Cạnh tranh và người tiêu dùng

Cạnh tranh và người tiêu dùng Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập trong hệ thống tổ chức của Bộ Công Thương có nhiệm vụ thực thi Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh về Bảo vệ người tiêu dùng, Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp và Pháp lệnh tự vệ. Với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 01 năm 2006, Cục Quản lý cạnh tranh hoạt động nhằm mục tiêu thúc đẩy và duy trì môi trường cạnh tranh hiệu quả cho các doan

pdf33 trang | Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 468 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cạnh tranh và người tiêu dùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Lãnh đạo Cục Quản lý cạnh tranh gồm một Cục trưởng do Thủ tướng bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công Thương, và một số Phó Cục trưởng do Bộ trưởng Bộ Công Thương bổ nhiệm.  Thúc đẩy tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả  Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng trước những hành vi hạn chế cạnh tranh  Chống các hành vi phản cạnh tranh  Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng  Hỗ trợ cho ngành sản xuất trong nước phòng, chống các vụ kiện bán phá giá, trợ cấp và tự vệ của nước ngoài. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH - BỘ CÔNG THƯƠNG BỘ CÔNG THƯƠNG CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH Lãnh đạo Cục Ban Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh Ban Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh Ban Giám sát và quản lý cạnh tranh Ban Xử lý chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ Ban Hợp tác quốc tế Trung tâm Thông tin cạnh tranh Trung tâm Đào tạo điều tra viên Văn phòng Văn phòng đại diện tại TP. Hồ Chí Minh Văn phòng đại diện tại TP. Đà Nẵng Ban Bảo vệ người tiêu dùng BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG của Cục Quản lý cạnh tranh Giấy phép xuất bản số 66/GP-XBBT Cấp ngày 3/12/2008 Phát hành vào ngày 20 hàng tháng TỔNG BIÊN TẬP BẠCH VĂN MỪNG PHÓ TỔNG BIÊN TẬP VŨ BÁ PHÚ BIÊN TẬP VIÊN LÊ PHÚ CƯỜNG, NGUYỄN THÀNH HẢI, PHAN CÔNG THÀNH, NGUYỄN VĂN THÀNH, BÙI VIỆT TRƯỜNG, NGUYỄN PHƯƠNG THẢO HỘI ĐỒNG CỐ VẤN TRƯƠNG ĐÌNH TUYỂN Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại PGS. TS. LÊ DANH VĨNH Thứ trưởng Bộ Công Thương GS. TS. HOÀNG ĐỨC THÂN Đại học Kinh tế Quốc dân PGS. TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT Viện Nhà nước và Pháp luật TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH Viện Nhà nước và Pháp luật TS. HỒ TẤT THẮNG Phó Chủ tịch Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ NTD Việt Nam TS. VŨ THÀNH TỰ ANH Giảng viên, Phó giám đốc phụ trách nghiên cứu Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Cộng tác viên ở nước ngoài LÊ THÀNH VINH, Nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật ĐH Monash, Australia DANIEL VANHOUTTE, Đại học Tự do, Bỉ Tổ chức sản xuất và phát hành TRUNG TÂM THÔNG TIN CẠNH TRANH (CCID) 25 Ngô Quyền - Hà Nội ĐT: (04) 2220 5009 * Fax: (04) 2220 5303 Đại diện tại TP. Hồ Chí Minh Số 159 Kí Con, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh ĐT: (08) 3914 6297 * Fax: (08) 3914 6298 Email: cncbulletin@moit.gov.vn Chịu trách nhiệm xuất bản VŨ BÁ PHÚ Phát hành tại Công ty phát hành báo chí Trung ương Ban Biên tập Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng xin trân trọng cảm ơn và nghiêm túc tiếp thu ý kiến đóng góp của độc giả nhằm nâng cao chất lượng của Bản tin. Mọi ý kiến đóng góp, thư từ, tin, bài xin gửi về: Ban Biên tập Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng 25 Ngô Quyền - Hoàn Kiếm - Hà Nội ĐT: (04) 2220 5009 * Fax: (04) 2220 5303 * Email: cncbulletin@moit.gov.vn Thư Ban biên tập Luật Cạnh tranh VÀ NHẬN THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG “Bạn đã biết đến Luật Cạnh tranh chưa?” là 1 trong số những câu hỏi được đặt ra với các doanh nghiệp và hiệp hội trong một khảo sát về mức độ nhận thức của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh. Kết quả cho thấy: Tỷ lệ biết là 53,4%; tỷ lệ chưa biết chiếm 44,8%. Con số này theo chúng tôi là phản ánh khá chính xác mức độ nhận biết của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh trong bối cảnh hiện nay. Con số 53,4% biết về sự tồn tại của Luật Cạnh tranh “trên đời” về 1 khía cạnh nào đó cho thấy qua hơn 3 năm có hiệu lực thi hành, Luật Cạnh tranh vẫn chưa đến được với doanh nghiệp và hiệp hội. Nguyên nhân có thể do: (1) doanh nghiệp và hiệp hội không quan tâm đến việc có tồn tại hay không tồn tại một đạo luật về cạnh tranh; (2) doanh nghiệp và hiệp hội không có điều kiện tiếp cận với Luật Cạnh tranh. Phân tích kết quả phỏng vấn chi tiết hơn cho thấy: trong số những doanh nghiệp biết về Luật Cạnh tranh thì chủ yếu là do cán bộ của họ được giới thiệu trong nhà trường (chiếm đến 96,6%); kế đó là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng (7,9%); tiếp theo là hình thức tự tìm hiểu (3,6%); tiếp theo nữa là thông qua các câu lạc bộ hoặc diễn đàn doanh nghiệp (1,7%) và cuối cùng là thông qua hình thức tập huấn bởi cơ quan nhà nước (1,1%). Thực tế trên bước đầu cho phép rút ra một nhận xét rằng số doanh nghiệp biết về Luật Cạnh tranh vốn đã rất ít; trong số tỷ lệ ít ỏi đó họ chủ yếu biết qua con đường được học trong giảng đường đại học. Ở đây phải nói đến vai trò của cơ quan quản lý nhà nước trong việc tuyên truyền phổ biến pháp luật cần phải được đẩy mạnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, phải chăng doanh nghiệp chưa quan tâm khi chưa có “va chạm lợi ích” cụ thể của họ? Và “văn hoá” sử dụng công cụ Luật cạnh tranh như là 1 phương tiện bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp còn chưa được hình thành? Điều này càng được thể hiện qua những trao đổi rất “sơ khai” của doanh nghiệp và hiệp hội trong cuộc hội thảo “VAI TRÒ CỦA HIỆP HỘI TRONG VIỆC THÚC ĐẨY MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH LÀNH MẠNH” do VCAD phối hợp với JICA tổ chức tại Hà Nội ngày 03/3/2009. Đặc biệt, sự “lỗ mỗ” trong nhận thức của cộng đồng về Luật Cạnh tranh còn được thể hiện trong những bình luận thiếu chính xác về những quy định và về những hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh trong những bài viết được đăng trên các phương tiện truyền thông sau đó. Những bất cập từ thực tế trên đặt ra yêu cầu gắn kết chặt chẽ hơn nữa mối liên hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh và cộng đồng trong thời gian tới dưới nhiều hình thức. Nhờ đó, kiến thức về pháp luật cạnh tranh của cộng đồng xã hội được từng bước nâng lên để doanh nghiệp và hiệp hội một mặt tránh những vi phạm Luật do thiếu hiểu biết, mặt khác sử dụng Luật Cạnh tranh như một công cụ bảo vệ lợi ích cho doanh nghiệp mình. Ban Biên tập V C A D4 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 Trong số này BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG 5 HOẠT ĐỘNG TRONG KỲ 10 VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN 15 TRANG QUỐC TẾ 17 GÓC NGƯỜI TIÊU DÙNG 21 HỎI ĐÁP 23 24 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 28 CHÚNG TÔI LÀ AI 29 HOẠT ĐỘNG KỲ TỚI 30 TẢN MẠN HƯỚNG TỚI MẠNG LƯỚI CẠNH TRANH QUỐC GIA 22 PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀBẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG V C A D 5CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 Ngày 03 tháng 3 năm 2009, tạiHà Nội, VCAD phối hợp với Cơquan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Ủy ban thương mại lành mạnh Nhật Bản (Japan Fair Trade Commision) đã tổ chức hội thảo với chủ đề “Vai trò của doanh nghiệp và hiệp hội trong việc thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành mạnh”. Tham dự Hội thảo có Ông Vũ Bá Phú, đại diện Lãnh đạo VCAD, Ông Yasuhiro Toyo Đại diện của tổ chức JICA tại Việt Nam, Ông Katsumi Taka- hashi đại điện Ủy ban thương mại lành mạnh Nhật Bản và đông đảo đại diện đến từ các hiệp hội ngành nghề, doanh nghiệp và các cán bộ của VCAD. Tại hội thảo, các đại biểu đã được nghe đại diện của các Ban Điều tra các vụ việc hạn chế cạnh tranh, Ban Điều tra và xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, VCAD trình bày giới thiệu tổng quan về Luật Cạnh tranh của Việt Nam, các văn bản hướng dẫn, các quy định liên quan đến hiệp hội và những hành vi của hiệp hội có thể dẫn đến vị phạm Luật Cạnh tranh cũng như vai trò của hiệp hội trong việc góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Ông Katsumi Takahashi, chuyên gia của Cục điều tra, Ủy ban thương mại lành mạnh Nhật Bản đã có bài phát biểu chia sẻ kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc tăng cường mối quan hệ giữa cơ quan cạnh tranh và các hiệp hội, các doanh nghiệp và những khuyến nghị đối với Việt Nam. Các đại biểu đã tham dự vào phiên thảo luận sôi nổi về các chủ đề được nêu ra tại hội thảo, đặc biệt là những vấn đề còn vướng mắc và trở ngại trong quá trình thực thi Luật Cạnh tranh nhìn từ cả góc độ các cơ quan quản lý nhà nước và các hiệp hội, doanh nghiệp. Đại diện của Hiệp hội Doanh nghiệp điện tử, Hiệp hội gốm sứ, Hiệp hội Dược,đã chia sẽ những khó khăn trong quá trình hoạt động của hiệp hội mình trong bối cảnh Việt Nam vừa mới gia nhập WTO, một mặt các hiệp hội đã không còn được hỗ trợ từ Chính phủ, mặt khác, phải đối mặt với thách thức từ các công ty bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam cũng như giá các nguyên liệu trên thị trường thế giới biến động bất thường. Qua những bài phát biểu, tham luận và thảo luận tại hội thảo; các hiệp hội nói chung và doanh nghiệp nói riêng đã có được nhận thức rõ ràng hơn đối với các hoạt động của hiệp hội, tránh tình trạng vi phạm luật mà không biết mình đã vi phạm, đặc biệt là các hành vi thỏa thuận ấn định giá, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, Trong thời gian tới, các đại biểu tham dự hội thảo sẽ là những hạt nhân phổ biến những kiến thức, kinh nghiệm của mình từ hội thảo tới cộng đồng doanh nghiệp thuộc hiệp hội mình, góp phấn tạo ra môi trường cạnh tranh hiệu quả hơn tại Việt Nam. CCID Hội thảo “VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP VÀ HIỆP HỘI TRONG VIỆC THÚC ĐẨY MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH LÀNH MẠNH” HOẠT ĐỘNG TRONG KỲ V C A D6 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 HOẠT ĐỘNG TRONG KỲ Trong khuôn khổ Dự án hợp tácgiữa VCAD và Cơ quan hợp tácQuốc tế Nhật Bản (JICA), Cục đã phối hợp với Ủy ban Thương mại lành mạnh Nhật Bản (JFTC) tổ chức khóa học cho các cán bộ của Cục từ ngày 04/3/2009 đến ngày 06/3/2009 tại Hà Nội. Khóa học có sự tham dự của Ông Trần Anh Sơn- Phó Cục trưởng VCAD; Ông Katsumi Takahashi - điều tra viên cao cấp của JFTC; Ông Morio Ka- makura- Trưởng phòng kế hoạch của Ban nhân sự JFTC; Ông Daisuke Ya- mamoto- Phó Ban hợp tác JFTC; Bà Kumiko Tanaka- chuyên gia tư vấn thường trú tại VCAD; cùng các cán bộ của VCAD. Khóa học đã tập trung đề cập tới các vấn đề như: - Kỹ năng điều tra vụ việc cạnh tranh: quy trình điều tra, cách thức tiến hành, thu thập thông tin, rà soát chứng cứ và cách lập báo cáo điều tra. Khóa đào tạo “Kỹ năng điều tra vụ việc cạnh tranh- Kinh nghiệm của Nhật Bản” Hoạt động tập trung kinh tế trênthế giới ngày càng gia tăng chothấy việc mua lại, sáp nhập (M&A) doanh nghiệp vẫn là cách thức đầu tư hiệu quả nhất do tiết kiệm được nguồn lực để thực hiện dự án đầu tư mới và quan trọng hơn là để thể rút ngắn thời gian thâm nhập một thị trường mới. Việt Nam không phải là một ngoại lệ của xu hướng này, số vụ M&A tăng nhanh về cả số lượng và quy mô trong thời gian gần đây. Thực trạng này phản sự cởi mở và sôi động của nền kinh tế trong quá trình hội nhập, song nó cũng tiềm ẩn những yếu tố hình thành các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh và mang đến nguy cơ giảm tính cạnh tranh của thị trường. Vì vậy, các hoạt động tập trung kinh tế cần được giám sát bởi cơ quan quản lý nhà nước và điều chỉnh bởi khuôn khổ pháp lý về cạnh tranh. Nhận thức được yêu cầu cấp bách này, từ năm 2008, VCAD với chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh (trong đó có nhiệm vụ kiểm soát quá trình tập trung kinh tế), đã bắt tay vào thực hiện điều tra, đánh giá và xây dựng báo cáo tập trung kinh tế hàng năm nhằm cung cấp cho cộng đồng và các bên liên quan một bức tranh tổng thể và toàn diện về thực trạng tập trung kinh tế tại Việt Nam và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Với sự hỗ trợ của Cơ quan cạnh tranh Thụy Sỹ (COMCO), năm 2008 là năm đầu tiên VCAD thực hiện và công bố “Báo cáo tập trung kinh tế”. Báo cáo gồm các nội dung chủ yếu sau: (1) Rà soát hệ thống pháp luật về tập trung kinh tế; (2) Cấu trúc các ngành kinh tế quốc dân; mức độ tập trung kinh tế; (3) Nhận định xu hướng tập trung kinh tế trong thời gian tới đối với một số ngành, lĩnh vực; (4) Khuyến nghị đối với Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước hữu quan và cộng đồng doanh nghiệp. Trên cơ sở những nội dung và khuyến nghị đã được đưa ra, Báo cáo là một trong những nguồn cơ sở dữ liệu đầu tiên về tập trung kinh tế của Việt Nam, cung cấp thông tin cho các các tổ chức kinh tế, gồm các tập đoàn kinh tế; doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các quỹ đầu tư; công ty tư vấn; các tổ chức quốc tế, gồm các tổ chức quốc tế tại Việt Nam, cơ quan cạnh tranh các nước cùng với khối nghiên cứu kinh tế và luật pháp để các đơn vị này có thêm thông tin về thực trạng và môi trường pháp lý điều chỉnh các hoạt động tập trung kinh tế, qua đó có thể định hướng và điều chỉnh các hoạt động có liên quan tới tập trung kinh tế cho phù hợp với pháp luật hiện hành của Việt Nam nhưng vẫn đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động tập trung kinh tế đó nói riêng và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế nói chung. Bên cạnh đó, Báo cáo cũng là cơ sở để VCAD tiếp tục triển khai công tác kiểm soát tập trung kinh tế một cách hiệu quả. Báo cáo cũng góp phần phục vụ cho công tác hoạch định chính sách cạnh tranh và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh. Độc giả quan tâm tới nội dung chi tiết của Báo cáo Tập trung kinh tế 2008 có thể liên hệ với CCID hoặc truy cập vào website của VCAD để có thêm thông tin chi tiết. CCID VCAD thực hiện và công bố “Báo cáo tập trung kinh tế năm 2008” - Kỹ năng tiến hành nghiên cứu thị trường: tập trung vào cách thức thu thập thông tin cho quá trình điều tra. - Tìm hiểu về hệ thống đào tạo của JFTC: các loại hình tập huấn, phương pháp phát triển năng lực và xây dựng kế hoạch tập huấn. Cũng trong khóa học, các học viên đã được tiếp cận với một số vụ việc điều tra cạnh tranh của Nhật Bản, trên cơ sở đó liên hệ với các quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam và các vụ việc điều tra mà VCAD đã tiến hành, qua đó đưa ra cách thức xử lý phù hợp trong từng trường hợp cụ thể. Khóa học trong thời gian 03 ngày đã cung cấp cho các học viên những kiến thức và thông tin rất hữu ích cũng như các phương pháp nghiệp vụ cần thiết trong quá trình điều tra các vụ việc cạnh tranh. Những thông tin và kiến thức có được sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả công tác điều tra do VCAD tiến hành trong thời gian tới. CCID V C A D 7CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 Từ ngày 07/02 đến 13/02/2009,một số cán bộ của VCAD đã cóchuyến khảo sát, học tập kinh nghiệm về công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ điều tra viên và làm việc với các cơ quan liên quan của Italia. Theo chương trình, đoàn đã được ông Piero Barucci, Phó Chủ tịch Ủy ban cạnh tranh Italia tiếp xã giao. Phía Italia đã giới thiệu sơ bộ về lịch sử hình thành và phát triển của cơ quan cạnh tranh Italia. Theo đó, đây là một cơ quan độc lập được thành lập theo Luật số 287 ngày 10/10/1990. Ban lãnh đạo bao gồm Chủ tịch và 4 Phó chủ tịch. Chủ tịch và các Phó Chủ tịch được do Thượng viện và Hạ viện bầu. Hiện nay cơ quan có 227 nhân viên, trụ sở ở thành phố Rome, một số trung tâm thuộc Ủy ban nằm tại các thành phố lớn như Venezia, Milan Tiếp đó, đoàn đã làm việc với Ban Tổ chức và điều phối nhân sự, đoàn công tác của VCAD đã được tham vấn với các Lãnh đạo và đại diện phụ trách các nội dung công việc khác nhau của Ban. Thông qua các bài thuyết trình và thảo luận, Ban Tổ chức và điều phối nhân sự đã cung cấp thông tin và lý giải cho đoàn công tác về các vấn đề: (1) So sánh, phân tích lịch sử tổ chức của Ủy ban cạnh tranh Italia qua các giai đoạn phát triển từ năm 1990 – 2008. Theo đó, khi mới thành lập, cơ quan cạnh tranh Italia chỉ là một Vụ (Vụ thương mại lành mạnh) thuộc Bộ Công nghiệp vào năm 1990 đến nay đã phát triển trở thành một cơ quan độc lập trực thuộc Quốc hội với 227 nhân viên; (2) Giải thích phương pháp tổ chức các phòng ban thuộc cơ quan cạnh tranh Italia để nâng cao hiệu quả công tác chuyên môn. Theo đó, cơ quan cạnh tranh Italia không chia các Ban theo nhóm hành vi (thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh, giám sát cạnh tranh) như mô hình của VCAD Việt Nam mà chia theo các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, cụ thể là: Ban ngân hàng và tài chính, ban năng lượng, ban truyền thông và mạng lưới, ban công nghiệp, ban viễn thông, ban giao thông, ban xây dựng Các ban thuộc cơ quan cạnh tranh Italia đều phụ trách thực thi cả ba nhóm hành vi vi phạm bao gồm: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh và giám sát sáp nhập, mua lại; (3) Phía Ban Tổ chức và điều phối nhân sự còn cung cấp thông tin cho đoàn công tác về phương pháp huy động, phân bổ nguồn nhân lực, kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức của Cơ quan cạnh tranh Italia. Trong Chương trình, đoàn cũng đã tìm hiểu về Trung tâm đào tạo điều tra viên của Ủy ban cạnh tranh Italia. Trung tâm này được thành lập từ năm 2000 với chức năng đào tạo mới và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ điều tra viên cạnh tranh trên cả nước. Trung tâm cũng mở các khóa đào tạo về cạnh tranh cho các đối tượng khác quan tâm đến lĩnh vực này như khóa đào tạo hàng năm cho thẩm phán phụ trách giải quyết khiếu nại phúc thẩm vụ việc cạnh tranh, khóa đào tạo cho các luật sư tham gia tố tụng cạnh tranh, khóa đào tạo cho các giảng viên môn luật cạnh tranh tại các trường đại học lớn tại Italia. Ngoài ra, Trung tâm đào tạo điều tra viên còn tham gia các chương trình trao đổi chuyên gia với cơ quan cạnh tranh các nước trong khuôn khổ Mạng lưới các cơ quan cạnh tranh EU. Thông qua chương trình làm việc này, đoàn công tác của VCAD đã tìm hiểu được nhiều nội dung liên quan đến các lĩnh vực cần đào tạo, kỹ năng đào tạo, phương pháp tổ chức các lớp tập huấn và thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, nhóm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và đào tạo về quy trình phân tích hồ sơ sáp nhập. Trong phiên trao đổi, học tập kinh nghiệp với Ban Pháp chế, các chuyên gia của Ban Pháp chế đã cùng trao đổi với đoàn công tác về các nhóm điều khoản quy định trong Luật Cạnh tranh, cụ thể như sau: (1) Quy định về xác định thị trường liên quan trong Luật Cạnh tranh: Có nên hoàn toàn dựa vào tính toán về xác định thị trường liên quan và thị phần trong phân tích hành vi vi phạm hay không; (2) Quy định về chương trình khoan dung: Vai trò của chương trình khoan dung trong việc giải quyết các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, đặc biệt là các vụ việc thông đồng trong đấu thầu. Giới thiệu và phân tích chương trình khoan dung mẫu của Italia; (3) Quy định về ngưỡng thông báo và thủ tục tập trung kinh tế; (4) Mức phạt đối với hành vi vi phạm và việc phân bổ tiền phạt thu được. Các nội dung mà Ban Pháp chế chia sẻ với đoàn công tác hoàn toàn phù hợp những nhóm vấn đề mà VCAD đang nghiên cứu phương án xử lý. Trong phiên làm việc với Ban phụ trách cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, đoàn đại biểu của VCAD đã được nghe giới thiệu tóm tắt các tiếp cận 02 vụ việc lớn mà Ban đã giải quyết thành công từ đó đưa ra các khuyến nghị đối với Cơ quan cạnh tranh của Việt Nam. Thông qua ví dụ về các vụ việc cạnh tranh này, đoàn công tác đã có những khái niệm về các công việc cần thiết khi tiến hành điều tra những vụ sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng, lĩnh vực hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế quốc dân của bất cứ nền kinh tế nào. Trong thời gian làm việc tại Italia, đoàn công tác đã đến làm việc với Văn phòng khu vực của Ủy ban cạnh tranh. Mục tiêu của buổi làm việc nhằm giúp đoàn có thêm thông tin và kiến thức về việc xây dựng và vận hành các văn phòng khu vực đặt tại các địa phương, cách thức tổ chức văn phòng khu vực và vai trò của văn phòng khu vực khi tiến hành điều tra vụ việc cạnh tranh. Trước khi kết thúc chương trình công tác, đoàn đã có buổi làm việc với Ban Hợp tác quốc tế nhằm tổng kết lại các nội dung đã làm việc và bàn về phương hướng hợp tác trong tương lai giữa VCAD và Ủy ban cạnh tranh Italia. Theo đó, Cơ quan cạnh tranh Italia bày tỏ thiện chí sẵn sàng hợp tác với VCAD trong việc đào tạo đội ngũ điều tra viên cạnh tranh. Phía Cơ quan cạnh tranh Italia đồng ý sẽ gửi thư cho Chương trình hợp tác của Italia để tìm kiếm và xây dựng phương án thực hiện hoạt động hợp tác. Các chuyên gia của VCAD tham gia khảo sát và học tập kinh nghiệm thực thi luật cạnh tranh tại Ủy ban cạnh tranh Italia (Xem tiếp trang 20) V C A D8 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 HOẠT ĐỘNG TRONG KỲ VCAD-COMCO họp thường niên lần thứ I trong khung khổ Dự án “Nâng cao năng lực cho các cơ quan cạnh tranh Việt Nam” của Chính phủ Thụy Sĩ Trong khuôn khổ Dự án “Nâng cao năng lực cho các cơ quancạnh tranh Việt Nam” do Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ nhằmgiúp tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả tại Việt Nam, Cuộc họp thường niên lần thứ I của Dự án, và các hoạt động song hành bao gồm: buổi toạ đàm: “Các nhân tố thành công trong thực thi luật cạnh tranh” và Khoá đào tạo: “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và thông đồng trong đấu thầu” đã được tổ chức tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Tham dự Cuộc họp thường niên ngày 23/02/2009 có các bên tham gia Dự án là đại diện của Uỷ ban Cạnh tranh Thuỵ Sỹ, đại diện của VCAD, đại diện của Tổ chức quốc tế CUTS và các cơ quan nhà nước, cơ quan báo chí tỉnh Lâm Đồng. Tại Cuộc họp này, các bên tham gia Dự án đã có những báo cáo vắn tắt các hoạt động đã thực thi, kết quả đã đạt được và hiệu quả của các hoạt động này đối với môi trường cạnh tranh Việt Nam trong năm 2008. Đồng thời, đánh giá những khó khăn, vướng mắc và những biện pháp khắc phục trong thời gian tới nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của Dự án này. Cũng nhân dịp này, với mục đích giúp nâng cao nhận thức và năng lực cho các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước khu vực miền Trung về luật và chính sách cạnh tranh, vào ngày 24/02/2009, Dự án đã phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Lâm Đồng tổ chức Hội thảo: “Luật Cạnh tranh Việt Nam và kinh nghiệm thực thi pháp luật cạnh tranh của Thụy Sỹ” Hội thảo đã nhận được sự tham gia đông đảo đại diện của các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước và các cơ quan báo chí tỉnh Lâm Đồng. Các đại biểu tham dự thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến các thông tin do hội thảo cung cấp liên quan tới việc tạo dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Tiếp theo Hội thảo trên, ngày 24 - 25/02/2009, VCAD đã tổ chức Khoá đào tạo: “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và thông đồng trong đấu thầu” dành cho các cán bộ Sở Công Thương cũng như các Thẩm phán - Tòa án nhân dân các Tỉnh miền Trung. Chương trình của Khoá đào tạo được xây dựng dựng rất chi tiết với mục tiêu nâng cao tối đa kỹ năng chuyên môn cho các cán bộ trong công tác điều tra các vụ việc hạn chế cạnh tranh và thông đồng trong đấu thầu. Các học viên có cơ hội thực hành, trao đổi thông qua một số bài tập giả định do chuyên gia đưa ra trong mối liên hệ với thực tiễn trong công tác điều tra tại Thụy Sỹ. Hội thảo và Khoá đào tạo đã nhận được nhiều đánh giá tích cực từ phía các học viên và cán bộ tham dự. Trong thời gian tới, Dự án sẽ tiếp tục triển khai các hoạt động nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và năng lực chuyên môn cho các cán bộ Việt Nam với mục tiêu hướng tới xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh và hiệu quả cho các doanh nghiệp Việt Nam. HỒNG NHUNG Từ ngày 20-22/02/2009, đoàn công táccủa VCAD đã tham gia Cuộc họpthường niên của Nhóm công tác về luật và chính sách cạnh tranh APEC (CPLG) do ban Thư ký APEC tổ chức tại Singapore. Tại cuộc họp, đại diện cơ quan cạnh tranh Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Brunei, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam, Hoa Kỳ đã báo cáo cập nhật tình hình thực thi và phát triển luật và chính sách cạnh tranh của nước mình đồng thời nghe đại diện các Cơ quan cạnh tranh thành viên APEC trình bày kết quả các hoạt động của Nhóm CPLG trong năm 2008 và xây dựng kế hoạch hoạt động năm 2009. Chương trình hành động Osaka (OAA) năm 1995 đã khẳng định khuyến khích các nước thành viên APEC thực thi chính sách cạnh tranh và thực hiện nới lỏng chính sách trong 15 lĩnh vực cụ thể. Theo đó, kể từ năm 1995, một loạt các hội thảo về chính sách cạnh tranh đã được tổ chức nhằm nâng cao hiểu biết về chính sách cạnh tranh. “Các nguyên tắc của APEC nhằm nâng cao cải cách thể chế và cạnh tranh” (gọi tắt là nguyên tắc) được thông qua tại cuộc họp cấp Bộ trưởng APEC tổ chức tại New Zealand năm 1999 ghi nhận “Việc bảo vệ môi trường cạnh tranh”, “Thực thi luật cạnh tranh” và “Xây dựng năng lực” sẽ tạo cơ sở chiến lược và quan trọng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong khu vực APEC. Trên cơ sở đó, năm 2000, Nhóm nới lỏng chính sách và chính sách cạnh tranh (CPDG) đã được thành lập trực thuộc Uỷ ban về thương mại và đầu tư APEC (CTI). Các thành viên của CPDG chủ yếu là các cơ quan cạnh tranh hoặc liên quan đến cạnh tranh của mỗi nền kinh tế thành viên. Do có sự tái tổ chức lại APEC năm 2007, CPDG đã trở thành tiểu nhóm trực thuộc Uỷ Ban kinh tế APEC. Được sự tán thành của SOM tại cuộc họp SOM3 năm 2008, CPDG đã đổi tên thành Nhóm công tác về luật và chính sách cạnh tranh (CPLG) để thể hiện sự tập trung của nhóm vào lĩnh vực luật và chính sách cạnh tranh. VCAD tham dự cuộc họp thường niên nhóm công tác về luật và chính sách cạnh tranh APEC (Xem tiếp trang 27) V C A D 9CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 Ngày 28 tháng 02 năm 2009 tạiTP. Hồ Chí Minh, VCAD đã tổchức hội thảo “Trao đổi kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam” nhằm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức có liên quan trao đổi, học tập kinh nghiệm trong tổ chức và hoạt động bảo vệ người tiêu dùng cũng như thảo luận về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các hoạt động này. Tham dự Hội thảo có đại diện từ Ủy ban Nhân dân các tỉnh và các Sở Công Thương từ Đà Nẵng trở vào và đại diện các Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng các địa phương. Tại hội thảo, sau khi nghe đại diện VCAD giới thiệu về các quy định pháp luật liên quan đến tổ chức, hoạt động của hội và kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng tại Pháp, Malaysia và Đài Loan; các đại biểu tham dự hội thảo đã sôi nổi thảo luận về các vấn để nổi cộm trong hoạt động của các hội thực hiện chức năng bảo vệ người tiêu dùng như kinh phí cho hoạt động, tổ chức hoạt động của hội tại các địa phương. Các đại biểu của các hội đã thẳng thắn nhận xét hoạt động của các hội tại các địa phương hiện nay còn gặp nhiều khó khăn do số lượng ít, hoạt động không đồng đều, các hoạt động chưa đáp ứng mong đợi của người tiêu dùng, do đó không gây được sự chú ý đối với người tiêu dùng và thu hút được sự quan tâm của các cơ quan quản lý nhà nước. Do kinh phí hạn chế, hay nói cách khác là các hội chưa huy động được nguồn lực tài chính từ chính người tiêu dùng như các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng các nước khác, nên bản thân các hội cũng không thu hút được các nguồn lực để tổ chức các hoạt động một cách độc lập. Cũng tại hội thảo, các kinh nghiệm hay về tổ chức hoạt động của các hội cũng được chia sẻ như kinh nghiệm lồng ghép hoạt động bảo vệ người tiêu dùng với hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ, kinh nghiệm thực hiện hỗ trợ hoạt động hội từ cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương như của Bình Dương và Kiên Giang được các đại biểu đánh giá cao. Các đại biểu tham dự cũng mạnh dạn kiến nghị với VCAD nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định 55, không chỉ là Thông tư hướng dẫn tổ chức và hoạt động của hội mà còn cần sửa đổi các quy định về tài chính liên quan để các hội có thể nhận được hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các hoạt động thực hiện nhiệm vụ của nhà nước giao. Bên cạnh hoạt động của các hội bảo vệ người tiêu dùng, hội thảo cũng có sự tham gia và chia sẻ kinh nghiệm tổ chức hoạt động của các mô hình hoạt động khác hiện khá hiệu quả trong lĩnh vực bảo vệ người tiêu dùng như mô hình hoạt động của Câu lạc bộ Chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng do báo Sài Gòn Giải phóng tổ chức và hoạt động của chuyên trang “Hỗ trợ thông tin bảo vệ người tiêu dùng” của báo điện tử Vietnamnet tổ chức. Kết thúc hội nghị, ông Đặng Hoàng Hải – Phó Cục trưởng VCAD đánh giá cao các ý kiến thẳng thắn của các đại biểu và tiếp thu các ý kiến xác đáng để xây dựng mô hình và tổ chức hoạt động của hội bảo vệ người tiêu dùng trong các văn bản pháp luật sắp ban hành tới đây trên cơ sở không xóa bỏ những tổ chức hiện có và sẽ có những hỗ trợ cho các tổ chức hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. P. C VCAD tổ chức hội thảo “Trao đổi kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng tại Việt Nam” Theo thông tin của Thương vụViệt Nam tại Canada, ngày27/02/2009 Cơ quan Biên mậu Canada (CBSA) đã ra thông báo chính thức tiến hành điều tra chống bán phá giá mặt hàng giày và đế giày cao su không thấm nước (waterproof rubber footwear and bottoms) có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc và Việt Nam vào thị trường Canada, bao gồm các mã HS như sau: 6401.10.11.00 6402.19.90.90 6403.19.90.90 6404.11.99.90 6401.10.19.00 6402.91.10.00 6403.40.00.10 6404.19.90.20 6401.10.20.00 6402.91.90.91 6403.91.00.91 6404.19.90.91 6401.92.11.00 6402.91.90.92 6403.91.00.92 6404.19.90.92 6401.92.12.00 6402.91.90.93 6403.91.00.93 6404.19.90.93 6401.92.91.90 6401.92.92.90 6401.99.11.00 6401.99.12.00 6401.99.19.00 6401.99.20.00 Bên khởi kiện là Hiệp hội các nhà sản xuất giày Canada (Shoe Manufac- turers' Association of Canada from Baie d'Urfé, Québec). Hiện nay, CBSA chưa công bố danh sách các nhà xuất khẩu liên quan trong cuộc điều tra này. Tuy nhiên, các doanh nghiệp xuất khẩu giày Việt Nam và Hiệp hội cần lưu ý về thời gian, các hạn định và trình tự, thủ tục của vụ việc chống bán phá giá thường được quy định rất chặt chẽ và nghiêm ngặt theo lịch trình được CBSA thông báo dưới đây, trong vụ việc này, các doanh nghiệp chỉ có 37 ngày để trả lời Bản câu hỏi điều tra của CBSA. V C A D10 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN TIẾN TRÌNH VỤ VIỆC Thời gian Sự kiện 27/02/2009 Khởi xướng điều tra chống bán phá giá 27/02/2009 CBSA bắt đầu thu thập tài liệu sẵn có 13/3/2009 Tuyên bố lý do của việc tiến hành điều tra 20/3/2009 Nhà nhập... nhập thuần túy vì lợi ích phát triển của cá nhân tổ chức họ, mà hy sinh lợi ích của người tiêu dùng. Các cơ quan quản lý cạnh tranh, khi xem xét và phê chuẩn các vụ mua bán, sáp nhập, do đó, luôn hướng tới một điểm cân bằng giữa lợi ích kinh tế của doanh nghiệp (do tập trung kinh tế mang lại) và lợi ích của người tiêu dùng (do cạnh tranh mang lại). Kinh nghiệm từ nước Úc Năm 2008 là năm quan trọng đối với ngành ngân hàng Úc, trong đó xảy ra rất nhiều các hoạt động tập trung kinh tế giữa các ngân hàng lớn của quốc gia này. Vào tháng 9/2008, ngân hàng Westpac, lớn thứ 4 nước Úc được chính phủ nước này cho phép mua lại ngân hàng lớn thứ 5 tại đây – ngân hàng St George. Tháng 12/2008, ngân hàng lớn nhất toàn nước Úc (Commonwealth) tiếp tục “nuốt gọn” ngân hàng lớn nhất của bang Tây Úc (BankWest). Từ rất lâu trước đó, nước Úc đã có một lịch sử lâu đời về các vụ mua bán, sáp nhập ngân hàng, đặc biệt trong lĩnh vực bán lẻ. Cho đến nay, thị trường bán lẻ của ngành ngân hàng nước Úc đã dần dần do Bốn Đại Gia (Big Four) thống trị. Chúng ta có thể kể đến một vài vụ tập trung kinh tế quan trọng khác xảy ra trước khi có các vụ mua bán nêu trên. Ví dụ, ngân hàng West- pac được thành lập năm 1982, do sự sáp nhập của hai ngân hàng New South Wales và ngân hàng Thương mại Australia. Năm 1995, Westpac mua lại ngân hàng Challenge, “nuốt chửng” ngân hàng Melbourne vào năm 1997, Tập đoàn Tài chính BT năm 2002 và ngân hàng St George năm 2008. Bản thân ngân hàng St George đã vươn tới vị trí thứ 5 nước Úc nhờ mua được ngân hàng Advance vào năm 1997. Tổ chức CHOICE, tổ chức bảo vệ người tiêu dùng hàng đầu của Úc, với hơn 200.000 thành viên, đã lên tiếng bày tỏ các quan ngại của mình về các vụ sáp nhập và mua lại này. Theo CHOICE, các vụ mua bán và sáp nhập nói trên được cho phép (trên cơ sở một số điều kiện như “giảm thiểu các quan ngại của cộng đồng về vụ sáp nhập, cũng như các ảnh hưởng của nó tới khách hàng và cộng đồng”) mà chưa có sự xem xét kỹ lưỡng từ phương diện cạnh tranh, cũng như việc chúng sẽ làm phương hại tới lợi ích của người tiêu dùng một cách đáng kể. CHOICE cho rằng, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, quyền lực thị trường tăng vọt của các ngân hàng này sẽ vượt quá mức có thể kiểm soát, đặc biệt khi vắng đi sự cạnh tranh của các đối thủ là các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Hậu quả là cạnh tranh trên các thị trường như giao dịch liên ngân hàng, tiết kiệm, đầu tư quỹ và cho vay sẽ bị hạn chế đáng kể, dẫn đến:  Hạn chế mức độ gia nhập mới vào các thị trường này;  Chất lượng dịch vụ đối với khách hàng bị suy giảm;  Nhân công ngân hàng không còn hài lòng với công việc của mình; Các loại phí ngân hàng tăng vọt, cũng như lãi suất;  Khả năng khách hàng chuyển đổi giữa các ngân hàng khác nhau giảm hẳn; Tốc độ cải tiến sản phẩm nghèo nàn; Khả năng tiếp cận của đông đảo quần chúng tới các dịch vụ ngân hàng thiết yếu giảm đi;  Giảm tính đa dạng về nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng cũng như chọn lựa trong các thị trường địa phương (phạm vi địa lý hẹp). CHOICE cũng đưa ra các dẫn chứng cho các luận điểm của mình từ thực tế thị trường; và đề nghị chính phủ Úc cho phép Ủy ban Cạnh tranh và Người Tiêu dùng Úc (ACCC) xem xét thêm về các vụ sáp nhập và mua lại trước khi cho phép các ngân hàng tham gia tiến hành thực hiện. Tình hình Việt Nam Số lượng ngân hàng tại Việt Nam hiện nay là tương đối nhiều, so với số dân khoảng 85 triệu người và tổng giá trị sản phẩm quốc dân (GDP) là 65 tỉ USD. Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tính đến cuối tháng 6/2008, tại Việt Nam có 95 ngân hàng các loại (thương mại nhà nước, Chính sách xã hội, Phát triển, liên doanh, thương mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, và 100% vốn nước ngoài) và 1021 tổ chức tín dụng-tài chính phi ngân hàng. Do đó, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang xảy ra hiện nay cũng là một thời điểm thích hợp để cho phép các hoạt động hợp nhất, sáp nhập, mua lại giữa các ngân hàng để tăng cường sức cạnh tranh, tái cơ cấu, tránh đổ vỡ liên hoàn hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên, khi xem xét các hồ sơ sáp nhập, bên cạnh các ưu tiên kinh tế, các cơ quan quản lý cạnh tranh cũng sẽ có sự xem xét thích đáng đối với các quan ngại của người tiêu dùng, đặc biệt trong các phân khúc thị trường nhỏ, chuyên biệt và các thị trường địa phương, cũng như tương quan cạnh tranh trong dài hạn, để tránh trường hợp nói trên của nước Úc. Các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng cũng như các cá nhân quan tâm, cũng có thể chủ động tiến hành các đánh giá và thu thập ý kiến của người tiêu dùng để gửi tới các cơ quan quản lý cạnh tranh về vấn đề này. P.V Đánh giá kết quả sau chuyến khảo sát, học tập kinh nghiệm, các chuyên gia của VCAD nhận thấy Cơ quan cạnh tranh Italia là một cơ quan cạnh tranh lớn trong khối EU, với địa vị pháp lý là một cơ quan độc lập không nằm trong hệ thống cơ quan chính phủ mà trực tiếp trực thuộc Quốc hội Italia và nhiều năm kinh nghiệm thực thi Luật do đó VCAD có thể tiếp thu nhiều kinh nghiệm bổ ích về các vấn đề khác nhau liên quan đến việc thực thi luật và chính sách cạnh tranh. Ngoài ra, mô hình cơ quan cạnh tranh Italia cũng có chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng giống chức năng của VCAD. Do đó, ngoài việc trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực cạnh tranh, VCAD và Ủy ban cạnh tranh Italia có thể hướng tới trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng Luật bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam. Bên cạnh các kiến thức chuyên môn, thông qua chuyến công tác, VCAD đã thiết lập được quan hệ hợp tác chính thức với Ủy ban cạnh tranh Italia, từ đó mở ra hướng hợp tác sâu rộng hơn trong thời gian tới. AN VŨ – TRUNG VŨ CÁC CHUYÊN GIA CỦA VCAD... (Tiếp theo trang 7) >> Câu 1: Hành vi nào của doanh nghiệp là hành vi tập trung kinh tế? ✓ Trả lời Luật Cạnh tranh không đưa ra định nghĩa về tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các loại hình hành vi. Cụ thể, Điều 16 Luật Cạnh tranh quy định tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: 1. Sáp nhập doanh nghiệp; 2. Hợp nhất doanh nghiệp; 3. Mua lại doanh nghiệp; 4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp; 5. Các hành vi tập trung khác theo quy định của pháp luật. >> Câu 2: Có những hình thức tập trung kinh tế nào? ✓ Trả lời Có 3 hình thức tập trung kinh tế: - Tập trung kinh tế theo chiều ngang: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh của các doanh nghiệp trong một thị trường liên quan (sản phẩm và không gian). - Tập trung kinh tế theo chiều dọc: là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại hoặc liên doanh giữa các doanh nghiệp có quan hệ người mua - người bán với nhau. - Tập trung kinh tế theo đường chéo (conglomerate): là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại, liên doanh của các doanh nghiệp không cùng hoạt động trên một thị trường sản phẩm đồng thời cũng không có mối quan hệ khách hàng với nhau. Mục tiêu của việc hợp nhất này thường là phân bổ rủi ro vào những thị trường khác nhau hoặc từ những lý do chiến lược thị trường của các doanh nghiệp này. >> Câu 3: Các hành vi tập trung kinh tế khác nhau như thế nào? ✓ Trả lời Điều 17, đưa ra định nghĩa cho từng hành vi như sau: Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập. Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại. Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới. >> Câu 4: Những hành vi nào được coi là vi phạm quy định của pháp luật về tập trung kinh tế? ✓ Trả lời Những hành vi được coi là vi phạm quy định của pháp luật về tập trung kinh tế bao gồm: - Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế; - Tập trung kinh tế trước khi có quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ quan có thẩm quyền; - Vi phạm quy định cấm tiến hành tập trung kinh tế. >> Câu 5: Doanh nghiệp vi phạm quy định về tập trung kinh tế sẽ bị xử lý như thế thế nào? Trên cơ sở xem xét các yếu tố như mức độ gây hạn chế cạnh tranh do hành vi vi phạm gây ra, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra, khả năng gây hạn chế cạnh tranh của các đối tượng vi phạm, thời gian thực hiện hành vi vi phạm, khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng (Điều 7, Nghị định số 120/2005/NĐ-CP), các doanh nghiệp vi phạm quy định về tập trung kinh tế có thể phải chịu các hình thức xử lý vi phạm sau: Phạt tiền với mức phạt tối đa 10% tổng doanh thu của các doanh nghiệp vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm. Phạt bổ sung: như thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã cấp cho doanh nghiệp hợp nhất, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với các liên doanh vi phạm pháp luật cạnh tranh. Các biện pháp khắc phục hậu quả như chia, tách doanh nghiệp đã sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua... Mức phạt, các hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối với các hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế được quy định cụ thể trong Luật cạnh tranh và Nghị định số 120/2005/NĐ-CP. >> Câu 6: Thủ tục thông báo tập trung kinh tế như nào? ✓ Trả lời - Nộp Hồ sơ thông báo việc tập trung kinh tế lên cơ quan QLCT (Điều 21) - Trong vòng 7 ngày: Yêu cầu bổ sung (nếu có) (Điều 22) - Trong vòng 45 ngày (có thể gia hạn tối đa 60 ngày): Phải trả lời bằng văn bản cho doanh nghiệp hồ sơ (Điều 23) - Chỉ được thực hiện tập trung kinh tế sau khi có văn bản trả lời của cơ quan QLCT kết luận không thuộc trường hợp bị cấm (Điều 24) CCID V C A D 21CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 HỎI ĐÁP VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ V C A D22 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG Quy trình thông báo và xin hưởng miễn trừ tập trung kinh tế theo quy định của Luật cạnh tranh Chú thích: Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan nhỏ hơn 30% Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% đến 50% Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan lớn hơn 50% Trước khi tiến hành: - Sáp nhập - Hợp nhất - Mua lại - Liên doanh Bị cấm: Không được tiến hành tập trung kinh tế Nếu không thỏa mãn (I) và (II) Nếu một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản Nếu việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ VCAD Bộ trưởng Bộ Công Thương Thủ tướng Chính phủ Trả lời Không chấp thuận Chấp thuận (II) Không phải thông báo tập trung kinh tế VCAD Nếu không thỏa mãn (I) Nộp hồ sơ thông báo Nộp hồ sơ xin miễn trừ 30% 50% Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan Không bị cấm Bị cấm: Không được tiến hành tập trung kinh tế Tiến hành tập trung kinh tế Nếu doanh nghiệp sau khi tập trung kinh tế: - Có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc - Số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người (I) V C A D 23CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 Quý IV năm 2008, VCAD đã tiếnhành khảo sát mức độ nhậnthức của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh. Cuộc khảo sát bắt đầu từ 01/11/2008 và kết thúc ngày 31/12/2008. Mục đích của khảo sát này là nhằm đánh giá mức độ nhận biết của cộng đồng bao gồm khối doanh nghiệp, các hiệp hội và cơ quan quản lý nhà nước đối với các quy định pháp luật về cạnh tranh. Hoạt động khảo sát do VCAD quản lý phối hợp với Công ty TNHH tư vấn và phát triển kinh doanh IDV thực hiện tại một số địa phương ở cả 3 miền Bắc, Trung và Nam: Miền Bắc bao gồm Lạng Sơn và Hà Nội; miền Trung bao gồm Đà Nẵng và Đắk Lắk; và miền Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh và Tây Ninh. Phương pháp tiến hành là phỏng vấn sâu (50 cuộc) và gửi phiếu điều tra (1000 phiếu điều tra). Trong quá trình khảo sát, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thu thập những số liệu và tài liệu liên quan đến việc nhận thức của cộng đồng về Luật Cạnh tranh, việc thực hiện Luật Cạnh tranh tại địa phương. Đồng thời với việc thu thập tài liệu thứ cấp, nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi (questionnaire-based survey) và phỏng vấn sâu (indepth in- terview) trên nhiều đối tượng thuộc nhiều nhóm. Sau hơn một tháng tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi qua thư và phỏng vấn trực tiếp, IDV Consult- ants đã thu được 1.004 bảng hỏi từ các đối tượng khảo sát. Kết quả khảo sát đã cung cấp một bức tranh tổng quát về nhận thức của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh. Mức độ đánh giá được thể hiện các cấp độ hiểu biết về pháp luật cạnh tranh, hiểu về các nhóm hành vi do Luật Cạnh tranh điều chỉnh, nắm được trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc vi phạm, hiểu biết về vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh, thấy được sự cần thiết phải phối hợp với cơ quan quản lý cạnh tranh trong quá trình thực thi Luật Cạnh tranh, tiến tới đánh giá ý nghĩa và tác động của Luật trong nền kinh tế hiện nay. Từ kết quả khảo sát cho thấy hiểu biết của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh mới dừng lại ở mức độ “biết Luật Cạnh tranh mới ra đời”. Các đối tượng được hỏi cũng thể hiện sự hiểu biết sơ bộ các khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên số doanh nghiệp có hiểu chi tiết về Luật Cạnh tranh như biết về ngưỡng thị phần bị cấm, mức phạt và thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh còn khá khiêm tốn. Khi nhận thức về Luật còn chưa cao thì nhận thức về cơ quan quản lý cạnh tranh cũng không hơn là bao, điều này đã được kết quả khảo sát bộc lộ. Một trong những lý do chính là do bản thân kết quả hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh còn chưa tạo được những con số ấn trượng, như số lượng vụ việc kết thúc điều tra xét xử chỉ có cạnh tranh không lành mạnh, chưa kết thúc điều tra xét xử các vụ việc hạn chế cạnh tranh. Những ý kiến về các bất cập và khó khăn trong quá trình thực thi Luật Cạnh tranh là cơ sở của những đề xuất và khuyến nghị để hoàn thiện về khung pháp lý và thể chế của cơ quan cạnh tranh. Các đề xuất chủ yếu tập trung vào bốn vấn đề chính: công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, quy định rõ hơn một số điều của Luật để xác định hành vi, xác định mức phạt và vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh. Các kết quả cụ thể thu được từ khảo sát cũng đưa ra gợi ý về một số hoạt động tiếp theo của VCAD nhằm nâng cao nhận thức, nâng cao hiệu quả thực thi Luật. Độc giả quan tâm tới nội dung chi tiết của Báo cáo kết quả khảo sát có thể liên hệ với CCID hoặc truy cập vào website của VCAD để có thêm thông tin chi tiết. CCID VCAD chuẩn bị công bố Báo cáo Kết quả khảo sát MỨC ĐỘ NHẬN THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỐI VỚI LUẬT CẠNH TRANH HƯỚNG TỚI MẠNG LƯỚI CẠNH TRANH QUỐC GIA V C A D24 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. Giới thiệu Định lượng cấu trúc thị trường là một trong những vấn đề quan trọng trong phân tích tác động cạnh tranh của một vụ việc tập trung kinh tế. Cấu trúc thị trường ảnh hưởng đến hành vi và kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Mức độ tập trung kinh tế được coi là thước đo chính để xác định cấu trúc thị trường. Cấu trúc của một ngành được xác định bằng: (1) số lượng doanh nghiệp trong ngành tại một thời điểm nhất định, và mức độ nhận thức về sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp đó; và (2) sự phân bố quy mô của các doanh nghiệp. Chẳng hạn, một ngành có 10 doanh nghiệp quy mô tương đương nhau sẽ được nhìn nhận rất khác với một ngành có 1 doanh nghiệp thống lĩnh và 9 doanh nghiệp nhỏ. Do đó, bất kỳ một cách thức xác định mức độ tập trung có giá trị nào cũng phải ghi nhận được tầm quan trọng của số lượng và quy mô tương đối của các doanh nghiệp trong một ngành. Mức độ tập trung càng chính xác thì bức tranh tổng thể về tình hình cạnh tranh trong ngành sẽ càng rõ nét hơn. Một ngành có tập trung kinh tế hay không được quyết định bởi nhiều yếu tố, trong đó đáng kể nhất là khả năng gia nhập và rút lui khỏi thị trường, chính sách của chính phủ và chiến lược mà các doanh nghiệp đang hoạt động theo đuổi. Bài viết này bàn về các cách thức xác định mức độ tập trung kinh tế nhìn từ góc độ kinh tế học với các nội dung chính sau: Phần 2 nói về phương pháp xác định thị trường và ngành. Phần 3 trình bày các cách thức ghi nhận mức độ tập trung kinh tế, bao gồm Tỷ lệ tập trung (CR), Chỉ số Herfindahl-Hirschman, Hệ số Gini và các cách đo khác. TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ XÁC ĐỊNH CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG BÙI NGUYỄN ANH TUẤN V C A D 25CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 Phần 4 nói về các vấn đề khi tính toán chỉ số tập trung kinh tế. Phần 5 bàn về các yếu tố làm thay đổi mức độ tập trung kinh tế trong các ngành cũng như vai trò của các yếu tố đó trong sự biến đổi của ngành. 2. Xác định ngành/thị trường Trước hết cần phải định nghĩa thế nào là ngành/thị trường. Theo lý thuyết kinh tế học vi mô, một ngành được coi là tập hợp các doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh một sản phẩm tương đồng, sử dụng cùng công nghệ và cạnh tranh về các yếu tố sản xuất trên cùng thị trường. Các cơ quan điều tiết cạnh tranh thường sử dụng khái niệm thị trường liên quan, bao gồm thị trường sản phẩm và thị trường địa lý để xác định xem các doanh nghiệp có cạnh tranh với nhau hay không. Đây là cách tiếp cận từ phía người mua, theo đó, có sự thay thế gần nhau từ phía cầu trên thị trường. Chẳng hạn, thị trường bia có thể gồm nhiều thị trường khác nhau như bia cao cấp, bia trung cấp hoặc bia bình dân, hoặc thị trường mang tính địa phương, vùng hay toàn quốc. Rất khó để có thể có một định nghĩa chính xác tuyệt đối về một thị trường. Một ngành thường được nhìn nhận như một nhóm các sản phẩm có sự thay thế gần nhau từ góc độ của nhà cung cấp. Ví dụ, tất cả các thiết bị viễn thông có thể được nhóm thành một ngành vì chúng sử dụng cùng nguyên liệu thô, công nghệ, kỹ năng lao động,Trong hầu hết các trường hợp, ngành là nhóm rộng hơn một thị trường, mặc dù đôi khi chúng có thể được hiểu theo nghĩa tương đương nhau. Từ góc độ lý thuyết, một ngành có thể được định nghĩa theo một trong các cách sau đây: a) Loại sản phẩm: Sử dụng độ co giãn chéo về cầu (Cross Elasticity of Demand) để tính sự thay đổi về số lượng cầu của một hàng hóa khi giá của hàng hóa khác thay đổi. Công thức tính là: %ΔQA CED = --------------- %ΔPB Nếu độ co giãn chéo về cầu mang dấu dương và lớn hàm ý rằng hai hàng hóa đang xét có thể thay thế gần nhau và có thể được nhóm vào một ngành. Ngược lại, giá trị đó mang dấu âm và có giá trị tuyệt đối lớn hàm ý rằng hai hàng hóa là bổ sung gần nhau, và cũng có thể coi là cùng nằm trong một ngành. b) Loại quy trình sản xuất: Quy trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ có thể sử dụng để phân loại doanh nghiệp vào một ngành nhất định. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn đến việc một ngành được xác định quá rộng. c) Loại nguyên vật liệu đầu vào: Loại nguyên vật liệu sử dụng cũng có thể là thước đo để nhóm các doanh nghiệp vào một ngành. Tuy nhiên, phương thức này cũng có những điểm không hợp lý. Trên thực tế, các cách tiếp cận trên đều đã đơn giản hóa vấn đề quá mức. Nhiều doanh nghiệp hoạt động trên nhiều ngành, đa dạng hóa với nhiều sản phẩm, kinh doanh trên nhiều thị trường khác nhau. Có một số phương pháp được đề xuất để xử lý vấn đề này. Chẳng hạn, John Kay(2) (1990) đề xuất khái niệm thị trường chiến lược, được định nghĩa là khu vực địa lý hoặc sản phẩm nhỏ nhất mà một doanh nghiệp có thể cạnh tranh thành công trong đó. Với giả định rằng thị trường tập trung vào các điều kiện từ phía cầu còn ngành tập trung vào các điều kiện từ phía cung thì thị trường chiến lược là tổng hợp của cả hai yếu tố đó. Elzinga và Hogarty(3) (1973, 1978) hướng đến kiểm nghiệm giá trị biên để xác định thị trường địa lý có phù hợp hay không. Kiểm nghiệm được tiến hành bằng cách đánh giá xem khi nào thì người tiêu dùng trong một vùng nhất định mua sản phẩm từ nhà sản xuất trong vùng (giao dịch nội vùng) hoặc từ nhà sản xuất bên ngoài vùng đó (giao dịch ngoại vùng). Nếu tỷ lệ giao dịch nội vùng trên tổng số giao dịch cao (trên 75%) thì thị trường được coi là xác định phù hợp. Còn nếu tỷ lệ đó thấp thì thị trường là xác định sai và cần phải được xác định lại (4). Mặc dù còn tồn tại những vấn đề trong xác định ngành, các nước vẫn cần phải áp dụng một hệ thống phân loại ngành nào đó. Tại Việt Nam, Bảng phân ngành kinh tế mới nhất được ban hành năm 2007 (VSIC07) được phát triển trên nền tảng và tương thích với bảng phân ngành chuẩn quốc tế phiên bản 4.0 (ISIC) ở cấp độ 3 chữ số. Bảng phân ngành này đã được áp dụng trong cuộc Tổng điều tra kinh tế lần thứ 3. 3. Các phương pháp đo mức độ tập trung kinh tế 3.1. Tỷ lệ tập trung kinh tế Tỷ lệ tập trung kinh tế (Concentra- tion Ratio) đo thị phần của N doanh nghiệp hàng đầu trong một ngành, trong đó N thường được lấy giá trị 3,4 hoặc 8. Tỷ lệ này được biểu diễn bằng công thức: N CRN = Σ xii=1 trong đó xi là thị phần của doanh nghiệp thứ i. Thị phần có thể được tính bằng doanh thu hoặc tài sản, hoặc số lượng lao động (5). Hình dưới đây là một số ngành có tỷ lệ tập trung CR3 lớn tại Việt Nam theo dữ liệu thống kê kinh tế năm 2006 (6). Hình 1: Một số ngành có tỷ lệ tập trung kinh tế cao theo CR3 tại Việt Nam Nguồn: Tổng cục Thống kê (2007) 3.2. Chỉ số Herfindahl - Hirschman (HHI) Chỉ số Hirschman - Herfindahl (HHI) được định nghĩa là tổng bình phương thị phần của tất cả các doanh nghiệp trong ngành và có giá trị từ 0 đến 10.000. HHI của ngành có giá trị gần 0 thì thị trường được coi là có rất nhiều doanh nghiệp có quy mô nhỏ và với giá trị bằng 10.000 có nghĩa là ngành chỉ có một nhà sản xuất duy nhất. Khi chỉ số này giảm thì nhìn chung có nghĩa là khả năng quyết định giá của doanh nghiệp giảm và tăng cạnh tranh; và ngược lại khi chỉ số này tăng. Công thức: N HHI = Σ xi 2 i=1 trong đó xi là thị phần của doanh nghiệp thứ i. Nhiều nước, chẳng hạn như Hoa Kỳ sử dụng chỉ số HHI để xác định xem liệu một vụ tập trung kinh tế có được cho phép hay không. Tùy từng trường hợp, nhưng nói chung, nếu sau một vụ sáp nhập, chỉ số HHI tăng quá 100 thì rất có thể vụ tập trung kinh tế đó sẽ trở thành đối tượng để rà soát kỹ. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đánh giá cấu trúc thị trường bằng chỉ số HHI như sau: HHI < 1.000: Thị trường không mang tính tập trung 1.000 ≤ HHI ≤ 1.800: Thị trường tập trung ở mức độ vừa phải HHI > 1.800: Thị trường tập trung ở mức độ cao Điểm mạnh chính của chỉ số HHI so với cách đo khác (như tỷ lệ tập trung kinh tế) là đã tính tỷ trọng lớn hơn đối với các doanh nghiệp lớn. Giả sử có 2 trường hợp trong đó 6 doanh nghiệp lớn nhất chiếm thị phần 90% về sản lượng: - Trường hợp 1: Cả 6 doanh nghiệp đều có thị phần 15%. - Trường hợp 2: Một doanh nghiệp chiếm 80%, và 5 doanh nghiệp còn lại chỉ chiếm 2% thị phần. Giả định rằng 10% sản lượng còn lại được chia đều cho 10 doanh nghiệp quy mô bằng nhau. Tỷ lệ tập trung của 6 doanh nghiệp đều là 90% đối với cả 2 trường hợp, nhưng ở trường hợp 1 cạnh tranh có thể quyết liệt hơn, còn trường hợp 2 có thể coi là gần như độc quyền. Chỉ số HHI cho thấy rõ điều này: Trường hợp 1: HHI = 6*152 + 10*12 = 1.360 Trường hợp 2: HHI = 82 + 5*22 + 10*12=6.430 Đối với vụ việc tập trung kinh tế, đây là chỉ số ban đầu để xét đến sự thay đổi về cấu trúc thị trường. 3.3. Các cách đo khác Ngoài các chỉ số thường dùng trên, một số các chỉ số khác cũng được áp dụng để đo lường mức độ tập trung kinh tế, trong đó có thể kể đến: Chỉ số Hannah-Kay, Đường cong Lorentz và Hệ số Gini, Hệ số entropy, Chỉ số Rosen- bluth, Chỉ số tập trung hỗn hợp (Com- prehensive concentration index), Chỉ số Linda. 4. Những vấn đề khi áp dụng các chỉ số tập trung kinh tế Định nghĩa chính xác về ngành thị trường: Khi tính toán chỉ số tập trung kinh tế thường phải dựa vào số liệu kinh tế là những số liệu rất nhạy cảm theo nghĩa: một thị trường được xác định phù hợp cần phải bao gồm tất cả các loại sản phẩm thay thế. Chẳng hạn, định nghĩa thị trường “đường thốt nốt” có thể là quá hẹp để tính các chỉ số tập trung vì đường làm từ mía rất có thể sẽ thay thế dễ dàng đường thốt nốt. Vấn đề là rất khó phân định rạch ròi để thu hẹp thị trường đến đâu là đủ, ngay kể cả khi sử dụng các công cụ như SSNIP. Nếu giới hạn quá chặt thì hầu như mọi doanh nghiệp có thể bị (hay được) coi là nắm giữ vị trí độc quyền. Quy mô thị trường: Điều này tác động đến mức độ quan trọng của một doanh nghiệp và thị trường. Thị trường liên quan của một doanh nghiệp có thể chỉ trong phạm vi một địa phương nhỏ. Mức độ tập trung trên toàn quốc có xu hướng V C A D26 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI V C A D 27CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG Số 3 - 2009 nhỏ hơn trên phạm vi địa phương. Chẳng hạn, thị trường xe bus có thể gồm các nhà độc quyền ở từng tỉnh, thành phố, nhưng trên quy mô toàn quốc thì mức độ tập trung có thể là rất thấp. Vấn đề loại trừ xuất khẩu và nhập khẩu: Nếu loại trừ hàng hóa nhập khẩu, mức độ tập trung sẽ đánh giá cao quá mức tầm quan trọng của các doanh nghiệp hàng đầu. Ví dụ nếu CR4 bằng 60% và hàng hóa nhập khẩu chiếm 40% thị phần thì CR “thực sự” sẽ là 36% (0.6*60%). Điều ngược lại xảy ra khi loại trừ hàng hóa xuất khẩu. Vấn đề đa dạng hóa sản phẩm: Các số liệu thống kê có thể không tính đến việc các doanh nghiệp hoạt động trên nhiều thị trường và sản xuất nhiều sản phẩm. Một doanh nghiệp được coi là nằm trong một ngành hoặc một thị trường theo sản phẩm chính. Chẳng hạn, nếu một doanh nghiệp sản xuất 60% sản phẩm trong ngành A và 40% sản phẩm trong ngành B, thì toàn bộ doanh nghiệp đó (quy mô, công suất, sản lượng, lao động,) đều được tính vào ngành A. Do đó CR có thể vượt quá hoặc dưới mức độ tập trung thực sự trong ngành. Mặc dù tất cả các chỉ số trên đều có hạn chế nhưng chúng thường tương quan cao với nhau (7). Tuy nhiên, không một chỉ số riêng rẽ nào có thể hàm chứa được 3 yếu tố quyết định của cạnh tranh: quy mô ngành, mức độ bất bình đẳng về thị phần và liên kết tiềm ẩn. Xét riêng biệt từng chỉ số tập trung kinh tế không thể cho biết một cách thích đáng mức độ cạnh tranh có trong một thị trường nhất định. Trong một ngành có thể chỉ có một số ít doanh nghiệp nhưng có thể họ không hề phụ thuộc lẫn nhau và có những định hướng chiến lược khác hẳn nhau. Cũng cần phải chú ý đến đặc tính và tình hình ngành/ thị trường và mục tiêu của giới quản lý doanh nghiệp trong ngành. Các chỉ số tập trung kinh tế không đo được các yếu tố trên. (Còn nữa) (1) Chuyên viên VCAD đang theo học Thạc sĩ kinh tế tại Đại học Tổng hợp Leeds (Vương quốc Anh). Email: tuanbna@moit.gov.vn. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của người viết và không phản ánh quan điểm của VCAD Việt Nam. (2) Kay, J.A. (1990) Identifying the strate- gic market, Business Strategy Review, 1/2, 2- 24 (3) Elzinga, K.G và Hogarty, T.F. (1973), The problem of geographic delineation in anti-merger suits, Antitrust Bulletin, 18, 45- 81 Elzinga, K.G và Hogarty, T.F. (1978), The problem of geographic delineation revis- ited: the case of coal, Antitrust Bulletin, 23, 1-18 (4) Tham khảo “Kiểm soát tập trung kinh tế: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam”, VCAD (2007) – NXB Chính trị quốc gia (5) Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định thị phần được tính bằng doanh thu trên thị trường liên quan. (6) Lưu ý rằng các ngành được tính toán theo cấp độ 2, nghĩa là ngành được xác định tương đối rộng. Nếu phân chia nhỏ hơn nữa (đến cấp độ 3 hoặc 4) và tính đến từng thị trường thì sẽ có một số ngành nhỏ có CR3 lớn hơn nhiều. (7) Về hệ số tương quan của các chỉ số CR3, CR5 và HHI trong các ngành tại Việt Nam, xem thêm Báo cáo “Tập trung kinh tế tại Việt Nam: Hiện trạng và dự báo” - 2009. VCAD THAM DỰ... (Tiếp theo trang 8) CPLG được xem như một diễn đàn cho các chuyên gia và cơ quan cạnh tranh thành viên APEC: - Trao đổi thông tin về luật và chính sách cạnh tranh; - Phát triển và nâng cao hiểu biết về luật và chính sách cạnh tranh của các nền kinh tế APEC; - Chia sẻ kinh nghiệm và chuyên môn về các hoạt động liên quan đến việc thực thi luật và chính sách cạnh tranh; - Kiểm tra khi có thể, tác động của luật và chính sách cạnh tranh đối với thương mại và các dòng đầu tư; - Xác định các lĩnh vực nâng cao năng lực và hợp tác kỹ thuật trong việc thực thi luật và chính sách cạnh tranh; - Rà soát định kỳ các Kế hoạch hành động tập thể của Nhóm; - Tiến hành hoạt động tuyên truyền và PR đến các bên có lợi ích của APEC về các thành tựu đạt được của Nhóm khi thuận tiện. Trong việc hợp tác với các diễn đàn có liên quan khác của APEC và khu vực kinh doanh, CPLG sẽ hoạt động như một diễn đàn: - Hợp tác và thảo luận khi thích hợp việc thực thi các sáng kiến hợp tác nhưng không hạn chế đối với việc cải cách cơ cấu với các diễn đàn khác có liên quan trong khuôn khổ APEC, ví dụ như Uỷ ban kinh tế và các tổ chức quốc tế có liên quan; - Báo cáo tiến độ và kết quả của từng sáng kiến hợp tác cho Uỷ ban kinh tế, và khi cần thiết có thể đưa ra các khuyến nghị kèm theo; - Mời các diễn đàn có liên quan khác trong khuôn khổ APEC như Hội đồng tư vấn kinh doanh APEC (ABAC) và các chuyên gia có liên quan tham dự với tư cách quan sát viên các hoạt động của Nhóm. Theo sự định hướng của Kế hoạch hàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcanh_tranh_va_nguoi_tieu_dung.pdf