Phần 1
Lý thuyết về khả năng cạnh tranh
1.1. khái niệm và chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm khả năng cạnh tranh
Cho tới nay đã có nhiều tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp cũng như của một quốc gia.
ở tầm quốc gia. Theo định nghĩa của WEF (Diễn đàn kinh tế thế giới) thì: “khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được mức tăng trưởng cao trên cơ sở các chính sách, thể chế vững bền tương đối và các đ
27 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1571 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cạnh tranh của các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặc trưng kinh tế khác”.
ở cấp doanh nghiệp. Theo Fafchamps cho rằng: “Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường”. Theo khái niệm này, doanh nghiệp nào có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự sản xuất của doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì coi là có khả năng cạnh tranh.
Theo tôi, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu là: “Năng lực nắm giữ thị phần nhất định với mức độ hiệu quả chấp nhận được, vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy khả năng cạnh tranh nâng cao”. Quan điểm có thể áp dụng đối với từng doanh nghiệp, một nền công nghiệp cũng như đối với một quốc gia trong cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới hay khu vực.
1.1.2. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng cạnh tranh
Thị phần của doanh nghiệp: Đây là một chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Thị phần
của doanh nghiệp
- Thị phần của doanh nghiệp so với toàn bộ thị trường. Đó là tỷ lệ % giữa giá trị sản phẩm của doanh nghiệp bán ra so với giá trị của toàn ngành.
- Thị phần của doanh nghiệp so với phân khúc mà nó phục vụ. Đó chính là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số của doanh nghiệp với doanh số của toàn phân khúc.
- Thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh số của doanh nghiệp với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, chỉ tiêu này cho biết vị thế sản phẩm của doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường như thế nào?
Thông qua sự biến động của các chỉ tiêu này mà doanh nghiệp biết mình đang đứng ở vị trí nào, và cần vạch ra chiến lược hành động như thế nào. Chỉ tiêu này nói lên mức độ lớn của thị trường và vai trò vị trí của doanh nghiệp. Nói lên mức độ hoạt động có hiệu quả hay không hay không hiệu quả thông qua sự biến động của chỉ tiêu này. Khi tiềm lực của thị trường đang lên mà phần thị trường của doanh nghiệp không thay đổi tức là thị trương đã ngoài vòng kiểm soát của doanh nghiệp hay một phần của thị trường đã rơi vào đối thủ cạnh tranh cho nên doanh nghiệp cần phải xem xét lại chiến lược kinh doanh của mình để mở rộng thị trường của doanh nghiệp, doanh nghiệp có thể tăng khối lượng sản phẩm trên thị trường hiện tại, có giải pháp thích hợp lôi kéo các đối tượng tiêu dùng tương đối, đối tượng không thường xuyên, lôi kéo khách hàng từ thị trường của đối thủ cạnh tranh với mình…
Lợi nhuận
Lợi nhuận được định nghĩa một cách khái quát là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí, hoặc tính bằng công thức
L = (P - ATC)*Q
Trong đó:
L : lợi nhuận
P : giá
ATC : chi phí đơn vị sản phẩm
Q : khối lượng đơn vị bán ra
(P - ATC) : lợi nhuận đơn vị sản phẩm
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển. Để cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho thị trường các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh, họ mong muốn cho chi phí đầu vào ít nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư dôi để không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, cũng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường để nâng cao khả năng của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn cho biến mức sinh lời của đồng vốn dùng trong kinh doanh. Tỷ lệ này cần bù đắp chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn. Thông thường đồng vốn được coi là sư dụng có hiệu quả nếu tỷ lệ nói trên cao hơn mức sinh lời khi đầu tư vào các cơ hội khác hay ít nhất phải cao hơn mức lãi suất tín dụng ngân hàng.
Tỷ suất doanh thu trên vốn cho biết mức doanh thu tạo ra trên một đông vốn, ngoài ra nó còn cho biết mức độ quay vòng của vốn. Tỷ suất này phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành và chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu tổng hợp, nó không chỉ phán ánh tiềm năng của doanh nghiệp mà còn thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản kinh doanh của doanh nghiệp ấy. Đây chính là: Chênh lệch (giá bán - giá thành)/giá bán. Nếu chỉ tiêu này thấp thì chứng tỏ mức độ cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường là rất gay gắt. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này cao thì chứng tỏ doanh nghiệp đang kinh doanh rất thuận lợi và có hiệu quả.
Ngoài ra, xét về quyền lợi của nhà đầu tư người ta có thể dùng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu để đánh giá khả năng sinh lời trên một đồng vốn của người góp vốn vào doanh nghiệp.
Tỷ lệ chi phí Marketing/Tổng doanh thu.
Đây là một chỉ tiêu đang được sử dụng nhiều để đánh giá năng lực cạnh tranh cũng như hiệu quả tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp.
Thông qua chỉ tiêu này mà doanh nghiệp thấy được hiệu quả hoạt động của mình. Khi xem xét đến tỷ lệ này ta thấy: Nếu chỉ tiêu này cao có nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào chi phí cho công tác marketing mà hiệu quả thu được thì chưa cao, đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét lại cơ cấu chỉ tiêu. Có thể thay vì quảng cáo rầm rộ doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu để tăng lợi ích lâu dài như đầu tư cho chi phí nghiên cứu và phát triển.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
1.2.1 Môi trường vĩ mô
Các nhân tố thuộc về mặt kinh tế: Các nhân tố này tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp theo các hướng.
- Tốc độ tăng trưởng cao làm cho thu nhập của dân cư tăng, khả năng thanh toán của họ tăng dẫn tới sức mua (cầu) các loại hàng hoá và dịch vụ tăng lên, đây là cơ hội tốt cho các doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nào nắm bắt được điều này và có khả năng đáp ứng được nhu cầu khách hàng (số lượng, giá bán, chất lượng, mẫu mã…) thì chắc chắn doanh nghiệp đó sẽ thành công và có khả năng cạnh tranh cao.
- Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước có tác động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá các doanh nghiệp trong nước sẽ giảm khả năng cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của hàng hoá tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu, vì giá hàng nhập khẩu giảm, và như vậy khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại, khi đồng nội tệ giảm giá, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tăng cả trên thị trường trong nước và trên thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của các doanh nghiệp giảm hơn so với các đối thủ cạnh tranh.
- Lãi suất cho vay của các ngân hàng cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp thiếu vốn phải vay ngân hàng. Khi lãi lãi suất cho vay của ngân hàng cao, chi phí của các doanh nghiệp tăng lên do phải trả lãi suất tiền vay lớn, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ kém đi, nhất là khi đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn về vốn.
Các nhân tố về chính trị, pháp luật:
Một thể chế chính trị, pháp luật rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần và trên mọi lĩnh vực. Hay chính sách của Chính phủ về xuất nhập khẩu, về thuế xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất trong nước.
Trình độ về khoa học, công nghệ.
Nhóm nhân tố này quan trọng và có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh.
Trình độ khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đến hai yếu tố cơ bản nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, đó là chất lượng và giá bán. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo nên khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay, đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ cao.
Kỹ thuật và công nghệ mới sẽ giúp cho các cơ sở sản xuất trong nước tạo ra được những thế hệ kỹ thuật và công nghệ tiếp theo nhằm trang bị và tái trang bị toàn bộ cơ sở sản xuất kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân nước ta. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
1.2.2. Môi trường ngành.
Theo Michael Poter, môi trường ngành được hình thành bởi các nhân tố chủ yếu mà ông gọi là năm năng lực cạnh tranh trên thị trường ngành. Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải tính toán cân nhắc tới trước khi có những quyêt định lựa chọn phương thức, nhiệm vụ phát triển của mình. Năm lực lượng đó là:
Sức ép của các đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành:
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có trong ngành là một trong những yếu tố phản ánh bản chất của môi trường này. Sự có mặt của các đối thủ cạnh tranh chính trên thị trường và tình hình hoạt động của chúng là lược lượng tác động trực tiếp mạnh mẽ, tức thì tới quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Trong một ngành bao gồm nhiều doanh nghiệp khác nhau, nhưng thường trong đó chỉ có một số đóng vai trò chủ chốt như những đối thủ cạnh tranh chính có khả năng chi phối, khống chế thị trường. Nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh chính này để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung của ngành.
Sự đe doạ của các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn sẽ gia nhập thị trường.
Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường trực tiếp làm tăng tính chất quy mô cạnh tranh trên thị trường ngành do tăng năng lực sản xuất và khối lượng sản xuất trong ngành. Trong quá trình vận động của lực lượng thị trường, trong từng giai đoạn, thường có những đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường và những đối thủ yếu hơn rút ra khỏi thị trường. Để chống lại các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn các doanh nghiệp thường thực hiện các chiến lược như phân biệt sản phẩm, nâng cao chất lượng, bổ sung những đặc điểm mới của sản phẩm, không ngừng cải tiến, hoàn thiện sản phẩm nhằm làm cho sản phẩm của mình có những đặc điểm khác biệt hoặc nổi trội hơn trên thị trường, hoặc phấn đấu giảm chi phí sản xuất, tiêu thụ…
Sức ép cạnh tranh của các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường ngành phụ thuộc chặt chẽ vào đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành và mức độ hấp dẫn của thị trường đó.
Sức ép của nhà cung ứng:
Những nhà cung ứng cũng có sức mạnh thoả thuận rất lớn. Có rất nhiều cách khác nhau mà người cung ứng có thể tác động vào khả năng thu lợi nhuận của ngành.
Các nhà cung cấp có thể gây ra những khó khăn nhằm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong những trường hợp sau:
- Nguồn cung cấp doanh nghiệp chỉ cần có một hoặc vài công ty độc quyền cung cấp.
- Nếu các nhà cung cấp có khả năng về các nguồn lực để khép kín sản xuất, có hệ thống mạng lưới phân phối hoặc mạng lưới bán lẽ thì họ sẽ có thế lựcđáng kể đối với doanh nghiệp là khách hàng.
sức ép của khách hàng:
Sức mạnh khách hàng thể hiện ở chỗ họ có thể buộc các nhà sản xuất phải giảm giá bán sản phẩm thông qua việc tiêu dùng ít sản phẩm hơn hoặc đòi hỏi chất lượng sản phẩm cao hơn. Nếu khách hàng mua với khối lượng lớn, tính tập trung của khách hàng cao hơn so với các doanh nghiệp trong ngành.
Sự xuất hiện của những sản phẩm thay thế:
Những sản phẩm thay thế cũng là một trong những lực lượng tạo nên sức ép cạnh tranh lớn đối với các doanh nghiệp trong ngành.
Mức độ sẵn có của những sản phẩm thay thế cho biết giới hạn trên của giá cả sản phẩm trong ngành. Khi giá của sản phẩm tăng quá cao khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng những sản phẩm thay thế. Hoặc do mùa vụ, thời tiết mà khách hàng cũng chuyển sang sử dụng sản phẩm thay thế. Sự sẵn có của những sản phẩm thay thế trên thị trường là một mối đe doạ trực tiếp đến khả phát triển, khả năng cạnh tranh và mức lợi nhuận của các doanh nghiệp.
1.2.3. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp.
Nguồn nhân lực.
Đây là yếu tố quyết định của sản xuất kinh doanh bao gồm:
- Ban Giám đốc Doanh nghiệp
- Cán bộ quản lý ở cấp Doanh nghiệp
- Cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân
* Ban Giám đốc DN. Là những cán bộ quản lý ở cấp cao nhất trong doanh nghiệp, những người vạch ra chiến lược trực tiếp điều hành, tổ chức thực hiện công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Những công ty cổ phần, những công ty lớn ngoài Ban Giám đốc còn có hội đồng quản trị là đại diện cho các chủ sở hữu doanh nghiệp.
Các thành viên Ban Giám đốc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu các thành viên có trình độ, kinh nghiệm, khả năng đánh giá, năng động, có mối quan hệ tốt với bên ngoài thì họ sẽ đem lại cho doanh nghiệp không những lợi ích trước mắt, như tăng doanh thu lợi nhuận, mà còn cả lợi ích - uy tín lâu dài của doanh nghiệp và đây mới là yếu tố quan trọng tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Đội ngũ cán bộ quản lý trung gian, đốc công và công nhân.
Nguồn cán bộ của một doanh nghiệp phải đồng bộ. Sự đồng bộ này không chỉ xuất phát từ thực tế là đội ngũ lao động của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ yêu cầu kết hợp nguồn nhân lực với các nguồn lực về tổ chức và vật chất
Trình độ tay nghề của công nhân và lòng hăng say làm việc của họ là một yếu tố tác động mạnh mẽ đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì khi tay nghề cao, lại cộng thêm lòng hăng say nhiệt tình lao động thì tăng năng suất lao động là tất yếu. Đây là tiền đề để các doanh nghiệp có thể tham gia và đứng vững trong cạnh tranh.
Nguồn lực vật chất và tài chính.
* Máy móc thiết bị và công nghệ:
Tình trạng trình độ máy móc thiết bị và công nghệ có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp và tác động trực tiếp tới sản phẩm. Ngoài ra, công nghệ sản xuất, máy móc thiết bị cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán sản phẩm. Một doanh nghiệp có trang thiết bị máy móc hiện đại thì sản phẩm của họ nhất định có chất lượng cao. Ngược lại không có một doanh nghiệp nào có thể nói là có khả năng cạnh tranh cao khi trong tay họ là cả hệ thống máy móc cũ kỹ với công nghệ lạc hậu.
* Tiềm lực tài chính của doanh nghiệp.
Bất cứ một hoạt động đầu tư, mua sắm hay phân phối nào cũng đều phải xét, tính toán trên tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đâu tư mua sắm trang thiết bị, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, để duy trì và nâng cao sức cạnh tranh, cung cấp tín dụng thương mại, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và cũng cố của mình trên thương trường.
Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp và kể cả khả năng cạnh tranh của các đối thủ, doanh nghiệp đều phải xem xét đầy đủ các yếu tố tác động, từ đó “gạn đục, khơi trong” tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Phần 2
Thực trạng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trước thềm hội nhập kinh tế ở Việt nam
2.1. Những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam
Khi nói tới DNV&N nói chung, chúng ta đều nghĩ đến đặc điểm chung nhất đó là: số lợng lao động ít, trình độ không cao; nhu cầu về vốn đầu tư nhỏ nhưng tỷ suất vốn cao và thời gian hoàn vốn nhanh; chi phí sản xuất cao do đó giá thành đơn vị sản phẩm cao hơn so với sản phẩm của các doanh nghiệp lớn vì vậy vị thế của các DNV&N trên thị trường nhỏ. Các DNV&N bị hạn chế trong việc đáp ứng nhu cầu rộng nhưng lại có ưu thế trong việc đáp ứng nhu cầu đặc thù; các doanh nghiệp này dễ phân tán và ít gây tác động mạnh tới nền kinh tế – xã hội
Các DNV&N ở Việt Nam hiện nay ngoài những đặc điểm trên còn có những đặc điểm cơ bản sau:
- Sự phát triển của các DNV&N ở Việt Nam trải qua nhiều biến động thăng trầm đặc biệt là sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trờng
- Việt Nam là một nước kinh tế kém phát triển nền sản xuất nhỏ là phổ biến, do đó các doanh nghiệp có quy mô nhỏ có diện rộng phổ biến.
- Phần lớn các DNV&N trong khu vực ngoài quốc doanh mới thành lập, thiếu kiến thức kinh doanh cha quen với thị trờng. Các doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ còn chịu ảnh hởng nặng nề của cơ chế cũ; máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu, bế tắc về thị trường tiêu thụ.
- Về sở hữu, bao gồm sở hữu nhà nước (có trên 4000 DNV&N) và sở hữu tư nhân (trên 17000 doanh nghiệp và công ty tư nhân, trên 1,8 triệu hộ kinh tế các thể hoạt động theo Nghị định 66/HĐBT).
- Về hình thức tổ chức bao gồm các loại hình: Doanh nghiệp Nhà nớc, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hộ kinh tế cá thể.
- Trình độ quản lý trong các DNV&N còn rất hạn chế thiếu kiến thức về quản trị kinh doanh và luật pháp, thiếu kinh nghiệm. Trình độ văn hoá kinh doanh còn thấp tồn tại nhiều tiêu cực.
- Các DNV&N ở nước ta phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Xu hớng tập trung vào các ngành ít vốn thu hồi vốn nhanh, lãi xuất cao như thương nghiệp, du lịch, dịch vụ.
- Nhà nớc chỉ mới có các định hớng lớn khuyến khích DNV&N, cơ chế chính sách thiếu đồng bộ, nguồn lực tài chính của Nhà nớc còn hạn chế.
2.2. Những lợi thế và bất lợi trong cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam
2.2.1 Những lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Chúng gắn liền với các công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại.
- Quy mô nhỏ có tính năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao thu hồi vốn nhanh.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn so với doanh nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất việc làm cao hơn
- Hệ thống to chức sản xuất và quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp.
- Quan hệ giữa người lao động và người quản lý (quan hệ chủ- thợ) trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khá chặt chẽ.
- Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền.
2.2.2 Những bất lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
- Công nghệ lạc hậu, trình độ chuyên môn hoá thấp, quy mô rất nhỏ (nếu xét theo tiêu chí DNVVN của thế giới): 76% máy móc, thiết bị thuộc thế hệ những năm 50 – 60, trong đó 70% đã hết khấu khao.
- Thiếu vốn, khó tiếp cận với các nguồn tín dụng đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn.
- Thiếu nguồn nhân lực được đào tạo cơ bản, có trình độ tay nghề, yên tâm với công việc: Theo điều tra mới đây, cả nước có 10,2% lựu lượng lao động đã qua đào tạo có trình độ đào tạo từ công nhân kỹ thuật trở lên. Trong số 2,5 triệu công nhân chỉ có 4000 công nhân bậc cao (gần bằng 0,2%), 36% đào tạo theo tiêu chuẩn quốc gia, 39,3% đào tạo ngắn hạn còn lại chưa qua đào tạo.
- Thiếu mặt bằng sản xuất. Hiện nay đây là vấn đề rất khó khăn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nó hạn chế không ít đến sự phát triển của khu vực doanh nghiệp này
- Thiếu thông tin. Sự phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước, Phòng thương mại, các hiệp hội để hình thành các mạng lưới trao đổi, cập nhật thông tin cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế.
- Khả năng tiếp cận thị trường còn yếu. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa thể tự tìm được khách hàng, chưa có mạng lưới khách hàng, chưa có kinh nghiệm thiết lập quan hệ kinh doanh với các bạn hàng. Sự hiểu biết của các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ về thị trường nước ngoài và xu thế của nó, về các nghiệp vụ ngoại thương, các quy định của quốc tế, của các nước khác và ngay của nước ta liên quan đến quản lý xuất nhập khẩu còn chưa thấu đáo. Nhiều chủ doanh nghiệp (đặc biệt ở địa phương) sản xuất những mặt hàng truyền thống để xuất khẩu nhưng lại chưa được đào tạo về nghiệp vụ xuất nhập khẩu. Những hạn chế đó nhiều khi dẫn đến sự phức tạp, rủi ro không đáng có. Ngay cả rào cản về ngôn ngữ cũng là một trở ngại. Số lượng các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng trực tiếp đàm phán với doanh nhân nước ngoài không cần phiên dịch không nhiều.
- Do tình trạng sản xuất manh mún nên sản phẩm của các doanh nghiệp này thiếu tính đồng bộ về tiêu chuẩn, về chất lượng, kỹ thuật. Việc thu gom hàng để xuất khẩu gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó hàng xuất khẩu của Việt Nam ở một số thị trường thế giới vẫn bị phân biệt, đối xử, chịu những rào cản thương mại như : thuế quan cao hơn, các biện pháp bảo vệ vệ sinh - dịch tả và tiêu chuẩn kỹ thuật, làm cho khả năng xâm nhập thị trường của hàng Việt Nam giảm xuống.
- Một số thủ tục hành chính còn chưa tạo điều kiện thuận lợi để áp dụng những tư tưởng mới vào kinh doanh, phát huy tính năng động, linh hoạt - một ưu thế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong môi trường còn có đối xử chưa bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp, chưa nhận được sự quan tâm và hỗ trợ thích đáng, kịp thời của Nhà nước.
Những hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ đã buộc các chủ doanh nghiệp phải tìm cách tháo gỡ, khắc phục nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tê.
2.3. Hội nhập thị trường thế giới: cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp đóng góp 25% GDP, giải quyết việt làm cho gần 8 triệu lao động, tiến tới khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động của cả nước, đóng góp khoảng 31% tổng giá trị công nghiệp. Một nét đặc biệt của DNV&N Việt Nam là tham gia khá tích cực vào hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp này để giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường nước ngoài có ý nghĩa quạn trọng đối với quá trình hội nhập của Việt Nam.
2.3.1. Những cơ hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế hội nhập ở Việt Nam
- Hội nhập vào nền kinh tế thế giới cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển nhanh hơn. Là nước chậm phát triển, tổng cầu của Việt Nam thấp dẫn đến cơ hội để các doanh nghiệp tự tích luỹ không cao. Hội nhập sẽ giúp cho các doanh nghiệp có khả năng hợp tác thu hút vốn đầu tư, đổi mới thiêt bị và công nghệ, thúc đẩy sản xuất và mở rộng thêm thị trường, nâng cao mức tích luỹ.
- Toàn cầu hoá sẽ đẩy mạnh giao lưu, làm cho quan hệ trao đổi ngày càng thông thoáng bên trong, rộng mở bên ngoài. Với tư cách là người tiêu thụ các thiết bị kỹ thuật, máy móc và là khách hang của một số dịch vụ quốc tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ dễ dàng hơn trong việc lựa chọn sản phẩm phù hợp với giá cả thấp hơn. Đồng thời thị trường rộng lớn hơn sẽ giúp các doanh nghiệp giảm bớt được sức ép do chu kỳ sống của sản phẩm bị rút ngắn lại.
- Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ, khoảng cách không gian được dần dần cải thiện, thông qua mạng lưới viễn thông toàn cầu các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận được thị trường xa xôi.
- Mặc dù là nước kém phát triên nhưng so sánh các nước có cùng trình độ kinh tế, thì tiềm năng trí tuệ của nguồn nhân lực nước ta ở mức khá cao. Đây là một lợi thế lớn nếu được phát huy sẽ trở thành một nhân tố quan trọng tạo nên sự thành công của doanh nghiệp nhất là khi thế giới đang chuyển dần sang nền kinh tế hậu công nghiệp.
2.3.2. Những thách thức của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế hội nhập ở Việt Nam.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng nhận được sự cạnh tranh trong nước và quốc tế. Họ đặc biệt cần có thông tin về thị trường, người mua, người bán, giá cả, các quy định thương mại và cách thức buôn bán trên thị trường mục tiêu.
- Với nổ lực nhằm khác biệt hoá sản phẩm, tạo ra hình ảnh hay đáp ứng sở thích của người tiêu dùng, các doanh nghiệp cần phải thực hiện việc phát triển sản phẩm, thiết kế lại hay sửa lại. Điều này đòi hỏi phải có chuyên môn cao mà ở những nước đang phát triển thì việc này rất khó.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải xem xét làm thế nào để nâng cao chất lượng sản phẩm và đóng góp hàng hoá đáp ứng với tiêu chuẩn quốc tế. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có phòng giám sát chất lượng hay các chuyên gia quản lý chất lượng. Các quy định của thị trường xuất khẩu hay khách hàng nước ngoài có thể đòi chất lượng hay quy cách phẩm chất cao hơn. Việc đóng gói hàng hoá do vậy phải là một công cụ tiếp thị sản phẩm đầy quyền lực. Các quy định đóng gói mới phải được giới thiệu để bảo vệ môi trường.
- Giá cả là động lực thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường. Do vậy việc nâng cao năng lực sản xuất và giảm chi phí là đặc biệt quan trọng. Các doanh nghiệp ở nước ta nên được tư vấn về kỹ thuật định giá và chi phí cạnh tranh.
- Việc tiết kiệm chi phí có thể đạt được từ 15% đến 20% nhờ vào việc đặt kế hoạch cung cấp hàng hoá một cách cẩn thận. Tuy nhiên, chỉ một số ít các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đã tận dụng kỷ năng này và đạt được mức tiết kiệm trên. Còn phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã quen bằng lòng với các nhà cung cấp truyền thống với số lượng hàng hoá lớn làm cho chi phí nhập khẩu quá mức cần thiết.
- Công nghệ lạc hậu có thể làm giảm chất lượng sản phẩm, tăng chi phí và làm sản phẩm không cạnh tranh được. Rất nhiều công nghệ lạc hậu cũng gây ô nhiễm cao. Sớm hay muốn thì những doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng công nghệ lạc hậu sẽ bị loại khỏi thị trường.
- Kiến thức, kỷ năng và kinh nghiệm sẽ sớm trở nên lạc hậu nếu không được nâng cao liên tục. Khi bằng cấp ngày càng trở nên phổ biến thì các doanh nghiệp ở nước ta lại ít tiếp cận với đào tạo thực tế, điều mà họ thực sự cần.
2.4. Thực trạng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Theo lộ trình gia nhập AFTA thì từ nay đến năm 2006, Việt Nam phải từng bước cắt giảm thuế xuống mức 0- 5% đối với mặt hàng trong danh mục IL (cắt giảm ngay) và TEL (cắt giảm tạm thời). Khi đó sự bảo hộ bằng hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá sản xuất trong nước sẽ không còn tác dụng, hàng Việt Nam liệu có cạnh tranh được với hàng nước ngoài tại thị trường trong nước lẫn thị trường ASEAN được không? Chúng ta cần xem xét thực trạnh khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Sức cạnh tranh của sản phẩm đầu ra được quyết định bởi 4 yếu tố chính: giá bán (thấp), chất lượng (cao), tổ chức tiêu thụ (hợp người tiêu dùng) và uy tín của doanh nghiệp (cao). Đại đa số sản phẩm của DNV&N đều yếu kém hơn sản phẩm cùng loại của các nước ASEAN hoặc của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Sự yếu kém đó bắt nguồn từ các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, giá đầu vào cao
Theo điều tra 800 DNV&N do phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam tiến hành mới đây cho thấy các DNV&N chỉ chiếm 2,87 điểm (theo thang điểm từ 1 đến 5) cho khả năng cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài tại thị trường Việt Nam. Trong khi đó, khả năng cạnh tranh với các đối thủ trong nước được các DNV&N đánh giá ở mức 3,55 điểm. Đặc biệt so với năm 1999, thang điểm về sức cạnh tranh của các DNV&N tại thị trường trong nước đã tăng từ 3,6 lên 3,7 điểm trong năm 2000. Rõ ràng sự vững tin trong cạnh tranh của các DNV&N chỉ thực sự mạnh mẽ tại thị trường với những đối thủ quen thuộc. Cũng theo điều tra trên có tới 29% DNV&N trong số 800 doanh nghiệp được hỏi vẫn phải sử dụng trên 40% nguyên phụ liệu nhập khẩu, thậm chí có ngành phải sử dụng 70-80% nguyên phụ liệu nhập khẩu. Vì vậy, tỷ lệ giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu của các DNV&N thấp. Trong xu thế giảm giá hàng xuất khẩu công nghiệp của thế giới, thì việc giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường ASEAN cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn.
Thứ hai, chi phí trung gian cao
So với thời điểm 1996 đến nay, giá xăng dầu tăng 42,2%, giá cước vận chuyển tăng 130%, tiền công tăng 75%, thuế sử dụng đất tăng 90,9%, điện tăng 37,5%, ngoại tệ tăng 20,2%, ngoài ra còn thêm các loại “tiêu cực phí” cũng góp phần không nhỏ vào làm tăng chi phí cho doanh nghiệp.
Thứ ba, chất lượng sản phẩm của các DNV&N Việt Nam còn thấp.
Chất lượng sản phẩm là những tính chất, thuộc tính của sản phẩm được biểu hiện ra bằng việc thoả mãn đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nó là một trong những yếu tố quan trọng không thể thiếu tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà đời sống của con người ngày càng được nâng cao, chiến lược cạnh tranh bằng giá sẽ giần bị thay thế bởi chiến lược cạnh tranh bằng chất lượng. Song song với quá trình đó, chất lượng sản phẩm của Việt Nam đã, đang và sẽ cố gắng hết sức chinh phục khách hàng, nâng cao vị thế cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trong điều kiện hội nhập. Trên thị trường trong nước, ngày càng xuất hiện thêm nhiều “Hàng Việt Nam chất lượng cao” với nhiều doanh nghiệp uy tín và thành công. Trên thị trường thế giới, chất lượng không những giúp hàng hoá Việt Nam tái chiếm được thị trường Đông Âu mà nhiều mặt hàng đã chinh phục những thị trường khó tính Tây Âu, Bắc Mỹ như: may mặc, hải sản,da giầy… Mặt khác, việc thực hiện hệ thống quản lý chất lượng ISO đang dần trở thành yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp khi tham cạnh tranh. Đó là những tín hiệu đáng mừng cho chất lượng sản phẩm Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ bước đầu đó, chất lượng sản phẩm Việt Nam cũng còn không ít những tồn tại, khó khăn. Nhìn chung, chất lượng sản phẩm Việt Nam còn thấp chưa thể so sánh được với sản phẩm cùng loại nước ngoài nhập vào, mà nó còn chịu nhiều tai tiếng về mặt chất lượng, làm sụt giảm niềm tin của người tiêu dùng đối với hàng nội, điển hình là những chỉ trích về hệ thống an toàn vệ sinh thực phẩm… Đối với thị trường quốc tế, bên cạnh một số sản phẩm đang sử dụng chất lượng để cạnh tranh, cũng không ít những sản phẩm có chất lượng chưa cao, ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV414.doc