ngữ nghĩa, vì đánh
giá cao vai trò của vị ngữ trong việc thể hiện quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép
không liên từ, nên tác giả xem xét các kiểu quan hệ ngữ nghĩa chính của loại câu
ghép này trên hai phương diện cơ bản: i.Các kiểu quan hệ ngữ nghĩa giữa các vị
ngữ và ii.Số lượng các thành tố trong vị ngữ. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên
một số quan hệ ngữ nghĩa trong câu ghép không có liên từ như: i.Quan hệ ngữ
nghĩa đẳng kết, ii.Quan hệ đối sánh (so sánh đồng nhất, so sánh đối lập - khác
biệt, so sánh đối ứng); và iii.Quan hệ ngữ nghĩa tiếp liên (bao gồm 7 nhóm:
nhóm ý nghĩa thời gian – hành động, nhóm quan hệ nguyên nhân – kết quả,
nhóm quan hệ điều kiện – kết quả, quan hệ luận chứng – thuyết minh, quan hệ
ngữ nghĩa bao hàm, quan hệ giải thích, và quan hệ kết quả, nguyên nhân). Bên
cạnh đó, Đỗ Thị Kim Liên còn đề cập đến “giá trị của các cú trong chỉnh thể của
câu ghép”, phần này có liên quan ít nhiều đến tiêu điểm thông báo cũng như
quan hệ ngữ nghĩa giữa các cú. Nhìn chung, công trình là tài liệu vô cùng quí giá
để chúng tôi nghiên cứu phép nối không có liên từ, các quan hệ ngữ nghĩa trong
phép nối và một số cách diễn đạt mang tiêu điểm thông tin khác nhau trong phép
nối, tức ngữ dụng.
Cũng trong năm 2006, công trình “Các phương tiện tổ chức và liên kết văn
bản tiếng Việt” của Nguyễn Chí Hòa [45] ra đời. Công trình đánh dấu một bước
ngoặt lớn về khái niệm “câu ghép không có quan hệ từ” – đứng trên quan điểm
phát ngôn. Trước đó, một số bài viết của tác giả về vấn đề này đã được công bố
trên tạp chí Ngôn ngữ, chẳng hạn như bài “Về khái niệm ngữ pháp hóa và câu
ghép không có liên từ” [43]. Căn cứ vào kết quả công trình nghiên cứu của
Nguyễn Chí Hòa, cộng với những cứ liệu thống kê được¸ chúng tôi trình bày về
phép nối không có liên từ - đứng trên quan điểm cú (clause). Bên cạnh đó, công
trình “Các phương tiện tổ chức và liên kết văn bản tiếng Việt” của Nguyễn Chí
Hòa cũng đi sâu vào tìm hiểu các khía cạnh ngữ dụng của các liên từ tiếng Việt.
Vấn đề này được chúng tôi vận dụng một cách có bổ sung, điều chỉnh vào phần
ngữ dụng ở chương 2.
Năm 1999, Nguyễn Hữu Tiến [80] cũng đã giới thiệu với đọc giả bài
nghiên cứu của mình về “Quan hệ liên câu trong văn bản tiếng Việt” trong tạp
chí Ngôn ngữ Số 1. Công trình đã trình bày tóm lược sơ bộ những khái niệm của
Trần Ngọc Thêm về phép nối như khái niệm, phép nối đẳng lập và chính phụ,
cũng như chức năng thực hiện liên kết hồi qui và liên kết dự báo của phép nối.
Ngoài ra, tác giả cũng đề cập đến “vai trò, ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ ngữ
chuyển tiếp chỉ quan hệ nghịch đối”. Đó là tính kết nối, thông qua việc “phá vỡ
tính hoàn chỉnh vốn có của nó”. Có mâu thuẫn nhưng mức độ không cao nên
câu nghịch đối vừa “tạo lập quan hệ, vừa là dấu hiệu chỉ dẫn hay xác nhận quan
hệ”; và đây là quan hệ thực hiện liên kết “hướng ngoại, gián tiếp, hồi chỉ”. Tóm
lại, trên định hướng phân loại của Trần Ngọc Thêm, công trình đã cụ thể hóa
tương đối tỉ mỉ chi tiết, đồng thời phân chia thêm những tiểu loại mới về các loại
quan hệ ý nghĩa trong phép nối tiếng Việt. Đồng thời, tác giả cũng đi vào một
quan hệ cụ thể - quan hệ nghịch đối để phân tích giá trị về mặt ngữ dụng của loại
quan hệ này. Do đó, công trình có giá trị tham khảo về phương diện ngữ nghĩa,
ngữ dụng của luận văn.
Cũng năm 2004, Tạp chí Ngôn ngữ số 4 đã đăng bài viết của Võ Văn
Chương [16] về “Liên kết hồi qui trong ngôn ngữ học văn bản – Vài kiến nghị về
cách xác định và phân loại”. Đóng góp đầu tiên của tác giả là đi vào phân biệt
phép tỉnh lược và phép hồi quy. Sau đó, tác giả đi vào miêu tả các dạng thức của
liên kết hồi qui, dựa trên hai cơ sở chủ yếu sau: 1).dựa vào từ loại của kết tố và
2).dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa chủ tố và kết tố. Trên tiêu chí phân loại thứ
nhất, tác giả chia liên kết hồi qui thành hai dạng chủ yếu: i..kết tố hồi qui là một
đại từ - và ii.kết tố hồi qui là một ngữ danh từ. Hai loại này chủ yếu gặp trong
phép thế. Theo tiêu chí phân loại thứ hai, tác giả chia liên kết hồi qui thành ba
tiểu loại: i.kết tố hồi qui là sự lặp lại từ vựng của chủ tố, ii.kết tố hồi qui là một
ngữ danh từ đồng nghĩa với ngữ danh từ làm chủ tố, và iii.kết tố hồi qui là một
ngữ danh từ có khả năng tóm lược nội dung (resomptif) hoặc khái niệm hóa
(conceptual) chủ tố và kết tố liên kết với chủ tố thông qua phép liên tưởng. Tuy
đề cập chủ yếu đến phép thế, đôi chỗ có nhắc đến phép tỉnh lược, phép liên
tưởng mà chưa đi sâu vào chức năng thực hiện liên kết hồi qui của phép nối;
nhưng đề cập khá kỹ đến liên kết hồi qui nên công trình đã đưa ra nhiều hướng
gợi mở cho việc tìm hiểu cách thức liên kết này trong phép nối nói chung. Chính
liên kết hồi qui phục vụ đắc lực cho việc tìm hiểu cấu trúc phép nối ở chương 2.
Đến năm 2007, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội cho xuất bản
quyển “Dụng học Việt ngữ” của Nguyễn Thiện Giáp [30]. Tác giả dành gần 50
trang để đề cập đến khái niệm “Diễn ngôn” và “Văn bản”, và từ trang 176 đến
178, Nguyễn Thiện Giáp đề cập đến Phép nối. Tác giả chia phép nối thành bốn
loại theo quan hệ ngữ nghĩa của chúng: i.Đồng hướng, ii.Ngược hướng, iii.Nhân
quả và iv.Thời gian – trình tự. Thực chất của quan hệ đồng hướng là quan hệ bổ
sung, của quan hệ ngược hướng là quan hệ tương phản. Ngoài ra, tác giả có đề
cập đến liên kết hồi chỉ và khứ chỉ. Theo Nguyễn Thiện Giáp, liên kết hồi chỉ và
khứ chỉ là một phương thức liên kết độc lập với phép nối (và cả phép tỉnh lược,
phép thế). Nhưng trong phần ví dụ, tác giả đã dẫn ra một ví dụ về phép liên kết
hồi chỉ và khứ chỉ, mà đó chính là phép nối: “Chiều nay được nghỉ học. Thế thì
ta đi xem phim nhé.” [30;174]. Liên từ thế thì biểu hiện kết quả trong quan hệ
điều kiện nhân quả. Bốn ví dụ còn lại cũng là dạng phép nối không có liên từ
(mà theo một số tác giả là phép tuyến tính) – xem thêm trang 174. Nhìn chung,
bên cạnh việc đưa ra cách định danh mới về những quan hệ ý nghĩa cơ bản của
phép nối; đóng góp của công trình chủ yếu là ở chỗ gợi mở về chức năng thể
hiện liên kết hồi chỉ, khứ chỉ của phép nối nói chung.
Năm 2004, Lê Thị Minh Hằng [39] đã đóng góp bài viết về “Một đề nghị
phân loại câu điều kiện tiếng Việt” cho tạp chí Ngôn ngữ (số 2). Sau khi thống
kê một số cách phân loại câu điều kiện của một số nhà ngữ pháp Tiếng Việt như
Hoàng Tuệ, Hoàng Trọng Phiến…; tác giả đã đưa ra kiến nghị về một hướng
phân loại riêng. Đứng trên quan điểm ngữ nghĩa, Lê Thị Minh Hằng phân loại
câu điều kiện theo hai tiêu chí cơ bản: i.Quan hệ nhân – quả và ii.Tính hiện thực.
Theo tiêu chí “quan hệ nhân quả”, tác giả chia câu điều kiện thành hai bộ phận:
Bộ phận nêu quan hệ nhân quả và Bộ phận nêu quan hệ tiền đề - kết luận. Theo
tiêu chí “tính hiện thực”, tác giả chia câu điều kiện thành hai loại: Điều kiện giả
định và phi giả định (hiện thực). Hệ thống phân loại của tác giả được cụ thể hóa
như sau: 1).Điều kiện kết quả: i.Giả định (bao gồm: Giả thuyết, và Phản sự thật)
và ii.Phi giả định (bao gồm: Tất yếu và Tập quán. 2).Tiền đề - kết luận (gồm ba
tiểu loại: i.Suy đoán, ii.Sóng đôi và iii.Dẫn nhập tình huống). Ngoài ra, công
trình còn cung cấp một số liên từ (mà tác giả gọi là “chỉ tố đánh dấu về mặt hình
thức”) thể hiện những loại câu điều kiện trên. Nhìn chung, công trình xoáy sâu
vào một quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của phép nối - cung cấp một tiêu chí mới
đồng thời đưa ra một kết quả phân định mới về loại quan hệ này.
Ngoài ra, có một số công trình đánh dấu về việc nghiên cứu về ngữ dụng
trong phép nối.
Năm 2002, Tạp chí Ngôn ngữ số 5, đã giới thiệu bài báo của Nguyễn Thị
Thìn [77] về “Các từ thì, mà, nhưng ở đầu câu trong chức năng liên kết nghĩa
học”. Bảy trang của bài báo đã trình bày khá kỹ về tính chất đa chức năng của
một số liên từ thông dụng trong tiếng Việt. Chẳng hạn, trong công trình, tác giả
đã trình bày các chức năng biểu hiện quan hệ của liên từ “thì” như: i.quan hệ
thời gian, ii.quan hệ móc xích – đề thuyết, iii.quan hệ điều kiện/ nguyên nhân –
hệ quả. Và liên từ “mà” thể hiện bốn quan hệ chính (mỗi loại lại bao gồm những
tiểu loại) sau: i.quan hệ bổ sung (bao gồm ba quan hệ nhỏ: bổ sung – liệt kê, bổ
sung – tăng cấp, bổ sung – chú thích), ii.quan hệ đối lập (bao gồm ba quan hệ
sau: tương phản (trái ngược), nghịch điều kiện – hệ quả, và mâu thuẫn), iii.quan
hệ móc xích đề thuyết đồng thời với quan hệ nhân - quả và iv.quan hệ đối chiếu
tương đồng. Còn liên từ “nhưng” lại biểu hiện bốn quan hệ ngữ nghĩa sau: i.quan
hệ đối lập, ii.quan hệ bổ sung đồng thời với quan hệ đối lập, iii.quan hệ so sánh
tăng cấp đồng thời với quan hệ đối lập và iv.quan hệ hạn định đồng thời với
quan hệ đối lập. Qua công trình, chúng ta cũng nhận ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ
dụng, tức nghiêng về mặt nghĩa học, dụng học của các liên từ nói riêng, phép nối
nói chung.
Tạp chí ngôn ngữ số 4 năm 2005 đã ra mắt bạn đọc công trình “Quan hệ
ngữ nghĩa của các phát ngôn, giái trị tu từ của từ VÀ trong liên kết văn bản tiếng
Việt” của tác giả Lương Đình Khánh [51]. Tác giả nêu lên những quan hệ ngữ
nghĩa cũng như những chức năng chính yếu của liên từ này: i.quan hệ nguyên
nhân (nhân- quả), ii.quan hệ tương phản, iii.quan hệ bổ sung, và iv.quan hệ thời
gian – đồng thời và nối tiếp. Đây chính là cơ sở để chúng tôi xem xét ý nghĩa
ngữ dụng của một số liên từ đa chức năng trong phép nối tiếng Việt.
Trên tạp chí ngôn ngữ số 12, năm 2008 có bài đăng của Nguyễn Đức Dân
[23] về “Logic ngữ nghĩa của từ thì”. Trong bài viết, tác giả đã đề cập đến những
hàm ý ngữ dụng của cấu trúc nếu…thì, tức quan hệ điều kiện kết quả như: bác
bỏ, bác bỏ để khẳng định, giải thích, khuyên, từ chối, đánh giá, khuyên, …Đặc
biệt, Nguyễn Đức Dân đã trình bày những quan hệ điều kiện hệ quả không chứa
liên từ, mà ý nghĩa điều kiện của chúng vẫn được thể hiện.12 trang báo đã đi sâu
vào khai thác ý nghĩa ngữ dụng của phép nối nói chung, một quan hệ ngữ nghĩa
cơ bản của phép nối – quan hệ điều kiện – kết quả nói riêng. Điểm nổi bật của
tác giả này là đi vào khai thác ý nghĩa ngữ dụng của các quan hệ chủ yếu trong
nội bộ một phát ngôn.
Ngoài ra, năm 2005, công trình “Bắt buộc” và “tùy ý” về hai cách biểu
đạt nghĩa trong ngôn ngữ của Cao Xuân Hạo [37] đã gợi mở về vấn đề so sánh
đối chiếu về phép nối giữa tiếng Anh và tiếng Việt. Và tác giả đã khẳng định,
chính từ vựng và ngữ pháp là công cụ để xoay quanh trung tâm duy nhất là nghĩa
học: “Ta thường thấy có những ngữ nghĩa mà trong ngôn ngữ này thì biểu đạt
bằng phương tiện từ vựng mà trong ngôn ngữ kia lại biểu đạt bằng phương tiện
ngữ pháp” [37;6]. Tác giả cũng chỉ ra một cách khái quát những sự khác biệt về
đặc điểm của loại hình ngôn ngữ có biến đổi hình thái và ngôn ngữ đơn lập, qua
đó, tác giả khẳng định cấu trúc nội bộ của từng ngôn ngữ đóng vị trí trung tâm
trong việc biểu đạt nói chung. Nhìn chung, công trình có nghĩa phương pháp
luận và định hướng cho việc so sánh một số điểm tương đồng và dị biệt của phép
nối trong hai ngôn ngữ thuộc hai loại hình khác nhau. Cùng với công trình này,
một số luận án nghiên cứu về ngôn ngữ học đối chiếu giữa tiếng Việt và tiếng
Anh như: Thái Minh Đức [101] về “A Systematic Functional Interpretation of
Vietnamese Grammar” (1998), Nguyễn Thị Thu Hiền [40] về “Cấu trúc Đề -
Thuyết” trong bản tin tiếng ._.Anh và tiếng Việt” (2008)... đã gợi mở về việc đối
sánh phép nối ở hai ngôn ngữ này.
Trên cơ sở kế thừa những công trình lí thuyết và thực tiễn quan sát những
bài viết cụ thể, luận văn này đặt nhiệm vụ cho mình là trên cứ liệu tiếng Việt,
khảo sát phép nối một cách hệ thống và toàn diện hơn.
3. Mục đích ngiên cứu
Chọn và nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm hướng đến những vấn đề sau:
- Làm rõ cấu trúc và chức năng của phép nối trong văn bản. Từ đó thấy được
phần nào vai trò của phép nối trong vấn đề tạo lập và tiếp nhận văn bản.
- Đề xuất một số cánh hiểu, cách phân chia mới về cấu trúc và ngữ nghĩa của
phép nối, cũng như đưa ra một số đặc điểm ngữ dụng của các liên từ trong phép
nối.
- Tìm và nêu lên những đặc điểm nổi bật của phép nối trong tiếng việt và
tiếng Anh. Đồng thời có những đối sánh cần thiết giữa hai ngôn ngữ để làm rõ,
làm nổi bật những đặc điểm đề cập. Từ đó, giúp ích phần nào cho việc học ngoại
ngữ và giảng dạy tiếng Việt của bản thân.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do sự hạn hẹp về kiến thức, thời gian cũng như quy mô của công trình,
chúng tôi chỉ tập trung chú ý vào những khía cạnh cơ bản sau:
- Như đã xác định, phép nối được chúng ta khảo sát trên ba bình diện: cấu
trúc, ngữ nghĩa, ngữ dụng. Và có thể phép nối có liên quan mật thiết với với một
số phép liên kết khác, nhưng đối tượng tiếp cận chính của chúng tôi vẫn là phép
nối.
- Hình thức là hình thức của một nội dung, tuy nhiên, trong cách tiếp cận
của chúng tôi, mặt hình thức của phép nối được chú ý nhiều hơn mặt nội dung.
- Khi nghiên cứu về phép nối, chúng tôi chỉ chú ý đến những đơn vị có
chức năng nối hai hay nhiều cụm câu (cú), phát ngôn với nhau, mà không xem
xét những trường hợp liên kết trong nội bộ một phát ngôn, chẳng hạn: Nam và
An là bạn thân. Như vậy, chúng tôi chỉ khảo sát nối giữa các cú, không chú ý đến
nối trong nội bộ một cú.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài một số thủ pháp nghiên cứu mà bất kỳ công trình nào, dù khoa học
tự nhiên hay khoa học xã hội đều phải sử dụng như sưu tập, miêu tả, phân loại;
luận văn này sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Tính hệ thống, mặt cấu trúc bên trong
và các loại quan hệ trong phép nối được luận văn quan tâm, vận dụng.
- Phương pháp ngữ nghĩa – cú pháp: Nói tới phép nối, là nói tới các loại
quan hệ ngữ nghĩa, do vậy phương pháp này được ưu tiên phân tích.
- Phương pháp phân tích ngữ dụng: Phép nối chỉ được thực hiện một cách
rõ ràng trong những hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Do vậy, các yếu tố như ngữ
cảnh, thể loại, tính tương tác được luận văn vận dụng một cách tổng hợp.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn được triển khai trong ba chương chính sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung
1.1. Văn bản
1.2. Liên kết
1.3. Phép nối
1.4. Tiểu kết
Chương 2: Phép nối trong tiếng Việt
2.1. Cấu trúc
2.2. Ngữ Nghĩa
2.3. Ngữ dụng
2.4. Tiểu kết
Chương 3: Một vài đối sánh về phép nối trong tiếng Anh
và tiếng Việt.
3.1. Cấu tạo
3.1.1. Tương đồng
3.1.2. Dị biệt
3.2. Ngữ nghĩa
3.1.1. Tương đồng
3.1.2. Dị biệt
3.3. Ngữ dụng
3.1.1. Tương đồng
3.1.2. Dị biệt
3.4. Tiểu kết
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Văn bản
1.1.1. Khái niệm
Có nhiều quan niệm khác nhau về văn bản. Một số tác giả cho rằng văn
bản là sản phẩm của cả hoạt động viết và nói, tức giao tiếp nói chung.
Sách giáo khoa Tiếng Việt 9 (NXBGD – 1995) định nghĩa văn bản như
sau: “Văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, nó là một
thể thống nhất có tính trọn vẹn về nội dung, hoàn chỉnh về hình thức”.
D.Crystal cũng quan niệm rằng “Văn bản là một sản phẩm diễn ngôn
xuất hiện một cách tự nhiên dưới dạng nói, viết hoặc biểu hiện bằng cử chỉ,
được nhận dạng vì những mục đích phân tích. Nó thường là một chỉnh thể
ngôn ngữ với một chức năng giao tiếp có thể xác định được, ví dụ như một
cuộc thoại, một tờ áp phích.” [97;72].
Nhưng một số tác giả lại cho rằng văn bản chỉ thuộc dạng viết.
Theo David Nunan: “…tôi sẽ sử dụng thuật ngữ văn bản để chỉ bất kì
cái nào ghi bằng chữ viết của một sự kiện giao tiếp.”[64;21], bởi tác giả phân
biệt khái niệm văn bản với khái niệm diễn ngôn - văn bản trong ngữ cảnh, tức
văn bản nói.
Theo G. Cook thì “Văn bản: một chuỗi ngôn ngữ giải quyết được ở mặt
hình thức, bên ngoài ngữ cảnh.” [95;158].
G.Brown và G.Yule cũng khẳng định: “Chúng ta sẽ sử dụng văn bản
như một thuật ngữ chuyên môn, để nói đến việc ghi lại bằng ngôn từ của một
hành động giao tiếp.” [10;6].
Theo Bùi Tất Tươm, văn bản luôn tồn tại trong quá trình giao tiếp,
được đặt trong một bối cảnh giao tiếp nhất định. Theo quan điểm của Jacques
Lerot – Précis de lingúitique générale, tác giả này khẳng định: “Văn bản là
một phần của lời nói có tính độc lập và mạch lạc tạo thành một hành động
giao tiếp hoàn chỉnh mà nội dung được tổ chức xoay quanh một đề
tài.”[84;65].
Diệp Quang Ban, trong công trình “Văn bản và liên kết trong tiếng
Việt” đã đề cập đến định nghĩa của Barthes như sau:
“Chúng ta sẽ gọi cái khách thể của xuyên ngôn ngữ học
(translinguistics) là diễn ngôn (discourse) – tương tự như văn bản (texte) do
ngôn ngữ học nghiên cứu, và chúng ta sẽ định nghĩa nó (hãy còn sơ bộ) như là
một đoạn lời nói hữu tận bất kỳ, tạo thành một thể thống nhất xét từ quan
điểm nội dung, được truyền đạt cùng với những mục đích giao tiếp thứ cấp,
và có một tổ chức nội tại phù hợp với những mục đích này, vả lại, (đoạn lời
này) gắn bó với những nhân tố văn hóa khác nữa, ngoài những nhân tố có
quan hệ đến bản thân ngôn ngữ (langue).” (Barthes) (dẫn theo [6];15-16 ).
Tán thành quan điểm thứ nhất về văn bản và để tiện cho việc khảo sát,
chúng ta tạm theo quan niệm của Halliday về khái niệm văn bản.
Theo Halliday, văn bản – một đơn vị của ngôn ngữ - được xác định
không phải dựa vào độ dài ngắn, dạng nói hay viết - “witten or spoken”, bao
gồm một động từ hay nhiều…mà dựa vào tính chỉnh thể, thống nhất về nội
dung ngữ nghĩa của nó - “a semantic unit”: “The word text is used in
linguistics to refer any passage, spoken or written, of whatever of length, that
does form a unified whole.” [108;1] (Văn bản là một thuật ngữ ngôn ngữ học
được dùng để chỉ bất cứ phần văn bản nào, dù là dạng nói hay viết, dù là dài
hay ngắn, nhưng phải là một chỉnh thể thống nhất); hay – “a text is a unit of
language in use” (văn bản là một đơn vị của ngôn ngữ tồn tại trong quá trình
sử dụng – giao tiếp hay tư duy).
Theo Halliday, khái niệm văn bản không phải bao giờ cũng được xác
định một cách rõ ràng. Theo tác giả, mọi người hay hiểu lầm rằng chúng ta có
thể dễ dàng xác định những bộ phận (câu, cụm câu) nào sẽ cấu thành nên một
văn bản. Nhưng thật sự thì văn bản được xác định tùy theo văn cảnh và nội
dung của những câu, cụm câu đi trước va sau nó: “…We can consider that a
new text begins where a sentence shows no cohesion with those that have
preseded.” (Một văn bản được đánh dấu ở chỗ bắt đầu một câu mà câu đó
không hề có mối quan hệ nào với những câu trước đó) [108;295].
Như vậy, theo Halliday nếu cụm câu (bao gồm nhiều câu – phát ngôn)
có mối quan hệ về ý nghĩa sẽ tạo thành một văn bản. Theo cách hiểu này,
Halliday chỉ quan tâm đến mội dung ý nghĩa mà không quan trọng hóa về mặt
hình thức của văn bản. Đồng thời, việc giải mã văn bản không phải là chuyện
dễ dàng và đơn giản, nó không chỉ đòi hỏi tri thức về ngôn ngữ học mà còn là
những kiến thức liên quan đến văn hóa, xã hội, tâm lí…
1.1.2. Đặc điểm
Bùi Tất Tươm đã đưa ra những đặc điểm của văn bản như: Tính mục
đích, tính hoàn chỉnh (nội dung và hình thức) và tính mạch lạc.
- Tính mục đích: Đó là ý định tác động của người nói, viết được cụ thể
hoá qua văn bản bằng lực ngôn trung của nó (ví dụ: miêu tả, tường thuật, nghi
vấn, yêu cầu, ra lệnh, khẳng định, thuyết phục, đề nghị…).
Tác giả Bùi Tất Tươm lại khẳng định: “Văn bản là sản phẩm của hoạt
động ngôn ngữ - một trong những công cụ của hoạt động ứng xử” mà lực
ngôn trung có thể thực hiện được hoàn toàn hay một phần mục đích giao tiếp.
Chúng tôi đồng ý với ý kiến của tác giả Bùi Tất Tươm, nhưng bổ sung
một vài điểm: Thứ nhất, văn bản là sản phẩm của hoạt động giao tiếp, nó
không là mục đích mà là công cụ của quá trình trao đổi thông tin, tư tưởng,
tình cảm giữa người và người. Thứ hai, không thể chỉ là mục đích của hoạt
động giao tiếp, văn bản là một chỉnh thể trong đó bao gồm các yếu tố như: nội
dung, mục đích, đối tượng, hoàn cảnh…giao tiếp.
- Tính chỉnh thể: Có thể hiểu đó là sự thống nhất giữa hai mặt nội dung
và hình thức, cả đề tài và chủ đề và tất cả các thành tố cấu thành văn bản.
Chủ đề: là vấn đề trung tâm mà văn bản đề cập, nó là cơ sở cho sự lí
giải, tiếp nhận văn bản. Chủ đề khác với đề tài - vấn đề được chọn từ thực tế
khách quan để làm cơ sở thể hiện chủ đề của văn bản.
Thông tin (có thể là hiển ngôn – thông tin bề mặt, trực tiếp của văn bản;
bao gồm thông tin cơ sở và thông tin bổ sung); hoặc hàm ngôn – thông tin
gián tiếp, thông tin chìm được suy ra dựa vào thông tin hiển ngôn và những tri
thức nền của cộng đồng ngôn ngữ đó.
Vì là một chỉnh thể, nên sự thay đổi hay mất đi bất cứ một thành tố nào
cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi của toàn bộ hệ thống (văn bản).
- Tính mạch lạc: Tức là sự liên kết bề sâu của văn bản, làm cho các ý
được rõ ràng, dễ hiểu. Tính mạch lạc có mối quan hệ mật thiết với tính logíc.
Chính sự thống nhất giữa chủ đề - đề tài là một trong những yếu tố tạo nên
tính mạch lạc cho văn bản. Vì thế, để đảm bảo cho văn bản có tính mạch lạc,
các thông tin phải được tổ chức một cách hợp lí (ví dụ theo quan hệ giải thích,
bổ xung, nhân quả, tương phản…), chủ đề bộ phận phải thống nhất với chủ đề
chung của văn bản. Và sự mạch lạc được sự hỗ trợ đắc lực của một số hình
thức diễn đạt (đặc biệt là phép nối mà chúng tôi sẽ đề cập sau).
Tóm lại: “Mạch lạc là tập hợp những quan hệ có ý nghĩa dùng cho mọi
văn bản, phân biệt văn bản với “phi văn bản” và làm phương tiện liên hệ phụ
thuộc lẫn nhau về nội dung giữa các câu, các đoạn văn cụ thể. Mạch lạc
không nêu văn bản thông tin cái gì, mà nêu văn bản tổ chức thành chỉnh thể
ngữ nghĩa như thế nào?” [84;370].
Rõ ràng, mạch lạc thuộc phần nội dung, nhưng nó không nằm trong nội
dung thông tin của văn bản mà là sự liên kết về mặt logíc - ngữ nghĩa của văn
bản. Và thật sự việc phát hiện ra tính mạch lạc của văn bản không phải là điều
dễ dàng. Nó đòi hỏi người tiếp nhận phải có đủ năng lực ngôn ngữ, vốn văn
hoá cũng như nắm vững tâm lí chung của cộng đồng ngôn ngữ đó.
Về mặt hình thức, văn bản được cấu thành từ một hay nhiều đoạn văn -
đánh dấu từ chỗ viết lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống dòng. Hay những hình
thức thể hiện sự mạch lạc như: đại từ, quán từ/ngữ, liên từ…thông qua những
mối quan hệ ý nghĩa: liệt kê, nối tiếp, nhân – quả…
Còn Bùi Minh Toán cũng nêu ra đặc điểm về tính chỉnh thể và tính mục
đích của văn bản. Tuy nhiên, tác giả này không đề cập đến tính mạch lạc như
Bùi Tất Tươm, mà lại đề cập đến tính liên kết của văn bản: “đó là mối quan
hệ qua lại chặt chẽ giữa các câu, các đoạn, giữa các phần, các bộ phận của
văn bản.” [82;26].
Theo chúng tôi, tính liên kết có mối quan hệ chặt chẽ với tính mạch lạc
và ngược lại. Tuy nhiên, khi đề cập đến khái niệm mạch lạc, nó nghiêng về
khía cạnh nội dung – ý nghĩa (mặc dù, để tạo tính mạch lạc, chúng ta có thể
sử dụng các phương tiện hình thức); trong khi đó, khái niệm liên kết sẽ bao
hàm cả hai bình diện nội dung và hình thức. Do đó, chúng ta xem “tính liên
kết” là một đặc trưng tiêu biểu của văn bản sẽ bao quát và phù hợp hơn.
1.2. Liên Kết
1.2.1. Đơn vị cơ sở của phép liên kết
1.2.1.1. Khái niệm cú – chủ cú và kết cú
1.2.1.1.1. Khái niệm cú
Theo Trần Ngọc Thêm [76], “tính liên kết” được coi là một thuộc tính
đặc thù chỉ có ở cấp trên câu, và tác giả căn cứ vào Phát ngôn để xác định
tính liên kết của văn bản. Thực sự, phát ngôn là sự hiện thực hoá của mô hình
câu, hay chính là câu trong quá trình giao tiếp. Đây chính là điểm nổi bật
trong lí thuyết của Trần Ngọc Thêm, bởi tác giả đã gắn “câu” nói riêng, ngôn
ngữ nói chung với quá trình giao tiếp, với quá trình ngôn ngữ hành chức.
Vẫn thừa nhận đơn vị giao tiếp cơ bản, tức đơn vị mang nội dung thông
báo và hình thức thể hiện hoàn chỉnh là phát ngôn; nhưng chúng tôi chọn cú
(clause) làm cơ sở cho các phép liên kết liên kết nói chung, phép nối nói
riêng.
Trong nhận thức của chúng tôi, cú là một mệnh đề mà nói như Halliday
là nó gồm hai thành tố, đó là Đề (Theme, Topic) là thành phần mở đầu văn
bản (thường nằm bên trái) và là thành phần nêu lên đối tượng; còn Thuyết
(Rhème, Comment) (thường nằm bên phải) là cái nói về cái Đề. Và theo trật tự
thông thường thì Đề trước Thuyết sau. Nếu như Halliday coi Đề - Thuyết là
cấu trúc cơ bản của quan hệ ngữ nghĩa và thông báo thì Cao Xuân Hạo lại coi
nó như là một quan hệ cơ bản của ngữ pháp. Nhìn chung, đây là một vấn đề
khá phức tạp. Mặc dù đối tượng của luận văn này là phép nối, nhưng không
thể không đề cập đến vấn đề hữu quan này.
Tuy nhiên, để tiện cho việc miêu tả, chúng tôi quan niệm cú là một mệnh
đề (clause) bao gồm hai thành phần cơ bản chủ - vị. Nghĩa là, trong cú có thể
xuất hiện các mối quan hệ ngữ pháp như đẳng lập, chính phụ nhưng nó buộc
phải có mối quan hệ chủ vị. Và như vậy, có những trường hợp cú sẽ trùng với
phát ngôn; nhưng cũng sẽ có những trường hợp những phát ngôn; đặc biệt là
phát ngôn phức, sẽ bao gồm nhiều cú.
1.2.1.1.2. Chủ cú và kết cú
Căn cứ theo những tiêu chí khác nhau, chúng ta có những loại cú khác
nhau. Nếu căn cứ và chức năng “làm đơn vị liên kết cơ bản”, cú được chia
thành:
+ Chủ cú: Cú làm cơ sở liên kết cho cú còn lại. Về vị trí, chủ cú thường là cú
đứng đầu trong hai cú tham gia liên kết.
Họ tự hỏi như vậy, rồi lại tự trả lời bằng những tiếng kêu trời thật to. Bởi vậy, ánh sang
trở lại thật đã đẩy một khối nặng nề đè trên ngực họ. [NC,LT;178]
+ Kết cú: Cú thể hiện sự liên kết thông qua cú còn lại. Thường đó là cú thứ
hai và là những cú có liên từ đứng trước.
Vd: Cái sữa của thập phương quả có tốt hơn cái sữa của một người chăng? Có thể nói nó
lớn nhanh như những đứa trẻ được bú no sữa mẹ. [NC,NĐ;73]
Trường hợp phép nối biểu thị quan hệ qua lại (chính phụ), liên từ đi
thành từng cặp sóng đôi và có mặt tại cả hai cú là những trường hợp khó xác
định chủ hay kết cú, chẳng hạn:
Tuy trong số bốn ông to nhất chẳng có ông nào khoẻ răng để có thể gặm nổi cái móng giò,
nhưng cũng chẳng ông nào chịu mất. [NC,ĐMG;103]
Ở đây, để tiện cho việc miêu tả, chúng ta tạm xác định chủ cú hay kết
cú dựa theo quan điểm truyền thống về mệnh đề chính phụ. Tức cú mang nội
dung chính - trọng tâm, điểm nhấn của thông tin là chủ cú (cú được gạch
dưới). Còn kết cú là cú phụ, nó thường bổ sung những ý nghĩa phụ như: nêu
nguyên nhân, điều kiện, đưa ra ví dụ minh họa, đính chính, giải thích…cho cú
chính. Trong ví dụ trên, cú thứ nhất là “chủ cú”, cú thứ hai là “kết cú”.
Còn trong phép nối thể hiện quan hệ đẳng lập, có nhiều liên từ, một số
trường hợp, chúng ta rất khó xác định chủ hay kết cú, bởi lẽ hai cú (phát
ngôn) có vai trò ngang nhau trong việc thực hiện liên kết:
Vd: Mới đầu còn được ngày ba tấm. Sau cùng thì một tấm cũng không còn có nữa
[NC,MBN;159].
Trường hợp này, ta không có chủ hay kết cú. Thông thường, các cú
trong phép nối thể hiện quan hệ về thời gian, không gian, logic diễn đạt là
những cú thuộc kiểu này.
Chú ý rằng, đặc điểm vừa biện giải chỉ xuất hiện trong quan điểm lấy
cú làm đơn vị liên kết cơ bản; nhưng với quan điểm phát ngôn, tình hình sẽ
khác hẳn.
1.2.1.2. Cú - đơn vị liên kết cơ bản
Chúng tôi chọn cú làm đơn vị cơ sở để phân tích phép liên kết nói chung,
phép nối nói riêng vì những lí do chính yếu sau.
Về mặt phương pháp:
- Các công trình ngôn ngữ học theo khuynh hướng ngữ pháp chức năng
hệ thống từng sử dụng đơn vị cú để nghiên cứu ở cả hai ngôn ngữ. Chẳng hạn,
tiếng Anh: Halliday [108,111], Tôn Thị Mỹ Nhật [129], Thái Minh Đức
[101]; tiếng Việt: [Hoàng Văn Vân [88], Nguyễn Thị Thu Hiền [40] …
- Theo quan điểm ngữ pháp chức năng, chúng ta cần chọn một đơn vị
thống nhất để phân tích phép nối.
Về mặt chức năng, nhìn một cách khái quát, sỡ dĩ cú có thể đảm nhận
chức năng là đơn vị liên kết cơ bản vì những lí do chính sau:
Thứ nhất, cú là đơn vị nhỏ nhất mang ý nghĩa thông báo tương đối trọn
vẹn: “cú là một thông điệp” – clause as a mesage (Halliday). Đó chính là cấu
trúc đề - thuyết mang ý nghĩa thông báo được thể hiện qua cú.
Thứ hai, cú có thể đảm đương là đơn vị cơ sở thực hiện chức năng giao
tiếp – cú như là sự trao đổi (clause as an exchange). Ở khía cạnh này, chúng
tôi nhấn mạnh đến chức năng trao đổi thông tin qua chủ ngữ, mà Halliday đã
khẳng định: “chủ ngữ là sự bảo hành cho sự trao đổi. Nó là thành phần người
nói thực hiện để chịu trách nhiệm cho tính hợp lệ của điều mà mình đang
nói.” [31;102].
Cấu trúc chủ vị chứng tỏ cú là một đơn vị có cấu trúc ngữ pháp tương đối
ổn định, hoàn chỉnh; và nó là một trong những cấu trúc cơ bản làm nền tảng
để cấu tạo các đơn vị ngữ pháp cao hơn. Thật sự, cú là một đơn vị độc lập và
riêng biệt, do đó, nó phải được phân tích riêng biệt như một đơn vị cơ bản.
Theo Halliday:“mối quan hệ giữa câu và cú giống như mối quan hệ giữa từ
và cụm từ: câu được tiến hóa bằng việc mở rộng ra khỏi phạm vi cú”[31;357].
Như vậy, về mặt chức năng, cú có thể có đảm nhiệm những chức năng tương
tự như phát ngôn. Nó chính là những ngữ đoạn có khả năng đảm nhiệm nồng
cốt cơ bản của một phát ngôn hoàn chỉnh. Và cú sẽ trở thành phát ngôn khi cú
được ngắt bằng các dấu ngắt phát ngôn (dấu chấm, chấm than, chấm hỏi,
chấm cảm, chấm lửng…), khi đó phát ngôn là một cú đơn.
Thứ ba, cú như là một sự thể hiện – clause as a representation, nó đóng
vai trò thể hiện các quá trình kinh nghiệm đang diễn ra của người tạo lập văn
bản. Mà trong đó, hành thể (người thực hiện hành động) là tham tố tích cực,
đóng chức năng cơ bản trong sự thể hiện này.
Đứng trên quan điểm chức năng, Hallliday luận giải việc tại sao không
chọn đơn nhỏ vị hơn cú (âm vị, hình vị, từ, cụm từ) làm cơ sở cho phép liên
kết mà lại chọn cú: “Chúng tôi sẽ không đề cập đến cấu trúc đến cấu trúc
thành tố nội tại của từ; mối quan tâm chính của chúng tôi là được đặt vào các
đơn vị cao hơn từ, đặc biệt là vào “CÚ” (clause). Lí do là vì phương thức
giải thích được chấp nhận ở đây là phương thức chức năng, trong đó cấu trúc
ngữ pháp được giải thích trong mối quan hệ với ý nghĩa; và có một nguyên
tắc chung trong ngôn ngữ qua đó chính các đơn vị lớn hơn đóng chức năng
trực tiếp hơn trong việc hiện thực hóa ở các các mẫu thức ở cấp độ cao hơn.”
[31;82].
Halliday cũng lí giải tại sao chúng ta không chọn đơn vị lớn hơn cú –
phát ngôn là đơn vị cơ sở của phép liên kết: “Một câu có thể được giải thích
như là một cú phức (tổ hợp cú): một cú chính cùng các cú khác bổ nghĩa cho
nó.” [31;357]. Và: “chúng ta có thể giả định rằng khái niệm “cú phức” có thể
giúp chúng ta có thể giải thích đầy đủ tổ chức, chức năng của các câu.”
[31;358]. Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng phát ngôn chưa phải là đơn vị chức
năng được thể hiện nhỏ nhất như cú. Nghĩa là, dựa vào cú, theo quan điểm
tiếp cận từ dưới lên (Bottom up process), chúng ta hoàn toàn có thể soi sáng
khái niệm câu hay phát ngôn; nhưng thao tác ngược lại thì có thể gặp nhiều
khó khăn.
Thực tế là, không phải phát ngôn nào cũng chỉ bao gồm một cú, chẳng
hạn:
(1) (Khi nào anh đi Hà Nội?)
Ngày mai.
(cú > phát ngôn, tức phát ngôn chưa phải là cú, mà chỉ là một từ.)
(2) Trời mưa to quá! (cú = phát ngôn.)
(3) Mẹ đi làm, tôi đi học. (cú > phát ngôn, cụ thể là phát ngôn bao gồm hai
cú.)
Như vậy, một cú có thể không phải là một phát ngôn (ngữ liệu 3), và
cũng có khi một phát ngôn chưa chắc là một cú (ngữ liệu 1).
Thật vậy, nếu chọn đơn vị liên kết là phát ngôn (hay câu), phải chăng sẽ
là một thiếu sót lớn. Xem xét hai ngữ liệu sau đây:
+ Cuộc sống luôn có những điều làm người ta phải băn khoăn, nghĩ ngợi, day dứt,
dằn vặc, đau khổ… Nhưng cũng chính nó làm cho người ta có những khoảnh khắc ngất
ngây - lãng mạn bên người yêu hay tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, vạn vật.
+ Cuộc sống luôn có những điều làm người ta phải băn khoăn, nghĩ ngợi, day dứt,
dằn vặc, đau khổ… ;nhưng cũng chính nó làm cho người ta có những khoảnh khắc ngất
ngây - lãng mạn bên người yêu hay tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, vạn vật.(+)
Hai ngữ liệu chỉ khác nhau ở chỗ: Trước liên từ “nhưng” là một dấu phẩy
hay là dấu chấm. Nếu lấy phát ngôn làm tiêu chí xác định tính liên kết của văn
bản, thì chỉ có ví dụ thứ nhất là có tính liên kết (vì có 2 phát ngôn trở lên), còn
ví dụ thứ hai thì không. Nhưng trong cả hai ví dụ, nội dung ý nghĩa hay mối
quan hệ tương phản giữa hay 2 vế là rõ ràng. Ở đây, cách dùng dấu chấm hay
dấu chấm phẩy (thậm chí có trường hợp dùng dấu phẩy) phần nào tuỳ thuộc
vào thói quen, sở thích của người viết.
Tóm lại, Theo Halliday “câu và từ cũng được sử dụng như là thuật ngữ
ngữ pháp; chúng chỉ ra các đơn vị thuộc hình thức ngôn ngữ, cũng như các
mẫu thức trên giấy, …chúng là những đơn vị ngôn từ và đồng thời là những
đơn vị viết. Câu và từ là một phần của tổ chức ngôn ngữ như là một mã hiệu
có hệ thống, tổ chức được nằm phía sau các mẫu thức được tạo thành bởi các
kí hiệu trong văn viết và âm thanh trong văn nói.” [31;87].
Như vậy, những đơn vị dưới cú và trên cú không thể hoặc không phù hợp
để chúng ta nghiên cứu các phép liên kết, trong đó có phép nối.
1.2.2. Phép liên kết
1.2.2.1. Khái niệm
Văn bản là một tập hợp mà những phần tử của nó chính là các phát ngôn.
Và phát ngôn có thể do những cú (clause) hay những cấu trúc C-V tạo thành.
Tuy nhiên, nếu chỉ có các cú hay phát ngôn, thì tập hợp này sẽ không trở
thành văn bản. Như vậy, chuỗi cú, phát ngôn đó phải có cấu trúc để chỉ ra vị
trí, vai trò của chúng trong chỉnh thể và những mối quan hệ giữa chúng với
các cú, phát ngôn còn lại và với toàn văn bản nói chung. Liên kết chính là
mạng lưới của những quan hệ và liên hệ ấy.
Thật sự, văn bản không phải là một phép cộng đơn thuần giữa các cú hay
phát ngôn. Giữa các cú, phát ngôn trong văn bản luôn có mối liên hệ chặt chẽ,
chúng luôn có một sợi dây gắn kết hữu hình (thể hiện ra bằng các phương tiện
liên kết) hay vô hình (phương tiện liên kết zero) và những sợi dây này được
kéo từ đầu nọ sang đầu kia, nhiều đến nỗi tạo nên một mạng lưới dày đặt
(Trần Ngọc Thêm), trong đó mỗi đơn vị riêng biệt gắn kết chặt chẽ với những
đơn vị còn lại.
Thiết nghĩ, mặc dù liên kết có thể được tạo ra giữa cú đó với những cú
trước và sau nó, nhưng cũng phải tuân theo chiều tuyến tính - hay “tính hình
tuyến” của văn bản chứ không thể tạo thành một mạng lưới chằng chịt theo
hình ngũ giác, bát giác được. Do đó, theo chúng tôi hiểu, chữ dùng “mạng
lưới dày đặt” của Trần Ngọc Thêm dụng ý chỉ vị trí thật của phát ngôn đó với
các phát ngôn trước và sau nó trong một văn bản cụ thể. Vì trục kết hợp ngữ
đoạn theo chuỗi thời gian chỉ có thể xảy ra ở trục ngang (hoành độ - trục kết
hợp) chứ không thể xảy ra ở trục dọc (tung độ - trục lựa chọn được).
Theo Diệp Quang Ban, khái niệm liên kết được hiểu: “Liên kết được hiểu
là một thứ quan hệ nghĩa giữa hai (hơn hai) yếu tố ngôn ngữ nằm trong hai
(hơn hai) câu (khúc đoạn lời nói nói chung) theo kiểu muốn hiểu nghĩa của
yếu tố này thì phải tham khảo nghĩa của yếu tố kia, trên cơ sở đó hai câu
chứa chúng liên kết được với nhau.” [6;146].
Nhìn chung, dù đơn vị cơ sở của phép liên kết có khác nhau, nhưng
chúng tôi tán đồng điều mà các tác giả thống nhất về phép liên kết: đó là sợi
dây ràng buộc (tùy theo mức độ) vê ý nghĩa giữa các đơn vị được liên kết.
1.2.2.2. Phân biệt phương tiện và phương thức liên kết
Học sinh phổ thông và ngay cả sinh viên đại học chính quy, nhiều em,
không thể phân biệt hai khái niệm này. Do đó, việc xác định và phân biệt nội
hàm, cũng như ngoại diên của hai khái niệm này là một việc làm cần thiết.
- Phương thức liên kết: (hay còn gọi là phép liên kết)
Cách thức chung mà ngôn ngữ thể hiện sự liên kết trong văn bản. Theo
Diệp Quang Ban, đó là: “cách sử dụng các phương tiện liên kết có cùng một
thực chất (tạo thành một hệ thống con) vào việc liên kết câu với câu” [6;147].
Mỗi phương thức liên kết thể hiện một loại ý nghĩa, một chức năng nhất định
trong việc liên kết. Như vậy, ý nghĩa chung hay cách thức chung mà các
phương tiện liên kết cùng thể hiện sẽ tạo thành một phương thức liên kết nhất
định.
- Phương tiện liên kết: Tức là những biểu hiện ra bên ngoài hay sự hiện thực
hoá phép liên kết nào đó bằng những phương tiện ngôn ngữ như đại từ, số từ,
quán ngữ, kết cấu ngữ pháp… Nói tóm lại, chúng chính là phương tiện
(means) hay công cụ (tools) giúp văn bản thực hiện chức năng liên kết (trong
nội bộ các câu, đoạn của văn bản) theo một quan hệ ngữ nghĩa xác định. Nó
thuộc về hình thức biểu đạt hay hình thức biểu hiện.
Xét về khía cạnh khái quát, phương tiện liên kết mang tính cụ thể - bởi
nó là sự cụ thể hoá phương thức liên kết thành những hình thức liên kết cụ
thể; còn phương thức liên kết lại mang tính khái quát hoá. Xét về số lượng, do
mang tính cụ thể, nên phương tiện liên kết có số lượng nhiều hơn phương
thức liên kết. Mối quan hệ giữa phương thức và phương tiện liên kết có thể
được ví như mối quan hệ giữa âm tố và âm vị, giữa ngôn ngữ và lời nói trong
ngôn ngữ học.
Vd: Chúng tôi đi. Và dĩ nhiên, có ngày, chúng tôi sẽ quay lại.
Hễ có gió là chị em tôi lại ra sân hóng mát.
Ở đây, có đến 2 phương tiện liên kết: “và dĩ nhiên” và cặp liên từ
“Hễ…là”, nhưng chúng chỉ thực hiện chung một cách thức (phương thức) liên
kết là nối hai cú (ngữ liệu 2) hay nối hai phát ngôn (ngữ liệu 1) để liên kết hai
thông tin đã đề cập theo một quan hệ ý nghĩa nhất định, mà chúng ta gọi là
phép nối.
1.2.2.3. Phân loại
Tình hình phân loại các phương tiện liên kết của các nhà Việt ngữ học
tương đối thống nhất. Nhìn chung, đa số các công trình có liên quan đến vấn
đề văn bản và liên kết như: Trần Ngọc Thêm (1985), Diệp Quang Ban và các
giáo trình Tiếng Việt thực hành (Bùi Minh Toán, Nguyễn Thị Ảnh…) đều
thống nhất chia các phương tiện liên kết theo hai bình diện liên kết nội dung
và liên kết hình thức. Nhưng thành phần tiểu loại của các tác giả lại có vài chỗ
không giống nhau.
Chẳng hạn, Nguyễn Đức Dân có cách phân chia như sau:
- Liên kết hình thức (còn gọi là liên kết ngữ pháp), bao gồm: Phép lặp từ
vựng, phép thế, phép liên kết nhờ các phương tiện ngữ pháp khác.
- Liên kết nội dung (còn gọi là liên kết logích-ngữ nghĩa), gồm có: Sự liên
tưởng, phép đối, liên kết logic, liên kết các hành vi ngôn ngữ.
Trong khi đó, ngoại diên của khái niệm liên kết nội dung và liên kết hình
thức của Trần Ngọc Thêm lại khác:
- Liên kết nội dung: bao gồm Liên kết chủ đề và Liên kết logíc
- Liên kết hình thức: căn cứ trên ba loại phát ngôn - tự nghĩa, hợp nghĩa và
dưới bậc, tác giả chia thành:
+ Các phương thức liên kết chung cho cả ba loại phát ngôn: phép lặp, phép
đối, phép thế đồng nghĩa, phép liên tưởng, phép tuyến tính.
+ Các phương thức liên kết hợp nghĩa: phép thế đại từ (khứ chỉ và hồi chỉ),
phép tỉnh lược yếu, phép nối lỏng.
+ Các phương thức liên kết trực thuộc: phép tỉnh lược mạnh, phép nối chặt.
Như vậy, phép đối và phép liên tưởng được Nguyễn Đức Dân xếp vào
liên kết nội dung, trong khi Trần Ngọc Thêm lại xếp vào liên kết hình thức.
Để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi tạm thời theo cách phân loại như
sau:
+ Liên kết nội dung gồm: liên kết chủ đề và liên kết logíc.
+ Liên kết hình thức: phép nối, lặp, thế, liên tưởng, nghịch đối, trật tự tuyến
tính.
Hiện nay, khi đề cập đến khái niệm liên kết, nhiều người chỉ đề cập đến
các phương tiện liên kết hình thức như mà bỏ đi liên kết nội dung; do vậy, tự
thu hẹp ngoại diên của khái niệm liên kết. Điều này cũng dễ hiểu vì, thực sự,
liên kết nội dung (liên kết chủ đề, liên kết logíc) không phải dễ dàng nhận ra
hay nắm bắt được. Ngược lại, các phương tiện liên kết hình thức lại tương đối
dễ nhận diện, nên sự nhầm lẫn này đối với những người không chuyên ngữ
cũng là một hiện tượng khá phổ biến.
Chính liên kết nội dung là yếu tố quyết định để phân chia văn bản thành
loại văn bản điển hình hay văn bản không điển hình. Văn bản không điển hình
là loại văn bản có liên kết hình thức nhưng thiếu một trong hai yếu tố của liên
kết nội dung, tức thiếu liên kết chủ đề hay liên kết logíc. Còn văn bản điển
hình thì có mặt cả hai loại liên kết trên.
Ngoài ra, phép liên kết còn được chia thành: liên kết trực tiếp/ gián tiếp;
liên kết hồi chỉ/ liên kết khứ chỉ; liên kết chặt/ lỏng; bên trong/bên
ngoài…Chúng tôi sẽ trình bày rõ hơn khi đề cập đến phép nối.
1.2.2.4. Ý nghĩa
Chính liên kết (gồm cả liên kết hình thức và liên kết nội dung) là tiêu
chí phân biệt văn bản với những sản phẩm phi văn bản - những chuỗi phát
ngôn hỗn độn, rời rạc. Xét về nguồn gốc, thuật ngữ “văn bản” trong các ngôn
ngữ Ấn Âu bắt nguồn từ chữ Latin “textum” – nghĩa là “sự liên kết”. Phép liên
kết chủ yếu xác lập mối quan hệ ý nghĩa giữa các yếu tố bên trong văn bản.
Giống như những mối quan hệ ngữ nghĩa khác, liên kết thể hiện cấu
trúc tầng bậc của ngôn ngữ nói chung. Ngôn ngữ có thể được xem như công
cụ chung để tạo nên ba cấp độ cơ bản của việc “lập mã” hay ba tầng bậc, đó
chính là ngữ nghĩa, từ vựng (hình thức) và ngữ âm (bao gồm cả chính tả).
Hình thức biểu hiện ngữ nghĩa và ngược lại, ngữ nghĩa có được là thông qua
sự biểu đạt từ những hình thức ngôn ngữ mà từ vựng là trung tâm của những
hình thức biểu hiện đó. Tóm lại, nghĩa được đặt vào từ và từ được cấu tạo từ
những âm thanh (ngữ âm).
Ngoài ra, liên kết còn tạo tính mạch lạc cho văn bản. Chính phép liên ._. of financing, a company's asset
must, by definition, equal its liabilities and stock - holder's equity.
[RL;8]
53
Since revenues are defined as inflows of net assets, then by definition
recording a revenue results in either increasing an asset or decreasing
a liability. In like manner, when recording an expense, an asset is
decreased or liability is increased. [RL;115]
54
Some call out special topics that help you to in presenting a complex
subject; others highlight issues relevant to what your students read in
the paper or watch on TV. Either way, financial Accounting's
pedagogical support will make a real difference in your course and
your students. [RL, Preface;8]
55
Stock market analysts and investors use accounting information to
make their investment decisions. Thus the stock market, which is
based on investor expectations about a company's future performance,
often reacts negatively when a company does not meet previously
specified operating targets. [RL;115]
56
That meaningful context is critical for language learning has been
widely recognized. There has not been adequate recognition,
however, that this context includes understanding of culturally
defined aspects of a communications event, such as role relationships
and norms of interpretations, of holistic scripts for the negotiation of
meanings, as well as observable aspects of setting. [CL;11]
57
The detail of the statements are also important. For example,
Maxidrive had to sell more than $37 million worth of disk driver to
make just over 43 million. [RL;12]
58
The exact items listed as assets on a company's balance sheet depend
on the nature of its operations. But they are common names use by
many companies. [RL;9]
59
The financial leverage ratio measures the relationship between total
assets and the stock- holders' enquiry that finance the assets. As
noted, companies finance their assets with stockholder's enquiry and
debt. The higher the proportion of assets financed by debt, the higher
the financial leverage ratio. Conversely, the higher the proportion of
assets financed with stockholder enquiry, the lower the ratio.(...).
However, it also increases risk. Debt financing is riskier than
financing with stockholder enquiry because the interest payments on
debt must be make every period (they are legal obligation), whereas
dividends on stock can be postponed. [RL;54]
60
The following checks had been written: electrician's assistant, $8,500;
pay roll taxes, $175...Also, uncollected bills to consumers for electric
repair service amounted to $3,000. [RL;40]
61
The Investing Activities section shows that Maxidrive is making
heavy investments in new manufacturing capacity, a good sign if
demand continues to increase. But, as the Financing Activities section
indicates, if Maxidrive is not able to sell more drives, it may have
trouble meeting the payment on the new bank debt. [RL;15]
62
The preface to this book contains detailed information about the
features and supplements that make up the Financial Accounting
package. While this material is written for your instructor, we
invite you to review it as well, that you learn more about the book and
and so make your experience using it as rewarding and enjoyable as it
can be. (RL,Preface)
63
The purpose of an audit is to lend credibility to the financial reports,
that is, to ensure that they fairly represent what they claim. [RL;27]
64
The Q&A Center allow students to submit questions at any time and
retrieve answers within 24 hours. Finally, the Archive Center allow
students to browse for answers to previously asked questions. (RL,
Preface;17]
65
There are three types of notes. The first type provides descriptions of
the accounting rules applies in the company's statements. The second
presents additional detail about a line on the financial statements.
(For example.....). The third type of note provides additional
financial disclosed in a note. (...)[RL;17]
66
There is a comprehensive key for the Reading and Listening sections,
but if you are in any doubt about your answers, you can talk to a
teacher or an English speaking friend. [C1;7]
67
These excerpts include annual report information from the focus
companies, as well as numerous other companies, article from several
different publications, analysis's report, from 10-ks, press releases,
and First Call notes. [RL,Preface;9]
68
These tests can be taken in several formats according to your
preference, and a smart testing engine automatically scales the
difficulty of the questions according to your responses. (RL,Preface)
69
They are all expected to have a reasonable understanding of
accounting concepts and procedures (this may be one of the reason
you are studying accounting). Of course, as we discussed in Chapter
1, many other group, such as suppliers and customers, also use
external financial statements. [RL;49]
70
This deferred or unearned revenue account represents the amount of
goods or services owed to the franchisees. Later, when Papa John's
provides the services (criteria 1), it earns and records the revenue by
reducing the liabilities account. [RL;109]
71
This designation is granted only on completion of requirements
specified by the state that issues the license. Although CPA
requirement vary among states, they include a college degree with
specified number of accounting courses, good character, one to five
years of professional experience, and successful completion of a
professional examination. [RL;27]
72
This overview provides you a context in which you can learn more
detailed material presented in the following chapters. In particular, we
focus on how to primary users of the statements, investors (owners)
and creditors (lenders), relied on each of Maxidriver's four basis
financial statements in their ill-fated decisions to buy and lend money
to Maxidrive. Then we test what we have learned by trying to correct
the errors in the statement and discuss the implications of the errors
for Maxidrive's value. Finally, we discuss the ethical and legal
responsibilities of various parties for those errors. [RL;5]
73
This view of language teaching values census and negotiated
understanding. Because we all have the same basic human need, we
only have to agree on how to fulfil these needs in various situations of
everyday life. [CL,1]
74
Though a step-by-step sequence of video clips, PowerPoint,
interactive practice excercise, and self-tests, Topic tacker offers help
on two key topics for every chapter, keeping your students engaged
and learning every step of the way. [RL,Preface;6]
75
Throughout each chapter and its assignments, where appropriate,
students are encouraged to explore actual internet sites.
[RL,Preface,10]
76
Ties important chapter concepts to real-world-decision-making
examples. They also highlight alternative viewpoints and add to the
critical thinking and decision-making focus on the text.
[RL;Preface;8]
77
To accomplish this purpose, Chapter 2 discusses key accounting
concepts, the accounting model, transaction analysis, and analytical
tools.(RL)
78
To continue to meet the changing needs of financial accounting
faculty and students, the presentation of material has been
streamlined while maintaining effective coverage of all important
topics. [RL,Preface;5]
79
To maintain the real - work flavor of the chapter material, they
are often based on other real domestic and international companies,
and require analysis, conceptual thought, calculation and written
communication. [RL,Preface;11]
80
To summarize, the contradictions sketched above, rather than being
problems that can and should be solved, represent the basic condition
of classroom learning…[CL;13]
81
Turning the thermostat and the steam button to maximum, hold the
iron in a vertical position close to the fabric but without touching it.
[C1;100]
82
Under the cost principle, cost is measured on the date of the
transaction as the cash paid plus the current dollar value of all non
sash considerations (any assets, privileges, or rights) also given in the
exchange. (...). Thus, in most cases, cost is relatively easy to
determine and can be verified. [RL;55]
83
Unlike other books Libby makes financial accounting come alive by
using real world focus companies in each chapter to teach
fundamental accounting concepts. [RL,Preface;5]
84
Users usually are interested in information to assist them in projecting
a business's future cash inflows and outflows. For example, creditors
and potential creditors need to access an entity's ability to pay interest
over time and pay back the principle on the loan. [RL;49]
85
We also received invaluable input and support through the years from
present and former colleagues and students ,.....Furthermore, we
appreciate the additional comments, suggestions, and support of our
students and our colleagues at Cornell University, Ithaca College, and
Miami University. [RL,Preface;20]
86
We believe that students will be better prepared to use financial
information if they learn to evaluate different elements in financial
performance as they learn how to measure and report them. As a
result, we introduce relevant key ratios in each chapter in Key Ratio
Analysis section. [RL,Preface,9]
87
We noted earlier that revenues are not necessarily the same as the
payment to suppliers. As a result, net income normally does not
equal the net cash generated by operations. [RL;12]
88
When an amount is incurred to generate revenues during a period,
whether paid yet or to be paid in the future, an expense result.
Therefore, not all expenditures are expenses, and expenses are
necessary to generate revenues. [RL;106]
89
Writing a successful text requires a team effort, and we have enjoyed
working with excellent tea-mates. Though out the process of writing
this text, many people stepped forward with tremendous efforts that
allow us to accomplish our stated goals. [RL,Preface;18]
90
You no longer need to worry about the various supplements that
accompany your text. Instead, most everything is available on one
convenient CD-ROM: PowerPoint slides, Solutions Manual,
Instructor's Resource Manual, test Bank and Computerized Test
Bank, ...[ RL; Preface,14]
91
Your iron is designed to function using tap water. However, it will
last longer if you use distilled water.[C1;100]
2. CHÚ THÍCH
(1) (trang 77)
Tại sao không có tổ hợp “bên cạnh này” trong tiếng Việt
(1) những vấn đề đã nêu
(2) những vấn đề đó/này
(3) đó(3)
Bên cạnh
(4) zerô
Bốn mô hình này được sắp xếp theo trật tự được rút gọn dần bằng cách
dùng đại từ phiếm định thay thế cho những thực từ đã cho. Chẳng hạn, ở mô
hình thứ hai, “đó/này” đã thay thế cho cụm động từ “đã nêu” ở mô hình thứ
nhất. Ở mô hình thứ ba, đại từ phiếm định “đó” thay thế cho toàn bộ cụm
danh từ “những vấn đề đó/này” và ở mô hình cuối cùng là sự tỉnh lược hoàn
toàn những đại từ phiếm định của ba mô hình trên.
Bốn mô hình trên có thể được quy về thành hai dạng chính sau:
Bên cạnh + x
và Bên cạnh + zerô
Chú ý: Không có tổ hợp: “bên cạnh này”, mặc dù trước khi được rút gọn,
ta có cả hai tổ hợp “bên cạnh những vấn đề đó” hay “bên cạnh những vấn đề
này” (mô hình thứ 2)
Vì đại từ phiếm định “đó” bao hàm một sự định vị: vị trí của người nói
và vật xa hơn so với “này”. Ví dụ:
+ Đây là tập “Vang bóng một thời.”(+)
(Người nói đang cầm trên tay hay tay đang chỉ tập truyện mà khoảng cách của nó với
người nói rất gần)
+ Đó (có phải) là tập “Vang bóng một thời”. (+)
(Người nói không cầm trên tay tập truyện, có thể tập truyện ở rất xa. Giả định trường
hợp người thứ nhất đang đề cập đến Nguyễn Tuân và nhắc đến một tập truyện nổi tiếng mà
tác giả viết trước cách mạng tháng Tám; qua đó đề cao những thú chơi tao nhã và biểu hiện
cái “ngông” của tác giả. Nghe vậy, người thứ hai đoán thử: Đó (có phải) là tập “Vang
bóng một thời.” )
Như vậy, nét nghĩa bóng nghĩa chuyển của “đó”: cái gì khó thấy, khó
nắm bắt; trừu tượng. Do vậy, khi ta chuyển sang ý lớn – luận điểm khác, ta
dùng “bên cạnh đó”- tức bên cạnh những luận điểm vừa nêu. Mà luận điểm
(hay ý lớn) thuộc phạm trù trừu tượng, khái quát, khó nắm bắt; đặc biệt là hơn
luận cứ; và luận điểm mới ít nhiều còn mang tính trừu tượng, khái quát, xa lạ.
Hơn nữa, trong trường hợp trước đó đã đưa ra nhiều luận điểm thì việc nắm
bắt các luận điểm mới là một vấn đề không hề đơn giản (rất khó nắm bắt) –
nhất là khi các luận điểm lại được trình bày rời rạc, được xen kẽ bởi các lập
luận, lí lẽ, dẫn chứng – những luận cứ.
Từ đó, ta có thể mạo muội suy ra rằng: Khả năng thay thế của đại từ
phiếm định “này” hạn chế hơn “đó”. Nghĩa là, muốn sử dụng đại từ “này”,
buộc phải có một danh từ đi trước nó, trong trường hợp trên là những danh từ
“vấn đề”, “điều”, “cái”…
Tóm lại, mô hình của đại từ phiếm định “này” và “đó” là:
Đó + (danh từ - không bắt buôc)
Này + danh từ (bắt buộc)
Ngoài ra, tổ hợp “bên cạnh này” không xuất hiện tồn tạị, một phần cũng
là do nguyên tắc hài hoà âm thanh quy định. Chúng ta không thể hay khó phát
âm những tổ hợp đã nêu. Cũng tương tự, “bên cạnh vậy” không xuất hiện
cũng vì lí do này.
(2) (trang 77)
Tại sao có sự kết hợp: Một….khác (một khía cạnh khác/nữa cần đề cập)
mà không có sự kết hợp: Một….này (một khía cạnh này/đó cần đề cập)
Theo chúng tôi: “một” là số từ không xác định, chẳng hạn như các cách
diễn đạt thường gặp sau: một ngày nào đó, một tương lai nào đó, một ngày
nọ, một hôm, một khu vườn, một đứa bé … Những cách diễn đạt trên thường
lại xuất hiện ở những dòng đầu tiên trong những câu chuyện cổ tích để nhấn
mạnh ý nghĩa “không xác định” về lai lịch nhân vật:
Ngày xửa ngày xưa, không nhớ roc năm nào, đời nào; trong một gia đình nông dân
nghèo nọ, có một người con trai tên là… (+)
Bởi vậy, khi đề cập đến những sự vật, hiện tương, vấn đề “xuất hiện đầu
tiên, không xác định”, chúng ta thường dùng quán từ “một”. Chính vì “một”
mang tính không xác định nên nó phải kết hợp với các từ mang ý nghĩa trừu
tượng, không xác định như “khác/nữa”; chứ không kết hợp được với
“này/đó” – mang tính cụ thể tương đối - để tạo thành quán ngữ “một khía
cạnh này/đó cần đề cập”. Vì thế, “một” mang ý nghĩa “dẫn dắt” đến một
cách/hướng tiếp cận mới, hay cách nhìn nhận mới – một vấn đề mới. Do đó,
toàn bộ tổ hợp “một khía cạnh khác/nữa cần đề cập” thể hiện quan hệ bổ
sung.
Nhưng mô hình: một + nào đó (thêm yếu tố không xác định “nào” trước
“đó”) để tạo thành những quán ngữ “một ngày nào đó, một tương lai nào đó”
dùng để tạo ý nghĩa không xác định cho những cú hay phát ngôn chứa chúng.
+ Rồi một ngày nào đó, chúng ta sẽ lại gặp nhau thôi. (+)
+ Trong một hoàn cảnh bế tắc nào đó, anh cũng sẽ hành động giống tôi thôi. (+)
+ Trong một chừng mực nào đó, chúng ta – những sinh viên, có quyền kiến nghị
những giải pháp để chỉnh đốn những hoạt động của Trường.(+)
Ngữ liệu thứ nhất khẳng định chắc chắn chúng ta sẽ gặp lại nhau, chỉ có
điều không biết cụ thể lúc nào. Còn ngữ liệu tiếp theo nêu một hoàn cảnh
không xác định (nhưng tương tự như hoàn cảnh của tôi), thì chắc chắn anh
cúng sẽ hành động như tôi thôi. Ngữ liệu cuối lại nêu về “một chừng mực”
không xác định, tức một phạm vi và quyền hạn mà người nói biết đến nhưng
không rõ “nguồn” trích của nó từ đâu, nên phải mượn cấu trúc “không xác
định” này để đề cập.
Như vậy, tất cả những cấu trúc “không xác định” của “một” đều bao hàm
ý nghĩa giả định – chưa xảy ra.
(3) (trang 102)
Giải thích về chức năng chỉ mục đích của “mà – để mà”
Sau đây là một ví dụ về chức năng chỉ mục đích của liên từ “mà”:
Nhưng lấy cớ gì mà (để mà) tát nó. [NC,CM;117]
Nguyễn Thị Nhung cho rằng: “mà” là một hư từ bị “hư hoá hoàn toàn”,
đến nỗi nó có thể trở thành một yếu tố đệm cho các liên từ hay các cấu trúc
khác vd: để (mà), ấy thế (mà), nhưng (mà), cái (mà, vậy (mà)… Nhưng theo
tác giả này, “mà” là yếu tố xuất hiện trước, đảm nhiệm nhiều chức năng rồi
sau đó nó dần “san sẻ chức năng với những yếu tố khác”:
“mà” là “một trong những kết từ tiếng Việt xuất hiện vào loại sớm nhất.
Thời kì mới ra đời, nó đảm nhận nhiều chức năng ngữ pháp và ngữ nghĩa.
Khi vốn từ tiếng Việt có thêm các kết từ khác, nó san sẻ dần gánh nặng của
mình cho các kết từ đó (có thể có bước đệm thay thế bằng kết từ kép có mà
như: nhưng mà, để mà). Tuy nhiên, không phải vì thế mà gánh nặng của nó
đã cân bằng với mối quan hệ giữa các nghĩa của các từ xuất hiện sau….”
[63;108]
Một giả thuyết khác có thể: Lúc đầu, “mà” chỉ đóng vai trò từ đệm
trong những cấu trúc “để mà”. Nhưng sau đó, nó đã dần thay thế chức năng
của “để” và trở thành yếu tố chính để thể hiện mục đích. Từ đó, Nguyễn Thị
Nhung đi đến khẳng định: “mà đồng nghĩa với nhiều kết từ nhất” [63;108].
Mặc dầu không tìm được bằng chứng thuyết phục về mặt lịch sử, chúng
tôi tán thành hướng lí giải thứ hai. Vì nếu theo hướng thứ nhất, từ “mà” đã
san sẻ chức năng của nó cho các kết từ khác thì tại sao vẫn còn hiện tượng đa
chức năng của từ “mà” hay những cách dùng song song vẫn còn tồn tại. Mặc
dù, tác giả bài viết này đã khẳng định: “Tuy nhiên, không phải vì thế mà gánh
nặng của nó cân bằng với mối quan hệ giữa các nghĩa của những kết từ xuất
hiện sau – khi mà trong từ vựng tiếng Việt đã có sự phân công ngữ nghĩa rõ
ràng cho hàng loạt kết từ” [63;108]. Tán thành hướng lí giải thứ hai, chúng
tôi cho rằng: Từ chức năng phổ biến là “từ đệm”, “mà” rất dễ kết hợp với các
liên từ khác, tạo thành những tổ hợp như: để mà, nhưng mà... Trường hợp này
giống như cách dùng từ đệm “thì” (nhất là trong văn nói) trong những tổ hợp
sau: theo tôi nghĩ (thì), về vấn đề này (thì), vậy thì, thế thì (thường dùng trong
văn nói, văn viết thường dùng vì vậy, như vậy)…. Do đặc trưng phong cách
khẩu ngữ: ngữ điệu đóng vai trò quan trọng – thay thế cho dấu câu trong văn
viết, và do đặc trưng “lời nói gió bay”, nên người phát ngôn cố gắng dùng từ
chêm xen, từ đệm.
Rồi dần dần, chức năng của từ đệm trong những tổ hợp “để mà, nhưng
mà, vậy mà, nếu mà…” được đẩy ngang bằng với yếu tố chính, chúng được
xem ngang hàng nhau, tương tự như sự tồn tại của những tổ hợp mà nó bao
gồm những yếu tố gần hay đồng nghĩa trong tiếng Việt: tiêm chích, quần áo,
sách vở, áo sống, tre pheo, khôn khéo…
Và khi muốn rút gọn những tổ hợp kép “để mà, nhưng mà, vậy mà, nếu
mà…”, người tạo ngôn có xu hướng lược bỏ một trong hai yếu tố. Và khi tỉnh
lược, do nhân tố chủ quan về sở thích của người tạo ngôn – cho rằng hai yếu
tố này có vai trò ngang nhau, nên một trong hai yếu tố bị lược bỏ. Tuy nhiên,
về mặt phong cách cũng như thói quen sử dụng, “mà” vẫn tồn tại và được sử
dụng trong đời sống sinh hoạt hằng ngày lẫn trong giao tiếp nghi thức, đặc
biệt là ở những cú ngắn:
Tôi mà buồn à? Giá đó mà rẻ à/sao?
Tuy xa mà gần, tuy gần mà xa (+) (mà = nhưng)
Không học bài mà đậu được sao (+) (mà + thì/nên) – chỉ kết quả
Tuy nhiên, vấn đề sử dụng liên từ “mà” hay những liên từ còn lại trong
phong cách nào còn tuỳ thuộc vào dụng ý, mục đích của người tạo ngôn và
tác giả. Do vậy, mọi sự phân biệt chỉ mang tính chất tương đối.
(4) (trang 102)
Cú tỉnh lược chứa “mà”
Do lấy cú làm cơ sở để tìm hiểu về phép nối nên những trường hợp
không phải là cú, tất sẽ không thuộc phạm vi của phép nối. Tuy vậy, chúng ta
hãy xem xét những cách diễn đạt như: (Đi) tìm việc mà làm, đói mà chẳng muốn ăn,
thấy mà thương, tốt mà rẻ, đã dốt mà lại lười, nói mà không làm,… Đây là những cú
được tỉnh lược (thường là tỉnh lược chủ ngữ).
Cú thứ nhất “Tìm việc mà làm” là một lời mệnh lệnh nên ngôi thứ hai
được lược bỏ. Đúng ra phải là “(Mày đi) tìm việc mà (mày) làm đi”. Và sự
tỉnh lược này không gây khó hiểu đối với người đọc; do đó, nó vẫn được xem
là một cú hoàn chỉnh. Cú thứ hai lại thể hiện cảm xúc của người nói, nên chủ
ngữ có thể ẩn. Những cách diễn đạt còn lại đều là nhận định của người nói
trước sự việc, hiện tượng, hay một nhân vật thứ ba; do đó, chủ ngữ hiểu ngầm
là “nó”. Đặc biệt, một số câu tục ngữ, thành ngữ đều có chủ ngữ ẩn nên và
chúng tôi tán thành chức năng cú của những cách diễn đạt đã nêu. Tóm lại,
những ví dụ trên đều là có thể đảm nhiện chức năng của một cú.
Nguyễn Thị Nhung cho rằng 2 ví dụ: khó mà biết được tại sao, dễ gì mà
làm được là “thuyết minh cho ý vừa nói đến”; nhưng chúng tôi lại nghĩ theo
một hướng khác. Đó là những từ đệm (từ chêm xen) trong ngôn ngữ nói, để
gây ấn tượng, dễ hiểu và tạo tính vần nhịp cho câu nói – giống như cách dùng
“mà” trong “Nói cho mà biết, rủi mà mưa thì ướt hết”. Để minh chứng cho
chức năng từ đệm – chêm xen của “mà” trong 4 ví dụ trên, chúng ta thử bỏ
chúng khỏi cú, và nhận thấy rằng ý nghĩa của cú không thay đổi; mặc dầu khi
có “mà”, vần điệu dễ nghe hơn.
(5) Biện pháp tách câu (trang 117 và 120): xem thêm giáo trình Tiếng Việt
thực hành (1999) của Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên), NXB ĐHQG HN, từ
trang 214-218.
(6) (trang 121)
Tại sao không có sự tổ hợp “mặc dẫu” trong tiếng Việt?
Theo Thái Kim Thành [75], “Dẫu” xuất hiện sớm nhất (“dù”, “dầu” là
hai biến thể của “Dẫu”) và Dẫu mang sắc thái ý nghĩa nhấn mạnh hơn hai từ
còn lại, nó “bộc lộ sự khẳng định cao của người phát ngôn với hiện thực được
đề cập đến”. Nhưng chúng tôi lại không phân biệt theo tiêu chí xuất hiện sớm
hay muộn. Và chúng ta cũng không có căn cứ về mặt tư liệu nào để khẳng
định “dù”, “dầu” là hai biến thể của “Dẫu”.
Theo chúng tôi, trường hợp tiếng “mặc” chỉ có thể kết hợp với
“dầu”/”dù” để tạo ra tổ hợp “mặc dầu”/ “mặc dù” mà không có sự kết hợp
với “dẫu” để tạo ra tổ hợp “mặc dẫu” không thể lí giải theo sự hoà phối về
ngữ âm. Mặc dầu, theo bảng hệ thống thanh điệu, thanh nặng và ngã cùng
nằm trong một hệ thống âm vực nhưng khả năng kết hợp thanh điệu của
chúng lại không cao.
Cao Không dấu Hỏi Sắc
Thấp Huyền Ngã Nặng
(nguyên tắc chung để tạo sự hài hoà vế thanh điệu trong từ láy: Những từ có thanh điệu cùng
âm vực thì có thể kết hợp với nhau để tạo từ láy – trừ một vài trường hợp đặc biệt.)
Nghĩa là, trên lí thuyết, “mặc” thanh nặng có thể kết hợp với “dầu/dù” –
thanh huyền, hay dẫu – một cách tự do, vì khả năng kết hợp và mức độ hài
hoà thanh điệu giữa ba thanh điệu này là như nhau. Nhưng xét theo thực tế về
sự hoà phối ngữ âm để tạo từ láy, chúng tôi nhận thấy rằng số lượng những từ
láy có sự kết hợp thanh “nặng - ngã” là rất ít, và sự kết hợp này chỉ xảy ra ở
một số “vần” nào đó.
Từ láy “vỏn vẹn”, “nhỏ nhặt”, “quỷ quyệt”… là những ví dụ ngoại lệ
điển hình. Theo đúng nguyên tắc, từ “vỏn” (trong “vỏn vẹn”), phải viết là dấu
ngã mới đúng quy tắc hoà phối ngữ âm. Tương tự như vậy, thanh hỏi của từ
“nhỏ” (trong “nhỏ nhặt”) và “quỷ” (trong “quỷ quyệt”) cũng phải được thay
thế bằng thanh ngã.
Hơn thế nữa, ba từ láy: Bền bỉ, nài nỉ, mình mẩy, phỉmh phờ.. lại là một
minh chứng cho sự kết hợp hạn chế của thanh “ngã” và “huyền”. Nếu căn cứ
theo đúng nguyên tắc hài hoà âm vực của thanh điệu, thì những thanh hỏi
trong “bỉ”, “nỉ”, “mẩy” phải được thay thế bằng những thanh “ngã”. Không
liên quan trực tiếp đến vấn đề mà chúng ta đề cập (mặc – mang thanh nặng
không kết hợp được với “dẫu” – mang thanh ngã); nhưng qua đó, chúng ta
nhận thấy rằng: thanh “ngã” chỉ có khả năng kết hợp hạn chế so với hai thanh
lại trong hệ thống thanh điệu có âm vực thấp. Điều này, theo chúng tôi, cũng
giải thích phần nào về sự vắng mặt của tổ hợp “mặc dẫu”.
Căn cứ theo công trình “Cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại” của Hồ Lê [55],
chúng tôi nhận thấy rằng: Sự kết hợp của thanh huyền-nặng (mà tổ hợp “mặc
dầu” tuân theo qui luật hoà phối ngữ âm này) trong quá trình tạo từ láy lại rất
phong phú. Chúng tôi thử thống kê ngẫu nhiên 500 từ láy đầu tiên (từ Tr130-
142) mà tác giả Hồ Lê liệt kê trong công trình đã dẫn thì có đến gần 70 trường
hợp là sự kết hợp của hai loại thanh điệu âm vự thấp này. Chẳng hạn như: ái
ngại, ồ ạt/ào ạt, bầu bạn, bịt mùng, mịt mùng, cầu cạnh, chằng chịt, chồm
chộp, dồn dập, đậm đà, đầy đặn, đều đặn, đày đoạ, đần độn, gọn gàng, gần
gũi, gầy guộc, già giặn, giẫy giụa, hèn hạ, hầu hạ, hối hận, hiền hậu, hội hè,
hằn học, hẹp hòi, hồng hộc, kèn cựa, khờ khạo, lành lặn, lạc loài, lì lợm, lẹ
làng, lành lặn, lặng lờ, lạ lùng, lạnh lùng, làm lụng, mặn mà, làng mạc, mềm
mại, mịn màng, muộn màng, miếu mạo, muộn mằn, mập mờ, mù mịt, mời
mọc, mặn mòi, nồng nặc, nặng nề, nhịp nhàng, nhẹ nhàng, nhọc nhằn, nhục
nhằn, nhiều nhặn, nhầy nhụa, ngọt ngào, nghẹn ngào, ngặt nghèo, ngần ngại,
ngập ngừng, ngại ngùng, ngượng ngùng, oằn oại, phờ phạc…
Trong khi đó, chúng tôi chỉ thống kê được khoảng 20 từ láy có sự kết
hợp hai thanh “nặng - ngã (ít hơn 3,5 lần tổ hợp ‘huyền –ngã”)”: bụ bẫm, bạc
bẽo, cãi cọ, dạn dĩ, đẹp đẽ, gỡ gạc, gạ gẫm, gặp gỡ, hợm hĩnh, lặng lẽ, lạnh
lẽo, lạc lõng, lọc lõi, lực lưỡng, mạnh mẽ, nhạt nhẽo, nhẹ nhõm, nghiệt ngã,
ngỗ nghịch, ngặt nghẽo, õng ẹo.
Căn cứ vào hệ thống từ láy có sự kết hợp “nặng ngã” trên, chúng ta phát
hiện một điều khá thú vị: những tiếng mang thanh “ngã” thường là những
“âm tiết mở” hay những âm tiết có thuỷ âm là âm môi (như m), chỉ có 2
trường hợp gieo vần “ênh/inh”. Phần vần thường tạo tổ hợp láy này là “eo”,
không có vần “âu” (mặc dẫu) – dĩ nhiên, số lượng thống kê hạn chế, chúng
tôi chưa dám khẳng định đìều này và cũng chưa lí giải được nguyên nhân của
sự kết hợp này.
Trong bảng thống kê những cặp vần tạo từ láy của Hồ Lê (Tr233 -239),
chúng ta cũng không thấy cặp vần “ac –au” (mặc dẫu) mà chỉ thấy những cặp
vần sau: “ăc-ăc”, “ăc-ua” và “au-au”.
Thực tiễn hóa kiểm chứng qua ngữ điệu và phát âm, chúng ta cũng sẽ
phát hiện một điều hiển nhiên rằng: phát âm tổ hợp “mặc dẫu” khó hơn nhiều
so với tổ hợp “mặc dù” / “mặc dầu” hay “dù vậy” / “dầu vậy”. Chính cảm
thức ngôn ngữ của người bản ngữ mách chúng ta những điều khoa học khó
giải thích, và phần nào do tâm lí tiếp nhận. Bởi lẽ, khi phát âm đến tiếng cuối
cùng của những tổ hợp ngôn ngữ làm chức năng nối kết, chúng ta thường hạ
giọng ở cuối tổ hợp “giai đoạn buông” để nghỉ hơi; để rồi bắt đầu phát âm
một cách trọn vẹn cú đi sau đó. Do đó, sự hài hòa về vần và thanh điệu sẽ để
người nói/đọc có thể hạ giọng một cách dễ dàng. Và thực sự, thanh huyền lại
thực hiện tốt chức năng này, tốt hơn thanh ngã rất nhiều. Thử phát âm từ
“mặc dẫu” và xuống giọng ở tiếng “dẫu”, chúng ta sẽ thấy rất “ngượng
miệng” và quả thật, rất khó để thực hiện hoạt động phát âm này.
Tóm lại, dẫu không thể kết hợp với mặc để tạo thành “mặc dẫu”, là do sự
kết hợp thanh điệu, sự hài hoà về ngữ âm qui định.
Một vấn đề nữa mà chúng tôi muốn bàn về công trình của Thái Kim
Thành là sự khẳng định của tác giả về giọng định khẳng định hay sắc thái ý
nghĩa nhấn mạnh của tiếng “dẫu” (trong tổ hợp “dẫu sao”) so với “dù” (“dù
sao”) hay “dầu” (“dầu sao”). Thiết nghĩ, sắc thái ý nghĩa nhấn mạnh hay
không còn tuỳ vào văn cảnh cụ thể cũng như tâm trạng, tâm lí, thể trạng..của
người phát ngôn khi phát ra từ nối đó lẫn nội dung ý nghĩa của phần cú đi
kèm. Thông thường giọng điệu khẳng định, quyết tâm hay không, phần lớn
phụ thuộc vào nội dung mà cú đi sau từ nối thể hiện.
Cả ba liên từ “dù”, “dẫu”, “dầu” đều mang thái độ khẳng định. Bởi lẽ,
khi dùng cấu trúc có liên quan đến những liên từ này, người nói thường thể
hiện sự “chấp nhận, đánh đổi”.
Dẫu cho trăm thân này có phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này có goi strong da ngừa, ta
cũng vui lòng. (Trần Quốc Tuấn)
Liên từ “dù”, “dẫu”, “dầu” thực hiện sự phủ định mệnh đề điệu kiện đi
sau chúng và khẳng định kết quả là tất yếu. Sự khẳng định này phần nào
mang tính chủ quan. Qua đó nó thể hiện niềm tin cũng như sự quyết tâm của
người phát ngôn.
Vd: Chàng kén thiếp để làm vợ đâu phải để làm thơ ? Đạo vợ lại là đạo lớn, e rằng
đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã trọn, đâu dám lấy chuyện thơ văn mà làm chểnh
mảng. Dù chàng ép nài bao nhiêu, thiếp cũng đành cam chịu lỗi. (VH, BM)
Trong ví dụ vừa nêu, sau “dù” là một mệnh đề nêu điều kiện “chàng (có)
ép nài bao nhiêu”. Nhưng cấu trúc “dù” đã phủ định điều kiện đó (bất chấp
mọi điều kiện) để khẳng định kết quả “thiếp cũng đành cam chịu lỗi”.
Thật sự là chúng ta có thể thay thế các liên từ cho nhau, mà sắc thái ý
nghĩa của phát ngôn không thay đổi. Ta có phát ngôn sau:
Sự việc không thành. Nhưng dẫu sao, anh cũng đã giúp tôi rất nhiều. Tôi chân thành
cảm ơn anh (giọng nhẹ nhàng, tình cảm pha chút trầm buồn). (+)
Chúng ta hoàn toàn có thể thay thế “dẫu sao” băng “dầu sao” và giọng
điệu hay sắc thái của phát ngôn không thay đổi.
+ Sự việc không thành. Nhưng dầu sao, anh cũng đã giúp tôi rất nhiều. Tôi chân
thành cảm ơn anh (giọng cũng nhẹ nhàng, tình cảm; pha chút trầm buồn). (+)
+ Dẫu mọi chông gai đang đón chờ phía trước, dù có hy sinh tính mạng, chúng ta
cũng quyết tâm chiến đấu bảo vệ nền độc lập đến cùng. (+)
+ Dẫu cho trăm thân này có phơi ngoài ngọn cỏ, nghìn xác này có trói trong da
ngựa, ta cũng vui lòng. (TQT)
(Mệnh đề chứa “dẫu” hay “dù” đều có khả năng thể hiện giọng khẳng
định, mang sắc thái ý nghĩa nhấn mạnh).
Ở ví dụ 1, chúng ta cũng có thể thay thế “dẫu sao” bằng “dù sao”, nhưng
sẽ có sự khác biệt nhỏ về mặt phong cách. “Dù sao” có thể được xem là tiêu
thể của hai biến thể còn lại, mang sắc thái trang trọng và thường được dùng
trong giao tiếp nghi thức và cả cuộc sống thường nhật (cả trong ca dao).
Nhưng để tạo sự gần gũi thân mật, người ta hay dùng “dẫu sao” hay “dầu
sao” hơn. Ở đây, giá trị về mặt phong cách của “dù sao” tương tự như “dù” và
những tổ hợp “dẫu sao”, “dầu sao” có giá trị như dẫu và dầu.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7399.pdf