Cạnh tranh và người
tiêu dùng
Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan do Chính phủ thành lập trong hệ thống tổ chức của Bộ Công Thương
có nhiệm vụ thực thi Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh về Bảo vệ người tiêu dùng, Pháp lệnh Chống bán phá giá,
Pháp lệnh Chống trợ cấp và Pháp lệnh tự vệ.
Với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quy định tại Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 01 năm
2006, Cục Quản lý cạnh tranh hoạt động nhằm mục tiêu thúc đẩy và duy trì môi trường cạnh tranh hiệu quả
cho các doan
33 trang |
Chia sẻ: huongnhu95 | Lượt xem: 468 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cạnh tranh và người tiêu dùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và
người tiêu dùng.
Lãnh đạo Cục Quản lý cạnh tranh gồm một Cục trưởng do Thủ tướng bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng
Bộ Công Thương, và một số Phó Cục trưởng do Bộ trưởng Bộ Công Thương bổ nhiệm.
Thúc đẩy tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả
Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng trước
những hành vi hạn chế cạnh tranh
Chống các hành vi phản cạnh tranh
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Hỗ trợ cho ngành sản xuất trong nước phòng, chống các vụ
kiện bán phá giá, trợ cấp và tự vệ của nước ngoài.
CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH - BỘ CÔNG THƯƠNG
BỘ CÔNG THƯƠNG
CỤC QUẢN LÝ CẠNH TRANH
CỤC QUẢN LÝ
CẠNH TRANH
Lãnh đạo Cục
Ban Điều tra vụ việc
hạn chế cạnh tranh
Ban Điều tra và xử lý
các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
Ban Giám sát và quản
lý cạnh tranh
Ban Xử lý chống bán
phá giá, chống trợ cấp
và tự vệ
Ban
Hợp tác quốc tế
Trung tâm Thông tin
cạnh tranh
Trung tâm Đào tạo
điều tra viên
Văn phòng
Văn phòng đại diện
tại TP. Hồ Chí Minh
Văn phòng đại diện
tại TP. Đà Nẵng
Ban Bảo vệ người
tiêu dùng
BẢN TIN
CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
của Cục Quản lý cạnh tranh
Giấy phép xuất bản số 66/GP-XBBT
Cấp ngày 3/12/2008
Phát hành vào ngày 20 hàng tháng
TỔNG BIÊN TẬP
BẠCH VĂN MỪNG
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
VŨ BÁ PHÚ
BIÊN TẬP VIÊN
LÊ PHÚ CƯỜNG, NGUYỄN THÀNH HẢI,
PHAN CÔNG THÀNH, NGUYỄN VĂN THÀNH,
BÙI VIỆT TRƯỜNG, NGUYỄN PHƯƠNG THẢO
HỘI ĐỒNG CỐ VẤN
TRƯƠNG ĐÌNH TUYỂN
Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại
PGS. TS. LÊ DANH VĨNH
Thứ trưởng Bộ Công Thương
GS. TS. HOÀNG ĐỨC THÂN
Đại học Kinh tế Quốc dân
PGS. TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT
Viện Nhà nước và Pháp luật
TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH
Viện Nhà nước và Pháp luật
TS. HỒ TẤT THẮNG
Phó Chủ tịch Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ NTD Việt Nam
TS. VŨ THÀNH TỰ ANH
Giảng viên, Phó giám đốc phụ trách nghiên cứu
Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
Cộng tác viên ở nước ngoài
LÊ THÀNH VINH, Nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật
ĐH Monash, Australia
DANIEL VANHOUTTE, Đại học Tự do, Bỉ
Tổ chức sản xuất và phát hành
TRUNG TÂM THÔNG TIN CẠNH TRANH (CCID)
25 Ngô Quyền - Hà Nội
ĐT: (04) 2220 5009 * Fax: (04) 2220 5303
Đại diện tại TP. Hồ Chí Minh
Số 159 Kí Con, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
ĐT: (08) 3914 6297 * Fax: (08) 3914 6298
Email: cncbulletin@moit.gov.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản
VŨ BÁ PHÚ
Phát hành tại
Công ty phát hành báo chí Trung ương
Ban Biên tập Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng xin trân trọng cảm ơn và nghiêm túc tiếp thu ý kiến đóng góp của độc giả nhằm nâng cao chất
lượng của Bản tin. Mọi ý kiến đóng góp, thư từ, tin, bài xin gửi về:
Ban Biên tập Bản tin Cạnh tranh và Người tiêu dùng
25 Ngô Quyền - Hoàn Kiếm - Hà Nội
ĐT: (04) 2220 5009 * Fax: (04) 2220 5303 * Email: cncbulletin@moit.gov.vn
Thư Ban biên tập
Luật Cạnh tranh
VÀ NHẬN THỨC CỦA CỘNG ĐỒNG
“Bạn đã biết đến Luật Cạnh tranh chưa?” là 1 trong số những
câu hỏi được đặt ra với các doanh nghiệp và hiệp hội trong một
khảo sát về mức độ nhận thức của cộng đồng đối với Luật Cạnh
tranh.
Kết quả cho thấy: Tỷ lệ biết là 53,4%; tỷ lệ chưa biết chiếm
44,8%. Con số này theo chúng tôi là phản ánh khá chính xác mức
độ nhận biết của cộng đồng đối với Luật Cạnh tranh trong bối
cảnh hiện nay. Con số 53,4% biết về sự tồn tại của Luật Cạnh tranh
“trên đời” về 1 khía cạnh nào đó cho thấy qua hơn 3 năm có hiệu
lực thi hành, Luật Cạnh tranh vẫn chưa đến được với doanh nghiệp
và hiệp hội. Nguyên nhân có thể do: (1) doanh nghiệp và hiệp hội
không quan tâm đến việc có tồn tại hay không tồn tại một đạo luật
về cạnh tranh; (2) doanh nghiệp và hiệp hội không có điều kiện
tiếp cận với Luật Cạnh tranh. Phân tích kết quả phỏng vấn chi tiết
hơn cho thấy: trong số những doanh nghiệp biết về Luật Cạnh
tranh thì chủ yếu là do cán bộ của họ được giới thiệu trong nhà
trường (chiếm đến 96,6%); kế đó là thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng (7,9%); tiếp theo là hình thức tự tìm hiểu
(3,6%); tiếp theo nữa là thông qua các câu lạc bộ hoặc diễn đàn
doanh nghiệp (1,7%) và cuối cùng là thông qua hình thức tập huấn
bởi cơ quan nhà nước (1,1%).
Thực tế trên bước đầu cho phép rút ra một nhận xét rằng số
doanh nghiệp biết về Luật Cạnh tranh vốn đã rất ít; trong số tỷ lệ
ít ỏi đó họ chủ yếu biết qua con đường được học trong giảng
đường đại học. Ở đây phải nói đến vai trò của cơ quan quản lý nhà
nước trong việc tuyên truyền phổ biến pháp luật cần phải được
đẩy mạnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, phải chăng doanh nghiệp
chưa quan tâm khi chưa có “va chạm lợi ích” cụ thể của họ? Và “văn
hoá” sử dụng công cụ Luật cạnh tranh như là 1 phương tiện bảo vệ
lợi ích của doanh nghiệp còn chưa được hình thành?
Điều này càng được thể hiện qua những trao đổi rất “sơ khai”
của doanh nghiệp và hiệp hội trong cuộc hội thảo “VAI TRÒ CỦA
HIỆP HỘI TRONG VIỆC THÚC ĐẨY MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH LÀNH
MẠNH” do VCAD phối hợp với JICA tổ chức tại Hà Nội ngày
03/3/2009. Đặc biệt, sự “lỗ mỗ” trong nhận thức của cộng đồng về
Luật Cạnh tranh còn được thể hiện trong những bình luận thiếu
chính xác về những quy định và về những hành vi vi phạm Luật
Cạnh tranh trong những bài viết được đăng trên các phương tiện
truyền thông sau đó.
Những bất cập từ thực tế trên đặt ra yêu cầu gắn kết chặt chẽ
hơn nữa mối liên hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về cạnh
tranh và cộng đồng trong thời gian tới dưới nhiều hình thức. Nhờ
đó, kiến thức về pháp luật cạnh tranh của cộng đồng xã hội được
từng bước nâng lên để doanh nghiệp và hiệp hội một mặt tránh
những vi phạm Luật do thiếu hiểu biết, mặt khác sử dụng Luật
Cạnh tranh như một công cụ bảo vệ lợi ích cho doanh nghiệp
mình.
Ban Biên tập
V C A D4 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
Trong số này BẢN TIN CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
5 HOẠT ĐỘNG TRONG KỲ
10 VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN
15 TRANG QUỐC TẾ
17 GÓC NGƯỜI TIÊU DÙNG
21 HỎI ĐÁP
23
24 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
28 CHÚNG TÔI LÀ AI
29 HOẠT ĐỘNG KỲ TỚI
30 TẢN MẠN
HƯỚNG TỚI MẠNG LƯỚI
CẠNH TRANH QUỐC GIA
22 PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀBẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
V C A D 5CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
Ngày 03 tháng 3 năm 2009, tạiHà Nội, VCAD phối hợp với Cơquan hợp tác quốc tế Nhật
Bản (JICA) và Ủy ban thương mại
lành mạnh Nhật Bản (Japan Fair
Trade Commision) đã tổ chức hội
thảo với chủ đề “Vai trò của doanh
nghiệp và hiệp hội trong việc thúc
đẩy môi trường cạnh tranh lành
mạnh”.
Tham dự Hội thảo có Ông Vũ Bá
Phú, đại diện Lãnh đạo VCAD, Ông
Yasuhiro Toyo Đại diện của tổ chức
JICA tại Việt Nam, Ông Katsumi Taka-
hashi đại điện Ủy ban thương mại
lành mạnh Nhật Bản và đông đảo đại
diện đến từ các hiệp hội ngành nghề,
doanh nghiệp và các cán bộ của
VCAD.
Tại hội thảo, các đại biểu đã được
nghe đại diện của các Ban Điều tra
các vụ việc hạn chế cạnh tranh, Ban
Điều tra và xử lý các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, VCAD trình
bày giới thiệu tổng quan về Luật
Cạnh tranh của Việt Nam, các văn
bản hướng dẫn, các quy định liên
quan đến hiệp hội và những hành vi
của hiệp hội có thể dẫn đến vị phạm
Luật Cạnh tranh cũng như vai trò của
hiệp hội trong việc góp phần tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh.
Ông Katsumi Takahashi, chuyên
gia của Cục điều tra, Ủy ban thương
mại lành mạnh Nhật Bản đã có bài
phát biểu chia sẻ kinh nghiệm của
Nhật Bản trong việc tăng cường mối
quan hệ giữa cơ quan cạnh tranh và
các hiệp hội, các doanh nghiệp và
những khuyến nghị đối với Việt Nam.
Các đại biểu đã tham dự vào
phiên thảo luận sôi nổi về các chủ đề
được nêu ra tại hội thảo, đặc biệt là
những vấn đề còn vướng mắc và trở
ngại trong quá trình thực thi Luật
Cạnh tranh nhìn từ cả góc độ các cơ
quan quản lý nhà nước và các hiệp
hội, doanh nghiệp.
Đại diện của Hiệp hội Doanh
nghiệp điện tử, Hiệp hội gốm sứ,
Hiệp hội Dược,đã chia sẽ những
khó khăn trong quá trình hoạt động
của hiệp hội mình trong bối cảnh
Việt Nam vừa mới gia nhập WTO, một
mặt các hiệp hội đã không còn được
hỗ trợ từ Chính phủ, mặt khác, phải
đối mặt với thách thức từ các công ty
bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam cũng
như giá các nguyên liệu trên thị
trường thế giới biến động bất
thường.
Qua những bài phát biểu, tham
luận và thảo luận tại hội thảo; các
hiệp hội nói chung và doanh nghiệp
nói riêng đã có được nhận thức rõ
ràng hơn đối với các hoạt động của
hiệp hội, tránh tình trạng vi phạm
luật mà không biết mình đã vi phạm,
đặc biệt là các hành vi thỏa thuận ấn
định giá, lạm dụng vị trí thống lĩnh,
vị trí độc quyền, Trong thời gian
tới, các đại biểu tham dự hội thảo sẽ
là những hạt nhân phổ biến những
kiến thức, kinh nghiệm của mình từ
hội thảo tới cộng đồng doanh
nghiệp thuộc hiệp hội mình, góp
phấn tạo ra môi trường cạnh tranh
hiệu quả hơn tại Việt Nam.
CCID
Hội thảo
“VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP VÀ HIỆP HỘI TRONG VIỆC
THÚC ĐẨY MÔI TRƯỜNG CẠNH TRANH LÀNH MẠNH”
HOẠT ĐỘNG TRONG KỲ
V C A D6 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
HOẠT ĐỘNG TRONG KỲ
Trong khuôn khổ Dự án hợp tácgiữa VCAD và Cơ quan hợp tácQuốc tế Nhật Bản (JICA), Cục đã
phối hợp với Ủy ban Thương mại
lành mạnh Nhật Bản (JFTC) tổ chức
khóa học cho các cán bộ của Cục từ
ngày 04/3/2009 đến ngày 06/3/2009
tại Hà Nội.
Khóa học có sự tham dự của Ông
Trần Anh Sơn- Phó Cục trưởng VCAD;
Ông Katsumi Takahashi - điều tra
viên cao cấp của JFTC; Ông Morio Ka-
makura- Trưởng phòng kế hoạch của
Ban nhân sự JFTC; Ông Daisuke Ya-
mamoto- Phó Ban hợp tác JFTC; Bà
Kumiko Tanaka- chuyên gia tư vấn
thường trú tại VCAD; cùng các cán
bộ của VCAD.
Khóa học đã tập trung đề cập tới
các vấn đề như:
- Kỹ năng điều tra vụ việc cạnh
tranh: quy trình điều tra, cách thức
tiến hành, thu thập thông tin, rà soát
chứng cứ và cách lập báo cáo điều tra.
Khóa đào tạo “Kỹ năng điều tra vụ việc
cạnh tranh- Kinh nghiệm của Nhật Bản”
Hoạt động tập trung kinh tế trênthế giới ngày càng gia tăng chothấy việc mua lại, sáp nhập
(M&A) doanh nghiệp vẫn là cách thức
đầu tư hiệu quả nhất do tiết kiệm
được nguồn lực để thực hiện dự án
đầu tư mới và quan trọng hơn là để
thể rút ngắn thời gian thâm nhập
một thị trường mới. Việt Nam không
phải là một ngoại lệ của xu hướng
này, số vụ M&A tăng nhanh về cả số
lượng và quy mô trong thời gian gần
đây. Thực trạng này phản sự cởi mở
và sôi động của nền kinh tế trong quá
trình hội nhập, song nó cũng tiềm ẩn
những yếu tố hình thành các doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh và mang
đến nguy cơ giảm tính cạnh tranh
của thị trường. Vì vậy, các hoạt động
tập trung kinh tế cần được giám sát
bởi cơ quan quản lý nhà nước và điều
chỉnh bởi khuôn khổ pháp lý về cạnh
tranh. Nhận thức được yêu cầu cấp
bách này, từ năm 2008, VCAD với
chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công
Thương thực hiện quản lý nhà nước
về cạnh tranh (trong đó có nhiệm vụ
kiểm soát quá trình tập trung kinh tế),
đã bắt tay vào thực hiện điều tra,
đánh giá và xây dựng báo cáo tập
trung kinh tế hàng năm nhằm cung
cấp cho cộng đồng và các bên liên
quan một bức tranh tổng thể và toàn
diện về thực trạng tập trung kinh tế
tại Việt Nam và công tác quản lý nhà
nước đối với hoạt động này. Với sự hỗ
trợ của Cơ quan cạnh tranh Thụy Sỹ
(COMCO), năm 2008 là năm đầu tiên
VCAD thực hiện và công bố “Báo cáo
tập trung kinh tế”. Báo cáo gồm các
nội dung chủ yếu sau:
(1) Rà soát hệ thống pháp luật về
tập trung kinh tế;
(2) Cấu trúc các ngành kinh tế
quốc dân; mức độ tập trung kinh tế;
(3) Nhận định xu hướng tập trung
kinh tế trong thời gian tới đối với một
số ngành, lĩnh vực;
(4) Khuyến nghị đối với Chính
phủ, cơ quan quản lý nhà nước hữu
quan và cộng đồng doanh nghiệp.
Trên cơ sở những nội dung và
khuyến nghị đã được đưa ra, Báo cáo
là một trong những nguồn cơ sở dữ
liệu đầu tiên về tập trung kinh tế của
Việt Nam, cung cấp thông tin cho các
các tổ chức kinh tế, gồm các tập đoàn
kinh tế; doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài; các quỹ
đầu tư; công ty tư vấn; các tổ chức
quốc tế, gồm các tổ chức quốc tế tại
Việt Nam, cơ quan cạnh tranh các
nước cùng với khối nghiên cứu kinh
tế và luật pháp để các đơn vị này có
thêm thông tin về thực trạng và môi
trường pháp lý điều chỉnh các hoạt
động tập trung kinh tế, qua đó có thể
định hướng và điều chỉnh các hoạt
động có liên quan tới tập trung kinh
tế cho phù hợp với pháp luật hiện
hành của Việt Nam nhưng vẫn đảm
bảo tính hiệu quả của hoạt động tập
trung kinh tế đó nói riêng và hiệu quả
tổng thể của nền kinh tế nói chung.
Bên cạnh đó, Báo cáo cũng là cơ sở để
VCAD tiếp tục triển khai công tác
kiểm soát tập trung kinh tế một cách
hiệu quả. Báo cáo cũng góp phần
phục vụ cho công tác hoạch định
chính sách cạnh tranh và hoàn thiện
pháp luật cạnh tranh.
Độc giả quan tâm tới nội dung chi
tiết của Báo cáo Tập trung kinh tế
2008 có thể liên hệ với CCID hoặc truy
cập vào website của VCAD để có
thêm thông tin chi tiết. CCID
VCAD thực hiện và công bố
“Báo cáo tập trung kinh tế năm 2008”
- Kỹ năng tiến hành nghiên cứu
thị trường: tập trung vào cách thức
thu thập thông tin cho quá trình
điều tra.
- Tìm hiểu về hệ thống đào tạo
của JFTC: các loại hình tập huấn,
phương pháp phát triển năng lực và
xây dựng kế hoạch tập huấn.
Cũng trong khóa học, các học
viên đã được tiếp cận với một số vụ
việc điều tra cạnh tranh của Nhật
Bản, trên cơ sở đó liên hệ với các
quy định của Luật Cạnh tranh Việt
Nam và các vụ việc điều tra mà
VCAD đã tiến hành, qua đó đưa ra
cách thức xử lý phù hợp trong từng
trường hợp cụ thể.
Khóa học trong thời gian 03
ngày đã cung cấp cho các học viên
những kiến thức và thông tin rất
hữu ích cũng như các phương pháp
nghiệp vụ cần thiết trong quá trình
điều tra các vụ việc cạnh tranh.
Những thông tin và kiến thức có
được sẽ góp phần tích cực vào việc
nâng cao hiệu quả công tác điều tra
do VCAD tiến hành trong thời gian
tới.
CCID
V C A D 7CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
Từ ngày 07/02 đến 13/02/2009,một số cán bộ của VCAD đã cóchuyến khảo sát, học tập kinh
nghiệm về công tác đào tạo, xây
dựng đội ngũ điều tra viên và làm
việc với các cơ quan liên quan của
Italia.
Theo chương trình, đoàn đã được
ông Piero Barucci, Phó Chủ tịch Ủy
ban cạnh tranh Italia tiếp xã giao. Phía
Italia đã giới thiệu sơ bộ về lịch sử
hình thành và phát triển của cơ quan
cạnh tranh Italia. Theo đó, đây là một
cơ quan độc lập được thành lập theo
Luật số 287 ngày 10/10/1990. Ban
lãnh đạo bao gồm Chủ tịch và 4 Phó
chủ tịch. Chủ tịch và các Phó Chủ tịch
được do Thượng viện và Hạ viện bầu.
Hiện nay cơ quan có 227 nhân viên,
trụ sở ở thành phố Rome, một số
trung tâm thuộc Ủy ban nằm tại các
thành phố lớn như Venezia, Milan
Tiếp đó, đoàn đã làm việc với Ban
Tổ chức và điều phối nhân sự, đoàn
công tác của VCAD đã được tham vấn
với các Lãnh đạo và đại diện phụ
trách các nội dung công việc khác
nhau của Ban. Thông qua các bài
thuyết trình và thảo luận, Ban Tổ chức
và điều phối nhân sự đã cung cấp
thông tin và lý giải cho đoàn công tác
về các vấn đề: (1) So sánh, phân tích
lịch sử tổ chức của Ủy ban cạnh tranh
Italia qua các giai đoạn phát triển từ
năm 1990 – 2008. Theo đó, khi mới
thành lập, cơ quan cạnh tranh Italia
chỉ là một Vụ (Vụ thương mại lành
mạnh) thuộc Bộ Công nghiệp vào
năm 1990 đến nay đã phát triển trở
thành một cơ quan độc lập trực thuộc
Quốc hội với 227 nhân viên; (2) Giải
thích phương pháp tổ chức các
phòng ban thuộc cơ quan cạnh tranh
Italia để nâng cao hiệu quả công tác
chuyên môn. Theo đó, cơ quan cạnh
tranh Italia không chia các Ban theo
nhóm hành vi (thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh, cạnh tranh không lành
mạnh, giám sát cạnh tranh) như mô
hình của VCAD Việt Nam mà chia
theo các ngành, lĩnh vực của nền kinh
tế, cụ thể là: Ban ngân hàng và tài
chính, ban năng lượng, ban truyền
thông và mạng lưới, ban công
nghiệp, ban viễn thông, ban giao
thông, ban xây dựng Các ban
thuộc cơ quan cạnh tranh Italia đều
phụ trách thực thi cả ba nhóm hành
vi vi phạm bao gồm: thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh và giám sát sáp nhập, mua lại; (3)
Phía Ban Tổ chức và điều phối nhân
sự còn cung cấp thông tin cho đoàn
công tác về phương pháp huy động,
phân bổ nguồn nhân lực, kế hoạch
bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ
cán bộ, công chức của Cơ quan cạnh
tranh Italia.
Trong Chương trình, đoàn cũng
đã tìm hiểu về Trung tâm đào tạo điều
tra viên của Ủy ban cạnh tranh Italia.
Trung tâm này được thành lập từ năm
2000 với chức năng đào tạo mới và
bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ
điều tra viên cạnh tranh trên cả nước.
Trung tâm cũng mở các khóa đào tạo
về cạnh tranh cho các đối tượng khác
quan tâm đến lĩnh vực này như khóa
đào tạo hàng năm cho thẩm phán
phụ trách giải quyết khiếu nại phúc
thẩm vụ việc cạnh tranh, khóa đào
tạo cho các luật sư tham gia tố tụng
cạnh tranh, khóa đào tạo cho các
giảng viên môn luật cạnh tranh tại
các trường đại học lớn tại Italia. Ngoài
ra, Trung tâm đào tạo điều tra viên
còn tham gia các chương trình trao
đổi chuyên gia với cơ quan cạnh
tranh các nước trong khuôn khổ
Mạng lưới các cơ quan cạnh tranh EU.
Thông qua chương trình làm việc này,
đoàn công tác của VCAD đã tìm hiểu
được nhiều nội dung liên quan đến
các lĩnh vực cần đào tạo, kỹ năng đào
tạo, phương pháp tổ chức các lớp tập
huấn và thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, nhóm hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường và đào tạo về
quy trình phân tích hồ sơ sáp nhập.
Trong phiên trao đổi, học tập kinh
nghiệp với Ban Pháp chế, các chuyên
gia của Ban Pháp chế đã cùng trao
đổi với đoàn công tác về các nhóm
điều khoản quy định trong Luật Cạnh
tranh, cụ thể như sau: (1) Quy định về
xác định thị trường liên quan trong
Luật Cạnh tranh: Có nên hoàn toàn
dựa vào tính toán về xác định thị
trường liên quan và thị phần trong
phân tích hành vi vi phạm hay không;
(2) Quy định về chương trình khoan
dung: Vai trò của chương trình khoan
dung trong việc giải quyết các vụ việc
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, đặc
biệt là các vụ việc thông đồng trong
đấu thầu. Giới thiệu và phân tích
chương trình khoan dung mẫu của
Italia; (3) Quy định về ngưỡng thông
báo và thủ tục tập trung kinh tế; (4)
Mức phạt đối với hành vi vi phạm và
việc phân bổ tiền phạt thu được. Các
nội dung mà Ban Pháp chế chia sẻ với
đoàn công tác hoàn toàn phù hợp
những nhóm vấn đề mà VCAD đang
nghiên cứu phương án xử lý.
Trong phiên làm việc với Ban phụ
trách cạnh tranh trong lĩnh vực ngân
hàng, tài chính, đoàn đại biểu của
VCAD đã được nghe giới thiệu tóm
tắt các tiếp cận 02 vụ việc lớn mà Ban
đã giải quyết thành công từ đó đưa ra
các khuyến nghị đối với Cơ quan
cạnh tranh của Việt Nam. Thông qua
ví dụ về các vụ việc cạnh tranh này,
đoàn công tác đã có những khái niệm
về các công việc cần thiết khi tiến
hành điều tra những vụ sáp nhập
trong lĩnh vực ngân hàng, lĩnh vực hết
sức nhạy cảm đối với nền kinh tế
quốc dân của bất cứ nền kinh tế nào.
Trong thời gian làm việc tại Italia,
đoàn công tác đã đến làm việc với
Văn phòng khu vực của Ủy ban cạnh
tranh. Mục tiêu của buổi làm việc
nhằm giúp đoàn có thêm thông tin
và kiến thức về việc xây dựng và vận
hành các văn phòng khu vực đặt tại
các địa phương, cách thức tổ chức
văn phòng khu vực và vai trò của văn
phòng khu vực khi tiến hành điều tra
vụ việc cạnh tranh.
Trước khi kết thúc chương trình
công tác, đoàn đã có buổi làm việc với
Ban Hợp tác quốc tế nhằm tổng kết
lại các nội dung đã làm việc và bàn về
phương hướng hợp tác trong tương
lai giữa VCAD và Ủy ban cạnh tranh
Italia. Theo đó, Cơ quan cạnh tranh
Italia bày tỏ thiện chí sẵn sàng hợp
tác với VCAD trong việc đào tạo đội
ngũ điều tra viên cạnh tranh. Phía Cơ
quan cạnh tranh Italia đồng ý sẽ gửi
thư cho Chương trình hợp tác của
Italia để tìm kiếm và xây dựng
phương án thực hiện hoạt động hợp
tác.
Các chuyên gia của VCAD
tham gia khảo sát và học tập kinh nghiệm
thực thi luật cạnh tranh tại Ủy ban cạnh tranh Italia
(Xem tiếp trang 20)
V C A D8 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
HOẠT ĐỘNG TRONG KỲ
VCAD-COMCO họp thường niên lần thứ I
trong khung khổ Dự án “Nâng cao
năng lực cho các cơ quan cạnh tranh
Việt Nam” của Chính phủ Thụy Sĩ
Trong khuôn khổ Dự án “Nâng cao năng lực cho các cơ quancạnh tranh Việt Nam” do Chính phủ Thụy Sỹ tài trợ nhằmgiúp tạo dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, hiệu quả
tại Việt Nam, Cuộc họp thường niên lần thứ I của Dự án, và các
hoạt động song hành bao gồm: buổi toạ đàm: “Các nhân tố
thành công trong thực thi luật cạnh tranh” và Khoá đào tạo:
“Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và thông đồng trong đấu thầu”
đã được tổ chức tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Tham dự Cuộc họp thường niên ngày 23/02/2009 có các
bên tham gia Dự án là đại diện của Uỷ ban Cạnh tranh Thuỵ Sỹ,
đại diện của VCAD, đại diện của Tổ chức quốc tế CUTS và các cơ
quan nhà nước, cơ quan báo chí tỉnh Lâm Đồng.
Tại Cuộc họp này, các bên tham gia Dự án đã có những báo
cáo vắn tắt các hoạt động đã thực thi, kết quả đã đạt được và
hiệu quả của các hoạt động này đối với môi trường cạnh tranh
Việt Nam trong năm 2008. Đồng thời, đánh giá những khó
khăn, vướng mắc và những biện pháp khắc phục trong thời
gian tới nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của Dự án này.
Cũng nhân dịp này, với mục đích giúp nâng cao nhận thức
và năng lực cho các doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước
khu vực miền Trung về luật và chính sách cạnh tranh, vào ngày
24/02/2009, Dự án đã phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Lâm
Đồng tổ chức Hội thảo: “Luật Cạnh tranh Việt Nam và kinh
nghiệm thực thi pháp luật cạnh tranh của Thụy Sỹ”
Hội thảo đã nhận được sự tham gia đông đảo đại diện của
các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước và các cơ quan báo chí
tỉnh Lâm Đồng. Các đại biểu tham dự thể hiện sự quan tâm sâu
sắc đến các thông tin do hội thảo cung cấp liên quan tới việc
tạo dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng
giữa các doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế thị trường
hiện nay.
Tiếp theo Hội thảo trên, ngày 24 - 25/02/2009, VCAD đã tổ
chức Khoá đào tạo: “Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và thông
đồng trong đấu thầu” dành cho các cán bộ Sở Công Thương
cũng như các Thẩm phán - Tòa án nhân dân các Tỉnh miền
Trung.
Chương trình của Khoá đào tạo được xây dựng dựng rất chi
tiết với mục tiêu nâng cao tối đa kỹ năng chuyên môn cho các
cán bộ trong công tác điều tra các vụ việc hạn chế cạnh tranh
và thông đồng trong đấu thầu. Các học viên có cơ hội thực
hành, trao đổi thông qua một số bài tập giả định do chuyên gia
đưa ra trong mối liên hệ với thực tiễn trong công tác điều tra tại
Thụy Sỹ.
Hội thảo và Khoá đào tạo đã nhận được nhiều đánh giá tích
cực từ phía các học viên và cán bộ tham dự. Trong thời gian tới,
Dự án sẽ tiếp tục triển khai các hoạt động nâng cao nhận thức
cho cộng đồng doanh nghiệp và năng lực chuyên môn cho các
cán bộ Việt Nam với mục tiêu hướng tới xây dựng một môi
trường cạnh tranh lành mạnh và hiệu quả cho các doanh
nghiệp Việt Nam.
HỒNG NHUNG
Từ ngày 20-22/02/2009, đoàn công táccủa VCAD đã tham gia Cuộc họpthường niên của Nhóm công tác về
luật và chính sách cạnh tranh APEC (CPLG)
do ban Thư ký APEC tổ chức tại Singapore.
Tại cuộc họp, đại diện cơ quan cạnh
tranh Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc,
Đài Loan, Brunei, Indonesia, Thái Lan, Việt
Nam, Hoa Kỳ đã báo cáo cập nhật tình hình
thực thi và phát triển luật và chính sách
cạnh tranh của nước mình đồng thời nghe
đại diện các Cơ quan cạnh tranh thành
viên APEC trình bày kết quả các hoạt động
của Nhóm CPLG trong năm 2008 và xây
dựng kế hoạch hoạt động năm 2009.
Chương trình hành động Osaka (OAA)
năm 1995 đã khẳng định khuyến khích các
nước thành viên APEC thực thi chính sách
cạnh tranh và thực hiện nới lỏng chính
sách trong 15 lĩnh vực cụ thể. Theo đó, kể
từ năm 1995, một loạt các hội thảo về
chính sách cạnh tranh đã được tổ chức
nhằm nâng cao hiểu biết về chính sách
cạnh tranh.
“Các nguyên tắc của APEC nhằm nâng
cao cải cách thể chế và cạnh tranh” (gọi tắt
là nguyên tắc) được thông qua tại cuộc
họp cấp Bộ trưởng APEC tổ chức tại New
Zealand năm 1999 ghi nhận “Việc bảo vệ
môi trường cạnh tranh”, “Thực thi luật cạnh
tranh” và “Xây dựng năng lực” sẽ tạo cơ sở
chiến lược và quan trọng nhằm đảm bảo
sự phát triển bền vững trong khu vực
APEC.
Trên cơ sở đó, năm 2000, Nhóm nới
lỏng chính sách và chính sách cạnh tranh
(CPDG) đã được thành lập trực thuộc Uỷ
ban về thương mại và đầu tư APEC (CTI).
Các thành viên của CPDG chủ yếu là các cơ
quan cạnh tranh hoặc liên quan đến cạnh
tranh của mỗi nền kinh tế thành viên.
Do có sự tái tổ chức lại APEC năm 2007,
CPDG đã trở thành tiểu nhóm trực thuộc
Uỷ Ban kinh tế APEC.
Được sự tán thành của SOM tại cuộc
họp SOM3 năm 2008, CPDG đã đổi tên
thành Nhóm công tác về luật và chính sách
cạnh tranh (CPLG) để thể hiện sự tập trung
của nhóm vào lĩnh vực luật và chính sách
cạnh tranh.
VCAD tham dự cuộc họp
thường niên nhóm công
tác về luật và chính sách
cạnh tranh APEC
(Xem tiếp trang 27)
V C A D 9CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
Ngày 28 tháng 02 năm 2009 tạiTP. Hồ Chí Minh, VCAD đã tổchức hội thảo “Trao đổi kinh
nghiệm về tổ chức và hoạt động của
các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng
tại Việt Nam” nhằm tạo điều kiện để
các cơ quan, tổ chức có liên quan trao
đổi, học tập kinh nghiệm trong tổ
chức và hoạt động bảo vệ người tiêu
dùng cũng như thảo luận về những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thực hiện các hoạt động này. Tham
dự Hội thảo có đại diện từ Ủy ban
Nhân dân các tỉnh và các Sở Công
Thương từ Đà Nẵng trở vào và đại
diện các Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ
người tiêu dùng các địa phương.
Tại hội thảo, sau khi nghe đại diện
VCAD giới thiệu về các quy định pháp
luật liên quan đến tổ chức, hoạt động
của hội và kinh nghiệm về tổ chức và
hoạt động của các tổ chức bảo vệ
người tiêu dùng tại Pháp, Malaysia và
Đài Loan; các đại biểu tham dự hội
thảo đã sôi nổi thảo luận về các vấn
để nổi cộm trong hoạt động của các
hội thực hiện chức năng bảo vệ người
tiêu dùng như kinh phí cho hoạt
động, tổ chức hoạt động của hội tại
các địa phương.
Các đại biểu của các hội đã thẳng
thắn nhận xét hoạt động của các hội
tại các địa phương hiện nay còn gặp
nhiều khó khăn do số lượng ít, hoạt
động không đồng đều, các hoạt
động chưa đáp ứng mong đợi của
người tiêu dùng, do đó không gây
được sự chú ý đối với người tiêu dùng
và thu hút được sự quan tâm của các
cơ quan quản lý nhà nước. Do kinh
phí hạn chế, hay nói cách khác là các
hội chưa huy động được nguồn lực
tài chính từ chính người tiêu dùng
như các tổ chức bảo vệ người tiêu
dùng các nước khác, nên bản thân
các hội cũng không thu hút được các
nguồn lực để tổ chức các hoạt động
một cách độc lập.
Cũng tại hội thảo, các kinh
nghiệm hay về tổ chức hoạt động của
các hội cũng được chia sẻ như kinh
nghiệm lồng ghép hoạt động bảo vệ
người tiêu dùng với hoạt động của
Hội Liên hiệp Phụ nữ, kinh nghiệm
thực hiện hỗ trợ hoạt động hội từ cơ
quan quản lý nhà nước tại địa
phương như của Bình Dương và Kiên
Giang được các đại biểu đánh giá cao.
Các đại biểu tham dự cũng mạnh dạn
kiến nghị với VCAD nhanh chóng ban
hành các văn bản hướng dẫn thực
hiện Nghị định 55, không chỉ là
Thông tư hướng dẫn tổ chức và hoạt
động của hội mà còn cần sửa đổi các
quy định về tài chính liên quan để các
hội có thể nhận được hỗ trợ kinh phí
từ ngân sách nhà nước cho các hoạt
động thực hiện nhiệm vụ của nhà
nước giao.
Bên cạnh hoạt động của các hội
bảo vệ người tiêu dùng, hội thảo
cũng có sự tham gia và chia sẻ kinh
nghiệm tổ chức hoạt động của các
mô hình hoạt động khác hiện khá
hiệu quả trong lĩnh vực bảo vệ người
tiêu dùng như mô hình hoạt động
của Câu lạc bộ Chống hàng giả và
bảo vệ người tiêu dùng do báo Sài
Gòn Giải phóng tổ chức và hoạt động
của chuyên trang “Hỗ trợ thông tin
bảo vệ người tiêu dùng” của báo điện
tử Vietnamnet tổ chức.
Kết thúc hội nghị, ông Đặng
Hoàng Hải – Phó Cục trưởng VCAD
đánh giá cao các ý kiến thẳng thắn
của các đại biểu và tiếp thu các ý kiến
xác đáng để xây dựng mô hình và tổ
chức hoạt động của hội bảo vệ người
tiêu dùng trong các văn bản pháp
luật sắp ban hành tới đây trên cơ sở
không xóa bỏ những tổ chức hiện có
và sẽ có những hỗ trợ cho các tổ chức
hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
P. C
VCAD tổ chức hội thảo
“Trao đổi kinh
nghiệm về tổ
chức và hoạt
động của các
tổ chức bảo vệ
người tiêu
dùng tại
Việt Nam”
Theo thông tin của Thương vụViệt Nam tại Canada, ngày27/02/2009 Cơ quan Biên mậu
Canada (CBSA) đã ra thông báo chính
thức tiến hành điều tra chống bán
phá giá mặt hàng giày và đế giày cao
su không thấm nước (waterproof
rubber footwear and bottoms) có
nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc và
Việt Nam vào thị trường Canada, bao
gồm các mã HS như sau:
6401.10.11.00 6402.19.90.90
6403.19.90.90 6404.11.99.90
6401.10.19.00 6402.91.10.00
6403.40.00.10 6404.19.90.20
6401.10.20.00 6402.91.90.91
6403.91.00.91 6404.19.90.91
6401.92.11.00 6402.91.90.92
6403.91.00.92 6404.19.90.92
6401.92.12.00 6402.91.90.93
6403.91.00.93 6404.19.90.93
6401.92.91.90
6401.92.92.90
6401.99.11.00
6401.99.12.00
6401.99.19.00
6401.99.20.00
Bên khởi kiện là Hiệp hội các nhà
sản xuất giày Canada (Shoe Manufac-
turers' Association of Canada from
Baie d'Urfé, Québec).
Hiện nay, CBSA chưa công bố
danh sách các nhà xuất khẩu liên
quan trong cuộc điều tra này. Tuy
nhiên, các doanh nghiệp xuất khẩu
giày Việt Nam và Hiệp hội cần lưu ý về
thời gian, các hạn định và trình tự, thủ
tục của vụ việc chống bán phá giá
thường được quy định rất chặt chẽ và
nghiêm ngặt theo lịch trình được
CBSA thông báo dưới đây, trong vụ
việc này, các doanh nghiệp chỉ có 37
ngày để trả lời Bản câu hỏi điều tra
của CBSA.
V C A D10 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
VẤN ĐỀ - SỰ KIỆN
TIẾN TRÌNH VỤ VIỆC
Thời gian Sự kiện
27/02/2009 Khởi xướng điều tra chống bán phá giá
27/02/2009 CBSA bắt đầu thu thập tài liệu sẵn có
13/3/2009 Tuyên bố lý do của việc tiến hành điều tra
20/3/2009 Nhà nhập... nhập thuần túy vì lợi ích phát
triển của cá nhân tổ chức họ, mà hy
sinh lợi ích của người tiêu dùng. Các
cơ quan quản lý cạnh tranh, khi xem
xét và phê chuẩn các vụ mua bán, sáp
nhập, do đó, luôn hướng tới một
điểm cân bằng giữa lợi ích kinh tế của
doanh nghiệp (do tập trung kinh tế
mang lại) và lợi ích của người tiêu
dùng (do cạnh tranh mang lại).
Kinh nghiệm từ nước Úc
Năm 2008 là năm quan trọng đối
với ngành ngân hàng Úc, trong đó
xảy ra rất nhiều các hoạt động tập
trung kinh tế giữa các ngân hàng lớn
của quốc gia này. Vào tháng 9/2008,
ngân hàng Westpac, lớn thứ 4 nước
Úc được chính phủ nước này cho
phép mua lại ngân hàng lớn thứ 5 tại
đây – ngân hàng St George. Tháng
12/2008, ngân hàng lớn nhất toàn
nước Úc (Commonwealth) tiếp tục
“nuốt gọn” ngân hàng lớn nhất của
bang Tây Úc (BankWest). Từ rất lâu
trước đó, nước Úc đã có một lịch sử
lâu đời về các vụ mua bán, sáp nhập
ngân hàng, đặc biệt trong lĩnh vực
bán lẻ. Cho đến nay, thị trường bán lẻ
của ngành ngân hàng nước Úc đã
dần dần do Bốn Đại Gia (Big Four)
thống trị. Chúng ta có thể kể đến một
vài vụ tập trung kinh tế quan trọng
khác xảy ra trước khi có các vụ mua
bán nêu trên. Ví dụ, ngân hàng West-
pac được thành lập năm 1982, do sự
sáp nhập của hai ngân hàng New
South Wales và ngân hàng Thương
mại Australia. Năm 1995, Westpac
mua lại ngân hàng Challenge, “nuốt
chửng” ngân hàng Melbourne vào
năm 1997, Tập đoàn Tài chính BT năm
2002 và ngân hàng St George năm
2008. Bản thân ngân hàng St George
đã vươn tới vị trí thứ 5 nước Úc nhờ
mua được ngân hàng Advance vào
năm 1997.
Tổ chức CHOICE, tổ chức bảo vệ
người tiêu dùng hàng đầu của Úc, với
hơn 200.000 thành viên, đã lên tiếng
bày tỏ các quan ngại của mình về các
vụ sáp nhập và mua lại này. Theo
CHOICE, các vụ mua bán và sáp nhập
nói trên được cho phép (trên cơ sở
một số điều kiện như “giảm thiểu các
quan ngại của cộng đồng về vụ sáp
nhập, cũng như các ảnh hưởng của
nó tới khách hàng và cộng đồng”) mà
chưa có sự xem xét kỹ lưỡng từ
phương diện cạnh tranh, cũng như
việc chúng sẽ làm phương hại tới lợi
ích của người tiêu dùng một cách
đáng kể. CHOICE cho rằng, trong bối
cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu
hiện nay, quyền lực thị trường tăng
vọt của các ngân hàng này sẽ vượt
quá mức có thể kiểm soát, đặc biệt
khi vắng đi sự cạnh tranh của các đối
thủ là các tổ chức tín dụng phi ngân
hàng. Hậu quả là cạnh tranh trên các
thị trường như giao dịch liên ngân
hàng, tiết kiệm, đầu tư quỹ và cho vay
sẽ bị hạn chế đáng kể, dẫn đến:
Hạn chế mức độ gia nhập mới
vào các thị trường này;
Chất lượng dịch vụ đối với
khách hàng bị suy giảm;
Nhân công ngân hàng không
còn hài lòng với công việc của mình;
Các loại phí ngân hàng tăng vọt,
cũng như lãi suất;
Khả năng khách hàng chuyển
đổi giữa các ngân hàng khác nhau
giảm hẳn;
Tốc độ cải tiến sản phẩm nghèo
nàn;
Khả năng tiếp cận của đông đảo
quần chúng tới các dịch vụ ngân
hàng thiết yếu giảm đi;
Giảm tính đa dạng về nhà cung
cấp dịch vụ ngân hàng cũng như
chọn lựa trong các thị trường địa
phương (phạm vi địa lý hẹp).
CHOICE cũng đưa ra các dẫn
chứng cho các luận điểm của mình từ
thực tế thị trường; và đề nghị chính
phủ Úc cho phép Ủy ban Cạnh tranh
và Người Tiêu dùng Úc (ACCC) xem
xét thêm về các vụ sáp nhập và mua
lại trước khi cho phép các ngân hàng
tham gia tiến hành thực hiện.
Tình hình Việt Nam
Số lượng ngân hàng tại Việt Nam
hiện nay là tương đối nhiều, so với số
dân khoảng 85 triệu người và tổng
giá trị sản phẩm quốc dân (GDP) là 65
tỉ USD. Theo Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, tính đến cuối tháng 6/2008,
tại Việt Nam có 95 ngân hàng các loại
(thương mại nhà nước, Chính sách xã
hội, Phát triển, liên doanh, thương
mại cổ phần, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, và 100% vốn nước ngoài)
và 1021 tổ chức tín dụng-tài chính phi
ngân hàng.
Do đó, cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu đang xảy ra hiện nay
cũng là một thời điểm thích hợp để
cho phép các hoạt động hợp nhất,
sáp nhập, mua lại giữa các ngân hàng
để tăng cường sức cạnh tranh, tái cơ
cấu, tránh đổ vỡ liên hoàn hệ thống
tài chính quốc gia. Tuy nhiên, khi xem
xét các hồ sơ sáp nhập, bên cạnh các
ưu tiên kinh tế, các cơ quan quản lý
cạnh tranh cũng sẽ có sự xem xét
thích đáng đối với các quan ngại của
người tiêu dùng, đặc biệt trong các
phân khúc thị trường nhỏ, chuyên
biệt và các thị trường địa phương,
cũng như tương quan cạnh tranh
trong dài hạn, để tránh trường hợp
nói trên của nước Úc. Các tổ chức bảo
vệ người tiêu dùng cũng như các cá
nhân quan tâm, cũng có thể chủ
động tiến hành các đánh giá và thu
thập ý kiến của người tiêu dùng để
gửi tới các cơ quan quản lý cạnh tranh
về vấn đề này.
P.V
Đánh giá kết quả sau chuyến khảo sát, học tập kinh nghiệm, các chuyên
gia của VCAD nhận thấy Cơ quan cạnh tranh Italia là một cơ quan cạnh tranh
lớn trong khối EU, với địa vị pháp lý là một cơ quan độc lập không nằm trong
hệ thống cơ quan chính phủ mà trực tiếp trực thuộc Quốc hội Italia và nhiều
năm kinh nghiệm thực thi Luật do đó VCAD có thể tiếp thu nhiều kinh
nghiệm bổ ích về các vấn đề khác nhau liên quan đến việc thực thi luật và
chính sách cạnh tranh. Ngoài ra, mô hình cơ quan cạnh tranh Italia cũng có
chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng giống chức năng
của VCAD. Do đó, ngoài việc trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực cạnh tranh,
VCAD và Ủy ban cạnh tranh Italia có thể hướng tới trao đổi kinh nghiệm
trong lĩnh vực xây dựng Luật bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam. Bên cạnh
các kiến thức chuyên môn, thông qua chuyến công tác, VCAD đã thiết lập
được quan hệ hợp tác chính thức với Ủy ban cạnh tranh Italia, từ đó mở ra
hướng hợp tác sâu rộng hơn trong thời gian tới.
AN VŨ – TRUNG VŨ
CÁC CHUYÊN GIA CỦA VCAD...
(Tiếp theo trang 7)
>> Câu 1: Hành vi nào
của doanh nghiệp là hành vi
tập trung kinh tế?
✓ Trả lời
Luật Cạnh tranh không đưa ra
định nghĩa về tập trung kinh tế mà
chỉ liệt kê các loại hình hành vi. Cụ
thể, Điều 16 Luật Cạnh tranh quy
định tập trung kinh tế là hành vi của
doanh nghiệp bao gồm:
1. Sáp nhập doanh nghiệp;
2. Hợp nhất doanh nghiệp;
3. Mua lại doanh nghiệp;
4. Liên doanh giữa các doanh
nghiệp;
5. Các hành vi tập trung khác
theo quy định của pháp luật.
>> Câu 2: Có những hình
thức tập trung kinh tế nào?
✓ Trả lời
Có 3 hình thức tập trung kinh tế:
- Tập trung kinh tế theo chiều
ngang: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua
lại hoặc liên doanh của các doanh
nghiệp trong một thị trường liên
quan (sản phẩm và không gian).
- Tập trung kinh tế theo chiều
dọc: là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại
hoặc liên doanh giữa các doanh
nghiệp có quan hệ người mua -
người bán với nhau.
- Tập trung kinh tế theo đường
chéo (conglomerate): là sự hợp nhất,
sáp nhập, mua lại, liên doanh của các
doanh nghiệp không cùng hoạt
động trên một thị trường sản phẩm
đồng thời cũng không có mối quan
hệ khách hàng với nhau. Mục tiêu
của việc hợp nhất này thường là
phân bổ rủi ro vào những thị trường
khác nhau hoặc từ những lý do chiến
lược thị trường của các doanh
nghiệp này.
>> Câu 3: Các hành vi tập
trung kinh tế khác nhau như
thế nào?
✓ Trả lời
Điều 17, đưa ra định nghĩa cho
từng hành vi như sau:
Sáp nhập doanh nghiệp là việc
một hoặc một số doanh nghiệp
chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa
vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang
một doanh nghiệp khác, đồng thời
chấm dứt sự tồn tại của doanh
nghiệp bị sáp nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai
hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp của mình để hình
thành một doanh nghiệp mới, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của các
doanh nghiệp bị hợp nhất.
Mua lại doanh nghiệp là việc một
doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc
một phần tài sản của doanh nghiệp
khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn
bộ hoặc một ngành nghề của doanh
nghiệp bị mua lại.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp
là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp
cùng nhau góp một phần tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
của mình để hình thành một doanh
nghiệp mới.
>> Câu 4: Những hành vi
nào được coi là vi phạm quy
định của pháp luật về tập
trung kinh tế?
✓ Trả lời
Những hành vi được coi là vi
phạm quy định của pháp luật về tập
trung kinh tế bao gồm:
- Hành vi không thông báo về tập
trung kinh tế;
- Tập trung kinh tế trước khi có
quyết định cho hưởng miễn trừ của
cơ quan có thẩm quyền;
- Vi phạm quy định cấm tiến hành
tập trung kinh tế.
>> Câu 5: Doanh nghiệp
vi phạm quy định về tập
trung kinh tế sẽ bị xử lý như
thế thế nào?
Trên cơ sở xem xét các yếu tố như
mức độ gây hạn chế cạnh tranh do
hành vi vi phạm gây ra, mức độ thiệt
hại do hành vi vi phạm gây ra, khả
năng gây hạn chế cạnh tranh của các
đối tượng vi phạm, thời gian thực
hiện hành vi vi phạm, khoản lợi
nhuận thu được từ việc thực hiện
hành vi vi phạm và các tình tiết giảm
nhẹ, tình tiết tăng nặng (Điều 7, Nghị
định số 120/2005/NĐ-CP), các doanh
nghiệp vi phạm quy định về tập
trung kinh tế có thể phải chịu các
hình thức xử lý vi phạm sau:
Phạt tiền với mức phạt tối đa 10%
tổng doanh thu của các doanh
nghiệp vi phạm trong năm tài chính
trước năm thực hiện hành vi vi phạm.
Phạt bổ sung: như thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh đã
cấp cho doanh nghiệp hợp nhất, thu
hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh đối với các liên doanh vi phạm
pháp luật cạnh tranh.
Các biện pháp khắc phục hậu
quả như chia, tách doanh nghiệp đã
sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại
phần doanh nghiệp đã mua...
Mức phạt, các hình thức xử phạt
bổ sung và biện pháp khắc phục hậu
quả đối với các hành vi vi phạm quy
định về tập trung kinh tế được quy
định cụ thể trong Luật cạnh tranh và
Nghị định số 120/2005/NĐ-CP.
>> Câu 6: Thủ tục thông
báo tập trung kinh tế như
nào?
✓ Trả lời
- Nộp Hồ sơ thông báo việc tập
trung kinh tế lên cơ quan QLCT (Điều
21)
- Trong vòng 7 ngày: Yêu cầu bổ
sung (nếu có) (Điều 22)
- Trong vòng 45 ngày (có thể gia
hạn tối đa 60 ngày): Phải trả lời bằng
văn bản cho doanh nghiệp hồ sơ
(Điều 23)
- Chỉ được thực hiện tập trung
kinh tế sau khi có văn bản trả lời của
cơ quan QLCT kết luận không thuộc
trường hợp bị cấm (Điều 24)
CCID
V C A D 21CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
HỎI ĐÁP VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ
V C A D22 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀ BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG
Quy trình thông báo và xin hưởng miễn trừ tập trung
kinh tế theo quy định của Luật cạnh tranh
Chú thích:
Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan nhỏ hơn 30%
Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% đến 50%
Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan lớn hơn 50%
Trước khi tiến hành:
- Sáp nhập
- Hợp nhất
- Mua lại
- Liên doanh
Bị cấm: Không được
tiến hành tập trung
kinh tế
Nếu không thỏa mãn
(I) và (II)
Nếu một hoặc nhiều
bên tham gia tập trung
kinh tế đang trong nguy
cơ bị giải thể hoặc lâm
vào tình trạng phá sản
Nếu việc tập trung kinh
tế có tác dụng mở rộng
xuất khẩu hoặc góp
phần phát triển kinh tế
- xã hội, tiến bộ kỹ thuật,
công nghệ
VCAD
Bộ trưởng Bộ
Công Thương
Thủ tướng
Chính phủ
Trả
lời
Không
chấp
thuận
Chấp
thuận
(II)
Không phải thông báo
tập trung kinh tế
VCAD
Nếu không thỏa mãn (I)
Nộp hồ sơ thông báo
Nộp hồ
sơ xin
miễn trừ
30%
50%
Thị phần kết hợp trên
thị trường liên quan
Không bị cấm
Bị cấm: Không được tiến
hành tập trung kinh tế
Tiến hành tập trung
kinh tế
Nếu doanh nghiệp
sau khi tập trung kinh
tế:
- Có vốn đăng ký không
quá 10 tỷ đồng hoặc
- Số lao động trung
bình hàng năm không
quá 300 người
(I)
V C A D 23CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
Quý IV năm 2008, VCAD đã tiếnhành khảo sát mức độ nhậnthức của cộng đồng đối với
Luật Cạnh tranh. Cuộc khảo sát bắt
đầu từ 01/11/2008 và kết thúc ngày
31/12/2008.
Mục đích của khảo sát này là nhằm
đánh giá mức độ nhận biết của cộng
đồng bao gồm khối doanh nghiệp,
các hiệp hội và cơ quan quản lý nhà
nước đối với các quy định pháp luật về
cạnh tranh. Hoạt động khảo sát do
VCAD quản lý phối hợp với Công ty
TNHH tư vấn và phát triển kinh doanh
IDV thực hiện tại một số địa phương ở
cả 3 miền Bắc, Trung và Nam: Miền Bắc
bao gồm Lạng Sơn và Hà Nội; miền
Trung bao gồm Đà Nẵng và Đắk Lắk;
và miền Nam gồm thành phố Hồ Chí
Minh và Tây Ninh. Phương pháp tiến
hành là phỏng vấn sâu (50 cuộc) và
gửi phiếu điều tra (1000 phiếu điều
tra). Trong quá trình khảo sát, nhóm
nghiên cứu đã tiến hành thu thập
những số liệu và tài liệu liên quan đến
việc nhận thức của cộng đồng về Luật
Cạnh tranh, việc thực hiện Luật Cạnh
tranh tại địa phương. Đồng thời với
việc thu thập tài liệu thứ cấp, nhóm
nghiên cứu đã tiến hành khảo sát
bằng bảng hỏi (questionnaire-based
survey) và phỏng vấn sâu (indepth in-
terview) trên nhiều đối tượng thuộc
nhiều nhóm. Sau hơn một tháng tiến
hành khảo sát bằng phiếu hỏi qua thư
và phỏng vấn trực tiếp, IDV Consult-
ants đã thu được 1.004 bảng hỏi từ các
đối tượng khảo sát. Kết quả khảo sát
đã cung cấp một bức tranh tổng quát
về nhận thức của cộng đồng đối với
Luật Cạnh tranh. Mức độ đánh giá
được thể hiện các cấp độ hiểu biết về
pháp luật cạnh tranh, hiểu về các
nhóm hành vi do Luật Cạnh tranh điều
chỉnh, nắm được trình tự thủ tục giải
quyết các vụ việc vi phạm, hiểu biết về
vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh,
thấy được sự cần thiết phải phối hợp
với cơ quan quản lý cạnh tranh trong
quá trình thực thi Luật Cạnh tranh, tiến
tới đánh giá ý nghĩa và tác động của
Luật trong nền kinh tế hiện nay.
Từ kết quả khảo sát cho thấy hiểu
biết của cộng đồng đối với Luật Cạnh
tranh mới dừng lại ở mức độ “biết Luật
Cạnh tranh mới ra đời”. Các đối tượng
được hỏi cũng thể hiện sự hiểu biết sơ
bộ các khái niệm về hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, hành vi hạn
chế cạnh tranh. Tuy nhiên số doanh
nghiệp có hiểu chi tiết về Luật Cạnh
tranh như biết về ngưỡng thị phần bị
cấm, mức phạt và thủ tục giải quyết vụ
việc cạnh tranh còn khá khiêm tốn. Khi
nhận thức về Luật còn chưa cao thì
nhận thức về cơ quan quản lý cạnh
tranh cũng không hơn là bao, điều này
đã được kết quả khảo sát bộc lộ. Một
trong những lý do chính là do bản
thân kết quả hoạt động của cơ quan
quản lý cạnh tranh còn chưa tạo được
những con số ấn trượng, như số lượng
vụ việc kết thúc điều tra xét xử chỉ có
cạnh tranh không lành mạnh, chưa
kết thúc điều tra xét xử các vụ việc hạn
chế cạnh tranh.
Những ý kiến về các bất cập và
khó khăn trong quá trình thực thi Luật
Cạnh tranh là cơ sở của những đề xuất
và khuyến nghị để hoàn thiện về
khung pháp lý và thể chế của cơ quan
cạnh tranh. Các đề xuất chủ yếu tập
trung vào bốn vấn đề chính: công tác
tuyên truyền phổ biến pháp luật, quy
định rõ hơn một số điều của Luật để
xác định hành vi, xác định mức phạt và
vai trò của cơ quan quản lý cạnh tranh.
Các kết quả cụ thể thu được từ khảo
sát cũng đưa ra gợi ý về một số hoạt
động tiếp theo của VCAD nhằm nâng
cao nhận thức, nâng cao hiệu quả
thực thi Luật. Độc giả quan tâm tới nội
dung chi tiết của Báo cáo kết quả khảo
sát có thể liên hệ với CCID hoặc truy
cập vào website của VCAD để có thêm
thông tin chi tiết.
CCID
VCAD chuẩn bị công bố
Báo cáo Kết quả khảo sát
MỨC ĐỘ NHẬN THỨC CỦA
CỘNG ĐỒNG ĐỐI VỚI
LUẬT CẠNH TRANH
HƯỚNG TỚI MẠNG LƯỚI CẠNH TRANH QUỐC GIA
V C A D24 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
1. Giới thiệu
Định lượng cấu trúc thị trường là
một trong những vấn đề quan trọng
trong phân tích tác động cạnh tranh
của một vụ việc tập trung kinh tế. Cấu
trúc thị trường ảnh hưởng đến hành vi
và kết quả hoạt động của doanh
nghiệp. Mức độ tập trung kinh tế được
coi là thước đo chính để xác định cấu
trúc thị trường. Cấu trúc của một ngành
được xác định bằng: (1) số lượng doanh
nghiệp trong ngành tại một thời điểm
nhất định, và mức độ nhận thức về sự
phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp đó; và (2) sự phân bố quy mô
của các doanh nghiệp. Chẳng hạn, một
ngành có 10 doanh nghiệp quy mô
tương đương nhau sẽ được nhìn nhận
rất khác với một ngành có 1 doanh
nghiệp thống lĩnh và 9 doanh nghiệp
nhỏ. Do đó, bất kỳ một cách thức xác
định mức độ tập trung có giá trị nào
cũng phải ghi nhận được tầm quan
trọng của số lượng và quy mô tương
đối của các doanh nghiệp trong một
ngành. Mức độ tập trung càng chính
xác thì bức tranh tổng thể về tình hình
cạnh tranh trong ngành sẽ càng rõ nét
hơn. Một ngành có tập trung kinh tế
hay không được quyết định bởi nhiều
yếu tố, trong đó đáng kể nhất là khả
năng gia nhập và rút lui khỏi thị trường,
chính sách của chính phủ và chiến lược
mà các doanh nghiệp đang hoạt động
theo đuổi.
Bài viết này bàn về các cách thức
xác định mức độ tập trung kinh tế nhìn
từ góc độ kinh tế học với các nội dung
chính sau:
Phần 2 nói về phương pháp xác
định thị trường và ngành.
Phần 3 trình bày các cách thức ghi
nhận mức độ tập trung kinh tế, bao
gồm Tỷ lệ tập trung (CR), Chỉ số
Herfindahl-Hirschman, Hệ số Gini và
các cách đo khác.
TẬP TRUNG KINH TẾ VÀ
XÁC ĐỊNH CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG
BÙI NGUYỄN ANH TUẤN
V C A D 25CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
Phần 4 nói về các vấn đề khi tính
toán chỉ số tập trung kinh tế.
Phần 5 bàn về các yếu tố làm
thay đổi mức độ tập trung kinh tế
trong các ngành cũng như vai trò của
các yếu tố đó trong sự biến đổi của
ngành.
2. Xác định ngành/thị
trường
Trước hết cần phải định nghĩa thế
nào là ngành/thị trường. Theo lý
thuyết kinh tế học vi mô, một ngành
được coi là tập hợp các doanh nghiệp
cùng sản xuất và kinh doanh một sản
phẩm tương đồng, sử dụng cùng
công nghệ và cạnh tranh về các yếu
tố sản xuất trên cùng thị trường. Các
cơ quan điều tiết cạnh tranh thường
sử dụng khái niệm thị trường liên
quan, bao gồm thị trường sản phẩm
và thị trường địa lý để xác định xem
các doanh nghiệp có cạnh tranh với
nhau hay không. Đây là cách tiếp cận
từ phía người mua, theo đó, có sự
thay thế gần nhau từ phía cầu trên thị
trường. Chẳng hạn, thị trường bia có
thể gồm nhiều thị trường khác nhau
như bia cao cấp, bia trung cấp hoặc
bia bình dân, hoặc thị trường
mang tính địa phương, vùng hay
toàn quốc. Rất khó để có thể có một
định nghĩa chính xác tuyệt đối về một
thị trường.
Một ngành thường được nhìn
nhận như một nhóm các sản phẩm
có sự thay thế gần nhau từ góc độ của
nhà cung cấp. Ví dụ, tất cả các thiết bị
viễn thông có thể được nhóm thành
một ngành vì chúng sử dụng cùng
nguyên liệu thô, công nghệ, kỹ năng
lao động,Trong hầu hết các trường
hợp, ngành là nhóm rộng hơn một thị
trường, mặc dù đôi khi chúng có thể
được hiểu theo nghĩa tương đương
nhau.
Từ góc độ lý thuyết, một ngành có
thể được định nghĩa theo một trong
các cách sau đây:
a) Loại sản phẩm: Sử dụng độ co
giãn chéo về cầu (Cross Elasticity of
Demand) để tính sự thay đổi về số
lượng cầu của một hàng hóa khi giá
của hàng hóa khác thay đổi. Công
thức tính là:
%ΔQA
CED = ---------------
%ΔPB
Nếu độ co giãn chéo về cầu mang
dấu dương và lớn hàm ý rằng hai
hàng hóa đang xét có thể thay thế
gần nhau và có thể được nhóm vào
một ngành. Ngược lại, giá trị đó mang
dấu âm và có giá trị tuyệt đối lớn hàm
ý rằng hai hàng hóa là bổ sung gần
nhau, và cũng có thể coi là cùng nằm
trong một ngành.
b) Loại quy trình sản xuất: Quy
trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ có
thể sử dụng để phân loại doanh
nghiệp vào một ngành nhất định. Tuy
nhiên, điều này có thể dẫn đến việc
một ngành được xác định quá rộng.
c) Loại nguyên vật liệu đầu vào:
Loại nguyên vật liệu sử dụng cũng có
thể là thước đo để nhóm các doanh
nghiệp vào một ngành. Tuy nhiên,
phương thức này cũng có những
điểm không hợp lý.
Trên thực tế, các cách tiếp cận
trên đều đã đơn giản hóa vấn đề quá
mức. Nhiều doanh nghiệp hoạt động
trên nhiều ngành, đa dạng hóa với
nhiều sản phẩm, kinh doanh trên
nhiều thị trường khác nhau. Có một
số phương pháp được đề xuất để xử
lý vấn đề này. Chẳng hạn, John Kay(2)
(1990) đề xuất khái niệm thị trường
chiến lược, được định nghĩa là khu
vực địa lý hoặc sản phẩm nhỏ nhất
mà một doanh nghiệp có thể cạnh
tranh thành công trong đó. Với giả
định rằng thị trường tập trung vào
các điều kiện từ phía cầu còn ngành
tập trung vào các điều kiện từ phía
cung thì thị trường chiến lược là tổng
hợp của cả hai yếu tố đó. Elzinga và
Hogarty(3) (1973, 1978) hướng đến
kiểm nghiệm giá trị biên để xác định
thị trường địa lý có phù hợp hay
không. Kiểm nghiệm được tiến hành
bằng cách đánh giá xem khi nào thì
người tiêu dùng trong một vùng nhất
định mua sản phẩm từ nhà sản xuất
trong vùng (giao dịch nội vùng) hoặc
từ nhà sản xuất bên ngoài vùng đó
(giao dịch ngoại vùng). Nếu tỷ lệ giao
dịch nội vùng trên tổng số giao dịch
cao (trên 75%) thì thị trường được coi
là xác định phù hợp. Còn nếu tỷ lệ đó
thấp thì thị trường là xác định sai và
cần phải được xác định lại (4).
Mặc dù còn tồn tại những vấn đề
trong xác định ngành, các nước vẫn
cần phải áp dụng một hệ thống phân
loại ngành nào đó. Tại Việt Nam, Bảng
phân ngành kinh tế mới nhất được
ban hành năm 2007 (VSIC07) được
phát triển trên nền tảng và tương
thích với bảng phân ngành chuẩn
quốc tế phiên bản 4.0 (ISIC) ở cấp độ
3 chữ số. Bảng phân ngành này đã
được áp dụng trong cuộc Tổng điều
tra kinh tế lần thứ 3.
3. Các phương pháp đo
mức độ tập trung kinh tế
3.1. Tỷ lệ tập trung kinh tế
Tỷ lệ tập trung kinh tế (Concentra-
tion Ratio) đo thị phần của N doanh
nghiệp hàng đầu trong một ngành,
trong đó N thường được lấy giá trị 3,4
hoặc 8. Tỷ lệ này được biểu diễn bằng
công thức:
N
CRN = Σ xii=1
trong đó xi là thị phần của doanh
nghiệp thứ i. Thị phần có thể được
tính bằng doanh thu hoặc tài sản,
hoặc số lượng lao động (5).
Hình dưới đây là một số ngành có
tỷ lệ tập trung CR3 lớn tại Việt Nam
theo dữ liệu thống kê kinh tế năm
2006 (6).
Hình 1: Một số ngành có tỷ lệ tập trung kinh tế cao
theo CR3 tại Việt Nam
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2007)
3.2. Chỉ số
Herfindahl - Hirschman (HHI)
Chỉ số Hirschman - Herfindahl (HHI)
được định nghĩa là tổng bình phương
thị phần của tất cả các doanh nghiệp
trong ngành và có giá trị từ 0 đến
10.000. HHI của ngành có giá trị gần 0
thì thị trường được coi là có rất nhiều
doanh nghiệp có quy mô nhỏ và với giá
trị bằng 10.000 có nghĩa là ngành chỉ có
một nhà sản xuất duy nhất. Khi chỉ số
này giảm thì nhìn chung có nghĩa là
khả năng quyết định giá của doanh
nghiệp giảm và tăng cạnh tranh; và
ngược lại khi chỉ số này tăng.
Công thức:
N
HHI = Σ xi
2
i=1
trong đó xi là thị phần của doanh
nghiệp thứ i.
Nhiều nước, chẳng hạn như Hoa Kỳ
sử dụng chỉ số HHI để xác định xem liệu
một vụ tập trung kinh tế có được cho
phép hay không. Tùy từng trường hợp,
nhưng nói chung, nếu sau một vụ sáp
nhập, chỉ số HHI tăng quá 100 thì rất có
thể vụ tập trung kinh tế đó sẽ trở thành
đối tượng để rà soát kỹ. Bộ Tư pháp Hoa
Kỳ đánh giá cấu trúc thị trường bằng
chỉ số HHI như sau:
HHI < 1.000: Thị trường không
mang tính tập trung
1.000 ≤ HHI ≤ 1.800: Thị trường tập
trung ở mức độ vừa phải
HHI > 1.800: Thị trường tập trung ở
mức độ cao
Điểm mạnh chính của chỉ số HHI so
với cách đo khác (như tỷ lệ tập trung
kinh tế) là đã tính tỷ trọng lớn hơn đối
với các doanh nghiệp lớn. Giả sử có 2
trường hợp trong đó 6 doanh nghiệp
lớn nhất chiếm thị phần 90% về sản
lượng:
- Trường hợp 1: Cả 6 doanh nghiệp
đều có thị phần 15%.
- Trường hợp 2: Một doanh nghiệp
chiếm 80%, và 5 doanh nghiệp còn lại
chỉ chiếm 2% thị phần.
Giả định rằng 10% sản lượng còn lại
được chia đều cho 10 doanh nghiệp
quy mô bằng nhau. Tỷ lệ tập trung của
6 doanh nghiệp đều là 90% đối với cả 2
trường hợp, nhưng ở trường hợp 1
cạnh tranh có thể quyết liệt hơn, còn
trường hợp 2 có thể coi là gần như độc
quyền. Chỉ số HHI cho thấy rõ điều này:
Trường hợp 1: HHI = 6*152 + 10*12 =
1.360
Trường hợp 2: HHI = 82 + 5*22 +
10*12=6.430
Đối với vụ việc tập trung kinh tế,
đây là chỉ số ban đầu để xét đến sự thay
đổi về cấu trúc thị trường.
3.3. Các cách đo khác
Ngoài các chỉ số thường dùng trên,
một số các chỉ số khác cũng được áp
dụng để đo lường mức độ tập trung
kinh tế, trong đó có thể kể đến: Chỉ số
Hannah-Kay, Đường cong Lorentz và
Hệ số Gini, Hệ số entropy, Chỉ số Rosen-
bluth, Chỉ số tập trung hỗn hợp (Com-
prehensive concentration index), Chỉ số
Linda.
4. Những vấn đề khi áp
dụng các chỉ số tập trung kinh
tế
Định nghĩa chính xác về ngành
thị trường:
Khi tính toán chỉ số tập trung kinh
tế thường phải dựa vào số liệu kinh tế là
những số liệu rất nhạy cảm theo nghĩa:
một thị trường được xác định phù hợp
cần phải bao gồm tất cả các loại sản
phẩm thay thế. Chẳng hạn, định nghĩa
thị trường “đường thốt nốt” có thể là
quá hẹp để tính các chỉ số tập trung vì
đường làm từ mía rất có thể sẽ thay thế
dễ dàng đường thốt nốt. Vấn đề là rất
khó phân định rạch ròi để thu hẹp thị
trường đến đâu là đủ, ngay kể cả khi sử
dụng các công cụ như SSNIP. Nếu giới
hạn quá chặt thì hầu như mọi doanh
nghiệp có thể bị (hay được) coi là nắm
giữ vị trí độc quyền.
Quy mô thị trường:
Điều này tác động đến mức độ
quan trọng của một doanh nghiệp và
thị trường. Thị trường liên quan của
một doanh nghiệp có thể chỉ trong
phạm vi một địa phương nhỏ. Mức độ
tập trung trên toàn quốc có xu hướng
V C A D26 CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
V C A D 27CẠNH TRANH & NGƯỜI TIÊU DÙNG
Số 3 - 2009
nhỏ hơn trên phạm vi địa
phương. Chẳng hạn, thị trường xe
bus có thể gồm các nhà độc
quyền ở từng tỉnh, thành phố,
nhưng trên quy mô toàn quốc thì
mức độ tập trung có thể là rất
thấp.
Vấn đề loại trừ xuất khẩu và
nhập khẩu:
Nếu loại trừ hàng hóa nhập
khẩu, mức độ tập trung sẽ đánh
giá cao quá mức tầm quan trọng
của các doanh nghiệp hàng đầu.
Ví dụ nếu CR4 bằng 60% và hàng
hóa nhập khẩu chiếm 40% thị
phần thì CR “thực sự” sẽ là 36%
(0.6*60%). Điều ngược lại xảy ra
khi loại trừ hàng hóa xuất khẩu.
Vấn đề đa dạng hóa sản
phẩm:
Các số liệu thống kê có thể
không tính đến việc các doanh
nghiệp hoạt động trên nhiều thị
trường và sản xuất nhiều sản
phẩm. Một doanh nghiệp được
coi là nằm trong một ngành hoặc
một thị trường theo sản phẩm
chính. Chẳng hạn, nếu một doanh
nghiệp sản xuất 60% sản phẩm
trong ngành A và 40% sản phẩm
trong ngành B, thì toàn bộ doanh
nghiệp đó (quy mô, công suất,
sản lượng, lao động,) đều được
tính vào ngành A. Do đó CR có thể
vượt quá hoặc dưới mức độ tập
trung thực sự trong ngành.
Mặc dù tất cả các chỉ số trên
đều có hạn chế nhưng chúng
thường tương quan cao với nhau
(7). Tuy nhiên, không một chỉ số
riêng rẽ nào có thể hàm chứa
được 3 yếu tố quyết định của
cạnh tranh: quy mô ngành, mức
độ bất bình đẳng về thị phần và
liên kết tiềm ẩn.
Xét riêng biệt từng chỉ số tập
trung kinh tế không thể cho biết
một cách thích đáng mức độ cạnh
tranh có trong một thị trường
nhất định. Trong một ngành có
thể chỉ có một số ít doanh nghiệp
nhưng có thể họ không hề phụ
thuộc lẫn nhau và có những định
hướng chiến lược khác hẳn nhau.
Cũng cần phải chú ý đến đặc tính
và tình hình ngành/ thị trường và
mục tiêu của giới quản lý doanh
nghiệp trong ngành. Các chỉ số
tập trung kinh tế không đo được
các yếu tố trên.
(Còn nữa)
(1) Chuyên viên VCAD đang theo học
Thạc sĩ kinh tế tại Đại học Tổng hợp Leeds
(Vương quốc Anh). Email:
tuanbna@moit.gov.vn. Bài viết thể hiện
quan điểm riêng của người viết và không
phản ánh quan điểm của VCAD Việt Nam.
(2) Kay, J.A. (1990) Identifying the strate-
gic market, Business Strategy Review, 1/2, 2-
24
(3) Elzinga, K.G và Hogarty, T.F. (1973),
The problem of geographic delineation in
anti-merger suits, Antitrust Bulletin, 18, 45-
81 Elzinga, K.G và Hogarty, T.F. (1978), The
problem of geographic delineation revis-
ited: the case of coal, Antitrust Bulletin, 23,
1-18
(4) Tham khảo “Kiểm soát tập trung kinh
tế: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt
Nam”, VCAD (2007) – NXB Chính trị quốc gia
(5) Luật Cạnh tranh Việt Nam quy định
thị phần được tính bằng doanh thu trên thị
trường liên quan.
(6) Lưu ý rằng các ngành được tính toán
theo cấp độ 2, nghĩa là ngành được xác
định tương đối rộng. Nếu phân chia nhỏ
hơn nữa (đến cấp độ 3 hoặc 4) và tính đến
từng thị trường thì sẽ có một số ngành nhỏ
có CR3 lớn hơn nhiều.
(7) Về hệ số tương quan của các chỉ số
CR3, CR5 và HHI trong các ngành tại Việt
Nam, xem thêm Báo cáo “Tập trung kinh tế
tại Việt Nam: Hiện trạng và dự báo” - 2009.
VCAD THAM DỰ...
(Tiếp theo trang 8)
CPLG được xem như một
diễn đàn cho các chuyên gia và
cơ quan cạnh tranh thành viên
APEC:
- Trao đổi thông tin về luật và chính
sách cạnh tranh;
- Phát triển và nâng cao hiểu biết về
luật và chính sách cạnh tranh của các nền
kinh tế APEC;
- Chia sẻ kinh nghiệm và chuyên môn
về các hoạt động liên quan đến việc thực
thi luật và chính sách cạnh tranh;
- Kiểm tra khi có thể, tác động của luật
và chính sách cạnh tranh đối với thương
mại và các dòng đầu tư;
- Xác định các lĩnh vực nâng cao năng
lực và hợp tác kỹ thuật trong việc thực thi
luật và chính sách cạnh tranh;
- Rà soát định kỳ các Kế hoạch hành
động tập thể của Nhóm;
- Tiến hành hoạt động tuyên truyền
và PR đến các bên có lợi ích của APEC về
các thành tựu đạt được của Nhóm khi
thuận tiện.
Trong việc hợp tác với các diễn đàn có
liên quan khác của APEC và khu vực kinh
doanh, CPLG sẽ hoạt động như một diễn
đàn:
- Hợp tác và thảo luận khi thích hợp
việc thực thi các sáng kiến hợp tác nhưng
không hạn chế đối với việc cải cách cơ
cấu với các diễn đàn khác có liên quan
trong khuôn khổ APEC, ví dụ như Uỷ ban
kinh tế và các tổ chức quốc tế có liên
quan;
- Báo cáo tiến độ và kết quả của từng
sáng kiến hợp tác cho Uỷ ban kinh tế, và
khi cần thiết có thể đưa ra các khuyến
nghị kèm theo;
- Mời các diễn đàn có liên quan khác
trong khuôn khổ APEC như Hội đồng tư
vấn kinh doanh APEC (ABAC) và các
chuyên gia có liên quan tham dự với tư
cách quan sát viên các hoạt động của
Nhóm.
Theo sự định hướng của Kế
hoạch hàn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- canh_tranh_va_nguoi_tieu_dung.pdf