Cán cân thanh toán ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, mối quan hệ giữa các quốc gia là rất phong phú và đa dạng, bao gồm: thương mại, đầu tư, du lich, văn hóa, quân sự, chính trị,… Những mối quan hệ này tạo nên nguồn thu, chi ngoại tệ cho một quốc gia và được phản ánh chặt chẽ trên cán cân thanh toán. Trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay, việc theo dõi các luồng ngoại tệ ra vào là hết sức quan trọng để có được những chính sách đúng đắn, hiệu quả cho nền kinh tế, điều này khiến cho vai trò của

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1878 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cán cân thanh toán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cán cân thanh toán trở nên hết sức quan trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế phát triển quá nóng và đang gặp nhiều khó khăn, môi trường kinh tế quốc tế diễn biến tiêu cực, cán cân thanh toán phản ánh những diễn biến xấu của nền kinh tế. Thâm hụt trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán Việt Nam được đánh giá là một trong 3 ngòi nổ của khủng hoảng kinh tế. Vậy, thực chất cán cân thanh toán là gì, vai trò và sức ảnh hưởng của nó đến đâu trong nền kinh tế thời kỳ hội nhập hiện nay. Với đề tài tìm hiểu về cán cân thanh toán quốc tế và tình hình cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam, đề án này sẽ làm rõ một số vấn đề về cán cân thanh toán và thực tế diễn biến ở Việt Nam, cũng như chỉ ra những nguy cơ tiểm ần trong cán cân thanh toán của Việt Nam trong thời gian gần đây. I. Lý thuyết chung về cán cân thanh toán 1. Khái niệm chung 1.1. Khái niệm Cán cân thanh toán là một bản báo cáo thống kê tổng hợp có hệ thống, ghi chép lại giá trị tất cả các giao dịch kinh tế giữa những người cư trú và những người không cư trú trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. Có 2 loại cán cân thanh toán: Cán cân thanh toán thời kỳ và cán cân thanh toán thời điểm. Cán cân thanh toán trong một thời kỳ là bản đối chiếu giữa những khoản tiền thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế nước đó chi ra cho nước ngoài trong một thời kỳ nhất định. Vậy, loại cán cân này chỉ phản ánh số liệu thực thu và thực chi của một nước đối với nước ngoài trong thời kỳ đã qua. Cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định là bản đối chiếu giữa các khoản tiền đã và sẽ thu về và chi ra ở một thời điểm cụ thể nào đó. Vậy, trong loại cán cân thanh toán này chứa đựng cả những số liệu phản ánh các khoản tiền nợ nước ngoài và nước ngoài nợ nước đó mà thời hạn thanh toán rơi đúng vào ngày của cán cân. 1.2. Ý nghĩa của cán cân thanh toán Cán cân thanh toán là một công cụ quan trọng của chính sách vĩ mô. Trước hết, cán cân thanh toán phản ánh kết quả hoạt động trao đổi đối ngoại giữa một quốc gia với một quốc gia khác. Với các cán cân bộ phận , cán cân thanh toán cho thấy những số liệu cụ thể về tình hình thương mại quốc tế, chuyển giao vốn trong một thời kỳ hoặc thời điểm nhất định. Những số liệu này rất quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá tiềm năng phát triển kinh tế của một quốc gia cùng với các chỉ tiêu khác như GDP, lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp,… Cán cân thanh toán giúp đánh giá, nhìn nhận hoạt động kinh tế nào mang tính chủ đạo, có lợi cho nền kinh tế, giúp định hướng SXKD và điều hành chính sách. Nhìn vào cán cân thanh toán, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế có thể thấy được bộ phận nào thường có xuất khẩu ròng, bộ phận nào đem lại thu nhập cao cho nền kinh tế… Cán cân thanh toán là một cơ sở quan trọng để đánh giá phân tích những nguy cơ tiềm ẩn của khủng hoảng kinh tế và những xu hướng tới của tỷ giá. Cán cân thanh toán và các cán cân bộ phận của nó phản ánh đầy đủ toàn bộ các luồng ngoại tệ ra vào nền kinh tế trong một thời gian nhất định, cũng như những tác động của NHTW vào thị trường ngoại hối. Cán cân thanh toán do đó, là công cụ dự báo kinh tế, giúp các nhà kinh tế điều hành đưa ra những chính sách phù hợp trong thời gian tiếp theo. 1.3. Trạng thái thặng dư và thâm hụt của cán cân Trước hết, cán cân thanh toán được lập theo nguyên tắc hạch toán kép, trong đó tổng các bút toán ghi có đúng bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau. Do đó, chênh lệch giữa tổng các bút toán ghi có và tổng các bút toán ghi nợ luôn bằng không. Điều này có nghĩa là về tổng thể thì cán cân thanh toán luôn trong trạng thái cân bằng. Do đó, khi nói đến cán cân thanh toán là thặng dư hay thâm hụt, người ta muốn nói đến trạng thái thặng dư hay thâm hụt của một hay một nhóm các bộ phận nhất định trong cán cân thanh toán. Về mặt nguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt cán cân bộ phận là chênh lệch giữa tổng các bút toán ghi có và tổng các bút toán ghi nợ trên từng cán cân bộ phận. 2. Nội dung của cán cân thanh toán 2.1. Cán cân vãng lai 2.1.1. Cán cân thương mại Cán cân thương mại còn được gọi là cán cân hữu hình, bởi nó phản ánh chênh lệch giữa các khoản thu từ xuất khẩu và các khoản chi cho nhập khẩu hàng hóa, trong đó những hàng hóa này có thể quan sát thấy bằng mắt thường khi di chuyển. Cán cân thương mại phản ánh chênh lệch thu chi về xuất nhập khẩu hàng hóa hữu hình trong một thời gian nhất định. Xuất khẩu làm phát sinh các khoản thu nên được ghi có trong cán cân thương mại, còn nhập khẩu làm phát sinh các khoản chi nên được ghi nợ trong cán cân thương mại. Khi thu nhập từ xuất khẩu lớn hơn chi cho nhập khẩu hàng hóa, tức là khi này nền kinh tế có xuất khẩu ròng dương, thì cán cân thương mại thặng dư. Ngược lại, khi thu nhập từ xuất khẩu thấp hơn thu nhập dùng cho nhập khẩu hàng hóa, tức là nền kinh tế xuất khẩu ròng âm thì cán cân thương mại ở trạng thái thâm hụt. Với nội dung của cán cân thương mại, có thể thấy cán cân thương mại chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các yếu tố tác động lên xuất nhập khẩu hàng hóa của một quốc gia. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến thương mại và trạng thái của cán cân thương mại là tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, thu nhập của người tiêu dùng trong nước và nước ngoài, giá cả tương đối giữa hàng trong nước và hàng nước ngoài, thị hiếu của người tiêu dùng và các chính sách của chính phủ đối với thương mại. Về nhân tố tỷ giá, khi các yếu tố khác không thay đổi, khi tỷ giá tăng sẽ tác động làm tăng giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ. Khi tỷ giá tăng, đồng ngoại tệ có giá hơn và giá trị của đồng nội tệ giảm. Điều đó có nghĩa là khi đó, giá cả hàng hóa xuất khẩu tính bằng ngoại tệ giảm, từ đó kích thích tiêu dùng hàng xuất khẩu tại nước ngoài. Trong khi đó, đồng nội tệ giảm giá khiến cho việc tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, khiến cho nhu cầu tiêu thụ hàng nhập khẩu giảm. Với hướng tác động là tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu, tỷ giá tăng sẽ tác động giúp cho xuất khẩu ròng tăng, tức là tăng nguồn thu ngoại tệ của quốc gia. Thu nhập của người tiêu dùng trong nước và nước ngoài có ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu hàng hóa và do đó ảnh hưởng đến trạng thái của cán cân thương mại. Thu nhập ảnh hưởng đến khả năng chi trả cho hàng hóa, ảnh hưởng đến sức cầu hàng nhập khẩu và xuất khẩu. Khi người cư trú có thu nhập cao, nhu cầu chi tiêu cho hàng hóa tăng và do đó, nhu cầu đối với hàng hóa nói chung và cả hàng nhập khẩu cũng tăng, dẫn đến nhu cầu ngoại tệ cao hơn. Với thị hiếu người tiêu dùng cũng như vậy, khi người tiêu dùng trong nước ưa thích hàng hóa nước ngoài thì nhập khẩu sẽ tăng, còn khi hàng hóa xuất ra nước ngoài được ưa thích thì xuất khẩu của nước đó sẽ tăng mạnh, đem lại nguồn thu dồi dào cho dự trữ quốc gia. Những biến đổi trong nhu cầu của người tiêu dùng đối với hàng xuất khẩu và nhập khẩu đều có tác động mạnh mẽ và trực tiếp tới cân bằng thương mại và cán cân thương mại của một quốc gia. Đối với yếu tố lạm phát, về cơ bản, với các nhân tố khác không đổi, tỷ lệ lạm phát của một nước cao hơn so với nước ngoài sẽ khiến cho đồng tiền nước đó giảm giá trị, hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt tương đối, do đó hạn chế tiêu dùng hàng xuất khẩu và khối lượng hàng xuất khẩu giảm. Như vậy, lạm phát tăng khiến giá hàng hóa tăng, nhưng khối lượng hàng hóa giảm do vậy không thể chắc chắn giá trị hàng hóa xuất khẩu là tăng hay giảm. Tóm lại, ảnh hưởng của nhân tố lạm phát lên giá trị xuất khẩu là không rõ ràng. Chính sách của chính phủ đối với thương mại như chính sách khuyến khích xuất khẩu, hay hạn chế nhập khẩu bằng thuế quan, hạn ngạch và các công cụ khác có thể ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị xuất nhập khẩu. Đây là một yếu tố có tác động mạnh đến cán cân thương mại và có tác động tức thời, tuy nhiên trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay, việc áp dụng những chính sách này có thể gây ra những thiệt hại do sự trừng phạt của các quốc gia bạn hàng. Cán cân thương mại sẽ được cải thiện khi mà các tác động ròng của các yếu tố tác động lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu là dương, và trở nên xấu đi khi tác động ròng của các nhân tố lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu là âm. 2.1.2. Cán cân dịch vụ Cán cân dịch vụ bao gồm các khoản thu chi từ các hoạt động dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưu chính, viễn thong, hàng không, ngân hàng, thông tin, xây dựng và từ các hoạt động dịch vụ khác giữa người cư trú với người không cư trú. Giống như xuất nhập khẩu hàng hóa, xuất nhập khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ nên được ghi vào bên có và có dấu (+); nhập khẩu dịch vụ làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ và có dấu (). Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa, do dịch vụ có thể được coi như loại hàng hóa đặc biệt, hàng hóa vô hình. 1.1.3. Cán cân thu nhập Cán cân thu nhập bao gồm thu nhập của người lao động và thu nhập từ đầu tư. Thu nhập của người lao động là các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền, hiện vật do người không cư trú trả cho người cư trú và ngược lại. Các nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của người lao động bao gồm số lượng và chất lượng, tức mức lương của những người lao động ở nước ngoài. Thu nhập về đầu tư là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư vào giấy tờ có giá và các khoản lãi đến hạn phải trả của các khoản vay giữa người cư trú và người không cư trú. Các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm tăng ngoại tệ nên được ghi vào bên có và có dấu (+), còn các khoản thu nhập trả cho người không cư trú làm phát sinh cầu về ngoại tệ nên được ghi vào bên nơ, với dấu (-). Những nhân tố chính làm ảnh hưởng đến giá trị thu nhập về đầu tư là số lượng đầu tư và tỷ lệ sinh lời của các dự án đã đầu tư trước đây. 2.1.4. Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều Cán cân chuyển giao vốn một chiều bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng của người không cư trú chuyển cho người cư trú và ngược lại. Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa người cư trú và người không cư trú. Các khoản phát sinh làm tăng cung ngoại tệ được ghi vào bên có, mang dấu (+) và các khoản chuyển giao làm phát sinh cầu ngoại tệ được ghi vào bên nợ, mang dấu (-). Nhân tố chính ảnh hưởng lên cán cân chuyển giao vãng lai một chiều là mối quan hệ giữa người cư trú và người không cư trú. Nhìn chung, chúng ta thấy rằng cán cân dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều không thể quan sát bằng mắt thường, nên được gọi là cán cân vô hình. Với cán cân thương mại, như đã nói trên được gọi là cán cân hữu hình, cán cân vãng lai có thể được biểu diễn: Cán cân vãng lai = cán cân hữu hình + cán cân vô hình. 2.2. Cán cân vốn Cán cân vốn phản ánh di chuyển vốn vào và ra đối với một quốc gia. Trong đó, nguồn vốn chảy vào phản ánh làm giảm tài sản có hoặc tăng tài sản nợ của người cư trú với người không cư trú. Những luồng vốn chảy vào làm phát sinh cung ngoại tệ trên thị trường, do đó được phản ánh ghi có và mang dấu (+). Bên cạnh đó, luồng vốn chảy ra phản ánh làm tăng tài sản có hoặc làm giảm tài sản nợ của người cư trú đối với người không cư trú. Các luồng vốn chảy ra làm tăng nhu cầu về ngoại tệ, do đó được phản ánh ghi nợ và mang dấu (-). Có thể coi việc luân chuyển vốn như là việc người cư trú nhập khẩu hoặc xuất khẩu các khoản đầu tư này. Cán cân vốn bao gồm cán cân vốn dài hạn, cán cân vốn ngắn hạn và hạng mục chuyển giao vốn một chiều. Đối với vốn dài hạn, có thể chia thành vốn đầu tư của khu vực tư nhân và khu vực nhà nước, hay chia thành vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp và các luồng vốn dài hạn khác. Tiêu chí để phân chia luồng vốn dài hạn vào danh mục đầu tư trực tiếp hay gián tiếp là mức độ kiểm soát của công ty nước ngoài. Về mặt lý thuyết, hiện nay nếu mức độ kiểm soát của công ty nước ngoài đối với nguồn vốn là 51% trở lên thì được coi là đầu tư trực tiếp. Tuy nhiên, trong thực tế hầu hết các quốc gia coi các khoản đầu tư nước ngoài chiếm 30% vốn cổ phần trở lên là đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp bao gồm các khoản đầu tư mua trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ và đầu tư cổ phiếu nhưng chưa đạt đến mức độ để kiểm soát công ty. Cán cân vốn ngắn hạn có thể được phân chia theo nhiều hạng mục phong phú và chủ yếu là: tín dụng thương mại ngắn hạn, hoạt động tiền gửi, mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn, các khoản tín dụng ngân hàng ngắn hạn, kinh doanh ngoại hối…Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, các nguồn vốn có thể tự do tru chuyển trong thời gian ngắn và chi phí thấp. Điều này khiến cho cán cân vốn ngắn hạn trở nên có ảnh hưởng đáng kể đến cán cân thanh toán nói chung của một quốc gia. Một nguyên nhân chính khiến cho các luồng vốn ngắn hạn tăng lên nhanh chóng là xu hướng thả nổi tỷ giá sau năm 1973, cũng như chính sách kinh tế tài chính thị trường tự do cùng xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Chuyển giao vốn một chiều là hạng mục bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại cho các mục đích đầu tư và các khoản nợ được xóa. 2.3. Lỗi và sai sót Như đã trình bày, do áp dụng nguyên tắc hạch toán kép nên cán cân thanh toán luôn được cân bằng. Số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót chính là độ lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Hạng mục nhầm lẫn và sai sót thống kế bao gồm các giao dịch kinh tế thực tế đã xảy ra nhưng không được ghi chép hoặc ghi chép có nhầm lẫn, không được chính xác. 2.4. Cán cân tổng thể Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối, thì cán cân tổng thể bằng tổng cán cân vãng lai và cán cân vốn. Tuy nhiên, trong thực tế có rất nhiều vấn đề phức tạp về thống kê trong quá trình thu thập số liệu và lập cán cân thanh toán, do đó thường phát sinh nhầm lẫn và sai sót. Do đó, cán cân tổng thể được điều chỉnh lại bằng tổng của cán cân vãng lai, cán cân vốn và hạng mục nhầm lẫn sai sót trong thống kê. Cán cân tổng thể= Cán cân vãng lai+ cán cân vốn+ Nhầm lẫn và sai sót 2.5. Cán cân bù đắp chính thức Cán cân bù đắp chính thức bao gồm các hạng mục: - Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia - Tín dụng với IMF và các ngân hàng trung ương khác - Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của quốc gia lập cán cân. Theo quy tắc, cán cân thanh toán được lập trên cơ sở vị thế của nền kinh tế, tức là không tính đến những hoạt động của ngân hàng trung ương(NHTW). Tuy nhiên, với vai trò điều tiết nền kinh tế của mình, ngân hàng trung ương cần ra tay tác động vào cán cân nhằm đạt được một số mục tiêu nhất định như kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá…Những can thiệp này sẽ được ghi lại trong mục bù đắp chính thức, với vai trò của ngân hàng trung ương giống như người không cư trú do ngân hàng trung ương không được tính là một phần của nền kinh tế. Khi NHTW can thiệp bán ra ngoại tệ, làm cho dự trữ ngoại hối giảm, đồng thời làm tăng cung ngoại hối cho nền kinh tế nên được ghi co (+). Ngược lại, khi NHTW can thiệp mua ngoại tệ vào, làm cho dự trữ ngoại hối tăng, đồng thời làm tăng cầu ngoại tệ đối với nền kinh tế ta ghi nợ (-). Khi cán cân tổng thể thặng dư, cán cân bù đắp chính thức là âm. Điều này là vì NHTW đã tiến hành mua ngoại tệ vàom nghĩa là tăng cầu ngoại tệ đối với nền kinh tế, đồng thời làm dự trữ ngoại hối tăng. Còn khi cán cân tổng thể thâm hụt, cán cân bù đắp chính thức là dương do khi này, NHTW sẽ bán ra ngoại tệ, tăng cung ngoại tệ cho nền kinh tế đồng thời giảm dự trữ ngoại hối. 3. Ý nghĩa của một số cán cân chủ yếu 3.1.Cán cân thương mại Chệnh lệch cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu về hàng hóa. Là bộ phận chính của cán cân vãng lai, nó phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân vãng lai, từ đó làm cơ sở cho việc dự báo và đánh giá nền kinh tế. Trạng thái thâm hụt hay thặng dư của cán cân thương mại có thể được dùng để đánh giá tình hình thương mại quốc tế cũng như trình độ cạnh tranh của hàng hóa trong nước và hàng xuất khẩu của một quốc gia. Với các nước đang phát triển, tình trạng nhập siêu là phổ biến do tính cạnh tranh của hàng hóa chưa cao. 3.2. Cán cân vãng lai Cán cân vãng lai bao gồm cả cán cân vô hình và cán cân hữu hình, nên nhìn tổng thể thì nó có ý nghĩa quan trọng hơn cán cân thương mại. Nếu cán cân thặng dư, điều đó có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người không cư trú là lớn hơn so với khoản chi bỏ ra cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên. Ngược lại, nếu thâm hụt có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người không cư trú giảm xuống. Trạng thái của cán cân vãng lai luôn là một bộ phận không thể thiếu trong phân tích vĩ mô đối với một nền kinh tế. Trạng thái của cán cân vãng lai có khả năng ảnh hưởng nhanh chóng và trực tiếp đến các chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế như tỷ giá, tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Những biến động của cán cân vãng lai phản ánh những diễn biến trong thương mại quốc tế, về tính cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu. Trạng thái của cán cân vãng lai phản ánh một phần lớn nguồn cung cầu ngoại tệ trong ngắn hạn và mức độ phát triển, canh tranh của nền kinh tế. Do đó, nó có thể ảnh hưởng nhanh chóng đến tỷ giá và các chỉ tiêu khác của nền kinh tế. Cán cân vãng lai là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách đưa ra các chính sách xuất nhập khẩu trong một thời gian cho nền kinh tế như chính sách xuất nhập khẩu như thuế quan, hạn ngạch, hàng rào bảo hộ hay khuyến khích xuất khẩu… nhằm tác động vào thương mại quốc tế để đạt được mục đích trong từng thời kỳ. Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái của cán cân vãng lai là lý tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của một quốc gia. Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái nợ tổng nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng cho thấy tổng nợ quốc gia là không thay đổi. Cán cân thặng dự phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần còn lại của thế giới được tăng lên, ngược lại cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên. 3.3. Cán cân tổng thể Cán cân tổng thể có ý nghĩa quan trọng, bởi nó cho biết số tiền mà một quốc gia phải trả hay có thể sử dụng trong mua bán ngoại hối dự trữ. Phần thâm hụt của cán cân tổng thể chính là phần mà NHTW phải bù đắp bằng cách bán ra ngoại hối, làm giảm dự trữ và ngược lại, NHTW mua vào ngoại hối tăng dự trữ khi cán cân tổng thể thặng dư. Nếu một quốc gia có thâm hụt cán cân tổng thể kéo dài, thì chính phủ có thể sẽ không đủ sức tài trợ cho những mất mát và gây ra trạng thái bất ổn trong nền kinh tế. Trạng thái của cán cân tổng thể là căn cứ quan trọng đối với các nước có chế độ tỷ giá cố định, bởi NHTW phải dựa vào trạng thái của cán cân tổng thể mà đánh giá cung cầu ngoại tệ, từ đó đánh giá các áp lực dẫn đến phải nâng giá hay phá giá đồng nội tệ. Trong hệ thống tỷ giá cố định, một quốc gia có thâm hụt cán cân tổng thể phải chịu áp lực cung nội tệ lớn hơn cầu, do đó để tránh phá giá, NHTW phải bán ngoại tệ để tăng sức cầu nội tệ. Tuy nhiên, khi phân tích cán cân tổng thể cũng cần đánh giá toàn diện trạng thái của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Nhiều trường hợp, thâm hụt cán cân tổng thể chưa hẳn là nguy hiểm cho nền kinh tế, nếu như chính phủ đang thi hành chính sách tăng cường đầu tư ra nước ngoài. Như vậy, mặc dù trong ngắn hạn, cán cân tổng thể bị thâm hụt, ngoại tệ chảy ra nước ngoài nhưng sự thâm hụt này lại hứa hẹn những nguồn thu ổn định trong tương lai. Hoặc khi cán cân tổng thể cân bằng hoặc có thặng dư, nhưng trong đó những thâm hụt của cán cân thương mại hay cán cân vãng lai được bù đắp bằng nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn ngắn hạn thì phải nhận thức được nền kinh tế có những nguy cơ tiềm tàng, sức cạnh tranh của thương mại trong nước kém hay nguy cơ khi nguồn vốn ngắn hạn tháo chạy sẽ gây náo loạn trong nền kinh tế… 5. Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thanh toán Cán cân thanh toán quốc tế có thể rơi vào tình trạng bội chi hoặc bội thu. Tình trạng này không cố định theo thời gian mà luôn luôn thay đổi vị trí. Các yếu tố ảnh hưởng đến CCTTQT đó là: cán cân thương mại, lạm phát, thu nhập quốc dân, tỷ giá hối đoái, sự ổn định chính trị của đất nước, khả năng trình độ quản lý kinh tế của chính phủ. Cán cân mậu dịch là yếu tố quan trọng quyết định đến vị trí của BOP mà cán cân thương mại lại phụ thuộc yếu tố tác động trực tiếp đến nó. Ví dụ như: - Thương mại hữu hình: là một trong những hạng mục thường xuyên của BOP. Tùy theo trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, độ phong phú của tài nguyên thiên nhiên mà có một số quốc gia khác lại ở vào vị trí nhập siêu. - Thương mại vô hình: chủ yếu là dịch vụ và du lịch. Có một số quốc gia được thiên nhiên ưu đãi về vị trí địa lý, cảnh quan và khí hậu đã trở thành nơi thu hút khách du lịch của thế giới. Lạm phát :Với điều kiện các nhân tố khác không đổi, nếu tỷ lệ lạm phát của một quốc gia cao hơn so với các nước khác có quan hệ mậu dịch, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa của nước này trên thị trường quốc tế do đó làm cho khối lượng xuất khẩu giảm. Tuy nhiên, thực chất khi lạm phát tăng, khối lượng xuất khẩu giảm nhưng giá tăng, do đó giá trị xuất khẩu không thể hiện rõ ràng là tăng hay giảm. Do vậy, thực chất tác động của lạm phát là không rõ ràng và khó mà tính toán được. Ảnh hưởng của thu nhập quốc dân: Nếu mức thu nhập của một quốc gia tăng theo một tỷ lệ cao hơn tỷ lệ tăng của quốc gia khác, tài khoản vãng lai của quốc gia đó sẽ giảm nếu các yếu tố khác bằng nhau. Do mức thu nhập thực tế (đã điều chỉnh do lạm phát) tăng, mức tiêu thụ hàng hóa cũng tăng, bao gồm cả việc tăng tiêu thụ hàng hóa nhập khẩu khiến nhập khẩu lấn át xuất khẩu trong cán cân thương mại. Ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái: Nếu tiền của một nước bắt đầu tăng giá so với tiền của quốc gia khác, tài khoản vãng lai của nước đó sẽ giảm, nếu các yếu tố khác bằng nhau. Hàng hóa xuất khẩu từ nước này sẽ trở nên đắt hơn đối với các nước nhập khẩu nếu đồng tiền của họ mạnh. Kết quả là nhu cầu hàng hóa đó giảm. Sự ổn định chính trị của một đất nước, chính sách đối ngoại của quốc gia: Sự ổn định chính trị của một đất nước là cơ sở vững chắc để phát triển kinh tế, đây cũng là điều kiện tiên quyết để các quốc gia khác tăng cường quan hệ kinh tế. Bên cạnh đó, chính sách đối ngoại trở thành điều kiện đủ cho mọi quan hệ kinh tế trực tiếp. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập, chính sách đối ngoại phù hợp sẽ là yếu tố mở đường cho mọi yếu tố khác phát triển. Khả năng và trình độ quản lý kinh tế của chính phủ: Đây là yếu tố tạo sự phát triển bền vững và tăng trưởng liên tục của nền kinh tế. Yếu tố này vừa mang tính thử nghiệm vừa đánh giá sự năng động trong điều hành nền kinh tế của chính phủ trong đó có quan hệ kinh tế đối ngoại cũng sẽ đạt được. Do đó, cán cân thanh toán quốc tế sẽ được cải thiện theo chiều thuận. 5. Điều chỉnh cán cân thanh toán 5.1. Khi cán cân bội thu Khi cán cân bội thu, hướng điều chỉnh của chính phủ là tăng dự trữ ngoại hối và tăng đầu tư ra nước ngoài của quốc gia, thường là dưới dạng chứng khoán. Điều chỉnh tăng dự trữ ngoại hối của quốc gia thực chất chính là việc NHTW tiến hành nghiệp vụ mua vào lượng ngoại tệ bội thu, nhằm giảm nguồn cung ngoại tệ trên thị trường đồng thời tăng dự trữ ngoại hối, tăng tính ổn định cho nền kinh tế. Khi chính phủ thực hiện tăng đầu tư ra nước ngoài, cán cân thanh toán được cải thiện theo hướng tăng xuất khẩu của cán cân vốn, lấy phần đó bù đắp cho phần thặng dư của cán cân bộ phận khác. Nếu như chính phủ tăng cường đầu tư ra nước ngoài thì đương nhiên không thể tăng dự trữ ngoại hối cho quốc gia, tuy nhiên lại hứa hẹn những khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trong những thời gian tới. Khi lựa chọn đầu tư trong trường hợp này, chứng khoán ngắn hạn thường được ưa thích bởi có tính thanh khoản cao, có thể nhanh chóng được chuyển thành tiền khi có nhu cầu để bù đắp cho lượng dự trữ ngoại hối sẵn có của quốc gia. 5.2. Khi cán cân bội chi Khi cán cân bội chi, nền kinh tế có nguy cơ cao hơn nhiều so với khi bội thu, vì vậy các biện pháp điều chỉnh cũng phức tạp hơn. Có một số biện pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tác động khi cán cân tổng thể bội chi. Thứ nhất, chính sách cắt giảm chi tiêu có thể được áp dụng. Việc cắt giảm chi tiêu, đặc biệt chi cho hàng nhập khẩu sẽ giúp hạn chế thâm hụt thương mại và được thực hiện thông qua những chính sách tài khóa và tiền tệ. Với chính sách tài khóa, trước hết chính phủ tự thực hiện tiết kiệm, cắt giảm chi tiêu của mình. Ngoài ra, chính phủ có thể áp dụng thuế, tăng thuế thu nhập, hay thuế đối với một số loại hàng hóa để hạn chế tiêu dùng của người dân. Với chính sách tiển tệ, NHTW có thể thực hiện thay đổi lãi suất hay nghiệp vụ thị trường mở. Thay đổi lãi suất, NHTW có thể thu hút được nguồn ngoại tệ nước ngoài đổ vào trong nước để hưởng chênh lệch lãi suất, cải thiện cán cân vốn. Ngoài ra, thay đổi lãi suất sẽ tác động đến giá cả hàng hóa, cụ thể lãi suất tăng, lạm phát trong nước cũng tăng và đồng nội tệ trở nên mất giá, từ đó kích thích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và cải thiện cán cân thương mại và cán cân dịch vụ. Nghiệp vụ thị trường mở thực chất là việc NHTW tiến hành bán ra ngoại tệ để tăng cung cho thị trường, giúp bình ổn tỷ giá và nghiệp vụ này được phản ánh trong cán cân bù đắp chính thức. Thứ hai là chính sách tăng cường thu hút vốn, nhằm cải thiện theo hướng cải thiện cán cân vốn. Các biện pháp tăng cường thu hút vốn bao gồm tăng lãi suất, tích cực đi vay và tìm viện trợ nước ngoài, tạo môi trường đầu tư lành mạnh , thủ tục đơn giản thuận tiện để thu hút nhà đầu tư. Khi áp dụng những chính sách thu hút vốn, các nhà lập pháp cần chú trọng đến cơ cấu giữa vốn dài hạn và ngắn hạn, và những tác động cá biệt của những chính sách điều hành tới từng loại vốn. Thu hút nhà đầu tư bằng cách tạo môi trường đầu tư lành mạnh, đơn giản hóa thủ tục là biện pháp lâu dài, tuy nhiên phải cần nhiều thời gian mới có thể thực hiện và phát huy tác dụng. Biện pháp thứ ba là chính sách tỷ giá. Do tính chất phản ánh những giao dịch với nước ngoài, những biến động về tỷ giá và chính sách tỷ giá có ảnh hưởng lớn đến các cán cân bộ phận của cán cân thanh toán. Thực hiện chính sách tỷ giá như tăng tỷ giá, bán ngoại tệ trên thị trường mở sẽ hạn chế tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu và bù đắp thâm hụt. Tuy nhiên, cũng như chính sách lãi suất, thay đổi tỷ giá có thể tác động đến nhiều yếu tố khác trong nền kinh tế mà rất khó có thể kiểm soát, do vậy khi thực hiện cần hết sức cẩn trọng. Ngoài ra, chính phủ có thể sử dụng những biện pháp hành chính đề can thiệp. Những biện pháp hành chính có thể đưa ra như dựng hàng rào thuế quan, bảo hộ mậu dịch, đặt hạn ngạch… để hạn chế nhập khẩu, hay khuyến khích xuất khẩu bằng cách trợ giá, cấp tín dụng xuất khẩu, hỗ trợ về các yếu tố… hay thi hành chính sách quản chế ngoại hối chặt chẽ, khiến cho đồng ngoại tệ khó di chuyển trên thị trường. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay, thực hiện những biện pháp hành chính có thể vấp phải sự phản đối của các quốc gia khác trên thế giới, có thể dẫn đến bất đồng hay bị áp thuế, hạn chế xuất khẩu. Biện pháp cưỡng bách là con bài cuối cùng của các quốc gia khi lâm vào tình trạng thâm hụt triền miên. Biện pháp cưỡng bách bao gồm xuất dự trữ trả nợ, hoặc khi không còn khả năng trả nợ, chính phủ sẽ buộc phải tuyên bố vỡ nợ. Khi tuyên bố vỡ nợ, quốc gia đó sẽ phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề, như chịu phụ thuộc vào các quốc gia đứng ra trả nợ thay. Nếu không có quốc gia nào đứng ra trả nợ, quốc gia đó sẽ phải chịu trừng phạt của quốc tế, như cấm vận, đóng cửa biên giới và chịu cô lập trong thời gian dài. II. Tình hình cán cân thanh toán ở Việt Nam 1. Tổng quan tình hình kinh tế Tình hình kinh tế thế giới trong thời gian vừa qua có nhiều biến động sâu sắc. Sau thời kỳ phát triển nhanh chóng, trong năm 2007-2008, cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu bùng nổ và lan rộng ra khắp thế giới, gây những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế thế giới. Bắt nguồn từ sự sụp đổ của thị trường nhà đất Mỹ, kéo theo thị trường chứng khoán phái sinh, các ngân hàng thực hiện cho vay nhà đất lâm vào tình trạng khó khăn, một loạt các ngân hàng trong nước và quốc tế khác phá sản hoặc bị quốc hữu hóa. Thị trường tài chính chao đảo, thị trường tín dụng đóng băng, nguồn vốn khó khăn kéo thị trường chứng khoản giảm mạnh. Nửa đầu năm năm 2008, lạm phát liên tục tăng cao khiến người tiêu dùng mất niềm tin vào thị trường và cắt giảm chi tiêu. Hàng hóa sản xuất không tiêu thụ được, một loạt các công ty phá sản, cắt giảm nhân công và thu hẹp sản xuất khiến những nền kinh tế lớn nhất thế giới như Mỹ, Nhật và nhiều nước EU rơi vào suy thoái. Trong suốt thời gian khủng hoảng và suy thoái cho tới nay, các ngân hàng trung ương không ngừng cắt giảm lãi suất và đưa ra các gói kích thích trợ giúp các công ty và nền kinh tế, nhưng nhiều nhà kinh tế dự đoán, cuộc suy thoái sẽ còn kéo dài và tình hình sẽ chỉ có khả năng bắt đầu khá hơn vào cuối năm 2009. Với tình hình kinh tế thế giới như vậy, những diễn biến trong nền kinh tế Việt Nam cũng không mấy khác biệt. Những năm gần đây, nền kinh tế mở cửa đón nhận các nguồn vốn nước ngoài chảy vào ồ ạt, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và bất động sản, khiến cho thị trường phát triển quá nóng và có dấu hiệu thị trường bong bóng. Đến cuối năm 2007, đầu năm 2008, thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán lao dốc, đe dọa tính thanh khoản của các ngân hàng vốn đã mở rộng cho vay quá nhiều vào chứng khoán và bất động sản. Tín dụng và đầu tư bị thắt chặt. Nửa đầu năm 2008, lạm phát tăng cao chóng mặt do tác động của giá nhiên liệu thế giới leo thang và có những dấu hiệu không kiểm soát được. Lãi suất cho vay quá cao, có lúc lên tới 21%, tính thanh khoản của hệ thống kém khiến cho việc tiếp cận với nguồn vốn vay của các công ty gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, cùng với diễn biến kinh ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22180.doc
Tài liệu liên quan