Cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh lãi suất hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại 3 1.1. Lý luận chung về cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng. 3 1.2. Lý luận chung về lãi suất trong hoạt động ngân hàng 4 1.3. Sự cần thiết khách quan của cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay vốn trên thị trường ngân hàng 7 cho vay vốn của các NHTM. 8 1.4. Nội dung của cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các NHT

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1717 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp , để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
M 8 Chương 2 - Thực trạng cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay 12 2.1. Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 12 2.2. Ưu thế cạnh tranh của mỗi loại hình ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay 14 2.3. Cạnh tranh thông qua lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay 15 2.4. Cạnh tranh thông qua lãi suất cho vay vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay 18 2.5. ảnh hưởng của cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay 20 chương 3- Giải pháp và kiến nghị nhằm đảmbảo việc cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay được lành mạnh, an toàn 24 3.1. Các giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại và hạn chế trong cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay vôns của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay 24 3.2. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo việc cạnh tranh nói chung và cạnh tranh lãi suất nói riêng giữa các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay được lành mạnh an toàn 26 3.3. Một số yếu tố giúp cạnh tranh thành công trong kinh doanh ngân hàng thế kỷ 21 Kết luận 31 Tài liệu tham khảo 33 Mở đầu Kể từ sau khi bắt đầu đổi mới hoạt động ngân hàng năm 1989, cho đến nay, mức độ tập trung trong hệ thống ngân hàng đã được thay đổi không ngừng. Hệ thống ngân hàng bao gồm: các Ngân hàng Thương mại quốc doanh, Ngân hàng Thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các định chế tài chính khác với cơ cấu và thị phần xác định. Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, mà cạnh tranh là quy luật vốn có của kinh tế thị trường.Hơn nữa ngân hàng thương mại tồn tại với tư cánh là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, cho nên trong hoạt động của nó cạnh tranh là một hiện tượng tự nhiên và cũng là tất yếu khách quan không thể tránh khỏi. Trong khi đó, lãi suất là một vấn đề được quan tâm nhiều nhất trong tất cả các vấn đề kinh tế. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì nó vừa là công cụ dể huy động vốn và cho vay, vừa là một công cụ để cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại với nhau. Do vậy, vấn đề Cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay là một vấn đề lớn được đặt ra với yêu cầu cấp thiết cần được nghiên cứu sâu và làm rõ hơn nữa. Nhất là kể từ ngày 2/8/2000 ngân hàng nhà nước chuyển từ cơ chế điều hành lãi suất trần sang cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản và từ ngày 7/7/2000 Bảo hiểm tiền gửi chính thức khai trương hoạt động. Chính vì thế, nghiên cứu đề tài này có giá trị khoa học và thực tiễn sâu sắc. Nó góp phần vào công tác nghiên cứu khoa học ngân hàng nhằm tăng thêm cơ sở lí luận về cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay của các ngân hàng thương mại. Đồng thời chỉ ra được thực tiễn của hoạt động này ra sao? Chỉ ra được mặt tích cực, tồn tại và hạn chế để từ đó đưa ra giải pháp nhằm khắc phục tồn tại và hạn chế cũng như tăng thêm tính tích cực của hoạt động này. Từ đó, đối với ngân hàng thương mại có thể có phương hướng hoạt động thực tế để điều hành và tạo ra một môi trường cạnh tranh về lãi suất huy động vốn và cho vay giữa các Ngân hàng Thương mại một cách bình đẳng, an toàn và lành mạnh tiến tới tự do hoá lãi suất. Còn đối với các Ngân hàng Thương mại có được phương châm hành động, bên cạnh việc cạnh tranh bằng lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay mà còn chú trọng hơn nữa đối với công cụ cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ nhằm hiện đại hoá công nghệ ngân hàng mình nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung,nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất. Tuy nhiên,vấn đề đã được sự chú ý nghiên cứu của những nhà quản lý ngân hàng ở bậc vĩ mô. cũng như những nhà nghiên cứu khoa học ngân hàng và những người hoạt động, học tập, quan tâm đến lĩnh vực này. Nhưng bởi lẽ. nó là một vấn đề phức tạp và chưa có được lời giải chu toàn. Do đặc thù kinh tế thị trường nước ta cũng như trong hệ thống ngân hàng việt nam trong mỗi thời kỳ, giai đoạn có sự biến động khác nhau. Thiết nghĩ như vậy, nên em chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu của mình cho môn Lý Thuyết Tài Chính Tiền Tệ (môn chuyên ngành của khoa tài chính ngân hàng). Trên cơ sở những bài báo sưu tầm được, sách chuyên ngành, sách tham khảo, bài giảng môn lý thuyết tài chính tiền tệ, cộng với vốn kiến thức tích luỹ: học tập, thực tế của bản thân thông qua các phương pháp nghiên cứu: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp lịch sử-lôgíc, phương pháp kinh tế học, phương pháp thực chứng, phương pháp chuẩn tắc, phương pháp phân tích cung cầu, phương pháp phân tích cạnh tranh giá và phương pháp tổng hợp. Nhằm góp một phần sức nho nhỏ của mình vào vấn đề lớn hiện nay của ngành ngân hàng việt nam. Kết cấu của bài viết được chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các Ngân hàng Thương mại Chương 2: Thực trạng cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam hiện nay. Chương 3 : Giải pháp và kiến nghị nhằm đảm bảo cạnh tranh lãi suất lành mạnh trong hoạt động huy dộng vốn và cho vay vốn của các Ngân hàng Thương mại ở Việt Nam hiện nay. Chương 1 Cơ sở lý luận về cạnh tranh lãi suất hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại. Trong hoạt động kinh doanh người bán hàng và người cung ứng sản phẩn, dịch vụ có tư tưởng độc quyền,còn người mua hàng và sử dụng dịch vụ thì có tư tưởng chống độc quyền, cạnh tranh thường đem lại lợi ích thực sự cho người tiêu dùng , thúc đẩy nhanh sự phát triển, nhưng cạnh tranh phải đúng luật và phải có ‘tổ chức’. Trong lĩnh vực ngân hàng, ngày nay cạnh tranh làm tăng chất lượng dịch vụ và phục vụ, bên cạnh đó nó còn xác định giá cả của quan hệ tín dụng đó là lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay mang đầy tính cạnh trạnh gay gắt.Vậy cơ sở lí luận cho việc cạnh tranh này là gì ? tại sao sự tồn tại của nó là cần thiết? Và nội dung ra sao ? chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu ở dưới đây.. Lí luận chung về cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng Với chính sách mở cửa của nền kinh tế được thúc đẩy bởi chương trình tự do thương mại, phát triển kinh tế nhiều thành phần, cũng như việc chuẩn bị tham gia các khối thương mại tự do và các thị trường chung,cùng với sự xâm nhập của các công ty đa quốc gia vào Việt nam nói chung và ngành tài chính ngân hàng nói riêng đã làm tăng thêm sức ép cạnh tranh lên các ngân hàng việt nam đang còn non trẻ trong nền kinh tế thị trường. Khái niệm về cạnh tranh. “Cạnh tranh“ có thể định nghĩa như là khả năng của một công ty nhằm đáp ứng và chống lại các đối thủ cạnh tranh trong cung cấp sản phẩm một cách lâu dài và có lợi nhuận. Do vây có thể nói, cạnh tranh là một khái niệm năng động, trong đó bao gồm các yếu tố ngắn hạn và dài hạn. Qua nghiên cứu của nhiều khoa học gia trên thế giới thì một công ty có thể cạnh tranh thành công khi có được những lợi thế cụ thể nào đó hơn các nhà cung cấp khác. Tuy nhiên, lợi thế của công ty có thể bị lu mờ dần theo thời gian và khi không có sự quản trị các nguồn lực để duy trì lợi thế trong điều kiện thị trường thay đổi thì sớm hay muộn, công ty sẽ bị mất lợi thế cạnh tranh của mình. Nội dung cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng. Trong kinh doanh lĩnh vực tài chính, các ngân hàng và các định chế tài chính phi ngân hàng cạnh tranh lẫn nhau trong việc cung cấp dịch vụ tài chính dựa vào các ưu thế của mình trong các phương diện sau. Một là: giá cả của các sản phẩm, dịch vụ tài chính. Mật độ phục vụ về mặt địa lí (số chi nhánh,phòng giao dịch vv...). Sự đa dạng về sản phẩm, dịch vụ tài chính cung cấp. Chất lượng sản phẩm và dịch vụ ngân hàng (tốc độ xử lí và tính chính xác của việc xử lí). Hai là: sự tin cậy Lòng tin của công chúng vào ngành ngân hàng nói chung và một ngân hàng nói riêng, phụ thuộc vào các yếu tố như: vốn tự có, sự ổn định của thu nhập, chất lượng thông tin do ngân hàng cung cấp và công khai . Các yếu tố của cạnh tranh “cạnh tranh” được xác định bởi 3 yếu tố liên hệ với nhau : (1*) Thực hiện cạnh tranh;(2*)Tiềm lực cạnh tranh ;(3*)Quản trị quá trình cạnh tranh. Ba yếu tố này mô tả những bước khác nhau trong quá trình cạnh tranh. Thực hiện Tiềm lực (1)Sự thực hiện có thể chứng minh được. (2)Năng lực hoàn thiện việc thực hiện. (3)Tạo ra những khả năng lựa chọn tiềm lực. (4)Quản trị các giải pháp tiềm năng để đạt được kết quả. Quá trình (5)Kết quả đạt được giúp nâng cao quá trình quản trị. (6)Quyết định quản trị tạo ra các tiềm lực. Lí luận chung về lãi suất trong hoạt động ngân hàng. Khái niệm và phân loại. a) Khái niệm: Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu. Tỷ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất. Vậy lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Lãi suất phải được trả bởi lẽ : Người đi vay đã sử dụng vốn của người cho vay để phục vụ nhu cầu sinh lợi trong sản suất kinh doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng của mình. Việc người đi vay chuyển quyền sử dụng vốn cho người khác nghĩa là anh ta đã hi sinh quyền sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình. Đánh đổi cho sự chuyển quyền đó là quyền mà người cho vay được trả lãi suất. Trong nền kinh tế thị trường, người đi vay cũng như người cho vay có thể là doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình, chính phủ hoặc có thể là người nước ngoài. Đối với người đi vay, lãi suất tạo nên khoản chi phí làm giảm lợi nhuận, còn đối với người cho vay, lãi suất là một nguồn tạo ra thu nhập. Vì vậy, sự diễn biến của lãi suất trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi chủ thể kinh tế. Nó tác động đến những quyết định của các cá nhân như chi tiêu hay để giành, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi vốn vào một tài khoản tiết kiệm. Lãi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp hoặc của các gia đình như:Dùng vốn để đầu tư mua thiết bị mới cho các nhà máy hoặc để gửi tiết kiệm trong một ngân hàng. Do những ảnh hưởng đó, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí. b) phân loại lãi suất tín dụng ngân hàng . Lãi suất tín dụng áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và doanh nghiệp trong việc thu hút tiền gửi và cho vay,trong hoạt động tái cấp vốn của ngân hàng trung ương cho các ngân hàng thương mại và trong quan hệ giữa các ngân hàng thương mại với nhau trên thị trường liên ngân hàng. Việc phân biệt khái niệm lãi suất trong quan hệ này là cần thiết để hiểu rõ mối quan hệ giữa chúng. Thứ nhất là : lãi suất tiền gửi là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi. Nó được áp dụng để tính tiền lãi phải trả cho người gửi tiền. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, vào qui mô tiền gửi. Thứ nhì là: lãi suất tiền vay là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn vay của ngân hàng. Nó được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả ngân hàng. Về mặt nguyên tắc mức lãi suất tiền vay bình quân phải cao hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân và có sự phân biệt giữa các khoản vay với thời hạn khác nhau cũng như mức rủi ro khác nhau. Thứ ba là: lãi suất chiết khấu áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Thứ tư là: Lãi suất tái chiết khấu áp dụng khi ngân hàng trung ương tái cấp vốn cho các ngân hàng thương mại dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn trả của các ngân hàng. Thứ năm là: lãi suát liên ngân hàng, là lãi suất được các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Thứ sáu là: lãi suất cơ bản, là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Trên cơ sở phân loại như vậy và trong giới hạn phạm vi bài nghiên cứu này em chỉ đi nghiên cứu sâu về lãi suất huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại Việt nam cũng như chỉ trên khía cạnh cạnh tranh của nó mà thôi . 1.2.2 Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường. Lãi suất là một công cụ kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy lãi suất thống nhất sẽ khuyến khích doanh nghiệp vay vốn để đầu tư phát triển sản xuát kinh doanh và nó là công cụ buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn có hiệu quả. Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô vì lãi suất tạo nên khoản chi phí của người đi vay, cho nên sự biến động lãi suất có tác động đến đầu tư, tiêu dùng,qua đó tác động đến các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô. Lãi suất là công cụ phân phối vốn có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng triệt để các nguồn lực của nên kinh tế. Lãi suất là công cụ đo lường tình trạnh sức khoẻ của nền kinh tế. Lãi suất là biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế. Căn cứ vào sự biến động đó của lãi suất, người ta có thể dự báo các yếu tố khác nhau của nền kinh tế như: Tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách. Người ta cũng có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai. 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suát thị trường. Lãi suất thị trường được xác định tại điểm cân bằng cung cầu quỹ cho vay, tại một thời điểm quyết định mức lãi suất thị trường tại thời điểm đó. Vì vậy, các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất thị trường cũng chính là những nhân tố làm thay đổi điểm cân bằng của thị trường. Những nhân tố này bao gồm: Một là: Những nhân tố làm dịch chuyển đương cầu cho vay: Lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư: lạm phát dự tính: tình trạng ngân sách nhà nước. Hai là: Những nhân tố làm dịch chuyển đường cung quỹ cho vay: tài sản và thu nhập; tỷ suất lợi tức dự tính của các công cụ nợ; rủi ro tính lỏng của các công cụ đầu tư. Sự cần thiết khách quan của cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay vốn trên thị trường ngân hàng. Cạnh tranh là quy luật phổ biến của nền kinh tế thị ttrường.Nhưng cạnh tranh không phải là huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế người thiếu khả năng bằng người có “đầu óc” , thay thế doanh nghiệp sử dụng lãng ohí các nguồn lực xã hội bằng các doanh nghiệp có hiệu quả hơn; thay sự đáp ứng nhu cầu xã hội không đầy đủ bằng sự đáp ứng ngày một tốt hơn. Chính vì vậy, cạnh tranh thị trường là một động lực phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, cũng như của từng doanh nghiệp. 1.3.1 Do yêu cầu của nền kinh tế thị trường việt nam hiện nay đặt ra. Trong điều kiện hiện nay, khi khu vực hoá toàn cầu đang trở thành xu hướng phổ biến thì quá trình hợp tác phối hợp theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi giữa các quốc gia luôn kèm theo quá trình cạnh tranh gay gắt khốc kiệt. Trong môi trường kinh tế thế giới như vậy, yêu cầu khách quan và cấp bách đối với Việt nam là nâng cao tính cạnh tranh của nên kinh tế để hội nhập ngày càng sâu, rộng và có hiệu quả hơn. Trong đó ngành ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát thiển của đất nước, trong sự tương quan với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong điều kiện kinh tế thị trường, cùng với quá trình hợp tác liên kết kinh tế theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi, giữa các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một lĩnh vực luôn xảy ra quá trình ngày càng gay gắt và quyết liệt. Tuy là loại hình doanh nghiệp có một số nét đặc thù, các ngân hàng cũng không nằm ngoài quy luật này. Do thực trạng hoạt động ngân hàng nước ta đặt ra. Trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng nhiều năm ngày nay, các doanh nghiệp, đông đảo khách hàng được chủ động lựa chọn ngân hàng thương mại (NHTM) để quan hệ gửi tiền, vay vốn, mở L/C, thanh toán...v.v. Một doanh nghiệp cùng một lúc quan hệ với nhiều ngân hàng thương mại khác nhau. Ngược lại một ngân hàng thương mại cũng chủ động đến với khách hàng, mời chào các doanh nghiệp và đưa ra nhiều hình thức hoạt động kinh doanh của các NHTM khá bình đẳng. Không thấy có sự cạnh tranh trực tiếp như các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế khác. Nhưng trong thực tế, hoạt động kinh doanh ngân hàng lại trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Nếu sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường, mà những quy luật hoạt động của nó được mọi người biết đến như là lẽ đương nhiên của hoạt động trên thương trường, thì kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, tính cạnh tranh còn nhân lên gấp đôi. Thêm nữa trong điều kiện thị trường tiền tệ còn đơn sơ ở nước ta rõ ràng là không thể tránh khỏi cạnh tranh lãi suất, chúng ta phải chấp nhận nó như một quá trình tất yếu của tiến trình tập trung và hiện đại hoá ngân hàng. 1.3.3. Vai trò của cạnh tranh lãi suất trong họat động huy động vốn và cho vay vốn của các NHTM. Cạnh tranh lãi suất tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn có lợi nhất. Họ được các NHTM mời chào, lôi kéo cho vay ưu đãi theo mức độ, vị trí cũng như khả năng tài chính. Tuy nhiên cạnh tranh lãi suất đã gây khó khăn rất lớn cho ngân hàng thương mại cổ phần, những tổ chức tín dụng có vốn tự có thấp, quy mô nhỏ, sinh sau đẻ muộn. Các tổ chức tín dụng này không thể kinh doanh có lãi, không thể huy động huy động vốn đầu vào nếu áp dụng mức lãi suất cho vay như các ngân hàng lớn khác. Trong môi trường cạnh tranh, để tồn tại và phát triển, các NHTM hoạt động không thể không tham gia và không nỗ lực phấn đấu, ganh đua với các đối thủ của mình. Từ đó tạo nên động lực phát triển của mỗi ngân hàng vào sự phát triển chung của ngành ngân hàng và hơn thế nữa là cho sự phát triển của nền kinh tế của cả nước. Nội dung của cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các NHTM. Sau khi đã xây dựng được cơ sở lý luận về cạnh tranh; về lãi suất và lý giải về sự cần thiết của cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại. Vậy thì nội dung của sự cạnh tranh đó là gì? Phải chăng xuất phát từ đặc điểm cạnh tranh của nó? Ta có được nội dung về cạnh tranh trong hoạt động huy động và cho vay vốn của ngân hàng thương mại hay không? Sau đây là phần luận giải. 1.4.1 Đặc điểm chi phối cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Sự cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của các NHTM được chi phối bởi các đặc điểm hoạt động kinh doanh của nó. Chúng ta biết rằng: “nguyên liệu” cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng là tiền. Đó là loại nguyên liệu có tính xã hội hoá và tính nhậy cảm rất cao, chỉ một biến động nhỏ của nó cũng có ảnh hưởng to lớn đến xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng nói riêng. Từ đặc điểm này dẫn đến sự cạnh tranh trong kinh doanh giữa các ngân hàng trở nên quyết liệt hơn. Trong hạt động của ngân hàng thương mại, chỉ có sự thay đổi một chút về lãi suất là khách hàng có thể lập tức thay đổi quan hệ giữa ngân hàng này chuyển qua quan hệ với ngân hàng khác. Thêm vào đó, là tính nhạy cảm của “nguyên liệu” tính dễ bị bắt chước của sản phẩm ngân hàng đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự cạnh tranh của hoạt động ngân hàng. Bên cạnh những đặc điểm đó, tính cạnh tranh quyết liệt còn bị chi phối bởi khách hàng của ngân hàng thương mại không phải là khách hàng luôn luôn ”trung thành” mà rất dễ bị lôi kéo và thay đổi quan hệ giao dịch. Như vậy sự cạnh tranh của nó càng được nhân lên. Nếu các đặc điểm trên tạo nên tính cạnh tranh cao của kinh doanh ngân hàng có thể được coi là các yếu tố bên ngoài, thì đặc điểm về môi trường kinh doanh và công nghệ ngân hàng có thể được coi là những đặc điểm mang tính nội tại làm tăng thêm mức độ cạnh tranh của ngân hàng. .2. Cạnh tranh thông qua lãi suất huy động vốn của các Ngân hàng Thương mại. Nguồn vốn là nguyên liệu “đầu vào” là hoạt động thường xuyên liên tục của hệ thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng chỉ có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh một khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ huy động vốn của mình, tức NHTM là người “chiến thắng” trong cạnh tranh huy động vốn nói chung và thông qua lãi suất nói riêng. Do vậy các NHTM cần phải: Một là: luôn có cơ chế lãi suất cạnh tranh linh hoạt. Lãi suất là yếu tố quan trọng giúp các ngân hàng hấp dẫn khách hàng đến gửi tiền. Bởi vì người có tiền muốn đem gửi ngân hàng, trước tiên họ sẽ so sánh lãi suất huy động nơi nào hơn, kế đến mới là vấn đề an toàn tiền gửi cho họ cũng như các dịch vụ tiện ích mà họ được hưởng. Nếu khách hàng đánh giá các ngân hàng có cùng một “hệ số an toàn” và các dịch vụ “tiện ích“ như nhau, họ sẽ chọn ngân hàng nào có lãi suất huy động cao để mà gửi. Điều này thật không quá khó khăn cho khách hàng bởi vì các phương tiện thông tin lại càng trở nên thông dụng và phổ biến ở nước ta(điện thoại, báo chí, tổng đài cung cấp thông tin kinh tế...v.v.). Hai là: Đa dạng các kì hạn gửi tiền với nhiều mức lãi suất khác nhau. Các nguồn tiền nhàn rỗi, tiền để dành của người dân rất đa dạng. Nếu ngân hàng chỉ huy động các kì hạn 3-6-9-12 tháng...v.v.Như vậy, thì với những khoản thời gian nhàn rỗi của đồng tiền” không khớp” với những kì hạn huy động của ngân hàng sẽ không khuyến khích khách hàng gửi tiền. Do vậy đa dạng các kì hạn tiền gửi với các mức lãi suất khác nhau theo nguyên tắc kì hạn càng dài lãi suất huy động càng cao. Tuy nhiên việc đa dạng các kì hạn gửi tiền sẽ làm cho công việc giao dịch, quản lý dự trữ hồ sơ của ngân hàng có phần vất vả hơn. Ba là: Đa dạng các hình thức lãnh lãi: Khách hàng gửi tiền ngân hàng vì nhiều mục đích khác nhau. Có người vì mục đích an toàn, có người gửi chủ yếu để lấy lãi tiêu xài hàng tháng như các đối tượng là cán bộ hưu trí, sinh viên...v.v. Có người dư giả gửi tiền để đồng vốn ngày càng sinh sôi nảy nở. Vì thế họ chọn cách lãnh lãi cuối kì, lãi suất cao hơn lãnh lãi trước và lãnh lãi suất hàng tháng. Bốn là: Khuyến khích bằng các lợi ích vật chất. Khách hàng gửi tiền, ngoài việc so sánh lãi suất huy động vốn ngân hàng nào cao hơn còn quan tâm đến lợi ích vật chất mà họ được hưởng. Đây cũng là một điểm mà các ngân hàng thương mại cần chú ý để phát huy mạnh mẽ nhất tác dụng của chính suất cạnh tranh lãi suất huy động vốn của mình nhằm đạt được mục tiêu huy động vốn, mục tiêu lợi nhuận. Năm là: Trong cạnh tranh lãi suất huy động vốn của ngân hàng thương mại cần xây dựng những nguyên tắc phải đảm bảo khi nâng cao lãi suất huy động. Đó là các ngân hàng thương mại phải kinh doanh có lãi; Phải đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhà nước thuận lợi và có điều kiện phát triển; quá trình này phải diễn ra một cách tự nhiên nhờ bàn tay vô hình của cơ chế thị trường và phải hợp pháp. 1.4.3 Cạnh tranh thông qua lãi suất cho vay vốn của các ngân hàng thương mại. Nguồn vốn cũng là sản phẩm “ đầu ra”, là hoạt động thường xuyên liên tục của hệ thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng chỉ có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng tín dụng , nâng cao hiệu quả hoạt đông kinh doanh của mình một khi thực hiện tốt chức năng này, nhiệm vụ cho vay vốn của mình.ở đây ngân hàng hàng thương mại cũng phải là người “chiến thắng” trong cạnh tranh cho vay vốn nói chung và thông qua lãi suất nói riêng. Sau đây là một số biện pháp giúp ngân hàng thành công trong hoạt động cho vay vốn. Thứ nhất là: Để hạ thấp lãi cho vay, một trong những biện pháp thông thường là chuyển hoá nguồn ngoại tệ (lãi suất thấp) thành đồng Việt Nam để cho vay, như vậy cơ cấu lãi suất đầu vào sẽ giảm trong khi lãi suất đầu ra cao hơn, ngân hàng có thể tiết giảm một phần lãi suất cho vay mà không ảnh hưởng nhiều đến doanh lợi. Thứ nhì là: Cho vay bằng ngoại tệ thực chất là hình thức hạ thấp lãi suất cho vay (giảm chi phí của khách hàng). Tuy nhiên đã xảy ra tình trạng một số ngân hàng lạm dụng hình thức này để lôi kéo khách hàng. Bằng cách cho các doanh nghiệp này vay vốn bằng ngoại tệ không đúng với quy định của nhà nước để mời chào khách hàng. Biện pháp này đã được sử dụng ở nhiều ngân hàng có nguồn ngoại tệ dồi dào, nhất là khi mở rộng mạng lưới. Thứ ba là: Huy động nguồn vốn tài trợ, uỷ thác, vay vốn từ các tổ chức tài chính, tín dụng nước ngoài để giảm lãi suất đầu vào cũng là một biện pháp cạnh tranh tốt, tuy nhiên ưu thế này thuộc về một số ngân hàng hàng có quan hệ quốc tế rộng rãi như ngân hàng ngoại thương, Bkimbank,... và không phải ngân hàng nào cũng nhận được nguồn vốn này. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại có thể cạnh tranh với nhau bằng cách trức tiếp hạ lãi suất cho vay vốn đối với nguồn vốn được huy động trong dân cư, của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội đảm bảo tuân thủ chính sách lãi suất do ngân hàng trung ương đặt ra, điều hành cũng như đảm bảo lợi nhuận cho hoạt động của ngân hàng mình. Như vậy, trên đây là toàn bộ cơ sở lý luận cho việc cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại. Từ đó chúng ta vận dụng vào nghiên cứu vấn đề này trong thực tế hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam như thế nào? Chúng ta sẽ cùng chuyển sang chương tiếp theo. Chương 2 Thực trạng cạnh tranh lãi suất trong hoạt động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Sau hơn 10 năm đổi mới, hoạt động ngân hàng ở nước ta đã có bước chuyển biến sâu sắc toàn diện. Hệ thống các ngân hàng thương mại gồm đủ thành phần kinh tế đã được hình thành và đi vào hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường. Hiện nay, trên thị trường tiền tệ hoạt động của các ngân hàng thương mại thể hiện sự cạnh tranh ngày càng trở nên ác liệt trên mọi bình diện. Sự cạnh tranh này được diễn ra trên hai phương diện chủ yếu là cạnh tranh lãi suất và cạnh tranh về trình độ dịch vụ. Cạnh tranh về lãi suất thể hiện là các ngân hàng thương mại thu hút khách hàng thông qua chính sách lãi suất huy động vốn và cho vay vốn hấp dẫn trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, đảm bảo trong khuôn khổ điều hành của chính sách lãi suất do ngân hàng trung ương đặt ra, nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất. Vậy cạnh tranh lãi suất huy động vốn và cho vay hiện nay như thế nào? ưu thế cạnh tranh của từng loại hình ngân hàng ra sao? ảnh hưởng tích cực của nó thế nào? bên cạnh những tồn tại và hạn chế? Chúng ta sẽ cùng nghiên cứu ở dưới đây. 2.1. Chính sách lãi suất của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam Quá trình đổi mới cả tổ chức và cơ chế chính sách hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường cũng là quá trình đổi mới việc điều hành chính sách lãi suất. Chính sách lãi suất của Nhà nước ta trong những năm qua đã đổi mới rất mạnh mẽ nhưng cũng rất thận trọng, đi dần từng bước phù hợp với từng giai đoạn trên con đường tiến đến một chính sách lãi suất thị trường theo hướng tự do hoá lãi suất. Diễn biến cơ bản của chính sách lãi suất trong thời gian qua có thể chia thành các giai đoạn như sau: 2.1.1. Giai đoạn trước 1992. (chính sách lãi suất âm được duy trì) Chính sách lãi suất âm được duy trì trong suốt thời kỳ bao cấp và trong điều kiện mức lạm phát cao; mức lãi suất cho vay nhỏ hơn lãi suất tiền gửi, lãi suất danh nghĩa nhỏ hơn tỷ lệ lạm phát. Tình trạng này làm cho lãi suất không thể thực hiện được những chức năng vốn có của nó, lãi suất không còn là đòn bẩy kích thích nhu cầu tiền gửi của công chúng, phát huy tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. 2.1.2. Giai đoạn từ cuối 1992 đến 1995 (lãi suất thực dương bắt đầu duy trì). Lãi suất dương bắt đầu duy trì từ cuối 1992 và biến động phù hợp với tỷ lệ lạm phát . Bắt đầu từ 10/1996 lãi suất được khống chế bởi các mức lãi suất cho vay cao nhất (1,8%/tháng đối với doanh nghiệp nhà nước và 2,1%/tháng cho kinh tế ngoài quốc doanh) và lãi suất thoả thuận (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu - lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/tháng). Thời kỳ này, lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của chính sách tiền tệ, cùng với lãi suất tái cấp được hình thành vào đầu năm 1991 khi hai pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực. Tuy nhiên hiệu quả của công cụ này còn nhiều hạn chế. 2.1.3. Giai đoạn từ 1/1/1996 đến 1/8/2000 (Cơ chế điều hành theo trần lãi suất được duy trì ). Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn, khống chế trần lãi suất cho vay cao nhất và bắt đầu áp dụng chênh lệch lãi suất tiền gửi - tiền vay 0,35% (cho đến 21/1/1998). Trần lãi suất thay đổi liên tục theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế đặc biệt trong năm 1998, 1999. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm xuống trong thời gian này (từ 1,1%/tháng năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 1/9/99). Việc điều chỉnh chính sách lãi suất như trên nhằm tiến tới việc duy trì một trần lãi suất cho vay, tạo điều kiện để áp dụng mức lãi suất cơ bản và từng bước tự do hoá lãi suất, mặt khác nhằm mục đích kích cầu thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên ảnh hưởng của lãi suất đối với tổng cầu của nền kinh tế Việt Nam rất hạn chế. Có hai lý do: trước hết, việc giảm phát trong thời gian từ 1996 đến nay xuất phát từ sự suy giảm các yếu tố sản xuất liên quan đến tổng cung nhiều hơn tổng cầu, vì thế các chính sách vĩ mô tác động vào tổng cầu sẽ chỉ đem lại hiệu quả hạn chế; thứ hai, sự điều chỉnh lãi suất thường là chậm so với thị trường, nếu mất đi lợi thế bất ngờ của sự thay đổi lãi suất. Từ đầu năm đến cuối năm 7/2000, Ngân hàng Nhà nước vẫn tiếp tục điều hành lãi suất thông qua cơ chế trần lãi suất cho vay, với trần lãi suất cho vay ở khu vực thành thị là 0,85%/tháng, ở khu vực nông thôn là 1%/tháng, trần lãi suất của NHTM CP nông thôn là 1,15%, quỹ tín dụng nhân dân cơ sở cho vay: thành viên là 1,35%/tháng. 2.1.4. Giai đoạn từ 2/8/2000 đến nay(cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản bắt đầu được thực hiện). Đến ngày 2/8/2000, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định thay đổi cơ chế điề._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35054.doc