Phần 1. Mở đầu
1.Lí do chọn đề tài.
Trong cuộc sống đầy sôi động hiện nay, với sự phát triển như vũ bão của các ngành kinh tế, đời sống vật chất được nâng lên mạnh mẽ thì nhu cầu đi du lich, đặc biệt là du lịch về với thiên nhiên lại càng cần thiết và người ta sẽ đi tìm những điểm du lịch có thể làm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của họ.
Đảo Cát Bà-đảo lớn nhất nằm trong quần thể các đảo trong vịnh Hạ Long, từ lâu được xác định là một trong những điểm du lịch quan trọng nhất của vùng du lich Bắc
107 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1761 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Cát Bà với việc phát triển du lịch sinh thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ. Cát Bà được tận hưởng sự ưu đãi của thiên nhiên với nguồn tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng. Hải đảo Cát Bà bao gồm một hòn đảo chính khá lớn và 366 hòn đảo lớn nhỏ khác nhau trải ra trên một vùng biển khá rộng đề hình thành nhiều vịnh biển phẳng lặng như Vịnh Cát Bà, Vịnh Lan Hạ, Vịnh Việt Hải và vô vàn những tùng, áng nhỏ hơn. Đảo Cát Bà nằm giáp giới của vùng biển Vịnh Hạ Long, nổi tiếng ở phía Bắc và Đông Bắc, ba phía Đông, Nam và Tây Nam đều hướng ra biển. Đảo Cát Bà là hòn đảo lớn nhất của cả vùng hải đảo, nằm chếch theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, chiều dài khoảng 25km , chiều ngang trên dưới 10 km với diện tích trên 200km2. Kể từ năm 1994 cho đến nay, hoạt động du lịch ở đảo ngày càng nhộn nhịp lên cùng với sự phát triển của cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch. Ngành du lịch ở đây đang chứng tỏ là một ngành kinh tế mũi nhọn. Tuy nhiên du lịch đảo Cát Bà vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả kinh tế cao tương xứng với tiềm năng của nó. Hơn nữa sự phát triển lộn xộn này đã bắt đầu cho thấy những nguy cơ có tác hại đến môi trường tự nhiên và xã hội. Trước thực tế đó tôi đã chọn đề tài “Cát Bà với việc phát triển du lịch sinh thái” làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
2.Mục đích nghiên cứu.
- Khái quát các điều kiện tự nhiên- xã hội, giá trị du lịch sinh thái Cát Bà.
- Tìm hiểu thực trạng, kinh tế du lịch sinh thái Cát Bà.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái Cát Bà.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: phát triển du lịch sinh thái ở Cát Bà.
Phạm vi nghiên cứu:
- Không gian: toàn bộ khu dự trữ sinh quyển Cát Bà.
- Thời gian: từ năm 2000 trở lại đây.
4.Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thực địa.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp phân tích- tổng hợp.
- Phương pháp bản đồ.
- Phương pháp thống kê.
5.Kết cấu khoá luận.
Phần 1. Mở đầu.
Phần 2. Nội dung chính
Chương 1. Một số khái niệm, cơ sở lí luận của du lịch sinh thái.
Chương 2.Thực trạng khai thác du lịch sinh thái Cát Bà.
2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên,kinh tế- xã hội, lịch sử- văn hoá của Cát Bà.
2.2. Những giá trị sinh thái Cát Bà.
2.3.Tình hình khai thác du lịch sinh thái Cát Bà.
Chương 3.Giải pháp phát triển du lịch sinh thái Cát Bà.
3.1. Mục tiêu phát triển du lịch Cát Bà đến năm 2020.
3.2. Các giải pháp phát triển du lich Cát Bà đến năm 2020.
Phần 3. Kết luận và kiến nghị.
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.
Phần 2. Nội dung chính
Chương 1.Một số khái niệm, cơ sở lý luận của
du lịch sinh thái
1.1. Định nghĩa về khu bảo tồn thiên nhiên.
Khu bảo tồn thiên nhiên là nơi chứa đựng nhiều yếu tố hấp dẫn cho du khách trên thế giới. Những yếu tố này có thể là một hoặc nhiều loại động thực vật quý hiếm và đặc hữu, cuộc sống hoang dã phong phú, đa dạng sinh học cao, địa hình đồng nhất hoặc hùng vĩ, các khu di tích lịch sử hoặc văn hoá đương đại mang tính đặc thù trong điều kiện tự nhiên. Điều này tạo điều kiện cho các công ty du lịch thu được lợi nhuận nếu như những yếu tố này được duy trì. Do đó mối quan hệ giữa du lịch và các khu bảo tồn thiên nhiên được bảo vệ tốt là điều tất yếu.
1.2. Định nghĩa về Vườn Quốc Gia.
Vườn Quốc Gia là một khái niệm tương đối rộng.Có nhiều cách hiểu và định nghĩa về Vườn quốc gia. Điều này tuỳ thuộc vào tiêu chuẩn của từng quốc gia. Trong nghiên cứu này Vườn quốc gia được hiểu là:
1. Nơi có một hoặc vài hệ sinh thái không bị thay đổi về mặt vật chất do sự khai phá và xâm chiếm của con người; nơi các loài động thực vật, các sinh cảnh và điểm địa mạo có sức thu hút đặc biệt xét về mặt khoa học, giáo dục và giải trí; hay là nơi có cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ.
2. Nơi những người có thẩm quyền cao nhất của đất nước đã triển khai các biện pháp ngăn ngừa hoặc xoá bỏ càng sớm càng tốt sự khai thác và xâm chiếm của con người trên.
( Theo Sở Du lịch Hải Phòng- Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà- HP- năm 2002).
1.3. Du lịch sinh thái.
Honey(1999) đã định nghĩa về du lịch sinh thái “là du lịch tới những khu vực nhạy cảm và nguyên sinh thường được bảo vệ với mục đích nhằm gây ra ít tác hại và với quy mô nhỏ nhất.Nó giúp giáo dục du khách, tạo quỹ để bảo vệ môi trường,nó trực tiếp đem lại nguồn lợi kinh tế và sự tự quản lý cho người dân địa phương và nó khuyến khích tôn trọng các giá trị văn hoá và quyền con người”.
Hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia và phát triển du lịch sinh thái cho Việt Nam năm 1999 đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hoá bản địa, có tính giáo dục môi trường, và đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương”.
Cuối cùng cần phải nhấn mạnh rằng các nghiên cứu về du lịch sinh thái thường chỉ quan tâm tới những gì du khách yêu cầu. Trên thực tế, một dự án du lịch sinh thái phải được nhận thức và tổ chức theo đúng cách và nên tạo ra những yếu tố hấp dẫn để đáp ứng được yêu cầu của du khách.Khách du lịch đóng vai trò chính trong các hoạt động du lịch sinh thái và do đó du khách nên là đối tượng quan trọng nhất cần được chú ý. Cần phải nghiên cứu sâu về ý kiến của khách du lịch (trong trường hợp này là khách du lịch sinh thái) về các điều kiện, dịch vụ và kinh nghiệm đạt được nhằm cải thiện và thay đổi các chương trình.
Du lịch sinh thái là một cách tốt nhất nhằm giúp cả cộng đồng địa phương và khu bảo tồn thiên nhiên cùng tham gia. Đó là một hợp phần lý tưởng của chiến lược phát triển bền vững trong đó tài nguyên thiên nhiên có thể được sử dụng như một yếu tố thu hút khách du lịch mà không gây tác hại tới thiên nhiên của khu vực. Là một công cụ quan trọng trong quản lý khu bảo tồn thiên nhiên và phát triển, du lịch sinh thái phải được phát triển phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Những yếu tố dưới đây đóng vai trò thiết yếu đối với việc tổ chức du lịch sinh thái thành công:
- ít gây ảnh hưởng tới tài nguyên thiên nhiên của khu bảo tồn thiên nhiên.
- Thu hút sự tham gia của các cá nhân, cộng đồng, khách du lịch sinh thái, các nhà điều hành tour và các cơ quan tổ chức của Chính phủ.
- Tôn trọng văn hoá và truyền thống địa phương.
- Tạo thu nhập lâu dài và bình đẳng cho cộng đồng địa phương và cho các bên tham gia khác, bao gồm cả những nhà điều hành tour tư nhân.
- Tạo nguồn tài chính cho công tác bảo tồn của khu bảo tồn thiên nhiên.
- Giáo dục những người tham gia về vai trò của họ trong công tác bảo tồn.
1.3. Định nghĩa khu dự trữ sinh quyển.
Là hệ thống những vùng có các hệ sinh thái trên cạn, hệ sinh thái ven biển, các hệ sinh thái biển hoặc kết hợp của tất cả các thành phần đó và được quốc tế công nhận trong phạm vi chương trình của Unesco về “con người và sinh quyển” (MAB). Việc thiết lập những khu này nhằm thúc đẩy và làm rõ sự cân bằng mối quan hệ giữa con người và sinh quyển. Khu dự trữ sinh quyển được đưa ra bởi Hội đồng điều phối hợp tác quốc tế (International Cordinating Council) của chương trình con người và sinh quyển (MAB) theo đề nghị của quốc gia nơi có khu dự trữ sinh quyển. Tất cả các khu dự trữ sinh quyển hình thành một mạng lưới trên toàn thế giới mà trong đó những thành viên đầu mang tính tự nguyện.
Mạng lưới trên toàn thế giới được quản lý bởi các quy định được đưa ra tại Đại hội đồng Unesco năm 1995 và tại hội nghị này đưa ra định nghĩa, mục đích, tiêu chuẩn và những bước để có thể đưa ra khu dự trữ sinh quyển. Các kế hoạch đề xuất cho sự phát triển tương lai của các khu dự trữ sinh quyển trong thế kỉ 21 đã được đưa ra và đã được Đại hội đồng Unesco thông qua.
Những thông tin được Unesco sử dụng cho hai mục đích:
1. Thẩm tra khu vực sẽ được thực hiện bởi hội đồng tư vấn về khu dự trữ sinh quyển và Văn phòng hội đồng điều phối quốc tế.
2. Các thông tin đó sẽ được lưu trữ tại hệ thống thông tin của mạng lưới Unesco- MAB và toàn thế giới có thể truy cập và tiếp cận được để tạo thuận lợi trong liên lạc và hợp tác giữa những người cùng quan tâm đến khu dự trữ sinh quyển trên toàn thế giới.
Ba nhiệm vụ mà một khu dự trữ sinh quyển phải đáp ứng là: bảo tồn, phát triển và các hoạt động hỗ trợ:
1. “Bảo tồn”- làm sao để khu dự trữ sinh quyển đóng góp bảo tồn cảnh quan, hệ sinh thái, các loài và các nguồn gien di truyền, tầm quan trọng và vị trí của bảo tồn tại khu vực hoặc đối với toàn cầu.
2. “Phát triển”- làm sao để khu dự trữ sinh quyển hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế, phát triển nguồn nhân lực và đó là ổn định văn hoá xã hội và ổn định phương diện sinh thái, tiềm năng của khu dự trữ sinh quyển được đề cử trong việc đáp ứng yêu cầu của công tác bảo tồn.
3. “Chức năng hỗ trợ”- là những kế hoạch có thể đóng góp vào các dự án trong các lĩnh vực như: giáo dục môi trường, đào tạo, nghiên cứu và khảo sát các mối liên quan tới địa phương, khu vực, quốc gia và các văn kiện mang tính toàn cầu về bảo tồn và phát triển bền vững những đóng góp hiện tại và các kế hoạch hỗ trợ trong tương lai.
Những tiêu chuẩn cho việc lựa chọn một khu dự trữ sinh quyển:
1. Khu vực đó có đại diện đa dạng của các hệ sinh thái của những khu vực địa lý sinh vật chính bao gồm cả những giai đoạn phát triển có sự tác động của con người. Môi trường tự nhiên đa dạng và loại hình đất đai bao bọc có từ việc sử dụng của con người như các cánh đồng, sử dụng rừng, biển, khu vực địa lý sinh vật không hoàn toàn được xác định rõ ràng và hữu ích khi đề cập tới mạng lưới khu dự trữ sinh quyển của thế giới.
2. Khu vực đề cử có giá trị bảo tồn đa dạng sinh học cao. Điều này đề cập không chỉ tới những loài đặc hữu hay những loài hiếm, nguy cấp tại địa phương, khu vực hay cấp toàn cầu mà còn đề cập tới cả những loài mang tính kinh tế quan trọng, những loại hình môi trường sống rất hiếm hoặc những khu vực đất được sử dụng bằng những kĩ thuật đặc biệt và rất thuận lợi cho việc bảo tồn đa dạng sinh học.
Các hoạt động và sử dụng:
1. Khu vực lõi:
- Trong khu vực lõi được bảo vệ nghiêm ngặt, một số hoạt động và sử dụng nhất định vẫn được cho phép được thực hiện nếu các hoạt động đó phù hợp với mục tiêu bảo tồn của vùng lõi.
- Những tác động tiêu cực khu vực vùng lõi của việc sử dụng hoặc các hoạt động diễn ra trong hoặc ngoài khu vực.
2. Vùng đệm:
- Là khu vực có rất nhiều loại hình đất đai được sử dụng mà trong việc sử dụng có thể thúc đẩy được các chức năng của khu dự trữ sinh quyển đảm bảo trợ giúp được cho các công tác bảo vệ và phát triển tự nhiên của vùng lõi hoặc có các hoạt động kinh tế tại đó.
- Những tác động tiêu cực lên khu vực vùng đệm của việc sử dụng hoặc các hoạt động diễn ra trong hoặc ngoài khu vực vùng đệm trong tương lai gần cũng như về lâu dài.
3. Vùng chuyển tiếp:
- Là vùng tại đó có những điểm quan trọng liên quan tới môi trường và phát triển, sẽ được giải quyết theo những quy định vùng chuyển tiếp được đưa ra không phân biệt về diện tích nếu có những vấn đề phát sinh theo thời gian.
Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà.
Khu dự trữ sinh quyển ngoài ý nghĩa bảo tồn nguồn gen, đảm bảo sự cân bằng của hệ sinh thái, còn mang chức năng du lịch, tạo ra hàng loạt công ăn việc làm cho cộng đồng địa phương góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng cường tiềm năng kinh tế cho khu vực.
Vườn quốc gia Cát Bà thuộc thành phố Hải Phòng được thành lập từ năm 1986 đã góp phần vào việc bảo tồn nguồn gen quý hiếm của khu vực. Cát Bà là khu vực có tiềm năng đa dạng sinh học cao (2320 loài động thực vật). Nếu chúng ta chỉ dừng lại ở mức độ Vườn quốc gia thì chưa tương xứng với tiềm năng về tài nguyên, về sinh thái của Cát Bà. Cát Bà được công nhận là khu dự trữ sinh quyển sẽ thực sự trở thành trung tâm bảo tồn nguồn gen, cân bằng hệ sinh thái và trung tâm du lịch.
Khu dự trữ sinh quyển quần đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, phía bắc giáp Vịnh Hạ Long,phía Tây giáp đảo Cát Hải, phía đông và phía Nam giáp biển đông.
- Diện tích: tổng diện tích tự nhiên là: 26.240 ha. Trong đó diện tích đất đảo là 17.040ha, diện tích mặt nước biển là 9.200 ha.
Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà đủ lớn, các giá trị bảo tồn chính phân bố tập trung và biệt lập với khu dân cư, rất thuận lợi cho việc tổ chức không gian các vùng chức năng, cụ thể là không gian bảo vệ nghiêm ngặt- vùng lõi, không gian phát triển có hạn định- vùng đệm, không gian hỗ trợ và khuyến khích phát triển cộng đồng- vùng chuyển tiếp.
- Vùng lõi: vùng lõi 1: là phần chính của Vườn quốc gia Cát Bà với diện tích mặt đất 5.300 ha và 1.600ha mặt nước biển, có chức năng là khu bảo tồn thiên nhiên, được Nhà nước thành lập ngày 31 tháng 3 năm 1986 theo quyết định số 76/HĐ- BT của hội đồng Bộ trưởng nay là Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trước năm 1986 khu vực này là rừng núi, có nhiều loài động thực vật phong phú, là nơi đa dạng hệ sinh thái tiêu biểu rừng Việt Nam. Đã có những công trình khảo sát, nghiên cứu của nhiều cơ quan, tổ chức trong nước và quốc tế. Đến nay vùng này vẫn thực hiện được chức năng chính là khu bảo tồn nhiều quỹ gen quý hiếm, bảo tồn đa dạng sinh học.Vùng lõi 1 gồm khu rừng nguyên sinh, rừng ngập nước trên núi, rừng Kim giao, khu vực cây gỗ nhỏ, cây bụi và dây leo rậm trên núi đá vôi thuộc trung tâm Cát Bà, khu vực có 40% cá thể voọc sinh sống và các hệ sinh thái tùng, áng, rạn san hô thuộc vùng lõi hiện nay của rừng Quốc gia Cát Bà (loại trừ khu hành chính vườn quốc gia, thung lũng và làng Việt Hải)
Vùng lõi 2 nằm ở phía tây- bắc đảo Cát Bà với diện tích mặt đất là 1.200ha và diện tích mặt nước 400ha thuộc địa phận xã Gia Luận tiếp giáp với xã Phù Long. Nơi đây là khu vực núi cao, địa hình hiểm trở, đa dạng hệ sinh học, ít có sự can thiệp của con người, thuận tiện cho việc bảo vệ nghiêm ngặt và quản lý, còn là nơi có một số đàn voọc cư trú. Vùng lõi 2 gồm khu vực cây gỗ nhỏ, cây bụi và dây leo rậm trên núi đá vôi và là nơi có 30% các thể voọc hiện đang sinh sống. Nó bao gồm bán đảo Hang Cái và một số hòn đảo nhỏ phụ cận (loại trừ thung lũng và làng Gia Luận).
+ Vùng lõi là nơi không có cư dân sinh sống.
- Vùng đệm: vùng đệm với tổng diện tích mặt đất 4.940ha bao gồm phần lớn diện tích xã Gia Luận 2.680ha, một phần diện tích xã Phù Long 1.354ha, một phần diện tích xã Hiền Hào 87ha, thôn Hải Sơn và một phần xã Trân Châu 930ha, diện tích làng Việt Hải thuộc xã Việt Hải 141ha, khu hành chính của vườn quốc gia Cát Bà 340ha. Phần diện tích mặt nước từ bến đò Việt Hải đến giữa vịnh Lan Hạ, khu Vạn Bội- Vạn Hà 2.700 ha.
+ Kinh tế trước đây chủ yếu là vùng nông nghiệp làm vườn, nương rẫy, nghề đánh cá, khai thác gỗ, hái lượm sản phẩm rừng và một phần săn bắn. Hiện nay chủ yếu là làm vườn, nương rẫy, đánh cá, buôn bán nhỏ, phát triển du lịch và nghiên cứu bảo tồn Vườn quốc gia Cát Bà.
+ Vùng đệm có 937 người, cơ cấu như sau: xã Gia Luận 235 người, thôn Hải Sơn và một phần xã Trân Châu 420 người, xã Việt Hải 201 người. Khu hành chính của Vườn quốc gia Cát Bà 81 người.
- Vùng chuyển tiếp: tổng diện tích mặt đất vùng chuyển tiếp 5.600ha, thuộc 5 đơn vị hành chính, bao gồm một số đơn vị an ninh quốc phòng, khu dân cư tập trung. Những xã Trân Châu, Hiền Hào, Xuân Đám, Phù Long với địa hình vừa có núi, vườn, ruộng giáp biển, bãi triều, khu rừng ngập mặn và biển. Cộng đồng dân cư địa phương phát triển các ngành nghề trồng trọt, chăn nuôi, nghề cá, vận tải.
+ Diện tích mặt nước 4.400ha, trong đó diện tích mặt nước chủ yếu thuộc địa bàn xã Phù Long, Hiền Hào, Xuân Đám, Trân Châu, Vườn quốc gia Cát Bà có diện tích 4200ha và diện tích mặt nước thuộc xã Gia Luận 200ha.
+ Vùng chuyển tiếp có 4.306 người, cơ cấu như sau: xã Gia Luận 351 người, toàn bộ dân số xã Phù Long 1893 người, toàn bộ dân số xã Hiền Hào 323 người, toàn bộ dân số xã Xuân Đám 761 người, phần lớn dân số xã Trân Châu 978 người.
Chương 2. Thực trạng du lịch sinh thái Cát Bà
2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, lịch sử- văn hoá Cát Bà.
2.1.1. Điều kiện tự nhiên.
Nằm ở phía đông của Thành phố Hải Phòng giữa muôn trùng lớp sóng mênh mông của biển Đông xanh thẳm,nổi lên một bức tường thành hùng vĩ hiên ngang chắn sóng đại dương để tạo nên một vùng cửa biển lặng lẽ cho từng đoàn tàu biển ra vào Cảng Hải Phòng an toàn và yên tĩnh. Đó là dãy núi hải đảo Cát Bà cách Thành phố Hải Phòng trên 30 hải lý.
Cùng với toàn bộ vùng biển Đông Bắc Việt Nam (Hải Phòng-Quảng Ninh) hải đảo Cát Bà được hình thành liên quan tới nhiều biến cố địa chất và các thời kì dâng lên hạ xuống của mực nước biển trên Trái Đất.
Những tài liệu nghiên cứu địa mạo, địa chất cho thấy rằng: vào thời kì gần cuối pleistoxen (khoảng 30.000 năm trước) mực nước biển Đông dâng cao khoảng 15-30m so với mức nước biển hiện nay. Lúc bấy giờ đảo Cát Bà cùng với các đảo khác của Vịnh Hạ Long đã che khuất hướng sóng Đông Bắc làm cho vùng Hải Phòng được tích tụ thuận lợi. Vào thời kì băng hà lần cuối của Trái Đất, do băng hà ở cực quả đất phát triển tăng lên làm cho mực nước biển và đại dương hạ thấp, vùng biển Đông làm nổi lên đồng bằng Vịnh Hạ Long nối liền với đồng bằng Vịnh Bắc Bộ. Toàn bộ các dòng sông ở Đông Bắc Việt Nam lúc bấy giờ đều chảy về vùng này với tốc độ chảy rất lớn và gia nhập với sông Hồng chảy xuống phía Nam.
Khi băng hà lần cuối bắt đầu tan, mực nước đại dương lại dâng cao và được gọi là thời kì biển tiến Flandrian. Tốc độ biển tiến lúc đầu đạt 9m/1000 năm. Khoảng 7000-7500 năm trước, mực nước biển Đông đã dâng cao đến độ sâu 50-60m của đáy Vịnh Bắc Bộ hiện nay và dừng lại đó một thời gian dài để hình thành bờ biển cổ ở độ sâu trên.
Sau đó biển lại tiếp tục dâng cao và khoảng 6000 năm về trước biển đã tiến đến độ sâu 15-25m của đáy biển và dừng lại một thời gian để rồi lại dâng lên tiếp. Mực nước biển Đông cách đây khoảng 4000-4500 năm đã dâng cao hơn mực nước hiện nay khoảng 5m và lúc bấy giờ Vịnh Hạ Long đã mở rộng ra về phía núi đá vôi vùng Tràng Kênh-Uông Bí.
Sau khi đạt cực đại, mực nước biển lại hạ thấp dần xuống độ cao +3m sau đó lại tiếp tục lùi dần cho đến ngày nay.
Như vậy trong suốt thời kì đệ tứ và đặc biệt là thời kì biển tiến Flandrian đến nay, đảo Cát Bà luôn che khuất hướng sóng Đông Bắc tạo điều kiện cho Hải Phòng, Cát Hải, Đình Vũ phát triển ra biển thuận lợi. Đồng thời nó cũng là cái đập khổng lồ chắn giữa vùng tam giac sông Hồng với Vịnh Hạ Long làm cho Vịnh này chẳng những không bị chất bẩn lấp đầy mà còn giữ được tính chất trong sạch của nước biển (độ trong suốt lớn,độ mặn cao...).
Cũng do sự biến động của mực nước biển mà trên đảo Cát Bà còn nhiều di tích các quần thể thực vật, động vật và khảo cổ có liên quan. Đó là những tài nguyên rất có giá trị tạo cho Cát Bà thêm vẻ kì thú tự nhiên.
Toàn bộ vùng hải đảo Cát Bà là một vùng núi non khá hiểm trở ở độ cao dưới 500m, trong đó phần độ cao từ 50-200m chiếm tỉ lệ cao và là độ cao đặc trưng cho toàn đảo. Đỉnh núi cao nhất là đỉnh Cao Vọng (322m) ở phía Bắc của hải đảo chính.
Đảo Cát Bà chủ yếu là địa hình núi đá vôi xen kẽ với nhiều thung lũng lớn nhỏ. Phần giữa đảo có một thung lũng hẹp chạy dài theo hướng Tây Bắc-Đông Nam. Đó là một thung lũng bằng phẳng bị bao quanh bởi các dãy núi đá vôi và ngăn cách với bên ngoài bởi những dốc đá cao hiểm trở gọi là khoăn như: khoăn Đá Lát ở phía Nam, khoăn Eo Bùa ở phía Tây Bắc, khoăn Cao ở phía Bắc và một số khoăn khác thấp hơn cắt ngang thung lũng, thường những thung lũng nhỏ hơn: cánh đồng Khe Sâu, đường Tép, áng Trung Trang, áng Gia Luận, áng Dài...
Giữa các dãy núi và đỉnh núi đá vôi là các thung lũng nhỏ tạo thành các tùng, áng như áng Vắt, áng Rebờđa, Mé Cồn, áng Dạng, áng Mồ, áng Cọ... tùng Chi, tùng Bàng...
Phía Nam của đảo chủ yếu là một dải đất diệp thạch độ cao trên dưới 200m ngay sát bờ biển thuộc các xã Trân Châu, Xuân Đám, Hiền Hào và trung tâm Cát Bà. Do bị tàn phá nặng nề qua nhiều thế hệ nên địa hình ở đây trơ trọi, phần lớn chỉ còn như một lớp cỏ thấp.
Ngoài ra do ảnh hưởng trực tiếp của sóng biển và chế độ thuỷ triều, cửa sông nên vùng chân đảo phía Tây và Tây Nam còn có dạng địa hình bãi bồi. Đó là các bãi bùn với kiểu sinh thái rừng ngập mặn ở Cái Viềng, Phù Long, các áng kín gió và các bãi cát mịn như Cát Dứa, Cát Cò, Cát Ông, Cát Xanh Quý, Cát Vạn Bội... Đó là các bãi tắm tuyệt diệu cuả thiên nhiên ưu đãi cho Cát Bà mà theo các nhà nghiên cứu thì những bãi biển của Cát Bà thuộc loại đẹp nhất của nước ta.
Do địa hình đá vôi hiểm trở mà khu vực trung tâm đảo còn giữ lại đựơc một thảm rừng mưa nhiệt đới thường xanh đặc trưng của miền Bắc Việt Nam, với nhiều hang động làm nơi trú ẩn và sinh sản của các loài chim, hú có giá trị của vùng này.
Dạng địa hình hang động cũng là một đặc trưng của Cát Bà và vùng đá vôi Hạ Long nói chung. Những hang động đẹp và kì thú là động Đá Hoa Gia Luận (động Cao Vọng), động Trung Trang, hang Quân Y, Dân Y, hang Eo Bùa, hang Tiền Đức, hang Luồn... và rất nhiều hang động khác nằm rải rác từ trung tâm hòn đảo ra đến tận các mép núi ven bờ biển Cát Bà với những vẻ đẹp kì lạ riêng của chúng.
Những dạng địa hình đặc trưng trên đây của Cát Bà là kết quả của cả một quá trình lịch sử kiến tạo địa chất phức tạp có liên quan tới nhiều hoạt động kiến tạo hình thành nên vùng biển Đông Bắc Việt Nam.
Người ta cho rằng Cát Bà cùng với đồi núi Quảng Ninh thuộc rìa địa máng hiện đại Thái Bình Dương được hình thành từ cuối vận động tạo sơn Caleđoni, đầu vận động tạo sơn Hecxini thuộc nguyên đại cổ sinh và có liên quan đến thời kì biển tiến Flandrian.
Đá mẹ chủ yếu là đá vôi hoa cương với nhiều dạng khác nhau, diệp thạch sét và lẫn với nhiều khoáng vật khác. Trên nền tảng địa chất đó, nhờ quá trình phong hoá, rửa trôi, bồi tụ... đã tạo nên các loại đất khác nhau trong từng khu vực của đảo.
Trên các sườn và đỉnh núi đá là sản phẩm phong hoá của đá vôi. Trong các thung, áng là các sản phẩm bồi tụ và đất Feralit trên diệp thạch sét.
Các đồi trọc chủ yếu là đất phong hoá tại chỗ với quá trình Feralit là chính trên diệp thạch sét, đất màu nâu xám với nhiều đá lẫn. Ngoài ra còn có loại đất bồi tụ do phù sa của vùng cửa sông, đất ngập mặn là nơi đứng chân của các loài cây sú, vẹt tạo thành thảm rừng nội địa đới thường xanh đặc trưng cho kiểu rừng ngập mặn của bờ biển nước ta.
Với nền đá mẹ hầu hết là đá vôi cùng với các điều kiện địa hình karst và khí hậu nhiệt đới ẩm đã hình thành những loại đất đặc trưng ở khu dự trữ sinh quyển Cát Bà như sau:
- Đất feralit nâu đỏ phát triển trên đá vôi. Chúng phân bố trên các sườn núi ít dốc hay hốc đá vôi. Đất có phản ứng trung tính, ít chua và khá giàu mùn, tầng dày của đất có thể đạt 30- 40cm. Điển hình cho loại đất này là mẫu được nghiên cứu tại rừng Kim giao (Vườn Quốc Gia Cát Bà).
- Đất feralit nâu đỏ dốc tụ chân núi đá vôi hoặc xung quanh thung lũng, chúng được tích tụ từ các đỉnh, sườn núi xung quanh trôi trượt xuống. Đất thường có độ ẩm khá, tầng dày phổ biến từ 50- 100cm, có phản ứng trung tính, cấu tượng viên hơi chặt, thành phần cơ giới từ thịt trung bình đến nặng, giàu mùn, thảm thực vật phát triển tốt.
- Đất feralit nâu vàng phát triển trên sản phẩm phong hoá đá vôi dốc tụ hỗn hợp. Đất này phân bố ở các thung lũng rộng có nước chảy trên bề mặt như Trung Trang, Việt Hải, Gia Luận. Đất phản ứng trung tính, ít chua, giàu mùn, đất thường bị khô hạn vào mùa khô, nơi thấp có thể bị ngập nước tạm thời vào những ngày mưa lớn. Đất này đã được sử dụng trồng rừng, cây ăn quả và hoa màu.
- Dốc tụ thung lũng: chúng phân bố ở các thung lũng, giếng karst có màu từ nâu vàng đến vàng nhạt, tầng đất dày từ 80- 100cm, giàu mùn, có phản ứng trung tính đến chua, mùa mưa có thể bị ngập tạm thời, mùa khô hạn thiếu nước. Một số diện tích được khai thác trồng lúa một vụ và trồng màu.
- Đất bồi chua mặn: đất này có diện tích khoảng 40 ha, phân bố ở xã Xuân Đám về phía biển. Đây là loại đất bồi hỗn hợp biển- đầm lầy ở bãi triều cao sau này được đắp đê ngăn mặn, cải tạo để cấy lúa 1- 2 vụ.
- Đất mặn sú vẹt: đất này tập trung chủ yếu ở Cái Viềng, Phù Long và rải rác ở vài nơi quanh đảo thuộc bãi triều thấp. Tại đây hình thành rừng ngập mặn có năng suất sinh học vùng triều khá cao và là hệ sinh thái độc đáo của đảo Cát Bà.
Đặc điểm khí hậu khu vực:
- Tính chất nhiệt đới, có một mùa hạ nóng ẩm, mưa nhiều (từ tháng 5- tháng 9) và một mùa đông lạnh ít mưa (từ tháng 11- tháng 3).
- Tính biến động thường xuyên của thời tiết và khí hậu do sự luân phiên tranh chấp của các khối không khí có bản chất khác nhau. Khi không khí lạnh tràn về thì chỉ sau 24h, nhiệt độ có thể giảm từ 8- 10 độ. Khi áp thấp nóng phía tây xâm lấn thì thời tiết rất khô nóng, nhiệt độ cao nhất tuyệt đối lên tới 37- 40 độ. Khi không khí xích đạo chi phối mạnh lại gây thời tiết nóng, ẩm, dễ có giông, mưa lớn, áp thấp nhiệt đới hoặc bão.
- Là đảo ven bờ, khu vực còn chịu sự chi phối của biển dưới tác động của gió biển- đất làm điều hoà khí hậu, tạo nên mùa đông ấm hơn và mùa hè mát hơn so với đất liền.
Hoàn lưu khí quyển và chế độ gió:
- Mùa hè (từ tháng 5- tháng 9) trùng với gió mùa tây nam, thời tiết nóng ẩm (nhiệt độ trung bình thường trên 25 độ) và mưa nhiều kéo dài (lượng mưa tháng trên 100mm), thường xuất hiện bão, áp thấp nhiệt đới, giông...
- Mùa giông (từ tháng 11- tháng 3) trùng với mùa gió đông bắc, trời rét lạnh, nhiệt độ trung bình dưới 20 độ, ít mưa (lượng mưa thường dưới 100mm).
- Thời kì chuyển tiếp tháng 4 và 10, các khối không khí suy yếu và tranh giành ảnh hưởng nên thời tiết ôn hoà hơn, nhưng ưu thế vẫn thuộc về các hệ thống mùa hạ.
- Chế độ gió trên toàn khu vực chịu ảnh hưởng của hoàn lưu chung khí quyển và thay đổi theo mùa. Tốc độ gió trung bình năm 2,5m/s, cao nhất vào tháng 7 (3,4m/s) và thấp nhất vào tháng 1 (1,8m/s). Mùa hè gió mùa đông nam có hướng thịnh hành đông nam và nam, tốc độ trung bình 2,5- 3,0m/s, cực đại 20- 30m/s. Mùa đông gió mùa đông bắc có hướng thịnh hành bắc và đông bắc, sau chuyển hướng đông và đông bắc vào cuối mùa, tốc độ trung bình là 2,5- 3,0m/s, tốc độ cực đại 20- 25m/s.
- Mùa mưa từ tháng 5- tháng 10, mùa khô từ tháng 11- tháng 4 năm sau. Hàng năm có 100- 150 ngày mưa với tổng lượng mưa trung bình năm 1806mm, dao động từ khoảng 1600- 2000mm. Lượng mưa phân bố theo 2 mùa:
+ Mùa mưa (từ tháng 5- tháng 10), trung bình có trên 10 ngày mưa/tháng với tổng lượng mưa 1500- 1600mm, chiếm 80- 90% lượng mưa năm. Tháng mưa nhiều nhất là các tháng 7, 8 và 9 do mưa rào nhiều và bão, áp thấp nhiệt đới hoạt động mạnh. Lượng mưa trung bình xấp xỉ 300mm/tháng, cực đại vào tháng 8 đạt 408mm. Đặc biệt lượng mưa lớn ngày đạt 160mm trong chu kì 5 năm, 186mm trong chu kì 10 năm và 257mm trong chu kì 50 năm. Mưa lớn xuất hiện khi triều kém tạo nên khả năng xói lở bãi bên sông và tập trung phù sa thượng nguồn về rất lớn.
+ Mùa khô (tháng 11- tháng 4), trung bình có mỗi tháng 8- 10 ngày mưa nhưng chủ yếu mưa nhỏ, mưa phùn nên tổng lượng mưa cả mùa chỉ đạt 200- 250mm. Lượng mưa thấp nhất vào các tháng 11, 12, trung bình chỉ đạt 20- 25mm/tháng.
- Tổng lượng bốc hơi đạt 700- 750mm/năm, xấp xỉ 50% tổng lượng mưa năm. Các tháng 10, 11 lượng bốc hơi lớn nhất trong năm, đạt trên 80mm và các tháng 2 và 3 lượng bốc hơi thấp, chỉ đạt 30mm. Lượng bốc hơi cao trùng với địa hình karst của đảo có khả năng thoát nước lớn nên tình trạng khô kiệt xảy ra quanh năm. Về mùa hè tính chất khô kiệt càng tăng cao vì chỉ ngay sau mưa, nước mưa đã thoát hết xuống lòng đất đá vôi ra biển.
Độ ẩm không khí:
- Độ ẩm tuyệt đối trung bình năm là 24,7mb, cao nhất vào tháng 7 đạt 32,6mb và thấp nhất vào tháng 1 đạt 15,1mb.
- Độ ẩm tương đối khá cao, trung bình năm khoảng 85%. Thời kì đầu mùa đông, độ ẩm trung bình 77-82%, các tháng còn lại độ ẩm đều trên 83%, không khí ẩm ướt, mù trời. Các tháng 9,10,11 khô hanh độ ẩm đạt dưới 77%, bầu trời trong xanh. Như vậy vào quý 3 và đầu quý 4 hàng năm, bầu trời trong xanh, ánh nắng dồi dào, thuận lợi cho thực vật quang hợp và phát triển. Vào cuối quý 4 hàng năm, bầu trời ẩm thấp mù trời thiếu ánh sáng.
Chế độ nhiệt và bức xạ:
- Khu vực chịu ảnh hưởng của bức xạ nhiệt đới nên cán cân bức xạ nhiệt luôn dương và bị phân hoá thành hai mùa do sự chi phối của hoàn lưu cực đới:
+ Mùa hè (tháng 5- tháng 9) nóng, nhiệt độ trung bình trên 25 độ.
+ Mùa đông (tháng 11- tháng 4) lạnh, nhiệt độ trung bình dưới 20 độ.
- Nhiệt độ không khí trung bình năm là 23- 24 độ khá đặc trưng cho vùng nhiệt đới. Nhiệt độ cũng thay đổi theo mùa và theo chế độ gió, trung bình mùa hè là 27,9 độ, mùa đông là 19,8 độ. Vào mùa hè các tháng nóng nhất là tháng 5, 6 và 7, có khi nhiệt độ đến 35-36 độ và kéo dài nhiều giờ trong ngày. Vào mùa đông các tháng lạnh nhất là các tháng 12, 1 và 2, có lúc nhiệt độ xuống dưới 10 độ và kéo dài 5- 7 ngày. Chênh lệch nhiệt độ giữa hai mùa là 8- 10 độ và dao động nhiệt độ giữa ngày và đêm là 5- 6 độ. Tổng nhiệt là 8000- 8500 độ/năm. Trung bình hàng năm trong khu vực có 1600- 1800 giờ nắng.
- Bức xạ nhiệt: Do độ cao mặt trời các tháng trong năm đều lớn nên bức xạ mặt trời có giá trị khá cao. Bức xạ nhiệt trung bình năm của vùng ven biển Hải Phòng đạt 110- 115kcal/cm2.
Bão và nước dâng do bão: Bão được xem là một trường hợp đặc biệt của gió có kèm theo mưa và gây ra những tai hoạ lớn. Bão sớm thường có thể xuất hiện từ tháng 4 và kéo đến hết tháng 10 nhưng tập trung nhiều vào các tháng 7, 8, 9. Tần suất của bão trong năm thường không phân bố đều trong các tháng. Tháng 12 là thời gian không có bão, tháng 1- tháng 5 chiếm 2,5%, tháng 7- tháng 9 tần suất lớn nhất đạt 35- 36%.
Đặc điểm thuỷ văn:
- Cát Bà là đảo đá vôi gần như hệ thống sông suối trên đảo không phát triển. Những dòng chảy tạm thời chỉ xuất hiện trong cơn mưa và ngừng ngay sau khi mưa. Vào mùa mưa nước động lại ở những vùng nhỏ, thấm giọt trong các hang động. Tuy rất ít nhưng đây lại là nguồn nước khá thường xuyên cho động vật trên đảo. Trên một số đảo nhỏ hoặc ven đảo lớn Cát Bà, nơi đứt gãy chảy qua, có xuất hiện nước xuất lộ với dung lượng từ một vài lit đến vài chục lit mỗi ngày. Nguồn nước xuất lộ lớn nhất ở suối Thuồng Luồng, có lưu lượng trung bình 5l/s, mùa mưa 7,5l/s và mùa khô đạt 2,5l/s.
- Cát Bà có các túi nước ngầm nguồn gốc thấm đọng từ nước mưa đã khai thác 6 giếng khoan, trữ lượng khoảng 1500- 2000m3/ngày, mức độ khai thác cho phép khoảng 1000m3/ngày.
Đặc điểm hải văn:
- Thuỷ triều và mực nước: Chế độ thuỷ triều mang đặc điểm chung của thuỷ triều vịnh Bắc Bộ, thuộc loại nhậ._.t triều đều biên độ cực đại gần 4m nhưng thường chậm pha hơn ở Hòn Dáu từ 20- 30 phút do ảnh hưởng điều kiện địa hình khu vực. Thuỷ triều khu vực mang tính nhật triều đều điển hình với hầu hết số ngày trong tháng là nhật triều: trong một ngày đêm có một lần nước lớn và một lần nước ròng. Mỗi tháng có hai kì nước cường, mỗi kì từ 11- 13 ngày, biên độ dao động 2,6- 3,6m, xen kẽ là hai kì nước kém, mỗi kì 3- 4 ngày với biên độ 0,5- 1m. Trong năm biên độ triều lớn vào các tháng 6, 7 và 11, 12; nhỏ vào các tháng 3, 4 và 8, 9.
- Sóng: Khu vực Cát Bà sóng thường xuất hiện và phát triển ở các hướng đông bắc và đông nam. Sóng hướng đông bắc độ cao trung bình 1,0- 1,5m chiếm tần suất 30%, chủ yếu xuất hiện vào thời kì gió mùa đông bắc thịnh hành. Sóng hướng đông nam chiếm tần suất 25% chủ yếu phát triển ở độ cao 0,5- 1,0m, thường gặp vào mùa hè. Sóng hướng nam thường xuất hiện từ tháng 6- tháng 8, độ cao lớn nhất có thể đạt tới 2,8m. Sóng hướng đông thường xuất hiện vào thời kì chuyển tiếp giữa hai mùa gió có tần suất lớn nhưng độ cao nhỏ.
- Dòng chảy:
+ Chế độ dòng chảy trong khu vực vừa chịu ảnh hưởng của hệ thống hoàn lưu vịnh Bắc Bộ, vừa mang những đặc trung riêng của vùng biển kín ven bờ. Dòng chảy quanh đảo chủ yếu do dòng triều, dòng chảy gió thay đổi theo mùa và dòng ven bờ. Vào mùa gió tây nam, dòng chảy hướng đông bắc có vận tốc trung bình 10- 20cm/s. Vào mùa gió đông bắc, dòng chảy hướng tây nam đạt vận tốc trung bình 20- 30cm/s. Khu vực vịnh Lan Hạ, dòng chảy khi triều lên đạt trung bình 15cm/s ở Cửa Vạn và 17cm/s ở khu vực giữa vịnh Lan Hạ. Dòng triều xuống có hướng ngược lại, nhưng tốc độ lớn hơn, thường đạt 25-40cm/s, ở các lạch hẹp như Cửa Vạn và các lạch ở Cát Dứa, Cập Quan, Hòn Bụt...tốc độ dòng chảy thường có giá trị khá lớn. Khu vực phía đông và đông bắc, nơi tiếp giáp với Vịnh Hạ Long, dòng chảy khá yếu, vận tốc trung bình 10- 15cm/s.
+ Khu vực đông nam Cát Bà hướng chảy khá phức tạp, tốc độ trung bình từ 18- 12cm/s, nơi mạnh là 20- 30cm/s và có thể đạt tới 50cm/s ở các lạch hẹp. Khu vực này chịu ảnh hưởng của dòng chảy mùa, nên có độ đục cao vào mùa hè do dòng nước đục hướng tây nam từ Đồ Sơn lên. Vùng ven bờ Cát Hải, dòng triều lên đến Gia Lộc rẽ thành hai nhánh chảy về bến Gót ở bên phải và Hoàng Châu ở bên trái với tốc độ cực đại 90cm/s. Dòng triều xuống hướng ngược lại.
- Đặc điểm thuỷ hoá và chất lượng nước.
+ Nhiệt độ nước: Nhiệt độ nước biển đảo Cát Bà thay đổi khá lớn, phụ thuộc vào nhiệt độ khí quyển. Trong năm, nước biển Cát Bà có nhiệt độ thấp nhất vào tháng 2, khoảng 15 độ và cao nhất vào tháng 7, nhiệt độ của lớp nước mặt có thể đạt tới 31 độ.Vào mùa mưa nhiệt độ nước nằm trong khoảng từ 21 độ- 31 độ. Có sự phân tầng về nhiệt độ: nhiệt độ nước giảm theo độ sâu với gradien nhiệt độ khoảng 0,1độ/m trở lên. Vào mùa khô, nhiệt độ của nước nằm trong khoảng từ 15 độ đến 20 độ.
+ Độ đục của nước: độ đục nước biển Cát Bà thay đổi không lớn và không có sự khác biệt lớn giữa các mùa. Mùa mưa, độ đục trong khoảng từ 10- 50 mg/l, trung bình là 30mg/l. Mùa khô, độ đục trong khoảng từ 20- 50mg/l, trung bình là 31mg/l. Trong cả hai mùa, độ đục của lớp nước đáy luôn cao hơn lớp nước mặt.
+ Độ muối: độ muối của nước biển Cát Bà dao động từ 19% vào tháng 8 đến 34% vào tháng 2. Vào mùa mưa, độ muối thay đổi trong một khoảng khá rộng, từ 19%- 295 do ảnh hưởng của nước lục địa , mùa mưa độ muối trung bình là 28%. Vào mùa khô, độ muối cao và ổn định, nằm trong khoảng từ 30- 34%m, độ muối trung bình khoảng từ 32,5%.
+Độ pH: pH của nước biển Cát Bà biến đổi trong một khoảng khá hẹp, từ 7,9- 8,3. Vào mùa mưa,pH thấp và nằm trong khoảng từ 7,9- 8,2, trung bình khoảng 8,0. Vào mùa khô,pH cao hơn so với mùa mưa và nằm trong khoảng từ 8,1- 8,3, trung bình khoảng 8,2
+ Nước ngầm: nước khoáng: ở Xuân Đám có 3 điểm mỏ nước khoáng được đánh dấu kề cận với đới giao cắt của 3 hệ thống đứt gãy phá huỷ định hướng tây bắc- đông nam, đông bắc- tây nam và á kinh tuyến nhưng chưa rõ chất lượng và tiềm năng.
Nước ngầm khe nứt và karst: nước ngầm ở đây tương đối nhạt với M< 1g/l, thuộc loại bicarbonate chlorua canxi, chlorua bicarbonate magie. Nước này chứa trong khe nứt, thể karst của đá vôi, đá vôi silic, đất set vôi, với bề dày có thể tới hàng trăm mét. Theo đánh giá bước đầu, tầng chứa nước pl của đảo Cát Bà có thể cung cấp lượng động Qđ= 86.141m3/ngày
2.1.2. Kinh tế- xã hội.
Dân số: theo số liệu thống kê chính thức của cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở thì trên đảo Cát Bà gồm 7 xã và thị trấn: thị trấn Cát Bà, xã Trân Châu, xã Xuân Đám, xã Gia Luận, xã Hiền Hào, xã Việt Hải, xã Phù Long và cả Vườn Quốc Gia. Tổng số dân của toàn huyện Cát Hải là 27.890 người tính đến tháng 11/2004 trong đó dân số Cát Bà là 15.578 người. Dân số khu dự trữ sinh quyển được đề cử là 5.243 người gồm:
- Vùng lõi: không có cư dân sinh sống.
- Vùng đệm có 937 người, cơ cấu như sau: xã Gia Luận 237 người, thôn Hải Sơn và một phần xã Trân Châu 420 người, xã Việt Hải 201 người, khu hành chính của Vườn Quốc Gia Cát Bà 81 người.
- Vùng chuyển tiếp: 4.306 người, cơ cấu là: xã Gia Luận 351 người, toàn bộ dân số xã Phù Long 1893 người, toàn bộ dân số xã Hiền Hào 323 người, toàn bộ dân số xã Xuân Đám 761 người, phần lớn dân số xã Trân Châu 978 người.
Dân số khu dự trữ sinh quyển thuộc vùng nông thôn là 5.234 người.
Trong khu dự trữ sinh quyển có hai cộng đồng dân cư sinh sống đó là dân tộc Kinh và người Việt gốc Hoa. Người Kinh với số nhân khẩu là 5.034 người chiếm 96,17%. Người Việt gốc Hoa có 200 người chiếm 3,83% dân số toàn vùng.
Cơ cấu lao động không đồng đều, lao động làm công nghiệp có 48 người, lao động nông nghiệp có 1.577 người, lao động xây dựng có 44 người, lao động làm du lịch và dịch vụ có 247 người. Trong số lao động nông nghiệp có 81 người thuộc Vườn Quốc Gia Cát Bà.
Hoạt động kinh tế chính của vùng chủ yếu có hai ngành:
- Tại vùng lõi: Chỉ tiến hành các hoạt động bảo tồn, nghiên cứu khoa học, giáo dục và du lịch sinh thái.
- Tại vùng đệm: gồm các hoạt động dịch vụ du lịch, trồng cây gây rừng, sản xuất lương thực, chăn nuôi gia súc, gia cầm, làm vườn, trồng cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ hải sản, đánh bắt cá, chế biến thuỷ hải sản, hoạt động thương mại, vận chuyển.
- Tại vùng chuyển tiếp: gồm các hoạt động kinh doanh thương mại, xây dựng, sản xuất lương thực, chăn nuôi gia súc, gia cầm, làm vườn, trồng cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ hải sản, đánh bắt cá, chế biến hải sản, vận chuyển.
Nguồn nước cung cấp cho sinh hoạt tại thị trấn Cát Bà là nguồn nước ngầm từ các giếng khoan:
- Giếng Liên Xô: xây dựng từ năm 1986 do Liên Xô thiết kế, công suấ = 150m3/ ngày đêm. Bơm lên bể Ngã Ba và đến nơi tiêu thụ cho khu dân cư gần ngã 3.
- Giếng Ngọc và giếng nước khoáng: nước hai giếng này được bơm trực tiếp lên bể núi 1, bể này có dung tích V= 200m3 chủ yếu phục vụ cho khu du lịch.
Ngoài ra nguồn nước sinh hoạt cho thị trấn Cát Bà là các nguồn nước lộ thiên (hang Thuồng Luồng, suối Xuân Đám, suối Hiền Hào và suối Khe Sâu...)
Hiện trạng cấp điện: nguồn điện cấp cho huyện đảo Cát hải là đường dây 35kv lưới điện quốc gia từ trạm biến áp Biểu Nghi 110/35kv (Yên Hưng).Từ trạm trung gian đường dây 35kv dẫn ra đảo Cát Bà và cấp cho 15 trạm biến áp 35/0,4kv phụ tải của khu vực thị trấn, Vườn Quốc Gia Cát Bà và một số xã lân cận. Hệ thống lưới điện mới được xây dựng từ năm 1997 do đó chất lượng tốt đảm bảo cung cấp điện cho toàn khu.Tuy nhiên lượng điện dao động theo mùa. Do đặc điểm khu vực là khu du lịch cho nên vào những lúc cao điểm (mùa hè) công suất lên đến gần 1triệu kw/h.
Cơ sở hạ tầng: tại thị trấn Cát Bà hầu hết cơ sở hạ tầng phục vụ để phát triển du lịch nên được đầu tư một cách kĩ lưỡng và tốc độ phát triển rất nhanh.
- Giao thông đã có nhiều biến chuyển một cách đáng kể. Đã mở nhiều tuyến phục vụ du khách trên đảo như tuyến đường du lịch Cát Bà- Gia Luận- Tuần Châu; tuyến Cát Bà- Bến Bèo qua đường núi xẻ; đường nối liền giữa các bãi tắm Cát Cò 1, 2, 3.
+Mở rộng tuyến đường du lịch khu cảng cá (từ chợ Cát Bà- Chùa Đông) tạo ra khung cảnh thoáng mát, thoải mái cho du khách.
+ Tuyến đường bộ xuyên đảo Hải Phòng- Cát Hải- Cát Bà là tuyến đường chủ đạo. Đây là điều kiện thuận lợi cho sự đi lại của du khách bằng phương tiện ô tô, xe máy nhất là những ngày có thời tiết xấu, sóng to, gió lớn.
+ Tăng cường thêm tuyến Hà Nội- Hải Phòng- Cát Bà bằng phương tiện ô tô, tàu thuỷ cao tốc của công ty TNHH vận tải Hoàng Long. Ngoài ra còn có nhiều chuyến tàu Hải Phòng- Cát Bà đi lại trong ngày đáp ứng được nhu cầu đi lại của du khách. Chỉ mất 1 giờ đồng hồ nếu đi bằng tàu cao tốc và 2,5 giờ nếu đi bằng tàu thuỷ là đã có thể có mặt trên đảo Cát Bà.
+ Thông xe kĩ thuật đường Hiền Hào- Vườn quốc gia Cát Bà với chiều dài hơn 4km, nền đường rộng 7,5m, mặt đường rộng 5,5m, kết cấu đường là nhựa thấm nhập 5,5kg/m3. Tổng giá trị đầu tư cho dự án là 15,7 tỷ.
- Các khách sạn, nhà nghỉ ngày càng có sự đầu tư lớn về trang thiết bị, phòng buồng ngày càng nâng cấp hiện đại hơn đáp ứng nhu cầu phục vụ khách đến Cát Bà, tiêu chuẩn xếp hạng ngày càng tăng, đã có các khách sạn 4 sao như Vinaconex, khách sạn 3 sao như Hướng Dương 1...
Đặc biệt công ty TNHH Trường Bình Minh vừa khai trương khu nghỉ mát tại bãi Cát Có 3. Dự án này được thành phố phê duyệt từ năm 2002 và có tổng vốn đầu tư là khoảng 50 tỷ đồng với nhiều hạng mục được thiết kế theo kiểu kiến trúc du lịch sinh thái kết hợp nghỉ dưỡng: hệ thống xử lý nước thải, một khách sạn 40 phòng cao cấp, khu nhà đa năng, bể bơi với sức chứa 385m3 nước, khu quầy bar bãi biển.... Thời gian tới công ty tiếp tục đầu tư vốn để xây dựng 3 khu biệt thự nhỏ. Nguồn khách du lịch chính ở khu nghỉ mát này là khách VIP. Với phong cảnh đẹp phù hợp với môi trường sinh thái, khu nghỉ mát Sunrise Resort này được giới kinh doanh du lịch đánh giá là khu nghỉ mát cao cấp có phong cảnh, môi trường sinh thái lý tưởng nhất hiện nay ở Hải Phòng.
Hàng năm để quản lý và điều hành giải quyết các vấn đề chung cho khu dự trữ sinh quyển, nguồn tài chính và ngân sách hàng năm được huy động từ những nguồn vốn:
- Vốn ngân sách của Chính phủ Việt Nam đầu tư cho hoạt động bảo tồn Vườn quốc gia Cát Bà là 2tỷ/năm.
- Vốn ngân sách Chính phủ Việt Nam đầu tư cho chương trình phát triển cơ sở hạ tầng du lịch năm 2001 là 33 tỷ đồng, năm 2002 khoảng trên 100 tỷ, có thể đến năm 2005 bình quân mỗi năm 50 tỷ đồng Việt Nam.
- Vốn chương trình biển Đông hải đảo của Chính phủ Việt Nam bình quân mỗi năm 20 tỷ (bao gồm cho cả vùng phụ cận của khu dự trữ sinh quyển).
- Nguồn thu Chính phủ Việt Nam để lại cho khu vực Cát Bà tái đầu tư từ 5- 10 tỷ/năm.
- Vốn ngân sách thành phố Hải Phòng đầu tư cho công tác giáo dục, y tế, văn hoá xã hội 2 tỷ/năm.
- Nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức trong nước và quốc tế là 2 tỷ/năm.
Tổng hợp các nguồn dự kiến sẽ có khi khu dự trữ sinh quyển được đề cử:
- 60% từ Liên Hợp Quốc và tổ chức khác.
- 20% từ tổ chức vùng.
- 20% từ quốc gia và các vùng ngoài khu dự trữ sinh quyển Cát Bà.
Bảng 1. Bảng chỉ tiêu kinh tế huyện Cát Hải
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Thực hiện
1995
2000
2003
1
ngành nông nghiêp
triệu đồng
6.446
10.057
12.847
2
ngành thuỷ sản
triệu đồng
21.200
35.500
86.370
3
ngành du lịch
lượt khách
50.000
115.000
250.000
4
dân số
người
26.282
27.083
27.630
5
tỉ lệ hộ đói nghèo
%
22
9,4
4
Nguồn: Báo cáo hoạt động du lịch- dịch vụ huyện Cát Hải
2.1.3. Lịch sử - Văn hoá Cát Bà.
Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đa dạng, từ thời kì xa xưa tổ tiên ta đã biết sử dụng và chế ngự thiên nhiên để phục vụ đời sống. Những phát hiện và nghiên cứu khảo cổ học đã bước đầu cho thấy được những nét cơ bản của quá trình phát triển của con người cư trú và sinh sống trên đảo Cát Bà đó chính là nguồn tài nguyên văn hoá lâu đời tăng thêm giá trị to lớn cho việc xây dựng Vườn Quốc Gia Cát Bà. Những di tích và cư trú của con người thuộc thời kì tiền sử trên đảo tuy phát hiện chưa được nhiều nhưng những cái phát hiện được lại rất điển hình tiêu biểu cho các giai đoạn phát triển của con người từ khoảng 7000 năm đến 4000 năm trước đây trên vùng ven biển Đông Bắc nước ta. Theo tài liệu hiện nay, dấu vết cư trú sớm nhất của con người trên mảnh đất này là các di chỉ của người cư trú trong các hang động như hang Đục ở Đảo aHang, hang Eo Bùa ở cạnh đường Lâm trường đi xã Hiền Hào, trong các hang động này đã tích đầy những vỏ ốc của con người bắt về ăn, lẫn vào đó là những hòn kê, hòn đập, bàn nghiền bằng đá. Những dấu vết đun nấu, những xương thú bị nướng cháy cùng với những di tích ấy còn tìm thấy nhiều rìu đá mài và quan trọng hơn cả con người thời này đã biết chế đồ đựng, đồ đun nấu bằng đất nung, kết quả phân tích tuổi tuyệt đối bằng cacbon phóng xạ C14 đối với các di chỉ này cho thấy niên đại của con người sống ở đây là khoảng 6480 năm + - 60 năm cách ngày nay và là giai đoạn tiếp sau của nền văn hoá Bắc Sơn. Những nghiên cứu nhận xét của một nhà khảo cổ học người Thuỵ Điển là Anđecxon về những đống tàn tích thức ăn rất lớn của con người để lại trong hang được cho thấy rằng trong đống thức ăn có thể là 90% loại Melania, 9% là loại Horixit còn lại 1% là loại vô hại là loại hầu rất to và loại sò biển. Những người sống trong các hang này thời kì đó rõ ràng là đã hoạt động trong môi trường lục địa và theo kết quả nghiên cứu đáy Vịnh Bắc Bộ thời kì 7000 năm đến 6000 năm trước đây thì bờ biển này còn cách xa hòn đảo Cát Bà ngày nay khoảng 70km, bờ biển đó nằm ở độ sâu 25-30m so với mực nước biển hiện nay. Bước vào giai đoạn tiếp theo dấu vết cư trú của con người được phát hiện rất ít trong vùng ven biển Đông Bắc, mới chỉ phát hiện được một di chỉ Cái Bèo trên đảo Cát Bà, đây là một di chỉ ngoài trời khác với giai đoạn trước, quy mô di chỉ lớn hơn rất nhiều, dân số tăng lên rõ rệt. Di chỉ Cái Bèo nằm trên bãi cát bờ biển cách thị trấn Cát Bà 1,5km về phía Đông Nam, khu vực này kín gió, mặt Đông Nam hướng ra biển, các mặt khác được bao quanh bởi dãy núi Long Nham, địa điểm này đã được nhà khảo cổ học Pháp là Maccolani phát hiện và đào năm 1938. Gần đây các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tiến hành khai quật với quy mô lớn hơn nhằm tìm hiểu sâu về địa tầng di chỉ nơi đây. Những di vật của con người còn để lại ở khu di chỉ này chủ yếu nằm sâu ở lớp 1-3m thể hiện sự tiến bộ của con người ở giai đoạn này. Bên cạnh những hòn kê, hòn đập, bàn nghiền, những công cụ chủ yếu dùng để gia công những sản phẩm sẵn có của thiên nhiên, những sản phẩm con người tạo ra và thu lượm về như giai đoạn trước, lúc này còn phổ biến sử dụng những công cụ ghè đẽo, loại công cụ này được chế tạo từ các viên cuội hình dáng phổ biến nhất là loại mũi nhọn. Do sử dụng nhiều nên các vết ghè trên công cụ đã bị mờ đi nhiều. Những chiếc rìu mài được chế tạo tinh vi kích thước có chiều hướng nhỏ dần lúc này được sử dụng khá phổ biến. Nồi đun loại bằng đất nung đã là dụng cụ thông dụng, loại phổ biến nhất là nồi đáy bằng, cổ thắt, miệng loe, hoa văn trang trí ít. Theo phân tích thì người Cái Bèo có mặt ở đây cách ngày nay khoảng 5645+- 115 năm hiệu chỉnh theo tuổi vòng cây là 6475+- 205 năm cách ngày nay. Những tàn tích thức ăn của người Cái Bèo để lại đến ngày nay không phải là ốc Melania sống trong môi trường nước ngọt mà chủ yếu là những động vật sống trong nước biển trong đó nhiều nhất là xương cá, các loại cá thường thấy là đại hồng ngư, cá úc, cá sạo... Ngoài ra còn phát hiện được nhiều xương, răng động vật rừng mà con người thu thập về làm thức ăn, xương và sừng của một số loài được dùng làm chế tạo công cụ sản xuất và đồ dùng. Nhiều xương ống đã bị đập vỡ để hút tuỷ, một số xương có vết lửa cháy, một khác có vết đẽo, chặt, nó chứng tỏ các mục đích kể trên của con người. Ngoài xương cốt động vật biển, các thành phần vật chất khác trong tầng văn hoá này cũng có nguồn gốc từ biển. Rõ ràng con người ở đây đã hoạt động và sinh sống trong một môi trường biển và đất Cát Bà đã tách khỏi lục địa trở thành một hòn đảo lớn ở vùng ven biển Đông Bắc nước ta. Tài liệu khai quật của viện khảo cổ học năm 1973 ở di chỉ Cái Bèo cho thấy rằng người Cái Bèo đã ở trên một lớp đất sét màu vàng dẻo quánh có lẫn các tảng đá vôi không lớn, đây chính là phần dưới của vỏ đất phong hoá đá vôi nằm tại chỗ mà không phải là lớp cát thuộc dưới bãi biển. Bề mặt cư trú đầu tiên này nằm dưới những xương cá đầu tiên tìm thấy được ở đây,đáng chú ý hơn cả là sự có mặt phổ biến của các loài cá sạo, cá úc, loại cá chịu được sự biến đổi lớn về độ mặn trong nước và thường xuất hiện ở hồ, vịnh, cửa sông... vào thời điểm cuối xuân sang hè loại cá này thường kết đàn vào bờ để đẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy nếu mực nước biển thấp hơn hiện nay khoảng 2m thì sông Cổ chảy ra biển ở phía Nam đảo Cát Bà sẽ là nơi rất tốt cho loài cá này ra, vào kiếm mồi và sinh sản. Tất cả những điều đó cho thấy một vùng biển nông xung quanh đảo Cát Bà vào thời kì người Cái Bèo có mặt ở đây hoạt động của biển tiếp tục dâng cao vây kín cả nơi cư trú của người Cái Bèo. Điều đó cũng có thể giải thích được tình trạng hiện nay ít tìm được những di chỉ giai đoạn này. Khi mức nước biển tiếp tục rút đi vào khoảng 5000 –4000 năm cách ngày nay, một lớp người mới, lớp người thuộc giai đoạn cuối cùng của giai đoạn tiền sử mà ngày nay gọi là người Hạ Long đã mở rộng phạm vi cư trú của mình ra vùng ven biển rồi ra các hải đảo ở Đông Bắc nước ta, đến nay đã phát hiện gần 20 điểm cư trú của người Hạ Long nhưng các điểm cư trú này phân bố từ Móng Cái đến Cát Bà có thể bao gồm một phần đất của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Di vật của người Hạ Long để lại đến ngày nay hết sức phong phú,nó không những thể hiện rõ nguồn gốc giữa người Hạ Long với người Cái Bèo năm xưa mà còn thể hiện được sự phát triển về nhiều mặt của con người trong điều kiện thuân lợi mới của môi trường. Các loại rìu đôn bằng đá chế tạo tinh vi, kích thước nhỏ nhiều kiểu dáng mới ra đời mang tính chất điển hình cho văn hoá Hạ Long là những chiếc rìu, choé là những tiêu bản tiền thân của rìu đồng sau này. Những chiếc bôn có vai, có nấc rất độc đáo và phổ biến. Đồ đựng bằng đất nung không những có nồi mà còn bình đất, bát, ấm, chậu thể hiện sinh hoạt vật chất khá phong phú của con người. Trên các đồ gốm ngoài các hoa văn mang tính chất kĩ thuật còn phổ biến, còn được trang trí bằng hoa văn mang tính nghệ thuật cao thể hiện sự suy tư, ước vọng của con ngưòi lúc bấy giờ. Nội dung hoạ tiết và phong cách trang trí gợi bóng dáng của phong cách trang trí trên trống đồng sau này. Cuộc sống tinh thần của con người Hạ Long không chỉ có thế, việc làm cho con người thêm đẹp, thêm duyên dáng cũng là một xu thế được coi trọng. Nhiều loại vòng tay, chiếc khuyên tai bằng đá đã được phát hiện. Trong một ngôi mộ của người Hạ Long đã phát hiện được hàng nghìn chuỗi hạt được làm bằng vỏ sò, vỏ trai, đốt sống cá, hàng chục hạt chuỗi bằng xương được chế tạo hết sức tinh tế. Những sưu tập điển hình của văn hoá Hạ Long không chỉ gói gọn trong phạm vi phân bố văn hoá này. Đến nay qua tài liệu một số nước Đông Nam á cũng đã phát hiện được các di vật này trong một nền văn hoá đương thời. Đó là các bằng cớ cho thấy mối quan hệ mật thiết giữa người Hạ Long và các cư dân khác cùng thời trong khắp cả vùng. Những dấu vết cư trú của người Hạ Long trên đảo Cát Bà được tìm thấy ở hai địa điểm: bến Thuyền xã Hiền Hào và trên làng của người Cái Bèo năm xưa. ở khu di chỉ Cái Bèo, di tích của người Hạ Long nằm ở lớp trên ở độ sâu 0,4-1m phân cách với lớp di chỉ của người Cái Bèo bởi một tầng sạn con, tầng sạn này nhọn dần về phía chân núi, chiều dày tăng dần về phía biển, có chỗ tầng sạn dày 0,7m, có 91% qua sàng 5mm và 8% qua sàng 2mm, thành phần hoàn toàn là sạn đá vôi màu xám đen, có độ mài tròn tốt và tròn dẹt. Điều đó chứng tỏ thành phần sạn này có độ chọn lọc cao về thành phần kích thước và độ mài tròn, nó có cả nguồn gốc biển và thuộc tướng bãi biển. Những di vật tìm được ở tầng văn hoá này không những mang đủ tính chất định hình của văn hoá Hạ Long mà còn có đặc điểm riêng của nó thể hiện những con người Hạ Long đến đây sinh sống đã ở giai đoạn muộn, giai đoạn phát triển cao của nền văn hoá này. Lịch sử tiếp theo của con người trên hòn đảo giữa biển khơi này gắn với truyền thống anh hùng 4000 năm lịch sử của cha ông ta từ thời Hùng Vương dựng nước và giữ nước chống lại bọn giặc xâm lăng. Bằng chứng về sức mạnh vô biên của con người trước các thế lực lớn của thiên nhiên còn được ghi lại trong nhiều truyền thuyết lịch sử cận đại và hiện đại của con người trên mảnh đất Cát Bà trong truyền thống chung của dân tộc. Truyền thuyết “bẩy ngày ba bão” đó là vào kỳ mở hội Đồ Sơn, thuyền các bà đi trảy hội từ vùng Thái Bình qua bị bão to làm đắm thuyền, xác các bà bị bão thổi trôi dạt đến các vùng là các đảo hiện nay. Một xác trôi về cảng cá nay có đền thờ Các Bà. Một xác trôi về bãi biển Hiền Hào nay có đền thờ Hiền Hào và một xác trôi về áng Ván nay có đền thờ áng Ván. Vài ngày sau trận bão thuyền các ông đi tìm kiếm cũng bị cơn bão tiếp theo vùi dập và đưa xác các ông về đảo Các Ông hiện nay, ở đó cũng dựng đền thờ Các Ông.
Một truyền thuyết khác về hòn đảo gắn liền với truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Đó là vào thời kì đầu dựng nước bọn giặc phương Bắc kéo quân xâm lược nước ta. Cư dân trên hòn đảo đã đứng lên theo bước anh hùng chống giặc. Tục truyền rằng ngày ấy đàn ông phải ra trấn giữ ở hòn đảo nhỏ ở phía trước còn đàn bà ở lại đảo chính làm nhiệm vụ tiếp tế lương thực vì thế hòn đảo lớn được gọi là đảo Các Bà còn hòn đảo nhỏ phía trước được mang tên là đảo Các Ông. Trong các thời kì lịch sử tiếp theo của dân tộc ta đảo Cát Bà vẫn nằm trên địa phận hành chính của nước nhà và là nơi dân cư trù phú sinh sống bằng nghề khai thác cá dưới biển và kiếm mật ong trên rừng.
Do có đặc điểm địa hình núi rừng hiểm trở, tài nguyên phong phú, từ xa xưa các nhà quân sự đã rút ra một kết luận:
“Thắng vi đế vi vương
Bại Cát Bà vi cứ”
Đảo Cát Bà đã là căn cứ của bao cuộc khởi nghĩa. Năm 1750 thủ lĩnh nông dân Nguyễn Hữu Cầu (tức Quận He) dấy quân chống lại chế độ phong kiến nhà Trịnh đã lấy đảo Cát Bà làm căn cứ. Khi triều đình nhà Nguyễn bán rẻ đất nước cho Pháp, người dân trên đảo đã phẫn uất không kém gì nỗi phẫn uất của nhân dân cả nước. Năm 1893 khi quân Pháp đổ bộ lên đảo Cát Bà, ngư dân trên đảo đã tổ chức chiến đấu đánh trả quyết liệt. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa của Hoàng Thống Tề. Hoàng Thống Tề người trai làng Trân Châu đã dựng cờ khởi nghĩa chống lại hành động bán nước của nhà Nguyễn (vào năm 1873- 1874). Từ đất Cát Bà, nghĩa quân đi tới đâu bọn quan lại phong kiến bị đánh tan tới đó, càng đánh càng mạnh. Khi cuộc khởi nghĩa lan rộng tới Quảng Yên- Hải Dương tràn xuống Thái Bình, triều đình nhà Nguyễn đã phải tập trung lực lượng đối phó. Trên đường biển, em gái Hoàng Thống Tề là bà Hoàng Lan Vù cũng đã huy động một đạo quân tiến dọc theo bờ biển về hợp với đạo quân của Hoàng Thống Tề tại Thái Bình. Đứng trước sức mạnh của quân đội triều đình, cuộc khởi nghĩa của hai anh em Hoàng Thống Tề và Hoàng Lan Vù đã bị dập tắt. Cuộc khởi nghĩa này đã khẳng định lòng yêu nước, tinh thần dũng cảm của người dân trên đảo nói chung và của phụ nữ Cát Bà nói riêng.
Vào những năm 1889- 1893 phong trào chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân Bắc Kỳ dấy lên mạnh mẽ. Thực dân Pháp và triều đình phong kiến thẳng tay đàn áp phong trào. Tiền Đức, một thủ lĩnh nghĩa quân miền duyên hải đã lui quân về đảo Cát Bà xây dựng củng cố lực lượng, vùng núi non hiểm trở Cát Bà trở thành một trong những căn cứ chính của nghĩa quân. Tiền Đức đã dựa vào địa hình vùng Trung Trang, Mái Gợ, Trà Báu xây dựng đồn tiền, đồn trung, đồn hậu. Cả căn cứ được bố phòng như một trận địa cố thủ kiên cố với bẫy đá hầm chông. Dân trên đảo tích cực tham gia phong trào của nghĩa quân. Tiền Đức đã lựa chọn một số dân địa phương trong đội quân của mình để giao nhiệm vụ quan trọng. Hiện nay vẫn còn một số hang mang tên hang Tiền Đức ở xã Việt Hải, phía đông đảo Cát Bà.
Thực hiện âm mưu chiếm lâu dài đất nước ta, chiếm giữ khu cửa ngõ cảng Hải Phòng, trấn áp các phong trào cách mạng của nhân dân ta. Từ năm 1933 thực dân Pháp đã đem lực lượng và vũ khí đến xây dựng pháo đài ở Cát Bà. Năm 1945 phát xít Nhật chiếm Cát Bà làm căn cứ để xâm lược nước ta. Truyền thống anh hùng chống giặc giữ nước đã được các thế hệ tiếp sau giữ vững và phát huy để bảo vệ quê hương đất nước. Chiến khu di tích Hà Sen nổi tiếng đặt trong vùng núi hiểm trở, núi cao, rừng rậm với nhiều hang động bí hiểm đã là nơi chôn thây của biết bao kẻ thù và cũng là nơi cất giấu cán bộ của ta. Đây là rừng giao tiếp giữa hai địa phận cán bộ đi công tác từ khu căn cứ Hà Sen về Hải Phòng qua Cát Hải sang Hà Nam. Nhiều lần địch rượt đuổi cán bộ của ta song khi đã lọt được vào khu rừng cấm Ninh Tiếp này là thoát khỏi sự rượt đuổi của địch. Mặc cho thuỷ triều lên xuống, địch bao vây, xả súng bắn, cán bộ của ta vẫn được an toàn. Căn cứ kháng chiến của nhân dân Cát Bà ngày càng vững mạnh và vững chắc. Các đầu mối giao thông liên lạc từ khu căn cứ Hà Sen đi các nơi được khai thông. Lo sợ sự lớn mạnh của quân dân đảo Cát Bà về quân sự cũng như về tổ chức kháng chiến, địch chuẩn bị một lực lượng cấp tiểu đoàn được trang bị vũ khí mạnh nhằm tấn công tiêu diệt khu căn cứ du kích Hà Sen.Địch huy động nhiều binh chủng vào trận đánh, tàu thuỷ bắn pháo vào làng dọn đường, máy bay ném bom, quân bộ tấn công, chúng còn lấy thêm người Việt phục vụ. Xã Trân Châu là điểm quân địch tập trung hướng tấn công lớn nhất. Nhân dân trong xã đã thực hiện chiến dịch ‘vườn không nhà trống”, thành lập các tổ canh gác theo dõi diễn biến vận động của địch, truyền tin bằng liên lạc để cho cán bộ và nhân dân đối phó. Sau khi đã bắn pháo vào dọn đường, địch sợ quân dân đánh úp dò dẫm tiến quân vào làng. Chúng không gặp một sự chống trả nào, không gặp một người dân nào, bực tức địch đã quay sang thiêu rụi tất cả, chúng đốt nhà dân,đốt đình làng Trân Châu, đốt chùa , lửa cháy bốc cao suốt ngày đêm hòng khủng bố tinh thần nhân dân. Đứng nhìn ngọn lửa mà kẻ thù xâm lược đốt cháy những công trình văn hoá thiêng liêng được xây dựng từ bao đời, đốt cháy thành quả lao động người dân xã Trân Châu không những không khiếp sợ mà ngược lại càng căm thù quân xâm lược và bè lũ tay sai và càng ra sức ủng hộ kháng chiến, những hạt gạo, hạt ngô, củ khoai, củ sắn còn sót lại được chia sẻ nuôi sống nhân dân cán bộ trong những lúc khó khăn. Người làng Trân Châu không thể không nhắc tới bà Phạm Thị Thép và biết bao bà mẹ, người chị đã vận động quyên góp lương thực cho cơ quan kháng chiến. Những chiến sỹ C919 biết đến bao giờ quên bữa ngô bung tại nhà bà Lê Thị Y xã Hiền Hào. Hũ ngô giống của gia đình bà Y đã gieo vào lòng các chiến sỹ, thôi thúc ý chí chiến đấu bảo vệ nhân dân, bảo vệ đảo đến cùng. Thế hệ trẻ hải đảo Cát Bà mãi mãi tự hào về tấm gương chiến đấu dũng cảm của thiếu niên Hoàng Văn Vọng , người áng Sỏi, xã Trân Châu, đã dùng địa lôi giết được một tên Pháp thu được vũ khí về cho du kích. Chú bé Lê Tai, một thiếu niên gan dạ dũng cảm làm giao thông liên lạc cho cơ quan kháng chiến, tận tuỵ coi cơ quan như nhà của mình ngay cả những lúc cơ quan gặp khó khăn thiếu thốn lương thực, thực phẩm và đang phải chống lại sự lùng sục của quân thù. Dù bao khó khăn nhưng cách mạng vẫn đứng vững trong lòng dân, đặc biệt là nhân dân du kích Hà Sen. Các chi bộ Đảng của các xã Trân Châu, Xuân Đám, Gia Luận, Phù Long, Hiền Hào đã hợp thành sự thống nhất của khu du kích Hà Sen. Khu du kích Hà Sen cũng là niềm tự hào của người Hải Phòng và truyền thống đó viết tiếp bản anh hùng ca chống Mỹ cứu nước.
Trong thời kì chống Mỹ, Cát Bà là cửa ngõ của thành phố Cảng trung dũng quyết thắng, là căn cứ chống trả sự xâm phạm vùng trời, vùng biển của bọn hải quân và không quân đế quốc. Quân dân trên đảo đã bắn rơi 19 máy bay, bắn chìm, bắn cháy 4 tàu chiến và bắt sống tên giặc lái Mỹ đầu tiên rơi trên đất của thành phố Hải Phòng.
Các làng xã trên đảo nằm sát biển tiện cho nghề nghiệp đánh bắt. Làng xã khu Cát Bà nằm ở thung lũng có thể nhìn ra biển, nơi có dòng nước ngọt quanh năm, trên bến, dưới thuyền. Do đặc điểm sống gắn bó với biển nên chèo thuyền, đua thuyền là sinh hoạt văn hoá, hội đua thuyền chính là ngày hội xuống nước của các làng chài nơi đây. Chính ở nơi đầu sóng ngọn gió, với sức sống, tinh thần lao động sáng tạo, người dân ở đây đã để lại những giá trị văn hoá độc đáo. Hòn Cẩm Thạch của làng Gia Luận đã từng là nơi tập kết cất giấu cọc gỗ lấy từ Vân Đồn để góp phần làm nên chiến thắng quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng Giang của Ngô Quyền năm 938. Tại xã Xuân Đám còn lại một phần kiến trúc bức tượng thành xếp đá được xây dựng từ thời nhà Mạc thế kỉ thứ 16.
Phát huy truyền thống chống quân xâm lược, quân và dân Cát Bà ngày đêm lao động và cảnh giác trước mọi âm mưu xâm lược của bọn phản động Bắc Kinh xứng đáng là cửa ngõ bảo vệ tiền đồ phía đông của thành phố.
2.2. Những giá trị du lịch sinh thái Cát Bà.
Thiên nhiên ưu đãi cho Cát Bà một phong cảnh hữu tình, một tài nguyên biển phong phú. Hiếm nơi nào trên đất nước ta còn giữ được cảnh sắc hài hoà như nơi đây. Một thảm rừng nhiệt đới xanh thẳm bốn mùa giữa trời đất bao la với hàng trăm hòn đảo đá kì diệu với nhiều dáng vẻ lô nhô trên mặt nước trong xanh quanh năm sóng biển vỗ về. Đó là nguồn tài nguyên du lịch hấp dẫn, một món quà tặng quý báu của thiên nhiên dành riêng cho nhân dân ta.
Cát Bà nằm về phía Tây Nam Vịnh Hạ Long và Vịnh Bái Tử Long nổi tiếng là thắng cảnh kì diệu của nước ta. Hàng nghìn hòn đảo quần tụ về đây mở rộng tầm vóc uy nghi của một vùng biển đẹp. Hải đảo Cát Bà còn là nơi lưu truyền được nhiều truyền thuyết phong phú đặc trưng cho miền biển Đông Bắc Việt Nam. Mỗi hòn đảo,mỗi vùng biển êm đềm hay sóng gió là mỗi trang, mỗi dòng đầy hấp dẫn trong kho truyền thuyết của dân tộc.
Tục truyền thời bấy giờ ở con sông Nam Triệu ở phía sông Bạch Đằng có một con thuỷ quái hình dáng kì dị, thân hình mình giống như cá lợn, đầu lại giống như cá mập và tiếng kêu lại giống như cá Rúc. Hàng năm cứ đến tiết lập đông thuỷ quái mò vào sông Phượng Hoàng (Lạch Huyện bây giờ) để bắt cư dân đi lại trên vùng. Tiếng kêu thảm thiết của cư dân vọng tới thiên đình. Ngọc Hoàng bèn sai Thiên Ngư- một trang nam có sức khoẻ vô địch và t._.20
Đơn vị: Nghìn người
Địa điểm
Hạng mục
2000
2005
2010
2020
Hải Phòng
Số lượt khách
85
170
380
750
Ngày lưu trú trung bình
3,0
3,2
3,4
4,0
Tổng số ngày khách
255
545
1.290
3.000
Cát Bà
Số lượt khách
25
60
140
280
Ngày lưu trú trung bình
1,1
1,2
1,5
2,0
Tổng số ngày khách
27,5
72
210
560
Nguồn: Sở xây dựng Hải Phòng- Viện quy hoạch
Bảng 6: Bảng dự báo khách du lịch nội địa đến Cát bà đến năm 2020
Đơn vị: nghìn người
Địa điểm
Hạng mục
2000
2005
2010
2020
Hải Phòng
Số lượt khách
720
1.400
1.900
3.200
Ngày lưu trú trung bình
0,7
0,9
1,1
1,4
Tổng số ngày khách
500
1.250
2.000
4.400
Cát Bà
Số lượt khách
95
220
380
800
Ngày lưu trú trung bình
0,8
1,0
1,2
1,5
Tổng số ngày khách
76
220
456
1.200
Nguồn: Sở xây dựng Hải Phòng- Viện quy hoạch
+ Doanh thu từ du lịch:
Doanh thu từ du lịch bao gồm tất cả các khoản thu mà do khách du lịch chi trả như: doanh thu từ lưu trú, ăn uống, vận chuyển, mua sắm hàng hoá và các dịch vụ bổ sung khác như bưu điện, ngân hàng, y tế, bảo hiểm, dịch vụ vui chơi giải trí v.v...
Bảng 7: Bảng dự báo doanh thu từ du lịch của Cát Bà đến năm 2020
Đơn vị: triệu USD
Địa điểm
Hạng mục
2000
2005
2010
2020
Hải Phòng
Doanh thu từ du lịch quốc tế
17,03
38,54
101,36
282,86
Doanh thu từ du lịch nội địa
4,71
13,75
25,14
69,14
Tổng cộng
21,74
53,29
126,50
352,00
Cát Bà
Doanh thu từ du lịch quốc tế
0,53
2,57
15,00
48,00
Doanh thu từ du lịch nội địa
0,81
3,93
9,77
34,29
Tổng cộng
1,34
6,5
24,77
82,29
Nguồn: Sở du lịch Hải Phòng
+ Dự báo khả năng đóng góp GDP du lịch cho nền kinh tế của địa phương và nhu cầu vốn đầu tư:
Bảng 8: Bảng dự báo giá trị GDP và vốn đầu tư phát triển ngành du lịch ở Cát Hải đến năm 2020
Đơn vị: tỷ đồng
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000
2005
2010
2020
1
Tổng doanh thu của du lịch
tỷ VND
18,83
91,00
346,80
1.152,00
2
Tổng giá trị GDP du lịch
tỷ VND
13,18
59,15
225,42
748,80
3
Nhịp độ tăng trưởng trung bình GDP du lịch
%/năm
61,71
35,02
30,68
12,76
4
Hệ số đầu tư ICOR chung cả nước
%/năm
3,5
4,0
4,0
4,0
5
Hệ số đầu tư ICOR cho du lịch
%/năm
3,5
3,
4,0
4,0
6
Tổng nhu cầu vốn đầu tư cho du lịch
tỷ VND
46,1
155,5
507,6
1.235,6
Nguồn: Viện nghiên cứu và phát triển Du lịch Hải Phòng
+ Nhu cầu khách sạn:
Để đón tiếp và phục vụ được số lượng khách du lịch đến Cát Bà giai đoạn 1998- 2010 và đến 2020 theo dự báo thì vấn đề dự báo và đầu tư xây dựng các cơ sở lưu trú là yêu cầu rất quan trọng, bởi nó liên quan đến vấn đề vốn đầu tư và hiệu quả kinh doanh khách sạn. Đầu tư quá nhiều sẽ gây nên tình trạng cung khách sạn vượt quá cầu, còn nếu đầu tư quá ít sẽ không đáp ứng được nhu cầu của khách, không lưu giữ được khách lưu trú dài ngày và chi tiêu nhiều trong thời gian lưu trú.
Bảng 9: Bảng dự báo nhu cầu khách sạn Cát Bà đến năm 2020
Đơn vị tính: phòng
Địa điểm
Hạng mục
2000
2005
2010
2020
Hải Phòng
Nhu cầu cho khách quốc tế
700
1.360
2.950
6.300
Nhu cầu cho khách nội địa
900
2.100
3.050
6.200
Tổng cộng
1.600
3.460
6.000
12.500
Cát Bà
Nhu cầu cho khách quốc tế
70
250
650
1.600
Nhu cầu cho khách nội địa
386
550
850
1.710
Tổng cộng
456
800
1.500
3.310
Nguồn: Sở xây dựng Hải Phòng- Viện quy hoạch.
Khách du lịch nội địa đến Cát Bà phần lớn là khách đi nghỉ theo gia đình và thanh niên đi theo nhóm, do đó số người nghỉ trong một phòng hoặc một căn hộ thường lên tới 3- 4 người. Chính vì vậy trong tương lai, khi xây dựng khách sạn cần cân nhắc việc thiết kế các căn hộ hoặc phòng có nhiều giường cho đối tượng du lịch là các gia đình, nhóm thanh niên. Từ đó số phòng nội địa được tính toán với mức số giường tương ứng trong một phòng hoặc một căn hộ sẽ là 2- 4 giường. Còn đối với phòng quốc tế trung bình một phòng có từ 1,5- đến 2,0 giường là phù hợp với xu hướng chung.
+ Nhu cầu lao động:
Nhu cầu lao động du lịch của Cát Bà phải tính đến tính đặc thù của huyện đảo và tính chất mùa vụ của hoạt động kinh doanh du lịch. Lao động trực tiếp bằng số phòng của khách sạn nhân với hệ số 1,6 và lao động gián tiếp bằng 1,8 lần số lao động trực tiếp. Trong mùa du lịch chính có thể thuê thêm các lao động thời vụ tuỳ theo tính chất công việc.
Bảng 10:Bảng dự báo nhu cầu lao động huyện đến năm 2020
Đơn vị: ngàn người
Địa điểm
Hạng mục
2000
2005
2010
2020
Hải Phòng
Lao động trực tiếp trong du lịch
3,20
6,92
12,00
25,00
Lao động gián tiếp ngoài xã hội
7,04
15,22
26,40
55,00
Tổng cộng
10,24
22,14
38,40
80,00
Cát Hải
Lao động trực tiếp trong du lịch
0,73
1,35
2,40
5,30
Lao động gián tiếp ngoài xã hội
1,31
2,58
4,32
9,53
Tổng cộng
2,04
3,93
6,72
14,83
Nguồn: Sở xây dựng Hải Phòng- Viện quy hoạch
Định hướng phát triển du lịch huyện Cát Hải.
- Định hướng phát triển tổng quát:
+ Quần đảo Cát Bà là nơi hội tụ các nguồn tài nguyên (tài nguyên tự nhiên: rừng quốc gia, núi, biển, với các tùng, áng , hang, động.... lẫn tài nguyên nhân văn: các lễ hội truyền thống, làng nghề, các di chỉ khảo cổ....) để phát triển du lịch. Trong chiến lược phát triển du lịch của cả nước thời kì 1995- 2010, khu vực Hạ Long- Cát Bà được xác định là 1 trong 5 trung tâm du lịch biển lớn được ưu tiên đầu tư phát triển. Đồng thời, trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của vùng kinh tế trọng điểm phía bắc và của thành phố Hải Phòng. Du lịch cũng được xác định là ngành kinh tế quan trọng. Phát triển nhanh ngành du lịch góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện đảo và thành phố Hải Phòng theo hướng tăng dần tỉ trọng ngành thương mại- dịch vụ. Tăng nhanh tỷ trọng GDP du lịch trong cơ cấu kinh tế của địa phương trước hết nhằm mục đích:
Tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Phát huy các nguồn nội lực phục vụ phát triển du lịch, từ đó tạo điều kiện giữ gìn và phát huy truyền thống bản sắc dân tộc; tôn tạo, bảo vệ các di tích lịch sử văn hoá; khôi phục các lễ hội, làng nghề truyền thống, giữ gìn cảnh quan, môi trường sinh thái v.v..
Tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác cùng phát triển.
- Định hướng phát triển sản phẩm:
+ Sản phẩm du lịch:
Tham quan thắng cảnh.
Tham quan nghiên cứu Vườn quốc gia, các di tích lịch sử văn hoá.
Nghỉ dưỡng tắm biển, vui chơi, giải trí.
Thể thao trên biển, trên núi, câu cá, lặn biển.
+ Các hướng khai thác chủ yếu:
Du lịch sinh thái, mạo hiểm.
Du lịch nghỉ dưỡng, giải trí.
Du lịch tham quan danh thắng đất liền và trên biển.
Du lịch thể thao biển.
Du lịch leo núi thám hiểm hang động.
+ Định hướng phát triển thị trường khách du lịch.
Khách quốc tế.
Khách du lịch quốc tế đến Cát Bà phần lớn là khách Châu Âu và Bắc Mỹ (nhiều nhất là khách Pháp, Đức, Mỹ, Anh, Italy....). Thông thường khách quốc tế đến Cát Bà theo tour du lịch Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh hoặc Hà Nôi- Quảng Ninh- Hải Phòng. Mục đích chính của họ là để tham quan Vườn quốc gia, tham quan vịnh và tắm biển.
Căn cứ vào nhu cầu, đặc điểm tâm lý xã hội của khách du lịch Châu Âu và Bắc Âu có thể phân loại thị trường khách quốc tế đến Cát Hải và các chiến lược kèm theo như sau:
. Thị trường Châu Âu: thuộc nhiều thành phần với những lứa tuổi khác nhau từ thanh niên đến trung niên và những người nghỉ hưu. Các sản phẩm du lịch bao gồm:
Du lịch sinh thái mạo hiểm.
Du lịch văn hoá, lịch sử.
Du lịch nghỉ dưỡng: chiếm tỉ lệ thấp.
Du lịch mạo hiểm: nhảy dù, lặn biển...
. Thị trường khách Bắc Mỹ: luôn là thị trường có khả năng thanh toán rất cao và đòi hỏi chất lượng dịch vụ cũng rất cao, Cát Bà có thể cung cấp các sản phẩm chính:
Du lịch sinh thái.
Du lịch tham quan vịnh.
Du lich tưởng niệm (thăm lại các địa danh từng là mục tiêu đánh phá trong thời kì chiến tranh đối với các cựu binh).
. Chiến lược thị trường: tăng cường quảng cáo và thông tin rộng rãi, thiết kế các tour du lịch sinh thái, du lịch thiên nhiên.
Một hướng quan trọng khác là tăng cường phối kết hợp với Quảng Ninh để tuyên truyền quảng cáo nhằm khai thác lợi thế của cả 2 địa danh, tăng độ hấp dẫn và từ đó tăng khả năng thu hút khách, phát huy tối đa tiềm năng của tuyến du lịch dải ven biển Đông Bắc theo tuyến Hạ Long- Cát Bà; Tuần Châu- Gia Luận- Cát Bà.
Thị trường khách nội địa.
Khách nội địa đến Cát Bà ngày càng đa dạng về lứa tuổi, nhiều thành phần khác nhau. Những đối tượng thị trường chính như sau:
- Khách tham quan, nghỉ dưỡng biển đến từ Hà Nội và các tỉnh phía Bắc.
- Khách nghỉ cuối tuần bao gồm dân cư địa phương Hải Phòng, Quảng Ninh và khu vực lân cận đi nghỉ dưỡng.
- Khách đi tour trọn gói nối từ Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh từ Hà Nội và các tỉnh phía Nam.
- Khách nghỉ tuần trăng mật.
- Thanh niên, học sinh địa phương, Hà Nội và vùng phụ cận.
- Dân cư ở các địa phương đi lại thăm viếng nhau.
Khách du lịch nội địa đến đây chủ yếu để nghỉ dưỡng, tham quan vịnh, khách du lịch thanh niên còn có thêm tuyến đi tham quan Vườn quốc gia và đi xuyên đảo.
Chiến lược thị trường: đưa vào khai thác thêm các bãi tắm, tổ chức các loại hình thể thao, vui chơi giải trí, thể thao nước..., thiết lập các văn phòng đại diện ở các địa phương khác như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh... liên kết với các công ty lữ hành, có chính sách ưu tiên thu hút khách đến ngoài mùa vụ cao điểm, tăng cường các biện pháp giữ gìn trật tự, an ninh và vệ sinh môi trường.
*. Định hướng phát triển không gian.
Những quan điểm cơ bản.
- Đảm bảo các nguyên tắc.
+ Nguyên tắc mềm dẻo và cơ động đáp ứng được nhịp độ tăng trưởng (dân số, kinh tế, không gian) của vùng đô thị mở cửa với sự dự phòng đột biến cao.
+ Đô thị được thiết kế theo nguyên tắc phân vùng đầu tư với các chỉ tiêu, chất lượng môi trường khác nhau, các khu này được gắn kết với nhau trong hệ thống đa trung tâm công cộng, giao thông và hạ tầng kĩ thuật thống nhất đảm bảo sự cùng tồn tại và phát triển của các khu trong môi trường đô thị đồng nhất.
+ Nguyên tắc phát triển đô thị theo các chương trình đầu tư có mục tiêu được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên có trọng điểm.
+ Nguyên tắc gắn kết hài hoà đô thị với khung cảnh thiên nhiên.
- Những quan điểm cụ thể.
+ Gắn chặt các quy hoạch phát triển không gian của huyện với quy hoạch và tổng thể toàn thành phố, đáp ứng sự nghiệp hiện đại hoá hiện đại hoá, kết hợp sự phát triển đô thị với phát triển nông nghiệp nông thôn mới.
+ Phát triển không gian gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, khai thác có hiệu quả tiềm năng về sinh thái biển và văn hoá cổ.
+ Quy hoạch phát triển không gian kinh tế xã hội phải gắn với mục tiêu bảo vệ chủ quyền vùng biển, giữ vững an ninh quốc phòng.
+ Nội dung bố cục cơ cấu các khu chức năng quán triệt theo các quan điểm toàn diện sau:
. Dưới góc độ nghiên cứu lịch sử, xã hội và văn hoá cổ.
. Dưới góc độ bảo tồn cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái.
. Dưới góc độ nghiên cứu phát triển trong xu thế đổi mới kinh tế.
. Định hướng phát triển toàn bộ không gian toàn huyện Cát Hải theo mô hình tuyến dải dọc trục đường xuyên đảo từ Ninh Tiếp- Cát Hải tới thị trấn Cát Bà. Với các chức năng là khu đô thị- khu dân cư nông thôn kết hợp với các loại hinh du lịch phù hợp trong từng vùng.
Định hướng quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020.
- Phương án 1: Dự kiến 5 vùng đô thị là:
+ Thị trấn Cát Bà.
+ Thị trấn Cát Hải.
+ Thị tứ Xuân Đám.
+ Thị tứ Phù Long.
+ Vườn quốc gia Cát Bà.
Quy mô dân số hiện có là: 17.222 người. Dự kiến tới 2020 là 29.550 người.
Quy mô đất đai hiện có là : 274,26 ha. Dự kiến tới 2020 là 540 ha.
Dự kiến 5 điểm dân cư nông thôn đặc thù:
+ Cụm dân cư kinh tế biển bao gồm các xã: xã Đồng Bài, xã Văn Phong, xã Nghĩa Lộ, xã Trân Châu, xã Hiền Hào, xã Gia Luận, xã Việt Hải.
+ Quy mô dân số hiện có là: 9.379 người. Dự kiến tới 2020 là 7.950 người.
+ Quy mô đất đai hiện có là 185,74 ha. Dự kiến tơi 2020 là 214 ha.
- Phương án 2: Dự kiến 4 vùng đô thị là:
+ Thị xã Cát Bà bao gồm: thị trấn Cát Bà, xã Trân Châu, xã Xuân Đám.
+ Thị trấn Cát Hải.
+ Thị tứ Phù Long.
+ Vườn quốc gia Cát Bà.
+ Quy mô dân số hiện có là 18.377 người. Dự kiến tới năm 2020 là 30.900 người.
+ Quy mô đất đai hiện có là 337,95 ha. Dự kiến tới 2020 là 604 ha.
Dự kiến 4 điểm nông thôn đặc thù.
+ Cụm dân cư kinh tế biển bao gồm các xã: xã Đồng Bài, xã Hoàng Châu, xã Nghĩa Lộ, xã Văn Phong.
+ Xã Hiền Hào.
+ Xã Gia Luận.
+ Xã Việt Hải.
+ Quy mô dân số hiện có là 8.224 người. Dự kiến tới năm 2020 là 6.600 người.
+ Quy mô đất đai hiện có là 122,05 ha. Dự kiến tới năm 2020 là 150 ha.
Bảng 11: Bảng dự kiến quy hoạch phân bố dân cư và đất xây dựng theo phương án 1
STT
Các khu dân cư
Dân số (người)
Đất xây dựng (ha)
2000
2010
2020
2000
2010
2020
Vùng đô thị
17.222
21.733
29.550
274,26
399,04
540
1
Thị xã Cát Bà
7.454
9.800
14.400
122,31
162
245
2
Thị trấn Cát Hải
6.963
9.040
11.850
63,99
149
201
3
Thị tứ Xuân Đám
756
800
1.100
36,92
37
39
4
Thị tứ Phù Long
1.822
1.843
1.900
47,04
47,04
50
5
Vườn quốc gia Cát Bà
227
250
300
4
4
5
Vùng ven đô thị
9.397
9.667
7.950
185,74
212
214
6
Cụm dân cư kinh tế biển
7150
7.050
5.230
91,13
116
116
Xã Đồng Bài
1.082
1.050
1.000
13,37
17
17
Xã Văn Phong
2.206
2.200
1.700
24,26
36
36
Xã Hoàng Châu
1.520
1.500
1.300
17,31
25
25
Xã Nghĩa Lộ
2.342
2.300
1.230
36,19
38
38
7
Xã Trân Châu
1.155
1.317
1.350
63,69
64
64
8
Xã Hiền Hào
316
200
420
12,85
13
13
9
Xã Gia Luận
573
700
750
12,66
13
15
10
Xã Việt Hải
185
17
200
5,41
6
6
Tổng số toàn huyện
26.601
31.400
37.500
460
611
754
Nguồn: Sở xây dựng Hải Phòng- Viện quy hoạch
Bảng 12: Bảng dự kiến quy hoạch phân bố dân cư và đất đai xây dựng theo phương án 2.
STT
Các khu dân cư
Dân số (người)
Đất xây dựng (ha).
2000
2010
2020
2000
2010
2020
Vùng đô thị
18.377
23.050
30.900
337,95
463,04
604
1
Thị trấn Cát Bà
9.365
11.917
16.850
222,2
263
348
2
Thị xã Cát Hải
6.963
9.040
11.850
63,99
149
201
3
Thị tứ Phù Long
1.822
1.843
1.900
47,04
47,04
50
4
Vườn quốc gia Cát Bà
227
250
300
4
4
5
Vùng ven đô thị
8.224
8.350
6.600
122,05
148
150
5
Cụm dân cư kinh tế biển
7150
7.050
5.230
91,13
116
116
Xã Đồng Bài
1.082
1.050
1.000
13,37
17
17
Xã Văn Phong
2.206
2.200
1.705
24,26
36
36
Xã Hoàng Châu
1.520
1.500
1.300
17,31
25
25
Xã Nghĩa Lộ
2.342
2.300
1.230
36,19
38
38
6
Xã Hiền Hào
316
200
420
12,85
13
13
7
Xã Gia Luận
573
700
750
12,66
13
15
8
Xã Việt Hải
185
217
200
5,41
6
6
Tổng số toàn huyện
26.601
31.400
37.500
460
611
754
Nguồn:Sở xây dựng Hải Phòng- Viện quy hoạch
3.2. Các giải pháp phát triển du lịch sinh thái Cát Bà.
Sau khi đón nhận quyết định của Unesco, Hải Phòng đã xác định nhiệm vụ hàng đầu ở Cát Bà là phải thực hiện tốt công tác bảo vệ môi trường, kết hợp hài hoà giữa khai thác tiềm năng với bảo tồn và phát triển bền vững. Thành lập ban quản lý, xây dựng quy chế hoạt động của khu dự trữ sinh quyển Cát Bà cho sát hợp, đáp ứng quy định của Unesco. Để đạt được mục tiêu đó thì cần phải có các giải pháp phát triển đúng đắn.
3.2.1. Xây dựng và quy hoạch phát triển.
Căn cứ vào yêu cầu bảo tồn của từng vùng: vùng lõi, vùng đệm và vùng chuyển tiếp, cần tập trung xây dựng, bổ sung quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế thuỷ sản, dịch vụ du lịch cho phù hợp không khí phát triển các hoạt động kinh tế, phù hợp với đặc điểm của vùng. Di chuyển các loại hình kinh tế có mâu thuẫn với yêu cầu bảo tồn, đó là việc phát triển kinh tế biển như nuôi cá lồng bè ảnh hưởng không ít tới cảnh quan và môi trường tự nhiên trên vịnh Lan Hạ. Việc khai thác vật liệu trong ngành xây dựng mà phổ biến nhất là lấy cát ở các bãi vùng đông nam Cát Bà. Việc tích luỹ cát từ các vùng rạn san hô xảy ra rất chậm, phải trải qua hàng nghìn năm với số lượng hạn chế, nếu tình trạng này còn tiếp diễn sẽ làm mất đi vẻ đẹp tự nhiên của các bãi tắm, đồng thời làm mất đi nơi đẻ của rùa biển..
Vùng đệm (gồm xã Gia Luận, thôn Hải Sơn, xã Trân Châu, xã Việt Hải, khu hành chính vườn quốc gia Cát Bà) là vùng có nhiều dân cư sinh sống nên phải chú trọng phát triển các loại hình sản xuất kinh doanh, thân thiện với môi trường theo định hướng.Mặt khác cố gắng hạn chế dân số sinh sống trong vùng này. Số dân định cư tại làng Việt Hải thôn Hải Sơn xã Trân Châu- khu vực có giá trị đa dạng sinh học cao cần được chuyển bớt dân số ra nơi tái định cư mối, chuyển đổi cơ cấu kinh tế hộ gia đình, thu hút dân cư chuyển sang hoạt động dịch vụ du lịch. Đào tạo lao động có tay nghề kĩ thuật cao về đánh bắt hải sản để phát triển nghề khơi và du lịch.
Xây dựng mô hình làng vườn kinh tế sinh thái bền vững ở các xã xung quanh vùng lõi khu bảo tồn đó là phần chính của vườn quốc gia Cát Bà và một phần ở phía tây- bắc đảo Cát Bà thuộc địa phận xã Gia Luận..
Xây dựng những vùng du lịch sinh thái và du lịch văn hoá trong cộng đồng địa phương, phát huy các mô hình cộng đồng kiểu mẫu về bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi trường, nếp sống văn minh.
Cần có khu vực đón tiếp khách, khu nghỉ chân, khu vệ sinh, cổng chào và cổng vào. Vé vào cổng cần bán gián tiếp thông qua lệ phí tàu thuyền và các phương tiện vận chuyển khác.
Có kế hoạch và biện pháp tích cực cho việc xử lý nguồn nước thải, rác thải tại các điểm du lịch như vịnh Cát Bà, khu bãi tắm Cát Cò, khu Cảng Cá và các khách sạn, nhà hàng trên địa bàn, khu nuôi cá lồng...
Lập lại trật tự an toàn giao thông, công tác phục vụ khách tại các điểm du lịch.
3.2.2. Có các chính sách quy định về bảo vệ khu dự trữ sinh quyển Cát Bà.
Trên cơ sở xác định ranh giới và hướng bảo tồn, phát triển của từng vùng, tăng cường quản lý nâng cấp quần đảo theo quy định, kế hoạch. Đẩy mạnh việc phòng ngừa và xử lý các hiện tượng vi phạm về môi trường, đất đai và tài nguyên của khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Dân địa phương khai thác các loài có giá trị kinh tế, các bãi triều, do khai thác quá mức một số loài đang có nguy cơ bị diệt vong: tu hài, bào ngư... Việc khai thác bằng chất độc và thuốc nổ xảy ra thường xuyên gây huỷ diệt nhiều vùng rạn san hô và là tiền đề gây ra cảnh sa mạc hoá dưới đáy biển. Khai thác hải sản làm mỹ nghệ.Khai thác san hô làm hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng nhiều. Từ năm 1989 trở lại đây du khách đến vùng này ngày một đông thì san hô bị khai thác ngày càng nhiều. Ngoài san hô cảnh, ngư dân còn thu cả các loài trai, ốc vỏ đẹp, hình thù kì dị để bán.Cần tập trung xây dựng các trạm kiểm lâm rải rác khắp trên đảo nhằm bảo vệ các nguồn tài nguyên sẵn có, các trạm kiểm lâm cần phải hoạt động có hiệu quả và tích cực.
Có thể giao cho tư nhân đầu tư quản lý từng vùng theo sự hướng dẫn của ban quản lý khu dự trữ sinh quyển.
Vận động nông dân phát triển kinh tế rừng, kinh tế biển phải kết hợp với hoạt động du lịch sinh thái.
Thực hiện phương án giao đất giao rừng hỗ trợ cho nông dân trong hoạt động quản lý rừng, biển (50.000 đ/ha).
Mọi hoạt động của du khách trong vùng đệm phải có giấy phép hoặc visa nhập cảnh nói rõ thời gian lưu lại, nơi đến, kể cả địa điểm cắm trại, nơi nghỉ trọ (trong rừng hoặc nhà dân).
Trước khi vào vùng đệm du khách được xem băng video về các kỹ thuật thao tác cần thiết của người đi rừng, phổ biến các luật lệ,giáo dục môi trường, kiểm soát các dụng cụ, chất liệu có thể gây tổn hại đến môi trường.
Cần hạn chế những con đường hiện đại đi qua khu vực, tăng cường các con đường mòn có biển chỉ dẫn. Các công trình xây dựng phải hoà lẫn với thiên nhiên, phù hợp với khu du lịch sinh thái, không phá vỡ cảnh quan, khôngtạo ra sự tương phản, đối lập. Khuyến khích xây dựng các nhà sàn, nhà theo kiến trúc cổ, có khu vệ sinh, phòng ngủ phù hợp có thể cho du khách nghỉ trọ.
3.2.3. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ du lịch sinh thái Cát Bà.
Nhân lực của khu dự trữ sinh quyển phải đảm bảo cho các hoạt động hành chính, bảo vệ, giám sát, hỗ trợ nghiên cứu khoa học và dịch vụ du lịch.
Có kế hoạch đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ quản lý, điều hành du lịch cho các chủ cơ sở dịch vụ du lịch.
Mở các lớp hướng dẫn viên chuyên nghiệp tại địa phương để đáp ứng nhu cầu cảu du khách so với thực tiễn tránh tình trạng hiện nay đó là chất lượng phục vụ khách tại các nhà hàng, khách sạn chưa cao. Nhân viên phục vụ do chưa qua đào tạo cơ bản nên năng lực còn yếu, còn thiếu, nhất là về giao tiếp và quản lý.Đội ngũ hướng dẫn viên chưa chuyên nghiệp, trình độ hướng dẫn viên chưa cao, chưa tận tuỵ với nghề.
Tập trung đào tạo nguồn nhân lực tại khu dự trữ , trước hết là Vườn quốc gia Cát Bà nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ về khu dự trữ sinh quyển. Ưu tiên tuyển dụng nguồn lao động địa phương để đào tạo phục vụ tại chỗ. Những lao động người địa phương làm việc trực tiếp tại khu dự trữ sẽ là cầu nối, hạt nhân để tuyên truyền giáo dục cộng đồng. Một số chuyên ngành phải đào tạo là sinh học, địa chất học, quản lý quy hoạch, quản lý môi trường, nhân viên hướng dẫn, cán bộ nghiên cứu, nhân viên phát triển cộng đồng.
Đội ngũ cán bộ quản lý, lực lượng kĩ thuật và kiểm lâm trong khu dự trữ sinh quyển đã phần nào được đào tạo có hệ thống, bài bản về công tác bảo tồn thiên nhiên. Đội ngũ cán bộ thuộc Vườn quốc gia Cát Bà cũng phải được tham gia các lớp tập huấn về môi trường và tập huấn về phương pháp vận động cộng đồng bảo vệ môi trường. Để bảo vệ tốt khu dự trữ sinh quyển trong tương lai cần thiết phải tăng cường đào tạo cho đội ngũ nhân viên trên là việc làm cần thiết. Trước hết cần phải đưa cán bộ trẻ đi đào tạo tại nước ngoài hoặc đi làm việc thực tế tại các khu dự trữ sinh quyển trên thế giới sau đó trở về làm việc. Phối hợp với địa phương mở các lớp dài hạn về môi trường sinh thái ngay trong khu dự trữ sinh quyển với lực lượng cán bộ Vườn quốc gia làm nòng cốt. Việc tổ chức các lớp đảo tạo ngắn hạn, cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện để hướng dẫn cho khách tại khu dự trữ sinh quyển cần được ưu tiên cho những người dân địa phương. Hướng dẫn viên tại khu dự trữ sinh quyển cần phải có tiêu chuẩn và phẩm chất đạo đức riêng như: yêu cầu về môi trường thiên nhiên, có sức khoẻ, am hiểu cộng đồng, dễ hoà nhập với cộng đồng, có kiến thức cơ bản về sơ cấp cứu.
3.2.4. Tăng cường liên doanh liên kết hợp tác quốc tế.
Hội các doanh nghiệp du lịch đã kiện toàn song chưa đi vào hoạt động cụ thể. Hiệp hội cần phải kết hợp với cơ quan quản lý ngành làm tốt công tác hoạt động du lịch để hạn chế các nạn cò mồi bán hàng dọc đường, chèo kéo khách. Đồng thời thúc đẩy du lịch- dịch vụ phát triển mạnh mẽ hơn.
Việc Cát Bà được công nhận là khu dự trữ sinh quyển sẽ là điều kiện thúc đẩy sự quan tâm của các cơ quan hữu quan như các tổ chức phi chính phủ, cơ quan nghiên cứu khoa học, các cơ quan an ninh, các chuyên gia tư vấn.
Để khai thác , phát huy hiệu quả thế mạnh của quần đảo Cát Bà, bên cạnh việc duy trì, nâng cao chất lượng các loại hình du lịch truyền thống. Liên doanh liên kết trong các tour du lịch, phát triển các loại hình du lịch đặc biệt là du lịch thân thiên, đón khách. Trong xu thế hội nhập ngày càng đi vào chiều sâu như hiện nay, khách du lịch nói chung và giới trẻ nói riêng không chỉ nặng về ăn uống, ngủ, nghỉ, xài sang trong những khách sạn đắt tiền mà còn muốn có dịp hoà nhập với cộng đồng, khám phá, thưởng thức nét văn hoá mang bản sắc địa phương. Do vậy bên cạnh việc xây dựng những khách sạn tiện nghi, hiện đại, có thể huy động các nguồn vốn, sự tham gia của các tổ chức quốc tế đầu tư tài chính vào đào tạo, hướng dẫn nhân dân địa phương kĩ năng giao tiếp với du khách.
3.2.5. Nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường, sinh thái của người dân.
Đây là vấn đề hết sức quan trọng và là một kế hoạch lâu dài để đạt được hai mục tiêu đề ra là bảo vệ môi trường va phát triển bền vững môi trường.
Việc giáo dục bảo tồn, phát triển, giữ gìn môi trường cần tập trung hướng tới các trường học trong phạm vi khu dự trữ sinh quyển, nhằm mục đích nâng cao nhận thức của người dân địa phương về sự đa dạng sinh học, lợi ích được thụ hưởng, trách nhiệm và nghĩa vụ, sẽ có tác động giảm thiểu sức ép của con người tại khu vực trong điểm đặc biệt.
Nâng cao trách nhiệm, tăng cường giáo dục đi đôi với biện pháp xử phạt hành chính để bảo vệ tốt khu dự trữ sinh quyển.
3.2.6. Có chiến lược Marketing.
Hiện nay công tác xúc tiến quảng bá hình ảnh Cát Bà chưa hiệu quả.Thông tin giới thiệu về du lịch Cát Bà chưa được quảng cáo, bày bán rộng rãi tại các khách sạn nhà hàng và các điểm du lịch trên đảo. Đó cũng là một phần lí do làm cho du lịch Cát Bà kém hấp dẫn. Để phát triển ngành du lịch- dịch vụ, song hành với các biện pháp khác, cần có một chiến lược Marketing thích hợp và cụ thể
- Về sản phẩm: các loại hình hoạt động có thể tổ chức tại khu dự trữ sinh quyển:
+ Tổ chức du lịch ở Vườn quốc gia Cát Bà.
+ Tổ chức nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, hoạt động thể thao tại các khu đệm của Vườn.
+ Tổ chức du lịch sinh thái như ngắm xem các khu rừng nguyên sinh, các loài quý hiếm, các cảnh sắc tại trung tâm Vườn quốc gia.
+ Tổ chức các loại hình du lịch, khoa học chuyên đề như rừng nguyên sinh, các hang động karst, các hệ sinh thái nhiệt đới tiêu biểu..
+ Du lịch thám hiểm các hang động.
+ Du lịch mạo hiểm: leo núi, lướt ván….
+ Xem các cảnh quan đặc thù: các tùng, áng.
+ Du lịch ngầm và quay phim, chụp ảnh dưới nước.
+ Tắm biển ở một số bãi cát nhỏ, đẹp, một trong những thế mạnh của Cát Bà.
+ Tổ chức các tổ dịch vụ, khoa học kĩ thuật như dịch vụ quay phim, chụp ảnh các loài chim, thú, cây, con quý hiếm, các sinh cảnh đặc sắc v.v…hoặc có thể xây dựng các bộ phim khoa học về các loài thú quý hiếm.
- Về giá cả: hiện nay đời sống cao vì thế cho nên khách du lịch cũng mạnh tay hơn trong quá trình du lịch mà bắt đầu từ việc mua sản phẩm. Tuy nhiên cần phải cân bằng giữa giá cả và chất lượng của dịch vụ. Một giá cả cao không thể đi kèm một dịch vụ tồi.
+ Cạnh đó cần chú ý đến các sản phẩm du lịch như đồ lưu niệm, các mặt hàng thủ công mỹ nghệ. Sản phẩm du lịch hiện nay còn đơn điệu, sơ sài do đớ chưa khai thác hết khả năng thanh toán của khách.
+ Chú ý đến đối tượng khách để có thể xây dựng nên khung giá cả phù hợp cho từng loại du khách: khách gia đình, khách là thanh niên, khách vãng lai…
- Về chính sách phân phối: hiện nay du lịch Cát Bà đang chỉ chú trọng đến khách là người nước ngoài. Để phát triển hơn nữa cần phân phối một cách phù hợp cho từng loại du khách.
- Quảng cáo: đẩy mạnh quảng cáo trên tất cả các phương tiện truyền thông đại chúng: TV, đài phát thanh, đài truyền hình, Internet, báo chí, tờ rơi, hội thảo hội nghị… Chú ý đến quảng cáo trên Internet vì đó cũng là xu thế chung trên thế giới.Lượng khách đặt vé qua mạng đến Cát Bà năm vừa rồi tăng lên đáng kể vì thế cần đưa thông tin lên mạng một cách chính xác, đầy đủ, cập nhật, hấp dẫn tránh tình trạng sơ sài như hiện nay.
+ Có các văn phòng du lịch đặt tại các nước trên thế giới, đặc biệt là tại các quốc gia mà du lịch Cát Bà đang chú trọng cũng là một cách rất hiệu quả.
Phần 3. Kết luận và kiến nghị.
Cát Bà đã trở thành khu dự trữ sinh quyển thứ ba ở Việt Nam. Khác Cần Giờ với ưu thế là các vùng ngập mặn cửa sông, Cát Tiên là vùng rừng trên cạn, Cát Bà là vùng có hội tụ đầy đủ cả vùng rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, các thảm rong- cỏ biển và đặc biệt hệ thống các hang động và tùng, áng. Như vậy ở khu dự trữ sinh quyển Cát Bà hội tụ đầy đủ trong nước và trên thế giới sẽ có sức thu hút lớn cho đầu tư và phát triển. Đánh giá toàn diện về sinh thái và tài nguyên và các tiềm năng phi sinh học khác cùng các điều kiện kinh tế- xã hội cho phép, dự đoán trong tương lai gần, Cát Bà sẽ trở thành một trong những khu dự trữ sinh quyển và khu du lịch vào bậc nhất của Việt Nam và của khu vực.
Với tất cả những điều kiện trên và để phát triển du lịch sinh thái Cát Bà hơn nữa, tôi xin đưa ra một số kiến nghị:
- Có kế hoạch và biện pháp tích cực cho việc xử lý nguồn nước thải, rác thải tại các điểm du lịch như Vịnh Cát Bà, khu bãi tắm Cát Cò 1, 2, 3; khu cảng cá và các khách sạn, nhà hàng trên địa bàn.
- Lập lại trật tự an toàn giao thông, công tác phục vụ khách tại các điểm du lịch.
- Có kế hoạch đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ quản lý, điều hành du lịch cho các chủ cơ sở dịch vụ du lịch. Đồng thời mở lớp hướng dẫn viên chuyên nghiệp tại địa phương để đáp ứng nhu cầu của du khách so với thực tiễn.
- Các tàu chở khách nên có sự đầu tư lớn hơn nữa bằng việc thay đổi phương tiện mới hơn để đảm bảo an toàn cho du khách.
- Có kế hoạch cung cấp nguồn nước ngọt thường xuyên đến các điểm du lịch nhất là các bãi tắm Cát Cò 1, 2, 3.
- Đề nghị thành phố có kế hoạch triển khai nâng cấp nguồn điện cho huyện đảo, nâng cấp tuyến phà Đình Vũ- Ninh Tiếp. Nhanh chóng thúc đẩy dự án xây dựng cầu nối liền đất liền với hải đảo nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch của huyện cũng như thành phố trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
1. Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà- Sở Du lịch Hải Phòng- 2002.
2. Thuyết minh tóm tắt quy hoạch chung huyện Cát Hải- Sở xây dựng Hải Phòng- Viện quy hoạch - 2000.
3. Báo Sức khoẻ- Đời sống- Ngày 24- 3- 2005.
4. Báo Hải Phòng- Tháng 3- 2005.
5. Báo An ninh Hải Phòng- Tháng 3- năm 2005
6. Báo cáo hoạt động du lịch dịch vụ huyện Cát Hải 2001
7. Báo cáo hoạt động du lịch dịch vụ huyện Cát Hải 2002.
8. Báo cáo hoạt động du lịch dịch vụ huyện Cát Hải 2003.
9. Báo cáo hoạt động du lịch dịch vụ huyện Cát Hải 2004.
10. Vườn Quốc gia Cát Bà - Trịnh Đình Thanh - Lê Văn Quỳ - NXB Hải Phòng- 1985.
11. Http: // www.haiphongcity.net
12. Http: // www.vietnamtourism.com
Mục lục
Trang
Nhận xét và đánh giá của giáo viên phản biện
về chất lượng của khóa luận
Tôi đánh giá khóa luận này đạt điểm:
Hà Nội, ngày….. tháng …. năm 2005
Bộ giáo dục và đào tạo
Trường đại học dân lập đông đô
Khoa du lịch
----o0o----
Khóa luận tốt nghiệp
Cát bà với việc phát triển du lịch sinh thái
Sinh viên : Trần Thị Mai
Mã sinh viên : 721430
Giáo viên hướng dẫn : TS. Đặng Thị Thanh Huyền
ý kiến của giáo viên hướng dẫn
ý kiến của người nhận xét
ý kiến của chủ tịch hội đồng
Hà Nội - 2005
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34143.doc