BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
________________
Bùi Mai Hương
CÂU QUAN HỆ CÓ TỪ “LÀ”
TRONG TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ
Mã số : 60 22 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN
Thành phố Hồ Chí Minh -2009
LỜI CẢM ƠN
Thực hiện đề tài này, tôi chỉ mong góp thêm một thử nghiệm vận dụng
lý thuyết về câu quan hệ, khảo sát, phân tích các ngữ liệu thu thập được nhằm
hiểu rõ thêm về câu q
146 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1870 | Lượt tải: 3
Tóm tắt tài liệu Câu quan hệ cớ từ "là" trong tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uan hệ trong tiếng Việt.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Dư Ngọc Ngân-
người thầy đã dành nhiều thời gian, công sức, động viên, hướng dẫn tận tình
tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô
trong khoa Ngữ văn, phòng Khoa học-Công nghệ Sau Đại học, thư viện
trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đã tạo điều kiện cho tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp nơi tôi công tác đã
quan tâm, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, 2009
LỜI CAM ÐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả được đưa ra trong luận văn là trung thực và chưa được
công bố ở bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn
Bùi Thị Mai Hương
QUI ƯỚC TRÌNH BÀY
Luận văn này chúng tôi trình bày theo những quy ước như sau:
1. Những trường hợp in nghiêng:
- Tên tác phẩm
- Các trích dẫn
2. Trường hợp in nghiêng, chữ đậm : Nội dung nhấn mạnh.
3. Những số ở trong ngoặc vuông [,]: số đầu chỉ nguồn trích dẫn theo thứ
tự trong “ Tài liệu tham khảo”, số thứ hai chỉ số trang của tài liệu trích
dẫn.
Ví dụ: [3,5] là nguồn trích dẫn lấy từ tài liệu Các văn bản pháp quy,
trang 5.
4. Những số trong ngoặc đơn ( ) có hai trường hợp:
a. Số thứ tự của các ví dụ: được đặt trước các ví dụ.
b. Cho biết nguồn của các ví dụ: đặt sau các ví dụ.
5. Những ví dụ không ghi chú nằm trong trường hợp:
- Những ví dụ do người viết đặt ra.
- Những ví dụ lấy từ đối thoại thực tế.
6. Tài liệu trích dẫn được viết tắt là : TD
DẪN NHẬP
0.1 . Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Ngôn ngữ là một thành tựu vĩ đại nhất của loài người. Mỗi ngôn ngữ
thể hiện trong nó không chỉ là bề dày lịch sử, nền văn hóa, mà cả trình độ văn
minh của một quốc gia, một dân tộc. Ngôn ngữ học, ngành khoa học nghiên
cứu về ngôn ngữ, có một vị trí rất quan trọng trong các khoa học xã hội và
nhân văn. Nó giúp chúng ta tìm hiểu về ngôn ngữ nói chung và đặc trưng của
các ngôn ngữ cụ thể. Việc nghiên cứu ngôn ngữ cũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ
cách nhận thức thế giới, cách truyền đạt tri thức và cách giao tiếp của các
cộng đồng ngôn ngữ. Hơn thế, nghiên cứu tiếng mẹ đẻ còn góp phần giữ gìn,
bổ sung, trau dồi cho ngôn ngữ của mỗi người ngày càng trong sáng hơn,
hoàn thiện hơn.
Hiểu được tầm quan trọng của việc nghiên cứu ngôn ngữ, yêu quý và
trân trọng tiếng mẹ đẻ, và suy nghĩ rằng nghiên cứu sâu tiếng Việt trên một
bình diện nào đó cũng đều rất quan trọng, chúng tôi chọn nghiên cứu về câu
quan hệ trong tiếng Việt. Trong ngữ pháp truyền thống, các nhà nghiên cứu
theo khuynh hướng cấu trúc chủ yếu khảo sát câu về cấu trúc hình thức. Gần
đây khuynh hướng ngữ pháp chức năng đã đi sâu tìm hiểu câu từ góc độ ngữ
nghĩa của câu, chẳng hạn dựa trên sự hình thành các quá trình (Process) để
phân ra các loại câu như: các quá trình vật chất (các quá trình hành động),
các quá trình tinh thần (các quá trình cảm giác) và quá trình quan hệ (các quá
trình tồn tại). Trong các loại câu đó thì câu quan hệ là loại câu khá đa dạng,
phong phú về ngữ nghĩa và được dùng phổ biến trong tiếng Việt cũng như
trong các ngôn ngữ khác. Từ trước tới nay, một số công trình về ngữ pháp
tiếng Việt có đề cập đến câu quan hệ nhưng có lẽ chưa có công trình nào
nghiên cứu sâu và cụ thể vào một khía cạnh nào đó của câu quan hệ. Chúng
tôi nhận thấy vấn đề “Câu quan hệ trong tiếng Việt” đặc biệt là “câu quan hệ
có từ “là” trong tiếng Việt” là một vấn đề lý thú và bổ ích nên quyết định
chọn làm đề tài luận văn.
Để tiện cho việc khảo sát, chúng tôi dùng các ngữ liệu trên ngôn ngữ
viết thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau như phong cách khoa học,
phong cách chính luận, phong cách hành chính, phong cách ngôn ngữ văn
chương.
Luận văn khảo sát câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm các
mục đích sau đây :
- Tiếp xúc với các vấn đề lý thuyết về ngữ nghĩa học, về ngữ pháp chức
năng (đặc biệt là quan niệm của M.A.K. Halliday, S.C. Dik), vận dụng vào
việc khảo sát, lý giải một loại câu quan hệ trong tiếng Việt.
- Kết quả khảo sát, phân tích loại câu quan hệ có từ “là”trong tiếng Việt
có thể có những đóng góp thiết thực vào thực tiễn nói, viết và thực tiễn giảng
dạy tiếng Việt.
0.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như trên đã nói, có rất nhiều công trình nghiên cứu về các kiểu quá
trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ, trong đó có quá trình quan hệ.
Ở mỗi công trình các tác giả có thể có những cách tiếp cận khác nhau. Luận
văn không có tham vọng bao quát đầy đủ quá trình nghiên cứu về câu quan hệ
trong ngôn ngữ nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Thông qua tìm hiểu
của bản thân, chúng tôi chỉ cố gắng điểm qua tình hình nghiên cứu câu quan
hệ của những tác giả tiêu biểu trên thế giới và ở Việt Nam.
Trên thế giới:
Các kiểu quá trình trong hệ thống chuyển tác của ngôn ngữ được rất
nhiều nhà ngôn ngữ trên thế giới quan tâm và nghiên cứu. Có nhiều cách tiếp
cận các quá trình này với những quan điểm khác nhau. Công trình nghiên cứu
được xem là đầy đủ, xứng đáng được xem là một cuốn sách giáo khoa cho
những ai muốn tìm hiểu về các kiểu quá trình trong hệ thống ngôn ngữ, là của
M.A.K.Halliday. Đó là cuốn “Dẫn luận Ngữ pháp chức năng”. Các quá trình
mà M.A.K.Halliday miêu tả chủ yếu là trong tiếng Anh, nhưng xét thấy có
nhiều điểm có thể vận dụng vào tiếng Việt nên luận văn của chúng tôi áp
dụng những mô hình lý thuyết mà ông đưa ra để giải thích và nghiên cứu về
câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt. M.A.K.Halliday khái quát về quá
trình quan hệ (Relational processes) như sau: “để liên hệ mảng này với mảng
kia của thế giới kinh nghiệm: cái này giống cái kia, cái này là một loại của
cái kia là quá trình quan hệ” [24, 206]. Hệ thống các quá trình quan hệ trong
tiếng Anh của M.A.K. Halliday hoạt động theo ba kiểu chính là:
Quan hệ sâu (intensive): ‘x is a’ x là a
Quan hệ chu cảnh (circumstantial): ‘x is at a’ x ở a
Quan hệ sở hữu (possessive): ‘x has a’ x có a
Mỗi kiểu như vậy xuất hiện dưới hai phương thức tách biệt mà Halliday
gọi là phương thức đồng nhất (identifying) và phương thức định tính
(attributive). Như thế, chiếu theo phương thức quan hệ và kiểu quan hệ mà
ông đưa ra, sẽ có sáu cặp phạm trù quan hệ tương ứng. Những đóng góp của
Halliday về các quá trình chuyển tác có giá trị rất lớn với tiếng bản xứ (Anh)
và cả với các ngôn ngữ khác trên thế giới, chẳng hạn tiếng Việt.
Cùng với M.A.K. Halliday, các nhà chức năng luận khác như Fawcett,
V.Z. Panfilov, C. Fillmore, Simon C.Dik … cũng đề cập đến câu quan hệ hay
loại câu tương tự câu quan hệ.
Nhà ngôn ngữ học Simon C. Dik trong Functional Grammar (Ngữ pháp
chức năng-1978), đã dùng thuật ngữ “sự tình” (cái có thể là tình huống trong
một thế giới nào đó). S.C. Dik dựa trên hai thông số cơ bản là tính động
(Dynamism) và tính có chủ ý (Control) để xác lập ra bốn loại hình sự tình:
hành động, quá trình, trạng thái, tư thế (xem bảng trình bày các sự tình của
S.C. Dik) trong đó không có loại hình sự tình quan hệ. Đến năm 1989, S.C.
Dik đưa thêm Tính thành quả (Telicity) vào bộ thông số và cho ra một bảng
phân loại gồm sáu sự tình: Tư thế (Position), Trạng thái (State), Hành động
hoàn thành (Accomplishment), Hành động diễn tiến (Activity), Quá trình biến
đổi (Change), Quá trình biến động (Dynamism). Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại
những khiếm khuyết như Siewierska (1991) thừa nhận: “Những loại hình sự
thể lọt ra ngoài bảng phân chia loại nhỏ này thì không được nêu tên gọi.”
[54, số 10, tr.14]. Diệp Quang Ban cho rằng ngoài lĩnh vực các quan hệ, cách
phân loại sự thể của S.C. Dik khá thỏa đáng nhưng rất khó để tìm kiếm được
một giải pháp khả thi mới để kết hợp cả hai cách phân loại của S.C. Dik và
M.A.K. Halliday.
Bảng trình bày các loại sự tình của S.C. Dik.(nguồn NPCN,tr.50)
Sự tình
+ Động
Sự kiện
-Động
Tình huống
+ Chủ ý Hành động Tư thế
- Chủ ý Quá trình Trạng thái
Sự tình quan hệ ở đây được S.C. Dik xem là một thể loại của sự tình
trạng thái và cũng dựa trên những phân biệt trong các chỉ định của kết cấu vị
ngữ hạt nhân.
Ví dụ:
(1) The substance is red .(trạng thái)
(2) The table stood in the corner. (trạng thái) [-Động,-Chủ ý]
(3) John tasted the wine in the soup. (trạng thái)
Theo S.C. Dik “ Nếu một kết cấu vị ngữ trạng thái chỉ có một tham tố,
tôi cho rằng tham tố đó có chức năng nghĩa là zero. Tôi thấy không có lý do
gì để quy gán bất kỳ một chức năng ngữ nghĩa cụ thể nào cho các tham tố
như thế.
Các tham tố kết cấu vị ngữ trạng thái hai vai thường có hai tham tố
chức năng zero, và thậm chí có thể có sự tình trạng thái ba vai với ba tham tố
chức năng zero. Tuy nhiên, tham tố thứ hai trong các kết cấu vị ngữ trạng
thái cũng có thể có chức năng thời gian hay vị trí.” [29; 54]
Ví dụ:
(4) Rose ф are red.
(5) That man ф is the killer. ф chức năng nghĩa là zero.
(6) The cup ф is on the table.
Theo nhận định của Cao Xuân Hạo trong Tiếng Việt Sơ thảo ngữ pháp
chức năng thì tiêu chí (+Động, - Động) và (+Chủ ý, -Chủ ý) của Simon
C.Dik rất quan trọng đối với nhiều loại ngôn ngữ trên thế giới. S.C.Dik đã
đưa ra được một lược đồ khá cơ bản, thế nhưng sự đơn giản ấy lại làm cho
lược đồ của ông trở nên khó ứng dụng, chẳng hạn ô tư thế (+chủ ý,-động)
không cân bằng với ba ô còn lại. Các vị từ làm hạt nhân cho loại câu này như
đứng, ngồi, nằm, quỳ… có thể đếm trên đầu ngón tay, theo thống kê không
tới 0,2% trong số các vị từ làm hạt nhân cho các loại câu nằm ở ô hành động,
trạng thái, quá trình. Không chỉ vậy, lược đồ của Dik khó có thể chia ra chi
tiết hơn nữa, chẳng hạn không thể xếp các câu tồn tại, câu định vị (ví dụ như
câu: “Cá nằm trên thớt” không được xếp vào ô loại tư thế vì thiếu tiêu chí (+
chủ động).), hay câu đẳng thức .v.v… không xếp vào ô nào trong bốn ô phân
loại các loại sự tình của Dik). Như vậy, không thể dựa vào bảng phân loại sự
tình của S.C. Dik để miêu tả câu quan hệ tiếng Việt.
John Lyons, nhà ngôn ngữ học truyền thống ở Anh, tiếp cận vấn đề từ
quan điểm logic. Ông cũng đã đưa ra các kết cấu tồn tại, định vị và sở hữu
tương tự thuật ngữ “các quá trình quan hệ” mà luận văn đang đề cập. John
Lyons cho rằng trong rất nhiều ngôn ngữ có những tương tự hiển nhiên giữa
những câu định vị và câu tồn tại, chẳng hạn:
Ví dụ: Tiếng Anh
(7) Coffee will be here in a moment. không có sự khác nhau
(7’) There will be coffee here in a moment. về nghĩa giữa (7) và (7’)
John Lyons, tiếp cận vấn đề từ quan điểm logic học, với các câu tồn tại
câu định vị, và câu sở hữu, ông phân ra làm hai xu hướng “vị ngữ tính”
(tương đương với câu tả trong tiếng Việt) và “vị ngữ danh” (tương đương với
câu luận trong tiếng Việt). Tuy nhiên, vì sự phân tích cú pháp của các câu có
“vị ngữ danh” phức tạp nên ông quyết định bỏ qua tất cả những điểm khác
nhau giữa các tiểu loại và phân tích tất cả như những “vị ngữ danh từ”.
Đặc biệt, trong Nhập môn ngôn ngữ học ông nói nhiều đến “động từ là”
và “động từ có”, ông cho rằng đó là những câu tồn tại, định vị và sở hữu có
quan hệ qua lại trong nhiều ngôn ngữ “…cái thường được gọi là “động từ
là”, và “động từ có” trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác là một yếu tố
ngữ pháp, vô nghĩa, chỉ dùng để “mang” các dấu hiệu về thời, thức, thể ở cấu
trúc nổi của câu.”
Theo mô hình của Fawcett, giao điểm của kiểu quá trình và kiểu đương
thể cho ra 12 kiểu quá trình quan hệ trong tiếng Anh.
Mô hình các quá trình quan hệ trong tiếng Anh của Fawcett: Các hệ thống
ban đầu. [40, 273]
Hoàng Văn Vân cho rằng “ … đây là một mô hình chi tiết và đã đi sâu
vào việc tìm hiểu bản chất của quá trình quan hệ trong tiếng Anh … Mô hình
của Fawcett quan tâm đến những kiểu quá trình cụ thể hơn là đến sự khái
quát hóa các quá trình quan hệ”. [40, 276]. Cũng theo Hoàng Văn Vân, mô
hình các quá trình quan hệ của Fawcett đã không thể hiện được sự khái quát
hóa các quá trình quan hệ; đồng thời trong công trình nghiên cứu về các quá
trình quan hệ của Fawcett cũng không hề đề cập đến hệ thống Dạng (là một
Định tính
Đương thể đơn
Sở hữu
Định vị
Kiểu đương thể Đương thể bị tác động
Đương thể tác nhân
Đương thể thứ ba thể thứ ba
Kiểu quá trình
hệ thống mà chính Fawcett khẳng định không thể thiếu khi nghiên cứu các
công trình ngữ pháp) đồng thời “… nếu chấp nhận một mô hình như vậy sẽ
làm cho vấn đề trở nên phức tạp vì người ta phải xây dựng lại các tiêu chí
định nghĩa” [40, 277] cho tất cả các quá trình trong hệ thống chuyển tác của
ngôn ngữ.
Từ việc tiếp thu những thành tựu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
theo hướng chức năng luận, chúng tôi nhận thấy mô hình miêu tả quá trình
chuyển tác quan hệ của M.A.K. Halliday là mô hình lý thuyết phù hợp nhất để
miêu tả câu quan hệ tiếng Việt.
Tại Việt Nam
Đã có khá nhiều công trình ngữ pháp đề cập trực tiếp đến câu quan hệ
như Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân, Bùi Minh Toán,
Nguyễn Thị Lan Anh, Đỗ Thị Kim Liên … Ngoài ra còn có những công trình
nghiên cứu về những kiểu câu tương tự câu quan hệ như câu tả, câu luận,
trong sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việ t Nam
(1983), hay những những động từ chỉ các trạng thái tâm lý hướng tới đối
tượng, biểu thị trạng thái tồn tại, sở hữu có thể có thành tố phụ sau là một
danh từ, cụm danh từ chỉ đối tượng như : có, còn, xuất hiện, diễn ra … trong
Ngữ pháp Việt Nam của Nguyễn Thị Ly Kha, hay những bài viết cùng bàn về
cấu trúc “Danh là Danh” và các mối quan hệ của nó của Lê Xuân Thại,
Nguyễn Đức Dân, Trần Ngọc Thêm, v.v… Từ những năm 2000 trở lại đây,
cũng có một số bài viết đề cập đến một số tiểu loại của câu quan hệ trong
tiếng Việt trên tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, của các tác giả Nguyễn Thị
Thanh Phương, Nguyễn Thế Lịch …, hoặc so sánh đối chiếu câu quan hệ
tiếng Việt với tiếng Anh của Hoàng Tuyết Minh nhằm tìm ra một số lỗi người
Việt thường mắc khi sử dụng động từ quan hệ tiếng Anh …
Cao Xuân Hạo kế thừa lược đồ phân loại các loại sự tình cơ bản của
S.C. Dik nhưng ông xếp loại câu quan hệ và câu trạng thái vào một loại câu,
đó là câu chỉ tình hình : “Trong các câu chỉ tình hình có thể phân biệt câu chỉ
trạng thái với câu chỉ quan hệ. Trạng thái là một tình hình có mặt trong bản
thân chủ thể (thực thể mang nó, hay ở “trong trạng thái” đó). Quan hệ là một
tình hình mà nội dung là một cái gì ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp
xúc, một khoảng cách, một mối dây nhân quả, hay một sự so sánh.” [13, 430].
Cao Xuân Hạo đưa thêm sự tình tồn tại (hiện hữu), mà S.C.Dik còn thiếu, vào
hàng sự tình cơ bản bậc một ngang hàng với biến cố và tình hình. Cao Xuân
Hạo đã thay ô sự tình tư thế (bậc hai) của S.C. Dik bằng loại quan hệ và xem
vị trí của nó tương đương với vị trí của sự tình trạng thái trong những sự tình
tĩnh [-Động].
Theo khảo sát trên tư liệu tiếng Việt của tác giả Bùi Minh Toán và Lê
Thị Lan Anh thì bên cạnh những nét cơ bản phù hợp hệ thống các quá trình
mà M.A.K. Halliday nghiên cứu “…có thể nhận thấy chỉ có một số kiểu sự
tình quan hệ là được tổ chức theo cả hai phương thức đồng nhất và định tính”
[2, 1], chẳng hạn quan hệ cảnh huống (chỉ có loại quan hệ vị trí và quan hệ
nguyên liệu là tổ chức theo hai phương thức đồng nhất và định tính; còn các
quan hệ cảnh huống khác như: quan hệ mục đích, quan hệ so sánh, quan hệ
tương hỗ, quan hệ nguyên nhân, quan hệ nguồn gốc, quan hệ vai diễn thì
không tồn tại cả hai phương thức trên.), hay quan hệ sở hữu (chỉ tổ chức theo
một phương thức định tính). Trong bài viết “Câu quan hệ tiếng Việt: sự hiện
thực hóa các thành tố của sự tình quan hệ ”, tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị
Lan Anh đã đưa ra 13 loại sự tình quan hệ trong tiếng Việt theo quan niệm
của M.A.K. Halliday. Tiếc là bài viết này không coi “câu quan hệ có từ là”
như là một đối tượng nghiên cứu mà chỉ nói chung chung đến các loại sự tình
quan hệ trong tiếng Việt.
Sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam cũng
nhắc đến câu quan hệ nhưng dưới thuật ngữ câu tả và câu luận. Đây cũng
chính là hai loại câu chính của câu đơn hai thành phần được làm thành từ một
cụm chủ ngữ (C)- vị ngữ (V), chủ ngữ và vị ngữ có quan hệ qua lại với nhau.
Câu tả là loại câu để biểu thị một quá trình miêu tả đối tượng trong hoạt
động, trạng thái hay tính chất của nó. Câu tả có nghĩa về trạng thái tồn tại của
sự vật (câu tồn tại) có phần đề do từ loại danh từ, phần thuyết do tiểu loại
động từ tồn tại đảm nhận (có, còn, hết…), đây là loại câu khá đặc biệt, tương
đương câu quan hệ mang đặc điểm “không có từ là”. Vì ở luận văn này chúng
tôi nghiên cứu loại “câu quan hệ sâu có từ là” trong tiếng Việt, nên chúng tôi
sẽ nhắc nhiều đến loại câu luận là loại câu tương đương câu quan hệ đặc biệt
“có dùng động từ là”.
Câu luận là kiểu câu biểu thị một quá trình tư duy và thông báo mang
tính suy luận, phán đoán. Nó có thể đưa ra một nhận xét, một ý kiến đánh giá
và đôi khi mang tính triết lý. Vị từ “là” trong câu luận có thể coi là động từ
mang trọng trách đặc biệt, làm “chính tố”, “động từ thuyết tính của câu luận”.
Ví dụ:
(8) Tổ chức là biện pháp cơ bản để thực hiện chính sách . (mô hình A là B)
A B
(9) Ruộng rẫy là chiến trường. (mô hình A=B)
A B
Câu luận trong tiếng Việt là loại câu tương đương “câu quan hệ sâu có
từ là”. Đó là một loại câu có cách thể hiện khá đa dạng.
Ví dụ: Câu luận “A là B”
(10) Cuốc cày là vũ khí. [39, 185] có thể thay đổi vị trí A và B
[57, 185]
(11) Nguyên tắc là nguyên tắc. [39, 185] có thể thay đổi vị trí A và B.
(12) Hà là một cán bộ nhà nước.[39, 183] không thể thay đổi vị trí A và B
Như trên có thể thấy loại câu luận có mô hình “A là B” tương đương
câu quan hệ sâu đồng nhất và định tính,“là” ở câu luận đóng vai trò là động từ
(vị từ) chứ không phải trợ từ.
Diệp Quang Ban đã đưa ra cách phân loại chi tiết và khá bao quát cho
các loại câu tồn tại. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm ấy, cách phân loại của ông
không đưa ra được “một mô hình toàn diện nhất để giải thích các kiểu quá
trình quan hệ.” tức là phải đáp ứng “… ba điều kiện: (i) nó phải xem ‘quan
hệ’ như là một đặc điểm của cả cú chứ không phải chỉ là một đặc điểm của
động từ; nghĩa là, nó phải được trừu tương hóa để có đủ sức giải thích cho
những đặc điểm cụ thể của các quá trình quan hệ trong tiếng Việt; và (ii) nó
phải được kiểm chứng bằng sự phù hợp của cả hai tiêu chí ngữ nghĩa và ngữ
pháp-từ vựng’’[40, 271].
Lê Thị Lan Anh bàn nhiều về sự tình quan hệ trong bài viết “Đặc trưng
ngữ nghĩa của sự tình quan hệ so sánh trong tiếng Việt”. Tác giả đã đưa ra vị
tố biểu thị quan hệ so sánh trong tiếng Việt gồm: như, như thể, in như, như,
giống, khác, khác biệt, bằng, hơn, kém, tựa, hệt, sánh, ví, tày ... và tổ hợp của
các vị tố này: như là, hệt như, giống như là, y hệt như là …, đồng thời đưa ra
khá đầy đủ những ví dụ để phân tích, chứng minh làm nổi bật các đặc trưng
ngữ nghĩa của sự tình so sánh trong tiếng Việt. Tuy nhiên bài viết không nhắc
đến vị từ “là”, trong khi “là” cũng có thể là một vị từ so sánh trong một số
trường hợp. Bài “Phương thức định tính và đồng nhất trong sự tình quan hệ
thâm nhập” của Lê Thị Lan Anh dùng thuật ngữ “thâm nhập” thay vì thuật
ngữ “sâu” của M.A.K. Halliday, nhưng về cơ bản cũng dựa trên mô hình “x
is a”, dựa trên cơ sở lý thuyết của M.A.K. Halliday để xem xét loại sự tình
quan hệ thâm nhập ở hai phương thức: định tính và đồng nhất trong tiếng Việt
“Đồng nhất thể và định tính là hai phương thức quan hệ hoàn toàn khác
nhau, mỗi phương thức sẽ cho chúng ta một loại sự tình riêng với những đặc
trưng ngữ pháp, ngữ nghĩa đặc thù của nó” [54,số 2, tr.62].
Theo tác giả, trong tiếng Việt, các vị tố : là, biểu hiện, biểu đạt, minh
họa, thể hiện… thường chỉ xuất hiện trong câu biểu thị sự tình quan hệ
thâm nhập định tính.
Ví dụ:
(13) Cây nguyệt quế biểu hiện sự vinh quang.
(Yêu thơ văn em tập viết)[54, số 2; tr.62]
(14) Sài Gòn tức Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố đầy nắng gió
phương Nam với những chiều mưa về hối hả.
(Yêu thơ văn em tập viết) [54; số2, tr.62]
Còn các vị tố : là, tức là, nghĩa là, có nghĩa (có nghĩa là), đồng nghĩa,
đóng vai, làm … là những vị tố quan hệ xuất hiện trong câu quan hệ thâm
nhập đồng nhất.
Ví dụ:
(15) Vết tích xấu nhất và nguy hiểm nhất của xã hội cũ là chủ nghĩa cá nhân.
(Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61]
(16) Chính nghĩa là không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn, đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết. (Hồ Chí Minh. Về vấn đề giáo dục) [1, 61]
Bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan Anh chưa trình bày được hết
những vấn đề của “câu quan hệ thâm nhập” (theo cách gọi của tác giả), câu
quan hệ sâu (cách gọi của Halliday). Tuy nhiên, bài viết đã gợi ra một số vấn
đề cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi.
Hoàng Văn Vân, người trực tiếp dịch công trình “Dẫn luận ngữ pháp
chức năng” của M.K.A. Halliday, … Trong công trình “Ngữ pháp kinh
nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống”, Hoàng
Văn Vân đã tiếp thu quan điểm của M.A.K. Halliday: quan điểm chức năng
hệ thống. Công trình của Hoàng Văn Vân nghiên cứu bình diện kinh nghiệm
của cú tiếng Việt, dựa vào mô hình kinh nghiệm của Halliday để mô hình hóa
các khu vực chuyển tác khác nhau trong cú tiếng Việt. Tuy nhiên, chuyên
khảo của Hoàng Văn Vân mới chỉ nghiên cứu giải thích các phạm trù ngữ
pháp trong hệ thống chuyển tác (hay hệ thống các kiểu quá trình) trong tiếng
Việt, còn ở cấp độ chi tiết hơn như “câu quan hệ sâu có từ “là” trong tiếng
Việt” thì Hoàng Văn Vân chưa khảo sát đến.
Bàn thêm về cấu trúc “Danh + là + Danh” của Trần Ngọc Thêm có
phân ra hai kiểu:
“Danh + là + Danh” kiểu 1: tự bản thân hoàn toàn là một câu độc lập, không
phụ thuộc bên ngoài cả cấu trúc và nội dung. Cấu trúc này có thể tham gia vào
câu lớn hơn với tư cách như một mệnh đề, hay một đối tượng. Đặc biệt, nó
không kết hợp được với đại từ chỉ định.
“Danh + là + Danh” kiểu 2: không bao giờ là một câu độc lập, và chỉ có thể là
một thành phần của một câu độc lập khác. Cấu trúc câu kiểu này luôn kết hợp
được với các đại từ chỉ định.
Theo Trần Ngọc Thêm, cấu trúc kiểu 1 khi nghĩa của từ “là” biểu hiện
quan hệ đồng nhất giữa Danh 1 và Danh 2. Danh 1 là tập hợp được xác định,
có thể đơn nhất hay trên một phần tử. Quan hệ ngữ pháp của cấu trúc kiểu 1 là
quan hệ chủ - vị.
Ví dụ: (17) Em tôi là công nhân.
Cấu trúc kiểu 2 khi nghĩa của từ “là” chỉ sự phụ thuộc của Danh 2 vào Danh
1. Danh 1 ở kiểu 2 là tập hợp không đơn nhất và không được xác định. Quan
hệ ngữ pháp của kiểu cấu trúc 2 là quan hệ chính - phụ.
Ví dụ: (18) Những cô gái là sinh viên.
Đỗ Thị Kim Liên trình bày các nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc biểu thị
quan hệ so sánh trong các câu tục ngữ Việt cũng có nhắc đến từ so sánh “là”.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng khi câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc có từ so sánh
“là” thì “luôn vắng yếu tố cơ sở so sánh”, ở một số trường hợp có thể lược bỏ
“là”.
Ví dụ:
(20) Cái bị là chị cái thúng. Cái bị chị cái thúng. [54,số 11, tr.11]
(21) Đậu nành là anh nước lã. Đậu nành anh nước lã. [54,số 11, tr.11]
Khi lược bỏ “là”, các câu tục ngữ có nhóm danh từ chỉ quan hệ thân tộc
có sự bù đắp hết sức tinh tế, từ ba nét nghĩa (giới tính, thứ bậc, quan hệ huyết
thống) chúng chỉ còn lại một nét nghĩa.
Ví dụ: “là” là vị từ so sánh.
(22) Bàng già là bà lim. Bàng già bà lim.
Cái so sánh Cái được so sánh.
Trong các câu tục ngữ chỉ quan hệ thân tộc, “là” có thể được coi như
một vị từ so sánh.
Ví dụ: “là” vị từ so sánh
(23) Cờ bạc là bác thằng bần.
Cái so sánh Cái được so sánh
(24) Chồng già vợ trẻ là tiên.
Cái so sánh Cái được so sánh
(25) Ruộng rẫy là chiến trường.
Cái so sánh Cái được so sánh
Nguyễn Thị Thanh Hương với bài viết “Bước đầu tìm hiểu về kiểu câu
vị ngữ danh từ tiếng Việt” đã phân ra làm 5 tiểu loại ( câu vị ngữ danh từ nêu
đặc trưng về số lượng; câu vị ngữ danh từ nêu lai lịch; câu vị ngữ danh từ nêu
đặc trưng về màu sắc, mùi vị, hình thể; câu vị ngữ danh từ xác định thời gian,
không gian; câu vị ngữ danh từ nêu quan hệ phân phối). Bài viết này cho thấy
khá rõ tác giả đồng quan điểm với John Lyons, khi cho là cách dùng động từ
“có” và động từ “là” trong các “câu vị ngữ động” khi chuyển qua kiểu “câu vị
ngữ danh” của tiếng Việt có thể loại bỏ hoặc ngược lại khá thú vị. Tiểu loại
câu vị ngữ DT xác định thời gian cho rằng “Tất cả các câu xác định thời gian,
không gian cũng có thể được diễn đạt theo cấu trúc câu vị ngữ động từ, mà
trong đó từ “là” làm thành tố chính” [55,số 4, 10] nhưng nếu diễn đạt theo
cấu trúc vị ngữ DT (tức là lược bỏ vị từ “là”) thì sẽ cho ra cấu trúc câu ngắn
gọn hơn, độc đáo hơn, mang đậm sắc màu Á Đông hơn.
Ví dụ:
(26) Lạt theo chân Keng đi luôn. Đến đầu ngõ thì gặp Ngọ. Hôm nay
chủ nhật. (…) Cô lên phố huyện chơi với bạn làm công trường trên đó. (Anh
Keng- Nguyễn Liên) [55,số 4; tr.9]
(27) Đây suối Lê-nin, kia núi Mác. (Hồ Chí Minh) [55,số 4, tr.9]
Với tiểu loại “câu vị ngữ danh từ nêu đặc trưng về số lượng” thì “trừ các
câu nêu số lượng tuổi, các câu nêu số lượng khác của tiếng Việt đều có thể
kết hợp được với động từ có hay các tính từ khác mà không tạo ra sự khác
biệt với người giao tiếp” [55, số 4; tr.8]
Ví dụ:
(28) Chiếc xe này ba bánh. Chiếc xe này có ba bánh. [55,số 4; tr.8]
(28) Vườn nhà tôi hai sào. Vườn nhà tôi rộng hai sào. [55,số 4; tr.8]
Tiểu loại “câu vị ngữ danh nêu lai lịch của con người” đều có thể kết
hợp với động từ “là” để tạo thành câu có nghĩa tương đương.
Ví dụ:
- Cháu tên gì?
(29) - Tui tên Nhọn. [55,số 4,8] - Tui tên là Nhọn.
(30) - Anh ấy kỹ sư. [55,số 4,8] - Anh ấy là kỹ sư.
Nói tóm lại, các nhà nghiên cứu trên ở những mức độ khác nhau đều đã
đề cập đến câu quan hệ, hay tương tự “câu quan hệ sâu có từ là trong tiếng
Việt”, nhưng vẫn chưa có sự phân tích kỹ lưỡng về kiểu câu này và chưa đưa
ra đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt.
0.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Câu quan hệ của tiếng Việt là một loại câu rất phong phú và đa
dạng. Điều kiện của một luận văn thạc sĩ không cho phép nghiên cứu toàn bộ
những kiểu câu quan hệ như câu quan hệ sở hữu, câu quan hệ chu cảnh và các
phương thức quan hệ của chúng nên chúng tôi chỉ xin giới hạn đề tài trong
một phạm vi nhất định. Mục đích của luận văn là tìm hiểu câu quan hệ có từ
“là” trong tiếng Việt theo quan niệm ngữ pháp chức năng; xác định cái nhìn
tổng quan về câu quan hệ trong tiếng Việt; thống kê, khảo sát các dữ liệu về
câu quan hệ có từ “là” trong tiếng Việt nhằm nêu lên được đặc điểm ngữ
nghĩa và ngữ pháp của chúng, tần số xuất hiện của kiểu câu này trong các loại
phong cách văn bản.
Về cơ sở lý thuyết luận văn này dựa trên quan điểm của M.A.K.
Halliday trong “ Dẫn luận ngữ pháp chức năng”. Qua khảo sát chúng tôi nhận
thấy có nhiều điểm tương đồng giữa kiểu và hai phương thức quan hệ định
tính và đồng nhất của “câu quan hệ sâu” trong tiếng Anh mà Halliday nghiên
cứu với câu quan hệ trong tiếng Việt. Bên cạnh đó, chúng tôi có tham khảo
thêm các công trình nghiên cứu của các nhà ngữ pháp trong và ngoài nước
khác như S.C. Dik, John Lyons, Cao Xuân Hạo, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn
Vân, Nguyễn Thị Lan Anh, các tác giả quyển Ngữ pháp tiếng Việt của Ủy
ban Khoa học Xã hội Việt Nam ….
0.4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
0.4.1. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp và thủ pháp nghiên cứu khoa học chung
như: thu thập dữ liệu, phân loại, luận văn chủ yếu sử dụng những phương
pháp sau:
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – cú pháp : Phương pháp này dùng
để phân tích ngữ nghĩa, cấu trúc của các loại câu quan hệ trong tiếng Việt.
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được dùng khảo sát, miêu tả
các loại câu quan hệ trong tiếng Việt.
- Phương pháp thống kê: Thống kê ngữ liệu về mặt số lượng nhằm xác
định tần số xuất hiện của loại “câu quan hệ có từ là” trong tiếng Việt trong
văn bản thuộc những phong cách khác nhau.
0.4.2. Nguồn ngữ liệu
Về ngữ liệu nghiên cứu, chúng tôi cũng giới hạn cụ thể như sau:
Một số bài nghiên cứu khoa học (khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội), các bài nghiên cứu trong tạp chí nghiên cứu và phê bình văn học
(phong cách ngôn ngữ khoa học)
Truyện ngắn của các tác giả như Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Lý
Biên Cương …. (phong cách ngôn ngữ văn chương)
Các tin tức trên một số báo điện tử, báo viết, truyền hình, lời kêu gọi
của Bác … (phong cách ngôn ngữ chính luận)
Một số nghị quyết, nghị định, thông tư, hợp đồng, báo cáo, thông báo
…(phong cách ngôn ngữ hành chính)
0.5. Bố cục luận văn
Ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, phần Nội dung của luận văn được cấu
trúc thành hai chương.
Chương 1: Chương này tóm tắt quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ
trong và ngoài nước như Simon C. Dik, M.A.K. Halliday, Cao Xuân Hạo,
Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Vân …. về câu quan hệ, chủ yếu là quan điểm
của M.A.K. Halliday về câu quan hệ. Đây là chương làm tiền đề cho việc
miêu tả và khảo sát câu quan hệ trong tiếng Việt ở chương sau.
Chương 2: Chúng tôi đi vào chức năng ngữ nghĩa của từ “là” trong câu quan
hệ (câu quan hệ sâu theo Halliday), hình thức các tham thể xung quanh vị từ
“là” trong câu quan hệ, thống kê và đưa ra tần số xuất hiện của kiểu câu này
trong văn bản mà chúng tôi chọn làm ngữ liệu, có chú ý khảo sát trong một
số phong cách văn bản. Chương này thông qua những dữ liệu thu thập, làm
nổi rõ chức năng ngữ nghĩa và đặc điểm cấu trúc của loại câu quan hệ có từ
“là” trong tiếng Việt.
Chương 1 : NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Khái niệm câu
Các công trình nghiên cứu và sách về ngữ pháp tiếng Việt từ trước đến
nay thường nêu lên nhiều định nghĩa về câu. Cho đến nay đã có ._.đến hàng
trăm định nghĩa về câu được đưa ra.
1.1.1. Theo ngữ pháp truyền thống.
Từ những thế kỷ thứ III-II trước Công nguyên, học phái ngữ pháp
Alêcxăngđria đã nêu định nghĩa: “Câu là đơn vị ngôn ngữ có cấu tạo ngữ
pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩa
tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh giá của người nói,hoặc có thể kèm
theo thái độ, sự đánh giá của người nói, giúp truyền đạt tư tưởng, tình cảm.
Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ”.[4,tập 2; tr.107].
Aristoteles thì đề cao cấu trúc chủ - vị biểu hiện mệnh đề, theo ông cấu trúc
chủ - vị là điều kiện giúp cho câu có tính trọn vẹn, Nhà ngôn ngữ học nổi
tiếng người Nga, viện sĩ Vinogradov đã định nghĩa về câu như sau: “Câu là
sự hoàn chỉnh về lời nói được hình thành về mặt ngữ pháp theo các quy luật
của một ngôn ngữ nhất định, làm công cụ quan trọng nhất để cấu tạo, biểu
đạt và truyền đạt tư tưởng. Trong câu không phải chỉ có sự truyền đạt tư
tưởng mà còn có cả mối quan hệ của người nói và hiện thực.” [40, 58]. Nhà
ngôn ngữ học cổ điển của Mỹ, L.Bloomfield, coi câu là kết cấu lớn nhất trong
bất kỳ lời nói nào. Bystrov, Nguyễn Tài Cẩn, Stankevich đã đưa ra bốn tiêu
chí xác định câu tiếng Việt: “Câu là một đơn vị ngôn ngữ biểu thị một tư
tưởng tương đối trọn vẹn; câu không chỉ phản ánh hiện thực mà còn chứa
đựng sự đánh giá hiện thực về phía người nói nữa; câu có những đặc trưng
bên ngoài là các tiểu từ tình thái dứt câu và chỗ ngắt câu; câu có những đặc
trưng bên trong là cấu trúc của nó” [40, 58].
Như vậy, câu theo quan điểm các nhà ngôn ngữ học từ trước đến nay là
“sự tổng hợp của các từ biểu thị một tư tưởng trọn vẹn” (học phái ngữ pháp
Alêcxangđria); là “đơn vị cơ bản của lời nói, của ngôn từ, của văn bản’’
(Benveniste), là đơn vị nhỏ nhất có thể sử dụng vào việc giao tế. Nói cách
khác, câu là ngôn bản (văn bản) nhỏ nhất.
Định nghĩa về câu của Trần Trọng Kim : “Câu lập thành do một mệnh-
đề có nghĩa lọn hẳn, hoặc do hai hay nhiều mệnh- đề.” [23, 27], và ông phân
ra làm ba thứ mệnh- đề, thứ nhất là mệnh đề phụ (gồm có mệnh đề phụ bổ
túc, mệnh đề chỉ trường hợp và mệnh đề chỉ định), thứ hai là mệnh đề độc lập
và thứ ba là mệnh đề chính. Theo Trần Trọng Kim một câu có bao nhiêu
tiếng tĩnh từ biểu diễn một cái thể hay tiếng động từ biểu diễn một cái dụng
của chủ từ, là có bấy nhiêu mệnh đề, đồng thời một mệnh đề có thể là một câu
hay là một vế trong câu.
Định nghĩa về câu của Hoàng Trọng Phiến: [(…), câu là ngữ tuyến
được hình thành một cách trọn vẹn về ngữ pháp và về ngữ nghĩa với một ngữ
điệu theo các quy luật của một ngôn ngữ nhất định, là phương tiện diễn đạt,
biểu hiện tư tưởng về thực tế và về thái độ của người nói đối với hiện thực]
Hay cách phân tích câu tiếng Việt theo mô hình Chủ - Vị với chức năng
thông báo: “ Chủ ngữ là phần nêu lên một cái gì đó, vị ngữ là phần nói về chủ
ngữ” [32, 31]
Câu nói chung gồm câu đơn và câu ghép được định nghĩa ngắn gọn:
“Câu là đơn vị dùng từ hay đúng hơn dùng ngữ mà cấu tạo nên trong quá
trình tư duy, thông báo; nó có nghĩa hoàn chỉnh, có cấu tạo ngữ pháp, và có
tính chất độc lập” [39, 167]…
Hoàng Dân đã đúc kết khái niệm chung về câu thật đơn giản trong
“Tiếng Việt cho mọi nhà” theo ngữ pháp truyền thống, câu là đơn vị ngôn ngữ
có một hình thức hoàn chỉnh, khởi đầu bằng một chữ cái viết hoa, kết thúc
bằng một dấu ngắt câu. Cấu trúc hoàn chỉnh hay chưa hoàn chỉnh ấy được xác
định dựa trên sự có mặt của thành phần chủ ngữ , vị ngữ hay khuyết vắng
thành phần chủ ngữ, vị ngữ. Câu phải có một nội dung thông báo hoàn chỉnh
hoặc tương đối hoàn chỉnh kèm theo một ngữ điệu nhất định. Vấn đề ngữ điệu
kết thúc câu cũng như vấn đề câu là đơn vị của ngôn ngữ hay đơn vị lời nói đã
và còn rất nhiều ý kiến tranh luận.
Trong ngữ pháp truyền thống, thuật ngữ “câu” được dùng khi người ta
muốn nói đến một đơn vị ngữ pháp lớn nhất mà đơn vị ngữ pháp ấy chính là
đơn vị được làm thành từ một mệnh đề hay hơn một mệnh đề, là đơn vị nằm ở
bậc cao nhất của tổ chức ngữ pháp và được làm thành từ các đơn vị nhỏ hơn
nó (chẳng hạn: cụm từ, từ, hình vị)…
Nói tóm lại, ngôn ngữ học truyền thống khi phân tích, nghiên cứu câu
thì đặt câu dưới dạng hằng thể, câu chỉ được chú trọng về mặt cú pháp và hình
thức mà chứ không chú trọng đến hai bình diện rất quan trọng khác, đó là
bình diện nghĩa và dụng pháp của câu.
Một định nghĩa về câu đơn giản, dễ hiểu và được coi là khá hoàn chỉnh
nhất của ngữ pháp truyền thống có lẽ là định nghĩa của nhóm Alêcxăngđria:
“Câu là sự tổng hợp của các từ biểu thị một tư tưởng trọn vẹn”.
1.1.2. Theo ngữ pháp chức năng
Ngữ pháp chức năng là một trào lưu ngữ pháp được kế thừa di sản chủ
yếu của ba trường phái:
Trường Prague (The Prague School) đứng đầu là ba nhà ngôn ngữ
người Nga: N.S.Trobeckoj, R.O. Jackobson, và Karccuski (học trò của F. de
.Saussure) và những nhà ngôn ngữ Tiệp Khắc: V. Mathesius, J. Vachk.
Trường London (The London School) với những tên tuổi như J.R.
Firth, V. Malinonski, M.A.K. Halliday …
Lý thuyết của C.S. Peirce về ba bình diện của ký hiệu (trong đó có bình
diện dụng pháp hay dụng học).
“Ngữ pháp chức năng là một hệ lý thuyết và hệ phương pháp được xây dựng
trên quan niệm coi ngôn ngữ là một phương tiện thực hiện sự giao tiếp giữa
người và người” [13, 11]. “Ngữ pháp chức năng tự đặt cho mình cái nhiệm vụ
nghiên cứu, miêu tả và giải thích các quy tắc chi phối hoạt động của ngôn
ngữ trên các bình diện của mặt hình thức và nội dung trong mối liên hệ có
tính chức năng (trong mối liên hệ giữa những phương tiện và những mục
đích) thông qua việc quan sát cách sử dụng ngôn ngữ trong những tình huống
giao tế hiện thực … để theo dõi cách hành chức của ngôn ngữ qua các biểu
hiện sinh động của nó trong khi sử dụng.” [13, 16].
Khác với ngôn ngữ học truyền thống, khi bàn về nghĩa, người ta chỉ nói
đến nghĩa của từ chứ không bàn về nghĩa của câu. Câu theo quan niệm của
ngữ pháp chức năng được định nghĩa như sau: “… Câu là sản phẩm của ba
quá trình biểu nghĩa diễn ra đồng thời. Nó vừa là một sự trao đổi có tính chất
tác động lẫn nhau, vừa là một thông điệp.” [13, 24].
Cũng theo ngữ pháp chức năng, câu là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ
mà đơn vị nhỏ nhất ấy được đặt trên ba bình diện khác nhau: bình diện ngữ
nghĩa- bình diện cú pháp - bình diện dụng pháp, các bình diện này có quan hệ
khăng khít và cùng bổ sung cho mô hình lưỡng phân “năng biểu – sở biểu”.
Theo M.A.K. Halliday, câu và từ là hai đơn vị ngữ pháp không được
ngăn cách nhau rõ ràng lắm, cụm từ - group, cú đoạn – phrase là các đơn vị
trung gian giữa câu-từ. Ông cho rằng cú phức là đơn vị ngữ pháp duy nhất
trên cú được công nhận, vì vậy không nhất thiết phải đưa ra một khái niệm
câu tách biệt. Một câu sẽ được định nghĩa như một cú phức, dùng đơn thuần
để chỉ một đơn vị văn tự nằm giữa hai dấu chấm. “… Trong ngữ pháp chức
năng, cú ở bất kỳ chỗ nào cũng giống nhau, cho dù nó đóng chức năng một
mình (như một câu đơn) hay một phần của cú phức (câu phức/câu ghép)”.
Cao Xuân Hạo cho rằng “lời nói hay ngôn từ, phát ngôn, văn bản ngắn
nhất là câu”, tuy nhiên ông cũng công nhận không phải câu nào cũng có thể
độc lập làm thành một văn bản hay một ngôn từ. Có những câu tự nó đã mang
được một ý nghĩa trọn vẹn mà không cần sự bổ sung nghĩa của các câu khác
gọi là “câu tự lập”. Bên cạnh đó cũng có những câu chỉ trọn vẹn ý nghĩa khi
có sự hỗ trợ ý nghĩa từ những câu kế cận nó (câu tỉnh lược, câu chứa các từ
ngữ hồi chỉ hay khứ chỉ…) là những câu liên đới hoặc là câu ứng tiếp. Những
câu như vậy bao giờ cũng giả định một câu kế cận và không tự mình làm
thành một văn bản, một ngôn từ độc lập. Trong giao tiếp hàng ngày, muốn
khôi phục dạng trọn vẹn và độc lập cho các câu ứng tiếp chúng ta thêm cho
nó những từ ngữ bị tỉnh lược, thay thế những từ ngữ hồi chỉ bằng những ngữ
đoạn đồng sở chỉ và tách riêng các kết từ.
Khi thực hiện một hoạt động giao tiếp, cái đơn vị cơ bản nhất mà mỗi
đối tượng tham gia giao tiếp phải sử dụng chính là câu. Bản thân mỗi câu
không chỉ là một đơn vị giao tiếp mà nó còn có khả năng độc lập về mặt ngữ
pháp. Nguyễn Thị Ly Kha khẳng định “Việc định nghĩa câu nan giải không
khác gì việc định nghĩa từ mặc dù ta vẫn cảm nhận được sự hiện hữu của nó”
nên khi định nghĩa câu các nhà ngôn ngữ học luôn phải thể hiện được bốn yếu
tố quan trọng nhất, đó là yếu tố hình thức (Câu có cấu tạo ngữ pháp nhất định,
có tính tự lập, có ngữ điệu kết thúc), yếu tố nội dung (câu biểu thị một nội
dung sự tình nhất định, và có thể kèm theo thái độ của người nói, tình cảm
của người nói), yếu tố tiếp theo là yếu tố chức năng (vì câu là đơn vị thông
báo nhỏ nhất, các chức năng như hình thành –biểu hiện –truyền đạt tư tưởng –
tình cảm phải được thể hiện rõ ràng trong câu), yếu tố cuối cùng là câu là đối
tượng nghiên cứu của ngữ pháp học nên nó thuộc lĩnh vực nghiên cứu. Từ đó,
tác giả đưa ra định nghĩa : “Câu là đơn vị lời nói có cấu tạo ngữ pháp nhất
định, mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn, giúp hình thành và biểu hiện,
truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Câu đồng thời là đơn vị lời nói nhỏ nhất có
chức năng thông báo.”…
Như vậy, với ngữ pháp chức năng, câu và những vấn đề hữu quan của
nó được đem ra xem xét, nghiên cứu dưới cả ba bình diện : nghĩa, cú pháp và
dụng pháp chứ không chỉ đơn thuần qua tâm tới mặt cấu trúc hình thức. Đặc
biệt, ở mặt nghĩa thì nghĩa miêu tả của câu (hay còn gọi là nghĩa phản ánh
một sự tình được nói đến trong câu) được quan tâm hơn hết.
1.2. Khái niệm câu quan hệ
1.2.1. Theo quan niệm của M.A.K. Halliday
Vật chất, tinh thần, và quan hệ là ba kiểu quá trình chính trong hệ thống
chuyển tác tiếng Anh. “Nếu quá trình vật chất là những quá trình hành động,
quá trình tinh thần là quá trình cảm giác thì kiểu quá trình chính thứ ba, quá
trình quan hệ, có thể được coi là quá trình tồn tại.”[24, 223].
Theo M.A.K. Halliday một quá trình bao gồm có 3 thành phần, thứ
nhất đó là chính quá trình đó, thứ hai là các tham thể tham gia trong quá trình,
và thứ ba là các chu cảnh liên quan đến quá trình. ‘Quan hệ’ không phải là
‘tồn tại’ theo nghĩa hiện hữu mà M.A.K. Halliday cho rằng “Trong cú quan
hệ có hai phần của ‘sự tồn tại’: cái này được cho là của cái kia … một mối
quan hệ được thiết lập giữa hai thực thể tách biệt” [24, 223]. Các quá trình
quan hệ (relational) phản ánh thế giới các quan hệ trừu tượng gồm có :
Quan hệ sâu (intensive): x is a ‘x là a’: là quá trình tìm hiểu
sâu về một mối liên hệ giống, tương đương, đồng nhất của các đối
tượng.
Ví dụ:
(31) Paula is a poet. (Paula là một nhà thơ.) [24, 224]
(31’) Tom is the leader. (Tom là lãnh tụ.) [24, 224]
Quan hệ chu cảnh (circumstantial): ‘x is at a’ ‘x ở a’: tìm
hiểu sâu về các cảnh huống của đối tượng.
Ví dụ:
(32) The fair is on Tuesday. (Hội chợ mở vào thứ ba.) [24, 224]
(32’)Tomorrow is the 10th. (Ngày mai là mùng 10.) [24, 224]
Quan hệ sở hữu (possessive): x has a ‘x có a’: nêu lên quan
hệ sở hữu của đối tượng.
Ví dụ:
(33) Tom has piano. (Tom có một đàn piano)
(33’) The piano is Peter’s. (Chiếc đàn piano là của Peter.)
Giao điểm của ba kiểu và hai phương thức quan hệ của Halliday cho ra
sáu loại cú quan hệ, đó là : quan hệ sâu định tính (31), quan hệ sâu đồng nhất
(31’), quan hệ chu cảnh định tính (32), quan hệ chu cảnh đồng nhất (32’),
quan hệ sở hữu định tính (33), quan hệ sở hữu đồng nhất (33’).
M.A.K. Halliday cũng khẳng định: “Mọi ngôn ngữ đều chứa đựng
trong ngữ pháp của nó một cấu trúc có hệ thống các quá trình quan hệ”. [24,
223],. Như vậy, tiếng Việt cũng có hệ thống các quá trình quan hệ đó.
1.2.2. Theo quan niệm của S.C.Dik
Như ở phần trình bày lịch sử vấn đề chúng tôi đã nói đến cách phân
loại sự thể (sự tình) của S.C. Dik, S.C. Dik dựa trên hai thông số cơ bản là
tính động (Dynamism) và tính có chủ ý (Control) để xác lập ra bốn loại hình
sự thể: Trạng thái, Quá trình, Tư thế, Hành động (xem bảng trình bày các sự
tình của Dik ở phần trình bày LSVĐ) trong đó không có loại hình sự thể quan
hệ. Đến năm 1989, S.C. Dik đưa thêm vào Tính thành quả (Telicity) vào bộ
thông số và cho ra một bảng phân loại gồm sáu sự thể: Tư thế (Position),
Trạng thái (State), Hành động hoàn thành (Accomplishment), Hành động diễn
tiến (Activity), Quá trình biến đổi (Change), Quá trình biến động(Dynamism).
Tuy nhiên, vẫn có những khiếm khuyết như Siewierska (1991) nhận xét:
“Những loại hình sự thể lọt ra ngoài bảng phân chia loại nhỏ này thì không
được nêu tên gọi.” [11B, số 10, tr.12]. Theo Diệp Quang Ban, ngoài lĩnh vực
các quan hệ, cách phân loại sự thể của S.C. Dik khá thỏa đáng. Nhưng phải
tìm kiếm được một giải pháp khả thi mới có thể dùng kết hợp hai cách phân
loại của S.C. Dik và M.A.K. Halliday.
1.2.3. Theo quan niệm của John Lyons
John Lyons đề cập đến loại câu quan hệ nhưng dưới một tên gọi khác,
đó là “các kết cấu tồn tại, định vị và sở hữu”. Theo John Lyons, cái thường
được gọi là “động từ là” trong tiếng Anh và các ngôn ngữ khác là một yếu tố
ngữ pháp, vô nghĩa, chỉ dùng “mang” các dấu hiệu về thời, thể và thức ở cấu
trúc nổi của câu, ông lấy dẫn chứng trong tiếng Anh:
Ví dụ:
Tiếng Anh: Mary is beautiful Mary beautiful
Mary is a child Mary child
Tiếng Nga: Marija krasivaja Mary đẹp
(krasivaja là hình thức giống cái của tính từ hợp dạng với Marija )
Hay tiếng Latin và Hy Lạp “động từ là” có hay không có cũng được trong một
số câu như thế, trừ trường hợp câu trong thời quá khứ hay ở một thức khác,
thức trần thuật “Sự kiện đó cho rằng chính các động từ là trong tiếng Anh và
Latin được dùng như một định vị ở cấu trúc nổi để đánh dấu thời, thức, thể ”
“… bản thân “là” không phải là một yếu tố của cấu trúc chìm, mà là một động
từ “câm” rỗng nghĩa được tạo sinh do các quy tắc ngữ pháp của tiếng Nga,
Hylap và Latin để quy định một số phân biệt. Như đã xác nhận, trong mọi câu
đơn thông thường đều có hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ. Chủ ngữ
luôn là danh từ hay một đại từ thay thế cho danh từ đó. Còn vị ngữ có thể là
động từ nội động; động từ ngoại động và tân ngữ của nó; hay động từ “là”.
1.2.4. Theo quan niệm của Cao Xuân Hạo
Theo Cao Xuân Hạo có hai cách phân loại câu, theo lực ngôn trung và
theo nghĩa biểu hiện.
Theo lực ngôn trung thì có các loại câu như câu nghi vấn, câu trần thuật
có giá trị ngôn trung được đánh dấu, câu ngôn hành.
Theo nghĩa biểu hiện “phân loại hình các nghĩa biểu hiện của câu là
một trong những công việc tất yếu của ngữ pháp chức năng” [13,427], câu
gồm có ba loại: thứ nhất là câu tồn tại; thứ hai là câu chỉ sự tình động hay sự
việc, biến cố; thứ ba là câu chỉ sự tình tĩnh hay tình hình. Câu quan hệ mà
chúng ta nghiên cứu thuộc loại câu thứ ba, “quan hệ là tình hình mà nội dung
là một cái gì đó ở giữa hai sự vật, dù đó là một sự tiếp xúc, một khoảng cách,
một mối dây nhân quả, hay một sự so sánh, ...”. Câu quan hệ ở đây là loại câu
[- động,- nội tại] của sự tình tình hình. Trong Tiếng Việt sơ thảo ngữ pháp
chức năng, tác giả Cao Xuân Hạo phân loại câu quan hệ trong tiếng Việt
thành 4 loại lớn, đó là:
- Quan hệ giữa một thực thể với một thực thể.
Quan hệ so sánh:
A hơn B, A kém B
A giống B, A khác B
A bằng B, A cũng như B.
Quan hệ đồng nhất ( quan hệ so sánh hay quan hệ tương đối):
A là B, A không phải là B
A đồng nhất với B
Quan hệ tương liên gồm
Quan hệ sở hữu: A là của B, A là sở hữu chủ của B
Liên hệ thân thuộc, liên hệ xã hội: A là con của B, A là
thầy của B
Liên hệ vị trí: A ở trong B, A ở dưới B, A ở bên B, A ở
cách B 12 km
- Quan hệ giữa một thực thể với một sự tình hay một chu cảnh:
Quan hệ nhân quả : A làm cho X
Quan hệ liên đới: A có liên quan đến vụ X, A là nạn nhân của vụ
X.
Quan hệ vị trí: A là nơi xảy ra X
- Quan hệ giữa hai sự tình:
Quan hệ thời gian: X diễn ra đồng thời với Y, trước Y sau Y
Quan hệ tương tác: X làm cho Y, X cản trở Y, X quy định Y, X
loại trừ Y, X là mục đích của Y
- Quan hệ giữa sự tình với chu cảnh:
Quan hệ định vị trong không gian: X diễn ra trong một khoảng từ
Y-Z
Quan hệ định vị trong thời gian: X diễn ra năm X, thế kỷ Y
Như vậy, theo cách phân loại của Cao Xuân Hạo thì loại câu quan hệ
sâu (định tính, đồng nhất) mà luận văn chọn nghiên cứu thuộc loại 1 của câu
quan hệ “giữa một thực thể với một thực thể ”, tiểu loại quan hệ đồng nhất (A
là B, A không phải là B, A đồng nhất với B).
1.2.5. Theo quan niệm của Diệp Quang Ban
Khi xét các kiểu câu cơ bản của tiếng Việt, xét theo cấu trúc cú pháp và
nghĩa biểu hiện, Diệp Quang Ban nhấn mạnh vai trò quan trọng của vị tố, vị
tố có thể do yếu tố có tính chất động từ, tính từ hay yếu tố có tính chất danh
từ đảm nhận. Vì vậy ông đưa ra khái niệm “động từ tính”, “tính từ tính”,
“danh từ tính” để chỉ các vị tố là động từ, tính từ, danh từ hay hoạt động như
động từ, tính từ, danh từ. Theo Diệp Quang Ban, trong tiếng Việt các vị tố -
hư từ phong phú và gắn với các hư từ cụ thể sẽ cho ra nhiều kiểu câu quan hệ
khác nhau gồm:
- Quan hệ thâm nhập đi sâu vào vật, hiện tượng được xem xét, là quan
hệ giữa vật, hiện tượng được xem xét với những đặc điểm, tính chất
giúp hiểu sâu hơn về nó. Công thức khái quát : x là a .
- Quan hệ cảnh huống là quan hệ của vật, hiện tượng xét trong quan
hệ với cảnh huống (thời gian, không gian, cách thức, nguyên nhân,
vật đi kèm, vai trò hay quan điểm, vấn đề ... của vật, hiện tượng đó).
Công thức khái quát: x ở a.
- Quan hệ sở thuộc là quan hệ được xem xét với chủ sở hữu của nó.
Công thức khái quát: x của a.
Ở kiểu quan hệ thứ ba, quan hệ sở thuộc, Diệp Quang Ban phân biệt
khá rõ sự khác nhau giữa quan hệ sở thuộc và quan hệ sở hữu, ông cho rằng
hai quan hệ này khác nhau cả về phương tiện diễn đạt lẫn quan hệ nghĩa (quan
hệ sở thuộc: vật đó thuộc về chủ sở hữu nào? “Chiếc xe này của Giáp” #
“Giáp có một chiếc xe” Chủ sở hữu có cái gì thuộc về mình?) . Riêng ý
kiến của chúng tôi thì lại cho rằng hai câu trên đều thuộc quan hệ sở hữu,
nhưng câu “Giáp có một chiếc xe” là câu quan hệ sở hữu định tính, còn câu
“Chiếc xe này của Giáp” là câu quan hệ sở hữu đồng nhất. Diệp Quang Ban
cũng nhấn mạnh tất cả các câu gồm có danh từ làm chủ ngữ và danh từ làm vị
tố đều mang khả năng diễn dạt quan hệ, có thể là quan hệ thâm nhập đi sâu
vào các tính chất của thực thể nêu ở chủ ngữ; có thể là quan hệ cảnh huống
chỉ thời gian, không gian, phương tiện đối với các thực thể đã nêu ra ở chủ
ngữ; có thể là quan hệ sở hữu nhằm chỉ ra thực thể đã nêu ở chủ ngữ có đặc
điểm gì, có cái gì làm dấu hiệu của mình.
1.2.6. Theo quan niệm của Hoàng Văn Vân
Theo Hoàng Văn Vân “quá trình quan hệ là quá trình thể hiện các ý
nghĩa khái quát như tồn tại (tĩnh tại), sở hữu và định vị. Mỗi ý nghĩa được thể
hiện bằng một kiểu quá trình.”, ông đưa ra ba kiểu quá trình quan hệ là quá
trình quan hệ tồn tại, quá trình quan hệ chu cảnh và quá trình quan hệ sở hữu,
mỗi quá trình ấy xuất hiện dưới hai hình thức quy gán và đồng nhất.
Hoàng Văn Vân khái quát hóa quá trình tồn tại quy gán bằng công
thức: “A mang đặc điểm của X”, trong đó A là kẻ mang thuộc tính gọi là
Đương thể (Đgt), X là đặc tính của A gọi là Thuộc tính (Tht). Còn quá trình
quan hệ tồn tại đồng nhất thì khái quát bằng công thức “A được đồng nhất bởi
X”, thành phần thứ nhất được gọi là Bị đồng nhất thể hay Biểu hiện (Bh)
thành phần thứ hai là Đồng nhất thể hay Giá trị (Gt).
Ví dụ:
(34) Con chim gáy hiền lành. tồn tại quy gán.[40, 262]
Đgt Tht
(35) Tôi là Nhâm. tồn tại đồng nhất[40, 262]
Bh quá trình QH Gt
Quá trình quan hệ chu cảnh quy gán là quá trình thể hiện mối quan hệ
giữa người hay vật trong một chu cảnh nào đó: thời gian, không gian, phạm
vi. Hai thực thể tham gia trong quá trình có thể là cân bằng (đồng nhất) hay
không cân bằng (quy gán).Tham thể ở quá trình quan hệ chu cảnh quy gán
này cũng được đặt tên là Đương thể (Đgt) và hoàn cảnh mà quá trình đó tham
gia là thuộc tính (Tht). Tham thể tham gia quá trình chu cảnh đồng nhất là
Biểu hiện (Bh) và Giá trị (Gt).
Ví dụ:
(36) Ngày mai là chủ nhật. QH chu cảnh đồng nhất [40, 262]
Bh quá trình QH Gt
(37) Nhà tôi ở dưới đám dâu. QH chu cảnh quy gán [40, 117]
Đgt quá trình QH Tht
Quá trình quan hệ thứ ba mà Hoàng Văn Vân đề cập đến là quá trình
quan hệ sở hữu, đây là một quá trình thể hiện sự sở hữu của một thực thể hay
một vật bởi một đối tượng khác, các tham thể tham gia trong quá trình quan
hệ sở hữu quy gán được đặt tên là Thuộc tính (Tht) và Đương thể (Đt). Các
tham thể tham gia quá trình quan hệ sở hữu đồng nhất được đặt tên là Biểu
hiện (Bh) hay Bị sở hữu thể và Giá trị (Gt) hay Sở hữu thể.
Ví dụ:
(38) Chiếc trống này thuộc về thời đại đồ đồng. QHSH quy gán[40, 308]
Đgt quá trình QH Tht
(39) Bài viết ấy là của Thành. QHSH đồng nhất.[40, 310]
Bh quá trình QH Gt
1.2.7. Theo quan niệm của các nhà nghiên cứu khác
Hai tác giả Bùi Minh Toán và Lê Thị Lan Anh dựa theo quan niệm của
M.A.K. Halliday đưa ra định nghĩa đơn giản “Câu quan hệ là câu mà nòng
cốt biểu hiện sự tình quan hệ.”. “Là một sự liên quan, một mối quan hệ nào
đó (có thể là so sánh, tiếp xúc, một sự tương hỗ ...) giữa hai hay nhiều thực
thể...”. Từ đó, Bùi Minh Toán và Nguyễn Thị Lan Anh đã phân xuất ra ba
kiểu sự tình quan hệ với 13 loại sự tình quan hệ trong tiếng Việt.
Bùi Mạnh Hùng cho rằng: “Câu quan hệ là câu biểu hiện quan hệ nào
đó về xã hội, không gian, thời gian, kích thước, nhân- quả, v.v…” [19, 111]
Trên đây là những tóm tắt các quan niệm của các nhà ngôn ngữ học
trong và ngoài nước về câu quan hệ, các nhà nghiên cứu Việt ngữ học khi nói
về câu quan hệ tiếng Việt, nền tảng cơ bản thường là dựa trên mô hình lý
thuyết của M.A.K. Halliday. Chúng tôi nhận thấy có thể dùng khái niệm sau,
một khái niệm khái quát và dễ hiểu để nói về câu quan hệ trong tiếng Việt:
Câu quan hệ là loại câu biểu hiện quan hệ nào đó giữa hai hay
nhiều thực thể, các quan hệ ấy có thể là sự tiếp xúc xã hội, không
gian, thời gian, địa điểm, một mối dây nhân quả, hay một sự so
sánh ...
Mục đích cuối cùng nhất của câu là phục vụ cho sự giao tiếp của con
người, do vậy khi nghiên cứu về câu nói chung và câu quan hệ nói riêng, luận
văn cần thiết nghiên cứu câu trên bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng
để làm rõ đặc điểm hình thức- nội dung- hoạt động của câu khi giao tiếp.
1.3. Vị từ quan hệ và tham thể quan hệ
1.3.1. Vị từ quan hệ
1.3.1.1. Vị từ
Trong ngữ pháp học truyền thống tiếng Việt, các nhà Việt ngữ học quen
dùng “động từ” khi dịch từ thuật ngữ “verb” (verbe) và “tính từ” khi dịch từ
thuật ngữ “Adjective” (Adjectif). Động từ, tính từ là hai trong nhiều từ loại
của hệ thống từ loại tiếng Việt như : danh từ, đại từ, phụ từ, quan hệ từ, ….
Tuy nhiên, Cadière khi nghiên cứu về tiếng Việt đã phát hiện ra tiếng Việt của
chúng ta có khuynh hướng coi “tính từ” như “động từ” : “Việt ngữ có khuynh
hướng coi adjectif như verbe”. Theo Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam của
Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963) thì: “Việt ngữ không thể theo
Pháp ngữ mà phân biệt hai loại verbe và adjectif ngay được”.
Trong “Động từ tiếng Việt” (1977), Nguyễn Kim Thản phân thực từ
thành hai nhóm từ đối lập nhau cả hình thức và ý nghĩa: thể từ và vị từ. Trong
đó vị từ được ông xác định như sau:
Về mặt ý nghĩa: vị từ biểu thị quá trình hay tính chất của sự vật.
Về mặt hình thức: vị từ có khả năng trực tiếp làm vị ngữ, đặt trước nó
là những hư từ: đều, chẳng, sẽ …, và sau nó là những từ phủ định: không,
chưa … để tạo câu nghi vấn.
Nguyễn Thị Quy cũng chỉ ra nghĩa của vị từ quy định cái khung cho
những tham tố có mặt trong sự thể, nó là “linh hồn ngữ nghĩa” của toàn câu,
là trung tâm ngữ đoạn, có tác dụng quyết định đối với cấu tạo ngữ pháp của
câu.
Với Hoàng Phê: “Vị từ là phạm trù từ loại bao gồm động từ và tính từ,
thường có khả năng trực tiếp làm vị ngữ trong câu.” [26,1092].
Cao Xuân Hạo cho rằng các “tính từ” giống “động từ” ở chức năng tự
mình làm vị ngữ, hay trung tâm vị ngữ . Điều này cho thấy “động từ” và “tính
từ” là hai từ loại tương đương nhau.
Có thể tạm dựng lên mô hình một vị ngữ có vị từ làm trung tâm như
sau:
V (vị từ làm trung tâm)
S O1 O2
(chủ thể hành động) (Đối thể) (thể thụ hưởng)
Mô hình vị ngữ có vị từ là trung tâm
Tóm lại, vị từ là một từ có thể tự nó đóng vai trò trung tâm làm hạt
nhân ngữ nghĩa của một vị ngữ biểu hiện nội dung của sự tình (hoặc sự thể),
vậy có thể hiểu như sau: “Vị từ là loại thực từ có thể tự mình làm
thành một ngữ vị từ, làm trung tâm của một vị ngữ”.
1.3.1.2. Vị từ quan hệ
Dựa vào nghĩa biểu hiện của vị từ có thể xác định vị từ quan hệ là vị từ
biểu thị quá trình quan hệ của đối tượng.
Những vị từ quan hệ trong tiếng Việt chẳng hạn như: là, hơn, kém,
bằng, đại diện, bao hàm, biến thành, trở nên, …
Tương tự như các vị từ hành động, quá trình, trạng thái, tư thế, vị từ
quan hệ cũng được phân ra làm nhiều tiểu loại, mỗi tiểu loại ứng với một loại
quan hệ khác nhau. Để phân biệt các kiểu quan hệ chính trong hệ thống các
quá trình quan hệ trong tiếng Anh, M.A.K. Halliday đưa ra ba nhóm vị từ
quan hệ tiêu biểu:
Vị từ “là” đại diện cho quá trình quan hệ sâu.
Vị từ “ở” đại diện cho quá trình quan hệ chu cảnh.
Vị từ “của” , “có” đại diện cho quá trình quan hệ sở hữu.
Diệp Quang Ban dùng thuật ngữ “vị tố” quan hệ: chỉ quan hệ đồng nhất
“là”; chỉ quan hệ với chất liệu “bằng”; chỉ quan hệ mục đích “để”, “do”; chỉ
quan hệ so sánh “bằng”, chỉ quan hệ sở hữu, tồn tại “có”, chỉ quan hệ biến
hóa “biến thành”….
Cao Xuân Hạo đưa ra các “vị từ quan hệ: hơn, kém, bằng, (cũng) như,
giống, khác, đồng nhất (với), xa, gần, sát, và những danh từ quan hệ như
trên, dưới, trong, ngoài, trước, sau, giữa.”
Hoàng Văn Vân đưa ra các vị từ quan hệ trong tiếng Việt gồm:
Vị từ quan hệ gây khiến: làm, làm cho, khiến cho, gây cho, khiến, gây …
Vị từ quan hệ đồng nhất sâu gồm: minh họa, đại diện, bao hàm, bao gồm,
đóng, biểu đạt, hiện thực hóa, nghĩa là …
Vị từ quan hệ quy gán (định tính) sâu: trở nên,đâm/ hóa, cảm thấy, bị, trở
thành, biến hóa, hóa thành, hóa ra …
Như chúng ta đã biết, câu tiếng Việt được cấu tạo bởi hai thành phần
nòng cốt : Chủ ngữ và Vị ngữ (theo quan điểm của ngữ pháp truyền thống)
hoặc Đề và Thuyết (theo quan niệm của ngữ pháp chức năng). Vị từ là thành
phần nòng cốt biểu hiện nội dung của sự thể được thông báo trong câu,
thường nằm ở phần thuyết và “Nghĩa của vị từ có một tác dụng quyết định
đối với ngữ pháp của cả câu”, vậy vị từ quan hệ là những loại vị từ có khả
năng là trung tâm của câu quan hệ, có đặc trưng thể hiện ngữ nghĩa của câu
quan hệ.
Ví dụ:
Văn phạm là phép dạy nói và dạy viết cho đúng mẹo-luật của một tiếng nói.
(40) Đề Thuyết [ 23, 13]
câu thể hiện quá trình quan hệ sâu đồng nhất; vị từ “là” là vị từ quan hệ.
(41) Ông Garick đóng vai Hamlet. [24, 228]
Đề Thuyết
câu thể hiện quá trình quan hệ sâu đồng nhất, vị từ quan hệ là vị từ “đóng
vai”
(42) Chim bồ câu tượng trưng cho hòa bình.
Đề Thuyết
câu thể hiện quá trình quan hệ sâu định tính, vị từ quan hệ là vị từ “tượng
trưng”.
Các vị từ “đóng vai”, “tượng trưng” là vị từ trung tâm của các câu thể hiện
quá trình QHS (41),(42).
Tuy vị từ là thành phần cốt lõi của sự tình, nêu lên đặc trưng hay thể
hiện loại sự tình quan hệ, nhưng trong một số trường hợp của câu quan hệ sâu
định tính vị từ có thể vắng mặt, lúc này tham thể Thuộc tính thể sẽ đóng vai
trò hình thức nhận diện và biểu hiện nghĩa cho sự tình quan hệ định tính.
Ví dụ:
(43) Tôi tên Ф Trần Thị Hà
(44) Gái thương chồng Ф đương đông buổi chợ
Trai thương vợ Ф nắng quái chiều hôm. (Ca dao)
1.3.2. Tham thể quan hệ
Câu quan hệ sâu là loại câu quan hệ thể hiện, tạo ra một mối quan hệ
tương đương, giống hoặc đồng nhất giữa các tham thể tham gia giao tiếp. Cụ
thể ở đây là các tham thể Bị đồng nhất thể/ Đồng nhất thể; Đương thể /
Thuộc tính thể.
Tham thể tham gia trong câu quan hệ sâu biểu thị quan hệ giữa các thực
thể, một sự tình quan hệ nhất thiết phải có hai tham thể quan hệ. Chức năng
nghĩa của hai tham thể một mặt chịu sự tác động của vị từ quan hệ, một mặt
được xác định trong sự tương tác quy định lẫn nhau. Tùy thuộc mối quan hệ
nhất định mà xuất hiện những tương quan ngữ nghĩa đặc trưng cho các tham
thể tham gia trong sự tình quan hệ đó.
* Tham thể
Một vị từ có thể có một hay nhiều tham thể xoay quanh nó tạo nên cấu
trúc của một sự tình. Nội dung của sự tình có thể là một đặc trưng, một quan
hệ có tính động hay tĩnh. Những sự tình được thông báo, các hiển ngôn hay
hàm ngôn đều hoặc là trực tiếp, hoặc là gián tiếp dựa vào câu để biểu hiện.
Mỗi từ ngữ, mỗi thành phần chức năng trong câu đều có một vai trò riêng của
nó, nhưng có thể nói hạt nhân của câu quan hệ là cái khung ngữ vị gồm vị từ
trung tâm và các tham thể của nó.
Như vậy tham thể (hay tham tố) của vị từ là những yếu tố tham dự vào
sự tình, cùng với vị từ để tạo nên ý nghĩa của câu.
Theo L.Tesnière, trong hiện thực, mỗi sự tình diễn ra có thể xem như là
một màn kịch nhỏ, trong màn kịch ấy, vị từ sẽ đóng vai trò trung tâm còn các
tham thể (tham tố) là các vai nghĩa. Nghĩa của vị từ sẽ quy định cái khung
tham thể (tham tố) của nó, số lượng và tính chất của các tham tố tham gia
trong sự tình biểu hiện trên câu có vị ngữ làm trung tâm.
Ví dụ:
(45) Cây nguyệt quế (1) biểu hiện sự vinh quang. (2)
(Đương thể) vị từ quan hệ (Thuộc tính thể)
Các tham thể của ví dụ (45) gồm 2 tham thể (đương thể, thuộc tính thể)
và còn có thể có cả chu tố chỉ thời gian hay địa điểm, nguyên nhân khác nữa.
Như vậy, ở (45) tham thể 1 và 2 là tham thể bắt buộc, còn tham thể chỉ thời
gian, địa điểm không bắt buộc (chu tố).
Tham thể diễn tố là tham thể tất yếu, đặc trưng ch._. là người đáng
37 X
thương.
13 Đấy là một đồng chí
tân binh vui, khỏe,
xốc vác nhưng tính
tình hơi lẳng lơ một
tý.
7 X
14 Con đường miền Tây
dạo ấy đang mùa
mưa, nhưng địch
đánh rát lắm; những
quãng qua khe ngầm,
nhất là quãng cầu đá
xanh, anh chị em giao
thông đang vật nhau
với địch để quyết giữ
con đường biên giới.
8 X
15 Nhưng dầu sao nó
cũng là một việc
riêng.
8 X
16 Rõ ràng tiếng trả lời
của một người đàn
bà, tiếng nói trong
lắm và rất bình tĩnh,
cứng cỏi nữa là khác.
10 X
17 Thôi đi cô, đáng lý
tôi đã mời cô xuống
xe, đây là xe chở
hàng quân sự.
10 X
18 Em là công nhân giao
thông.
Nguyễn
Minh Châu,
Mảnh trăng
cuối rừng [,]
376 câu
10 X
19 Trong tổ đá của chị
tôi có một cô tên là
Nguyệt.
11 X
20 Phải, Nguyệt là trăng. 11 X
21 Em là ... Nguyệt. 13 X
22 Ở trong đội ngầm của
cô có nhiều cô tên là
Nguyệt lắm thì phải?
13 X
23 Chúng em thường gọi
đùa là chị Nguyệt
“lão”.
14 X
24 Một trong hai người,
ai là người tôi sắp
tìm đến?
14 X
25 Người tôi sắp tìm đến
là ai?
14 X
26 Tôi tin chắc chắn
người con gái ngồi
cạnh mình là Nguyệt,
chính cái người mà
chị tôi từng nhắc đến.
15 X
27 Mà cô có xuống từ
dưới kia tôi cũng
không bao giờ nghĩ
cô là một người khi
khó khăn thì bỏ
người khác.
17 X
28 Tôi chợt nhận ra 18 X
mình đang đứng giữa
một cái khe chỉ vừa
một người, hai bên là
hai gốc cây to.
29 Lát sau, mới biết chị
là tổ trưởng nấu ăn
của đội, đấy chính là
chị Nguyệt lão, một
người bạn thân thiết
của chị tôi từ lâu.
20 X
30 Khuôn mặt tròn, hơi
trẻ con là đằng khác.
180 X
31 Gọi là mới ấy là so
với anh.
180 X
32 Tôi là Trần Thị Hà. 181 X
33 Đấy, quê anh nghèo
khổ thân yêu là thế.
181 X
34 Anh là Tiên, có cái
tên để người đời chê
hoặc khen.
181 X
35 Chẳng lẽ em là kỹ sư
nghề hàn, em lại
không nghe thấy
tiêng nói lòng anh ?
182 X
36 Chính tao, tao là du
kích đấy.
183 X
37 Người ngoài nhìn nó,
ví von là sao, là hoa
Lý Biên
Cương, Hồ
Quang [,]
381 câu
184 X
cà hoa cải.
38 Ấy là những ngày
đầu Hà đến với anh,
chóng thế.
185 X
39 Cứ thế cho đến
chuyện xô xát trưa
hôm nay, Nhàn
không nhớ là lần thứ
bao nhiêu nữa.
317 X
40 Tổ đổi công của anh
hồi ấy rất em thấm,
rất ít khi trong tổ có
chuyện xô xát, bà con
lại còn bầu anh là
người gương mẫu sản
xuất.
317 X
41 Đám nam nữ thanh
niên trong làng thì
chê Nhàn là người đa
thê, lạc hậu, phong
kiến.
317 X
42 Thực ra chị ta vốn là
người tốt.
318 X
43 Ngoài cái tính lắm
điều hay ghen của chị
làng xóm láng giềng
ai cũng phải công
nhận chị ta là người
chăm làm.
319 X
44 Giống người hay
Trần Dũng,
Hai vợ [,]
465 câu
323 X
giống chó mà không
biết ngượng là gì ?
45 Anh muốn kéo vợ
vào đất liền, kiếm
một căn nhà, một
mảnh đất và muốn vợ
mình chỉ còn là một
người vợ thuần túy.
127 X
46 Ấy là một chuyến
vượt biển khó quên.
128 X
47 Hai đốm lửa cháy kia
là đảo gọi riêng em.
129 X
48 Tôi là Quyền,
Nguyễn Duy Quyền,
pháo thủ số 1 khẩu
đội 2.
133 X
49 Giá nói, là các cụ lại
cho là vợ chồng là
cái duyên cái số đây.
137 X
50 Mình nghĩ khác, vợ
chồng đến được với
nhau, chẳng qua là
hợp nhau.
137 X
51 Ấy là những năm xa
cách nhau.
138 X
52 Con ơi là con, nhà
mình có năm có bảy
gì cho cam, chỉ có
mỗi mống ...
Lý Biên
Cương, Đảo
nhỏ [,]
612 câu
138 X
53 Trong Len, anh là
đảo.
139 X
54 ... thuốc «Ngọc bình
phong» là thuốc cầm
mồ hôi rất diệu.
Ngô Tất Tố, Tôi
còn sống vì tôi
không uống thuốc,
tập truyện ngắn
Dao cầu thuyền tán
(59câu)
X Nguồn :
Internet
Thư
viện
online
v
55 Rút cục, cụ thứ nhất
thắng, vì đã nói đến
sách Phùng thị, thứ
sách mà nhà chủ nói
là môn vương đạo.
X
56 Cái lệ cụ lang đến sau
phải công kích cụ
lang đến trước là cố
nhiên rồi.
X
57 Ai uống thuốc của họ
mà khỏi, chỉ là sự
ngẫu nhiên.
X
58 Thật là tấn thối lưỡng
nan!
Sơn Nam, Mùa len
Trâu, Tập truyện
ngắn Hương rừng
Cà Mau.
196câu
X
59 Trăm con, chết chừng
đôi ba con là nhiều.
X
60 Như vậy là mình bất
nhân.
X
61 Như, tiều, canh, mục
là bốn điều quan
trọng nhất.
X
62 Voi đi một lần đôi ba
chục con là cùng, cọp
đi hai ba con là
nhiều.
X
63 Sao không ừ hử gì
ráo, hay là ngủ rối...
X
64 Ðằng xa kia là Bảy
Núi, nơi mà giờ này
thằng Nhi và hai con
trâu của chú đang
tung hoành, sắp lội
nước hằng mươi cây
số để vượt ra mé biển
đến vùng rừng tràm
miệt Linh Quỳnh.
X
65 Mừng con, tiếc của là
một lẽ.
X
66 Nghe dễ là gần sáng. Tô Hoài, Cái áo tế,
Tập truyện ngắn Tô
Hoài.
393 câu
X
67 Thế này là trái tiết,
người ta dễ ốm, con
cua con ếch thì lo xa
X
tránh rét nghe sấm đã
ẩn vào trong hang cả
rồi.
68 Cũng chẳng biết “đâu
khắc có đấy rồi” là
thế nào, lão đâm ra
cuống, đến lúc lại
nghe yên tâm nói thế,
ông Đợ lại yên tâm
vu vơ, lại thấy ông từ
Hoả mới là tay tháo
vát.
X X
69 Chỉ nửa buổi, đã đẽo
xong đôi guốc gộc
tre, gọi là đôi guốc,
đôi giày, đôi hia gộc
tre cũng được.
X
70 Thế mới biết Tây
người ta nói “phú quý
sinh chữ nghĩa” là
phải.
Nguyễn Công
Hoan, Bà chủ mất
trộm, tập truyện
ngắn Tuyển tập
Nguyễn Công
Hoan.
91câu
X
71 Nhất là thời thường,
dăm bẩy ông Tây, bà
đầm đến dự tiệc khi
về, ai cũng tươi cười,
bắt tay, cảm ơn bà rất
vui vẻ
X
73 Bà mới biết lời quan X
ông thường nói khi
trước là chí lý.
74 Giống An-nam là
giống nói dối và ăn
cắp.
X
75 Thực là đàn bà hiếm
có, quảng giao mà
tháo vát đủ việc.
X
Tổng số câu khảo sát 3284 câu/ 10vb 30 45
Tỷ lệ phân bố tính theo tỷ lệ
%
2,3 0,093 1,37
Phụ lục 2
Ngữ liệu lấy từ các văn bản nghị quyết định, thông báo ...
stt Câu quan hệ
sâu có từ ‘‘là’’
Nguồn, tổng số câu
từng văn bản
tr Câu qhs
định
tính có
từ ‘‘là’’
Câu qhs
đồng
nhất có
từ ‘‘là’’
Ghi
chú
* Không Bộ giáo dục và đào
tạo, Quy định về lề
lối và chế độ làm việc
của cán bộ hướng dẫn
thực hành.
26 câu
1 Tuyệt
nhiên
không
có câu
quan
hệ có
từ «là»
* Không PGĐ. PGS. Tô Huy
Rứa, Quyết định v/v
ban hành tạm thời về
tổ chức thao giảng,
dự giờ ở các trường
chính trị tỉnh, thành
phố.
14 câu
1 nt
* Không PGĐ. PGS Tô Huy
Rứa, Quy định tạm
thời về việc tổ chức
thao giảng dự giờ ở
các trường chính trị,
thành phố.
91 câu
Tuy
nhiên
có 3
câu
quan
hệ sở
hữu có
«là»,
và 4
câu
quan
hệ
cảnh
huống.
(xem
phụ
lục)
* Không Thông báo v/v triển
khi kế hoạch học và
thi ngoại ngữ đối với
cán bộ giảng dạy.
17 câu
Tuyệt
nhiên
không
chứa
câu qhs
có từ
«là»
1 Tại mỗi tiểu
mục phải có ít
nhất hai tiểu
mục, nghĩa là
không thể có
tiểu mục 2.1.1
mà không có
2.1.2 tiếp theo.
Quy định về đề
cương nghiên cứu và
luận văn thạc sĩ
3 X
2 Việc trình bày
phương trình
toán học trên
một dòng đơn
hay dòng kép
là tùy ý, tuy
nhiên phải
thống nhất
trong toàn luận
án.
X
3 Chế độ giãn
dòng là
Exactly 17 pt.
132 câu
5
4 Tác giả là
người nước
ngoài : xếp thứ
tự ABC theo
họ.
6 X
5 Tác giả là
người Việt
Nam: xếp thứ
tự ABC theo
tên, nhưng vẫn
giữ thứ tự
thông thường
của tên Việt
Nam, không
đảo tên trước
họ.
6 X
6 Tài liệu là
sách, báo luận
văn phải ghi
đầy đủ các
thông tin sau.
6 X
* Không PGĐ. Nguyễn Văn
Sáu, Thông báo v/v tổ
chức thi giảng viên
dạy giỏi các trường
chính trị thành phố
năm 2005.
16 câu
Có
chứa
một số
câu
quan
hệ có
từ
« là »
chu
cảnh,
sở hữu.
* Không Định mức chi phí ...
của bộ Xd
67 câu
Tuyệt
nhiên
không
chứa
câu
quan
hệ có
từ là.
* Không Chỉ thị của hiệu
trưởng v/v tổ chức
giảng dạy, kiểm tra
và thi học kỳ (1998)
32 câu
Chỉ có
1 câu
qh chu
cảnh
có từ là
* Bộ giáo dục và đào
tạo trường ĐHTS số
591/Qđ tạm thời về
đảm bảo chất lượng
giảng dạy.
32câu
Tuyệt
nhiên
không
chứa
câu
quan
hệ có
từ là.
* Nguyễn Tấn Dũng,
Nghị định quy định
chức năng, nhiệm vụ
và cơ cấu tổ chức của
Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Các văn bản
pháp quy, số 39, tr 1-
5
155 câu
4 Có
chứa
một số
câu
quan
hệ có
từ
« là »
chu
cảnh,
và sở
hữu.
* Thủ tướng chính phủ,
quyết định ban hành
quy chế quản lý tài
chính đối với họat
động tìm kiếm cứu
nạn, cứu hộ, ứng phó
thiên tai, thảm họa, số
118/2008/Qđ-TTg
[các văn bản pháp
quy, tr6-11]
146câu
Có
chứa
một số
câu
quan
hệ có
từ
« là »
chu
cảnh,
và sở
hữu.
* Không Thứ trưởng Đỗ
Hoàng Anh Tuấn,
Thông tư hướng dẫn
thi hành một số biện
pháp xử lý nợ đọng
thuế. [VBPQ, tr 23-
26]
108câu
Có
chứa
một số
câu
quan
hệ có
từ
« là »
chu
cảnh
* Không Thứ trưởng Trần
Xuân Hà, Quýêt định
về cơ chế quản lý,
điều hành giá bán
xăng dầu [VBPQ, tr
38-39]
16 câu
Tuyệt
nhiên
không
chứa
câu
quan
hệ có
từ là
* Không Thứ trưởng thường Tuyệt
trực Lê Nam Thắng,
Quyết định bàn về
ban hành giá cứơc
bản tin nhắn và tỷ lệ
phân chia giá cước
bản tin nhắn đến cổng
thông tin điện tử nhân
đạo Quốc gia
[VBPQ,tr53]
19câu
nhiên
không
chứa
câu
quan
hệ có
từ là
* Không Thứ trưởng Đinh
Trung Tụng, Quyết
định phê duyệt kế
hoạch triển khai Nghị
định số 66/2008/Nđ-
Cp ngày 28/05/2008
của chính phủ về việc
hỗ trợ cho doanh
nghiệp, [VBPL,số 39,
tr.74]
105 câu
Tuyệt
nhiên
không
chứa
câu
quan
hệ có
từ là
Không TT Nguyễn Tấn
Dũng, Nghị định quy
định chức năng,
quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Bộ Tư
pháp [VBPQ,tr1-4]
113 câu
Tuyệt
nhiên
không
chứa
câu
quan
hệ có
từ là
Không Bộ trưởng Vũ Huy
Hoàng, Quyết định
Ban hành Quy chế
93 Tuyệt
nhiên
không
bảo vệ bí mật nhà
nước trong ngành
Công Thương [văn
bản pháp quy số
41,tr.91-96]
179câu
chứa
câu
quan
hệ có
từ là
Không Thứ trưởng Nguyễn
Vinh Hiển, Quyết
định Ban hành Quy
chế tổ chức và hoạt
động của trường phổ
thông dân tộc nội
trú,[VBPQ,87-91]
131 câu
88 Tuyệt
nhiên
không
chứa
câu
quan
hệ có
từ là
Tôi tên là:
NguyễnVăn A
Văn bản cam kết về
tài sản.
13câu
Vợ là :
Nguyễn Văn B
Tổng số câu khảo sát 1384 câu/ 19 văn bản 0 7
Tần số xuất hiện tính
theo tỷ lệ %
0,51 0 0,51
Phụ lục 3
Ngữ liệu được chọn là văn bản : Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chủ Tịch, Lời
kêu gọi của Hội nghị Quốc tế Nạn nhân chất Da cam/dioxin Hà Nội, Nước cờ sai
của Saakahvili của Hiếu Trung, Tôi tự hào là người Việt Nam của Báo tuổi trẻ.com,
..
stt Câu quan hệ sâu có
từ “là”
Tác giả, tác
phẩm, số câu
từng văn bản
khảo sát
tr Câu
qhs
định
tính có
từ “là”
Câu
qhs
đồng
nhất có
từ “là”
Ghi
chú
1 Sự thật là từ mùa thu
năm 1940, nước ta
đã thành thuộc địa
của Nhật, chứ không
phải thuộc địa của
Pháp nữa.
Hồ Chí Minh,
Tuyên ngôn độc
lập.
(45câu)
X
2 Nhiều cháu sinh ra
không hề biết chiến
tranh là gì nhưng đã
phải mang hình hài
đầy dị tật khiến cho
các cháu không bao
giờ được hưởng
hạnh phúc đơn giản
nhất là được sống
như một người bình
thường!
Lời kêu gọi của
Hội nghị Quốc tế
Nạn nhân chất
Da cam/dioxin
Hà
Nội (11/05/2006)
(35)
X
3 Đó là một chất cực
độc.
X
4 Tôi tự hào là người B.D, Tôi tự hào X
VN.
là người Việt
Nam.
(12câu)
5 Một trong hai công
cụ hữu ích của
Internet đối với đại
đa số giới trẻ là
Yahoo .
X
6 Không chỉ là những
câu chuyện phiếm,
những icon buồn -
vui, mà còn là một
nhắn gửi thiêng
liêng: tự hào dân tộc.
X
7 Cách đây không lâu,
một bạn SV trường
ĐH KHXH&NV
TP.HCM email về
cho Tuổi Trẻ với
mong muốn được
chào cờ đầu tuần
như cái thuở còn là
học sinh.
X
8 Một thông điệp
không lời nhưng
cũng đủ gửi đến
cộng đồng bạn bè
trên mạng, người cậu
du học sinh ấy quen
biết: rằng tôi là
người VN và tôi tự
hào là người VN.
X
9 Trong đó đa số là
đôla và gần 40 điện
thoại di động.
Xã luận xã hội,
Sòng bạc các
quý bà.
(9 câu)
X
10 Con bạc thắng nhiều
nhất là "nữ quái"
Năm Bê (56 tuổi,
ngụ phường Bình
Hưng Hòa A).
X
11 Năm Bê là một tay
cờ bạc nữ chuyên
nghiệp.
X
* Không Việtnamnet, Thủ
tướng yêu cầu xử
lý xe công đi
chợ, đi chùa.
(7câu)
12 Trong 3 bạn, Anh
Tuấn là người giỏi
tiếng Việt nhất.
Để giữ "xuân"
cho tuổi trẻ Việt
Nam trong và
ngoài nước
(84câu)
X
13 Năm 2006 là năm kỷ
niệm 50 năm Ngày
truyền thống Hội
Liên hiệp thanh niên
VN, là năm tăng tốc
đẩy mạnh hoạt động
Hội, đưa phong trào
thanh niên lên tầm
X
cao mới gắn với việc
mở rộng mặt trận
đoàn kết, tập hợp
thanh niên, trong đó
thanh niên Việt kiều
là bộ phận quan
trọng.
14 Thật sự đây là buổi
họp mặt rất thú vị và
bổ ích.
X
15 Tôi muốn cho con
tôi giao lưu văn hóa
với người Việt, biết
cội nguồn, biết thanh
niên VN là như thế
nào.
X
16 Tôi lo nhất con mình
là người Việt mà lại
không biết tiếng
Việt.
X
17 Chị muốn đưa con
gái về nước thường
xuyên hơn, và đặc
biệt là đến giao lưu
tại những buổi họp
mặt như thế này để
cháu có điều kiện
tiếp xúc, hiểu biết,
gần gũi hơn với đất
mẹ, với truyền
thống và văn hóa
Việt…
18 Có một điều mà tôi
muốn chia sẻ cùng
anh chị và các bạn:
cho dù tôi ở bất cứ
nơi đâu, làm bất cứ
việc gì cũng luôn tự
hào mình là người
VN.
X
19 15.000m2 là Dinh
đào và khu “mẫu
chín” có lẫn cả 58 hộ
dân đang sinh sống.
Nguyễn Thị Kim
Loan, Đào Nhật
Tân còn hay mất.
(58câu)
X
20 Hoa đào Nhật Tân là
di sản văn hoá vật
thể và phi vật thể.
X
21 10 ha đào di sản; 20
ha đào thương phẩm
cho làng Nhật Tân
thực tế là bao nhiêu?
X
22 Ai cũng nhìn thấy
khu đô thị là to,
người nông dân là
nhỏ, cây đào cũng là
nhỏ nhưng bảo vệ
được quyền lợi của
họ mới thể hiện
được tính nhân văn
của một xã hội tốt
đẹp.
X
23 Năm nay cây đào
của làng Nhật Tân
xưa chỉ còn ở 2
khoảng đất, một gần
chùa Tảo Sách
7.000m2 và một là
đuôi Dinh đào
5.000m2.
X
24 Năm mới Bính Tuất,
nhiều người đã chọn
xuất hành vào sáng
mùng Một Tết vì đây
là ngày tốt, đa số
đến viếng chùa xin
lộc đầu năm, sau đó
ra đường hoa
Nguyễn Huệ để du
Xuân, thay vì đến
thăm nhà ai đó vì
ngại phải “xông đất
đầu năm”.
Vietnamnet,
Đường hoa
Nguyễn Huệ :
nơi xuất hành
đầu năm của
người dân Sài
gòn.
(23câu)
X
25 Không tiện nói tên,
nhưng cô cho biết,
cô là Việt kiều Mỹ,
về Việt Nam lần này
là lần thứ hai và đều
vào dịp Tết Nguyên
đán vì cô và chồng
rất thích không khí
Tết tại quê nhà.
X
26 Anh tên Vũ, cùng vợ
là Anh Thư, Việt
X
kiều Mỹ về quê ăn
Tết.
27 Quan liêu tham ô
lãng phí là tội ác.
Hồ Chí Minh
Tòan tập, Lời
dạy của Bác Hồ
về chống tham
nhũng, tham ô,
quan liêu, lãng
phí NXB Sự
Thật, HN,t4
(21câu)
94 X
28 Cần tức là siêng
năng, chăm chỉ, cố
gắng dẻo dai ...
Một số lời dạy
của Bác Hồ về
đạo đức.
(92câu)
95 X
29 Cần là luôn cố gắng,
luôn chăm chỉ cả
năm, cả đời.
96 X
30 Như vậy không phải
là Cần.
96 X
31 Kiệm là tiết kiệm,
không hoang phí,
không bừa bãi.
97 X
32 Việc đáng tiêu mà
không tiêu là bủn
xỉn, dại dột chứ
không phải là Kiệm.
97 X X
33 Như thế mới đúng là
Kiệm.
97 X
34 Hao phí vật liệu là
xa xỉ.
98 X
35 Việc đáng làm trong
một giờ mà kéo dài
đến 2,3 giờ là xa xỉ.
98 X
36 Việc đáng tiêu 1
đồng, mà tiêu 2,3
đồng là xa xỉ.
98 X
37 An sang mặc đẹp
trong lúc nhiều đồng
bào đang thiếu cơm,
thiếu áo, là xa xỉ.
98 X
38 Liêm là trong sạch,
không tham lam.
98 X
39 Ngày nay, nước ta là
nước dân chủ cộng
hòa.
98 X
40 Chính có nghĩa là
không tà, nghĩa là
thẳng thắn, đứng
đắn.
98 X
41 Điều gì không thẳng
thắn, đứng đắn, tức
là tà.
99 X
42 Nhưng một cây cần
có gốc rễ, lại cần có
hoa, lá, quả, mới là
cây hòan toàn.
99 X
43 Làm việc Chính là
người Thiện.
99 X
44 Làm việc Tà là
người Ác.
99 X
45 Siêng năng (cần), tằn
tiện (Kiệm), trong
sạch (Liêm) Chính
là Thiện.
99 X
46 Lười biếng, xa xỉ,
tham lam, là tà, là
ác.
99 X
47 Vạch rõ ranh giới là
cần phải nhận rõ ai
là bạn, ai là thù ?
99 X
48 Đối với người, ai
làm gì có lợi cho dân
cho Tổ Quốc ta đều
là bạn.
99 X
49 Bất kỳ ai làm điều gì
có hại cho nhân dân
và tổ quốc ta đều là
kẻ thù.
99 X
50 Đối với mình những
tư tưởng và hành
động có lợi ích cho
Tổ quốc, cho đồng
bào là bạn.
99 X
51 Những tư tưởng và
hành động có hại
X
cho Tổ quốc và đồng
bào là kẻ thù.
Tổng số câu khảo sát 386 19 32 10 vb
Tần số xuất hiện tính theo
tỷ lệ %
13,2 4,9 8,3
Phụ lục 4
Ngữ liệu nghiên cứu lấy từ các văn bản mang phong cách khoa học (bao gồm khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội), các bài viết trong tạp chí
Nghiên cứu văn học, kỷ yếu khoa học ...
Stt Câu quan hệ sâu có
từ “là”
Tác giả, tác
phẩm, số trang
tr Câu
qhs
định
tính có
từ “là”
Câu
qhs
đồng
nhất có
từ “là”
Ghi
chú
1 Ở vùng biển miền
Trung, tôm hùm
bông đực tham gia
sinh sản lần đầu có
chiều dài giáp đầu
ngực là 110.06mm
và tôm hùm bông cái
là 98,00mm.
Nguyễn Thị Bích
Thủy, Một số đặc
điểm sinh học
sinh sản của tôm
hùm bông ở vùng
biển miền Trung,
tr35-49
(138câu)
35 X
2 Tuổi và kích thước
thành thục sinh dục
của tôm hùm bông là
một đặc điểm thích
nghi.
39 X
3 Trọng lượng ống dẫn
tinh của
H.americanus là
0,4g, của
P.japonnicus là 1,7g.
40 X
4 Song áp dụng
P.ornatus ở Việt
Nam là vô cùng khó
40 X
khăn.
5 Thời kỳ này được
gọi là giai đoạn phôi
dâu.
46 X
6 Ngày thứ 10 hoặc
ngày thứ 8 sau khi
thụ tinh gọi là giai
đoạn phôi vị.
46 X
7 “Vua chết rồi hoàng
hậu qua đời” là một
câu truyện(story)
Lê Huy Bắc,
“Cốt truyện trong
tự sự”, nghiên
cứu văn học Tạp
chí nghiên cứu lý
luận, phê bình và
lịch sử văn học.
7/2008
35 X
8 “Vua chết rồi hoàng
hâu qua đời vì u
buồn” là một cốt
truyện” (plot)
(104câu)
35 X
9 Có lẽ Arirtotle là
nhà nghiên cứu duy
nhất quan tâm đến
cốt truyện.
35 X
10 Theo đó, từ thế kỷ
XIX trở về trước, cốt
truyện tự sự chủ yếu
là cốt truyện kịch
tính.
36 X
11 Từ thế kỷ XX trở đi,
cơ bản là cốt truyện
thơ (hoặc trữ tình).
36 X
Bản tính phiên lưu là
luôn tuân thủ hai
nguyên tắc tất nhiên
và ngẫu nhiên.
36 X
12 Đến nay nhiều nhà
nghiên cứu khẳng
định thần thoại là thể
loại văn học không
tự giác, có nghĩa
mục đích ra đời của
thần thoại không
phải là văn chương
mà chỉ là tín
ngưỡng, niềm tin
vào tôn giáo cổ xưa
của con người.
36 X
13 Thời gian là phi vật
thể, cho nên nó
không màu, không
mùi, không vị.
Nguyễn Thị
Gấm,“Các dấu
hiệu của thơ
tượng trưng trong
bài Màu thời gian
của Đòan Phú
Tứ”, Nc văn học
Tạp chí ....7/2008
(85câu/6tr)
133 X
14 Đó là một thời gian
biến ảo, sinh động.
134 X
Vì thơ ca là lời nói
của linh cảm, của
bản năng, của vô
thức; cho nên lời lẽ
của thơ ca là không
chính xác, là lấp
lửng, là mơ hồ.
137 X
15 Trong cả bài thơ,
mỗi từ là một nốt
nhạc.
138 X
16 Bạn bè của Đoàn
phú Tứ cho biết ông
không phải là típ
người sống phi thực
tế, cho nên những
cảm nhận về thời
gian ở đây chỉ có thể
là sự cảm nhận trong
bề sâu tâm hồn ông.
138 X
17 Và cả bài thơ là một
bản nhạc du dương,
êm đềm, gợi cảm.
138 X
18 Đó là màu yêu, là
nhịp tim, điệu hồn.
138 X
19 Thơ là thơ. Đặng Thu Thủy,
Sự vận động của
quan niệm thơ và
nhà thơ thời kì
đổi mới. [NCVH
7-2008]
68 X
20 Nhà thơ Việt Nam
sớm ý thức được
mình là một chiến sĩ,
thơ Việt Nam sớm ý
thức được mình là
một vũ khí.
(270 câu) 68 X
21 Tính chất hướng
ngoại của thơ là rất
mạnh.
68 X
22 Thơ trước hết phải là
thơ.
68 X
23 Thơ không thể là
công cụ.
69 X
24 Chức năng bồi đắp
tâm hồn tình cảm
của thơ được đề cao
hơn bao giờ hết nhất
là trong hoàn cảnh
sự sa sút về đời sống
tinh thần không chỉ
còn là một nguy cơ.
69 X X
25 Thiên chức của thơ
là «để cho người ta
yêu nhau».
69 X
26 Đây là «sự tiếp nối
quan niệm truyền
thống».
69 X
27 Bên cạnh xu hướng
«thánh hóa thơ» là
xu hướng «đời
69 X
thường hóa thơ ca».
28 Nếu thơ làm rung
động cả triệu con
tim, như thơ Tố
Hữu, thì đó là điều
hay.
69 X
29 Nguy cơ mất dần
bạn đọc là điều
không thể tránh
khỏi.
70 X
30 Làm nghệ sĩ là để tả
sự thật.
70 X
31 Khái niệm hiện thực
ở đây là khái niệm
được hiểu theo nghĩa
hẹp.
71 X
32 Thơ là đau thương. 71 X
33 Thơ là hạnh phúc. 71 X
34 «Thơ là cái thăm
thẳm.»
73 X
35 Thơ là cái chưa biết. 73 X
36 Nhiều khi thơ không
chỉ là một văn bản
ngôn từ đơn thuần
(khi nó kết hợp với
các loại hình nghệ
thuật khác : hội họa,
sân khấu, vũ đạo, âm
73 X
nhạc, trình diễn, ...)
37 Thơ là một trò chơi. 73 X
38 Thơ truyền thống
của ta về cơ bản là
mực thước, trang
nhã.
73 X
39 Nhà thơ là người
sáng tạo ra trò chơi,
đề xuất trò chơi.
73 X
40 Trong xã hội đương
đại, nếu thơ làm
được như một trò
chơi thỏa mãn được
nhu cầu của đời sống
tinh thần, làm vui,
làm ý nghĩa cho
cuộc đời vốn có rất
nhiều niềm lạc thú
cuốn hút thì cũng đã
là một thành công.
73 X
41 Thời nay, không ít
người coi văn
chương là trò chơi,
thơ là trò chơi ;
nhưng là «chơi
thật», «chơi nghiêm
túc», chơi chuyện
nghiệp chứ không
phải «chơi đùa» ;
không «chơi ẩu, vì
phải chơi với nhiều
74 X
người».
42 Hơn nữa, đây là «trò
chơi nguy hiểm ».
74 X
43 Ông đã được mệnh
danh là «người cách
tân số một»
74 X
44 Làm thơ tức là làm
tiếng Việt.
74 X
45 Thơ Việt Nam hiện
nay, dòng chủ lưu
chủ là thơ ý niệm,
thơ tư tưởng.
75 X
46 Tuyên ngôn cũng
như thực tế sáng tác
của những người đi
tiên phong đã gây
ảnh hưởng nhất định
đối với các nhà thơ
đương đại nhất là
các nhà thơ trẻ.
76 X
47 «Áo em mặc còn
xanh» là tập thơ
mang tính trò chơi
rất rõ.
76 X
48 Họ là Phan Bá Thọ,
Lý Đợi, Bùi Chát,
Khúc Duy, Nguyễn
Quán –bốn sinh viên
mới tốt nghiệp ra
trường.
77 X
49 Thơ của họ là một
thứ thơ phản thơ.
77 X
50 Nhiều người khác lại
cho rằng nhà thơ
cũng là một người
thường như bao
người khác.
79 X
51 Nhà thơ là nhà thơ,
nhà thơ là người
thường.
80 X
52 Lê Minh Quốc tự
nhận mình là «nhà
thơ cà chớn».
80 X
53 Tôi là một nhà thơ
solo.
82 X
54 Thế nhưng phát
ngôn chỉ là phát
ngôn, dù nó có táo
bạo, hào hùng đến
đâu chăng nữa.
82
55 Một nhà thơ nghiệp
dư coi con đường
đến với thơ ca của
mình là một cuộc
chơi, thích thì làm,
không thích thì thôi.
83 X
56 Lê Đạt tự nhận mình
là phu chữ, Trần
Dần nhận mình là
«kẻ cầm trạch trên
83 X
hành tinh quốc ngữ».
57 Coi làm thơ là một
nghề có nghĩa thơ ca
cũng là một thứ
hàng hóa (hàng hóa
đặc biệt).
84 X
58 Đó là một lực lượng
sáng tác hùng hậu.
84 X
59 Ấn độ coi giải thoát
là vấn đề trung tâm,
cốt lõi.
Phạm Thảo
Hương Ly, Hình
tượng không gian
trong sử thi
Ramayana, Kỷ
yếu hội nghị sinh
viên nghiên cứu
khoa học năm
học 2006-2007
26 X
60 Văn học là nhân học. (88câu) 22 X
61 Giá trị của văn học,
xét cho cùng, là sự
chiêm nghiệm về
con người.
22 X
62 Trong Ramayana,
kinh thành là một
khoảng không gian
vô cùng tráng lệ, vừa
mang tình hiện thực,
vừa thấm đẫm chất
tưởng tượng, huyền
thoại và tín ngưỡng.
X
63 Có thể thấy núi rừng
trong Ramayana là
khỏang không gian
mềm mại, thế tục.
25 X
64 Bên cạnh không gian
vũ trụ hoành tráng
phóng đại tầm vóc
người anh hùng,
Ramayana còn miêu
tả chiến trường là
một không gian hỗ
độn, khốc liệt.
25 X
65 Hành động với ý
thức bổn phận cũng
chính là hành động
vô cầu.
26 X
66 Triết học Ấn độ coi
giải thoát là vấn đề
trung tâm, cốt lõi.
26 X
67 Có nhiều công thức
đúc kết mối liên hệ
này, sau đây là một
công thức bao quát.
Đặng Anh Đào,
Bàn về một vài
thuật ngữ thông
dụng trong kể
chuyện.
7-2008
(107 Câu)
X
68 Về thuật ngữ, nhãn
quan, điểm nhìn, và
tiêu điểm đã được
sách lý luận coi là
26 X
một.
69 NKC là một thực thể
đơn nhất và giới hạn.
27 X
70 Điều này được gọi là
điểm nhìn.
27 X
71 Theo suy nghĩ của
chúng tôi, vế thứ
nhất của định nghĩa
đặt ra một yêu cầu
không chính xác đối
với NKC, kể cả đối
với loại chuyện ta
gọi là cổ điển.
27 X
72 Tiêu biểu là từ điển
Wikipedia.
29 X
73 Riêng Manfred Jahn,
chuyển mối quan
tâm từ NCK sang
một tác nhân mới mà
ông gọi là focalizer.
29 X
74 Dẫu sao, rút cục,
Jahn vẫn đi tới vấn
đề tiêu điểm theo
hướng phân loại kết
hợp số lượng và vị
trí : đơn lẻ, hỗn hợp,
và cuối củng là tiêu
điểm tập thể.
29 X
75 Tuy nhiên, Genette
cho rằng xét đến
cùng, đây không
phải là tác giả lựa
chọn mà là hai thái
độ kể chuyện.
31 X
76 Bởi lẽ khuân khổ của
lí luận vốn định
hình, còn tác phẩm
là một thế giới đa
dạng.
32 X
77 Trong di sản văn học
của Lỗ Tấn, Thuốc
là một truyện ngắn
đặc biệt, độc đáo.
Lê Nguyên Cẩn,
Những nét độc
đáo trong Thuốc
của Lỗ Tấn.
11-2008
(196 câu)
117 X
78 Không gian quán trà
lão Hoa với ba phần
và không gian nghĩa
địa với phần còn lại
mà độ dài không
kém ba phần kia là
117 X
bao.
79 Phần khai chuyện,
tương ứng với phần
khai đề của một bài
thơ cổ điển, được
mở ra từ không gian
thứ nhất bằng một
buổi sớm, chưa sáng
hẳn song cũng đã
chuyển sang một
ngày mới với nội
dung chính là mua
thuốc.
117 X
80 Số lượng nhân vật
trong truyện có thể
nói là nhiều, song
hiện rõ nét chỉ có
bốn.
X
81 Số nhân vật khác
hiện dưới dạng các
đám đông «tụm năm
tụm ba» mà không
thể biết số lượng là
bao.
119 X
82 Một ý kiến độc đáo,
một phát hiện mới
mẻ thường không
gây được một phản
ứng nào đáng kể, dù
tích cực hay tiêu
cực, có lẽ là do một
Sái Phu, lời giới
thiệu,Viết nhịu –
lapsus calami:
Dọn vườn ngôn
ngữ học,
X
thái độ nể nang hay
kính nhi viễn chi nào
đó.
Net
(19 câu)
83 Chúng tôi không
quan niệm rằng nói
ngược lại những điều
đã được mọi người
công nhận là một lỗi.
X
84 Nếu nói dịch thuật là
quan trọng, chắc ít ai
phản đối, nhưng nếu
nói người dịch chỉ là
kẻ ăn theo tác giả, có
lẽ số người đồng ý
cũng không ít hơn.
Ngô Tự Lập, Viết
như là dịch thuật,
http://
ngonngu.net
(157câu)
X
85 Khi còn làm biên tập
viên nhà xuất bản
Quân đội Nhân dân,
tôi thường được
nghe nhiều người
nhất là các nhà văn,
nói : « ... »
X
86 Người ta sáng tác
sẵn, các cậu chỉ cần
chuyển ngữ là xong,
có tiền tiêu.
X v
87 « Các anh chỉ là lũ
kí sinh, cả đời chỉ
làm mỗi việc
"chuyển ngữ" tác
X
phẩm của người
khác để lấy tiền! »
88 So với những lời
này, danh hiệu "con
khỉ" đúng là vinh dự
hơn nhiều, vì dù sao
nó cũng mang dáng
dấp nghệ sĩ!
X
89 Anh/chị ta tạo nên
một tác phẩm trọn
vẹn và người đọc chỉ
việc thưởng thức,
còn giữa họ, người
dịch chỉ đơn thuần là
kẻ trung gian.
X
90 Là một người luôn
luôn phải phân thân
giữa viết và dịch, từ
lâu lắm tôi đã lờ mờ
nhận thức được rằng
đó là một quan niệm
sai lầm.
X
91 Khó khăn lớn nhất là
các điển tích.
X
92 Thuật ngữ chuyên
môn, từ lóng đều là
những dạng điển tích
khác nhau.
X
93 Và nói cho cùng thì
mỗi từ là một điển
X
tích.
94 Khi chưa biết tên
phim bằng tiếng
Pháp, tôi nghĩ
"chiều" là "buổi
chiều".
X
95 Cái tên gợi rất nhiều
suy nghĩ, bởi nó rất
thơ, rất triết, và nhất
là nó rất khác
thường.
X
96 Tôi đã thử hỏi rất
nhiều người và nhiều
người trong số họ
cũng nghĩ "chiều" ở
đây là «một buổi
chiều».
X
97 Cái tên còn gợi mở
hơn nữa vì "chiều"
cũng có thể hiểu là
"phương".
X
98 Thú thật, tôi đã hơi
thất vọng khi biết,
nhờ cái tên tiếng
Pháp, rằng "chiều"
chỉ đơn thuần là từ
"phương".
X
99 Tôi tin tưởng sâu sắc
rằng sống cũng
chính là dịch thuật.
X
100 Sau từ "partir" (ra đi)
và từ "yêu" là dấu
phẩy.
X
101 Cái tên tiếng Pháp
chỉ đơn thuần là
"Phương thẳng đứng
của mùa hè", hay
"Mùa hè phương
thẳng đứng".
X
102 Không cần phải suy
nghĩ quá cao siêu để
thấy rằng câu trả lời
là phủ định.
X
103 Như vậy, về thực
chất, sáng tác chính
là dịch thuật.
X
104 Trong bài Cám dỗ và
vinh quang của dịch
thuật tôi có viết rằng
mặc dù dịch là phản,
đối với đa số người
đọc không phải là
bản ngữ, bản dịch
phản bội ít hơn.
X
105 Nhưng nói một cách
chặt chẽ thì tất cả
các bản dịch đều là
X
phỏng dịch.
106 Chẳng hạn, từ "rice"
trong tiếng Anh
trong những truờng
hợp cụ thể phải dịch
là "lúa", "thóc",
"gạo", "cơm"..
X
107 Đối với ông, đối
tượng chủ yếu của
ngôn ngữ học là
Ngôn ngữ, nhưng
ông cũng hình dung
được trong tương lai
một ngành ngôn ngữ
học của lời nói.
Cao Xuân Hạo,
lời nói đầu bản
dịch giáo trình
Ngôn ngữ học
đại cương.
(33câu)
X
108 Xin đừng hiểu lầm
rằng ngôn ngữ học
và các khoa học
nhân văn khác là
những “khoa học
chủ quan”.
X
109 Khoa học, do chính
định nghĩa của nó,
chỉ có thể là khách
quan.
X
110 Một số tác giả gọi
ngôn ngữ học trước
1957 là
“structuralist”
X
Tổng số câu khảo sát 1197 câu 39 71
Tần số phân bố tính theo tỷ
lệ %
9,2 3,3 5,9 10 vb
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7203.pdf