Cán cân thanh toán của Việt Nam và các nguyên nhân, giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam

Cán cân thanh toán của Việt Nam và các nguyên nhân, giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam LỜI MỞ ĐẦU Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế của thời đại và diễn ra ngày càng sâu rộng về nội dung, quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã diễn ra từ lâu, kể từ khi Việt Nam khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986. Việt Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995; tham gia vào khu vực mậu dịch tự

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2285 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Cán cân thanh toán của Việt Nam và các nguyên nhân, giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
do ASEAN (AFTA) năm 1996; ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết các hiệp định thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư song và đa phương khác. Đặc biệt từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), là mốc son quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đánh dấu cho việc hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực tài chính ngân hàng nói riêng. Để nắm bắt được những cơ hội cũng như chủ động đối phó với các thách thức trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã và đang tiến hành cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Để có thêm kiến thức về vấn đề này, chúng ta sẽ tìm hiểu về cán cân thanh toán của Việt Nam và các nguyên nhân cũng như giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam. NỘI DUNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ 1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của cán cân thanh toán quốc tế (CCTTQT) 1.1. Khái niệm Cán cân thanh toán quốc tế (balance of payment) được hiểu là bảng kế toán tổng hợp các luồng vận động về hàng hoá dịch vụ , tư bản… của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong từng thời kỳ nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có. Vậy, cán cân thanh toán quốc tế là một bản đối chiếu giữa các khoán tiền thu được từ nước ngoài với các khoản tiền trả cho nước ngoài của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/2009 của Chính phủ về quản lý cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, Cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam được quy định là bảng tổng hợp có hệ thống toàn bộ các chỉ tiêu về giao dịch kinh tế giữa Người cư trú và Người không cư trú trong một thời kỳ nhất định. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được giao là cơ quan chịu trách nhiệm chủ trì lập, theo dõi và phân tích cán cân thanh toán. 1.2. Ý nghĩa kinh tế của CCTTQT Thực chất của cán cân thanh toán quốc tế là một tài liệu thống kê, có mục đích cung cấp sự kê khai đầy đủ dưới hình thức phù hợp với yêu cầu phân tích những quan hệ kinh tế tài chính của một nước với nước ngoài trong một thời gian xác định. Do đó, CCTTQT là một trong những công cụ quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Thông qua, cán cân thanh toán trong một thời kỳ, Chính phủ của mỗi quốc gia có thể đối chiếu giữa những khoản tiền thực tế thu được từ nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế nước đó chi ra cho nước ngoài trong một thời kỳ nhất định. Từ đó, đưa ra các quyết sách về điều hành kinh tế vĩ mô như chính sách tỷ giá, chính sách xuất nhập khẩu. Ngoài ra, CCTT là công cụ đánh giá tiềm năng kinh tế của một quốc gia, giúp các nhà hoạch định kinh tế có định hướng đúng đắn. Cán cân thanh toán bộc lộ rõ ràng khả năng bền vững, điểm mạnh và khả năng về kinh tế bằng việc đo lường chính xác kết quả xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của đất nước đó. CCTT còn được sử dụng như một chỉ số về kinh tế và tính ổn định chính trị. Ví dụ, nếu một nước có thặng dư cán cân thanh toán có nghĩa là có nhiều đầu tư từ nước ngoài đáng kể vào nước đó hoặc cũng có thể là nước đấy không xuất khẩu nhiều tiền tệ ra nước ngoài dẫn đến sự tăng giá của giá trị đồng nội tệ so với ngoại tệ. 2. Kết cấu và các cán cân bộ phận của cán cân thanh toán quốc tế 2.1. Các thành phần của cán cân thanh toán Theo quy tắc mới về biên soạn biểu cán cân thanh toán do IMF đề ra năm 1993, cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm bốn thành phần sau: Tài khoản vãng lai: Tài khoản vãng lai ghi lại các giao dịch về hàng hóa, dịch vụ và một số chuyển khoản. Tài khoản vốn : Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản thực và tài sản tài chính. Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương. Do tổng của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ, nên gần như tăng giảm cán cân thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại hối tạo nên. Mục sai số Do ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch trong thực tế, nên giữa phần ghi chép được và thực tế có thể có những khoảng cách. Khoảng cách này được ghi trong cán cân thanh toán như là mục sai số. 2.2. Các bộ phận của cán cân thanh toán Cán cân vãng lai (current balance) Cán cân vốn (capital balance) Cán cân bù đắp chính thức (official finacing balance) Cán cân cơ bản (basic balance) Cán cân tổng thể (overall balance) 2.2.1. Cán cân vãng lai Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ. Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF soạn năm 1993, tài khoản vãng lai bao gồm: ● Cán cân thương mại hàng hóa Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng. Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫn dịch vụ. Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại: + Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại Việt Nam tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng. + Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng. Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố tự định. + Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. Ví dụ, một bộ ấm chén sứ Hải Dương có giá 70.000 VND và một bộ ấm chén tương đương của Trung Quốc có giá 33 CNY (Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1 CNY thì bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi bộ ấm chén tương đương của Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này ấm chén nhập khẩu từ Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già và tỷ giá hối đoái thay đổi thành 2.300 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán với giá 75.900 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn so với ấm chén sản xuất tại Việt Nam. Tác động của cán cân thương mại đến GDP : Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan trọng: xuất khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu tư tư nhân và số nhân chi tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ" qua thương mại quốc tế. Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng ● Cán cân thương mại phi hàng hóa - Cán cân dịch vụ : Bao gồm các khoản thu chi từ các dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm, bưu chính, viễn thông, ngân hàng, thông tin xây dựng và các hoạt động khác giữa người cư trú với người không cư trú. Giống như xuất nhập khẩu hàng hoá xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ nên nó được ghi vào bên co và có dấu dương; nhập khẩu ngoại tệ làm phát sinh cầu ngoại tệ. Các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị xuất nhập khẩu hàng hoá. - Cán cân thu nhập: + Thu nhập người lao động: là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các khoản thu nhập khác bằng tiền hiện vật người cư trú trả cho người không cư trú hay ngược lại. các nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của người lao động ở nước ngoài. + Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ đầu tư giấy tờ có giá và các khoản lãi đến han phải trả của các khoản vay giữa người cư trú và không cư trú. - Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều : Các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển giao khác bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người không cư trú chuyển cho người không cư trú và ngược lại. Các khoản chuyển giao vãng lai một chiều phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa người cư trú với người không cư trú các khoản thu làm phát sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ) nên được ghi vào bên có (+), các khoản chi làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ (-). Nhân tố chính ảnh hưởng lên chuyển giao vãng lai một chiều là lòng tốt, tình cảm giữa người cư trú và người không cư trú. Chúng ta thấy rằng cán cân dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai một chiều không thể quan sát bằng mắt thường nên chúng được gọi là cán cân vô hình (invisible) Như vậy, cán cân vãng lai có thể biểu diễn : Cán cân vãng lai = cán cân hữu hình +cán cân vô hình Tóm lại, các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm phát sinh cung ngoại tệ nên dược ghi vào bên có và các khoản thu nhập trả cho người không cư trú làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ. Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp chung vào trong tính toán này. Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn. Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này. Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp thành cán cân thanh toán. Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh. 2.2.2. Cán cân vốn Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh toán của một quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài của người sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có thặng dư tài khoản vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản vãng lai. Tài khoản tài chính (hay tài khoản đầu tư) là một bộ phận của tài khoản vốn ghi lại những giao dịch về tài sản tài chính. Tài khoản vốn và lãi suất: Giả sử ban đầu tài khoản vốn cân bằng tương ứng với mức lãi suất trong nước r. Khi lãi suất tăng lên mức r’, tài khoản vốn trở nên thặng dư. Nếu lãi suất hạ xuống mức r, tài khoản vốn trở nên thâm hụt. Vì vốn có quan hệ mật thiết với lãi suất. Vì thế, cân đối tài khoản vốn cũng có quan hệ mật thiết với lãi suất. Khi lãi suất trong nước tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế dòng vốn vào sẽ gia tăng, trong khi đó dòng vốn ra giảm bớt. Cán cân tài khoản vốn, nhờ đó, được cải thiện. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước hạ xuống, cán cân vốn sẽ bị xấu đi. Khi lãi suất ở nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi. Và, khi lãi suất ở nước ngoài hạ xuống, cán cân vốn sẽ được cải thiện. Tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái: Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, cũng có nghĩa là tỷ giá hối đoái danh nghĩa giảm, dòng vốn vào sẽ giảm đi, trong khi dòng vốn ra tăng lên. Hậu quả là, tài khoản vốn xấu đi. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước mất giá (tỷ giá tăng), tài khoản vốn sẽ được cải thiện. 2.2.3. Cán cân cơ bản Như đã phân tích ở trên, cán cân vãng lai ghi chép các hạng mục về thu nhập, mà đặc trưng của chúng là phản ánh mối quan hệ sở hữu về tài sản giữa người cư trú với người không cư trú. Chính vì vậy tình trạng của cán cân vãng lai có ảnh hưởng lâu dài đến sự ổn định của nền kinh tế mà đặc biệt là lên tỉ giá hối đoái của nền kinh tế. Tổng của cán cân vãng lai và cán cân dài hạn gọi là cán cân cơ bản. Tính chất ổn định của cán cân cơ bản ảnh hưởng lâu dài đến nền kinh tế và tỉ giá hối đoái. Chính vì vậy cán cân cơ bản được các nhà phân tích và hoạch định chính sách kinh tế quan tâm. Cán cân cơ bản = các cân vãng lai +cán cân vốn dài hạn Những hạng mục hay thay đổi như vốn ngắn hạn và thay đổi dự trữ ngoại 2.2.4. Cán cân tổng thể (overall balance) Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối (tức nhầm lẫn và sai sót bằng không ) thì cán cân tổng thể bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Trong thực tế do có rất nhiều vấn đề phức tạp về thống kê trong quá trình thu nhập số liệu và lập CCTTQT do đó thường phát sinh những nhầm lẫn và sai sót. Do đó cán cân tổng thể được điều chỉnh lại bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn và hạng mục sai sót trong thống kê. Ta có : Cán cân tổng thể = cán cân vãng lai +cán cân vốn + nhầm lẫn và sai sót 2.2.5. Cán cân bù đắp chính thức(official finacing balance) Cán cân bù đắp chính thức (OFB) bao gồm các hạng mục : - Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia (ΔR) - Tín dụng với IMF và các ngân hàng trung ương khác (L) - Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của quốc gia lập cán cân thanh toán (≠) OFB = ΔR + L + ≠ Một thực tế rằng, khi dự trữ ngoại hối tăng thì chúng ta ghi nợ (-) và giảm thì ghi có (+), do đó nhầm lẫn thường xảy ra ở đây. Điều này được giải thích như sau : Chúng ta hình dung, quốc gia Việt Nam được chia thành hai bộ phận gồm NHTW và phần còn lại không bao gồm NHTW (gọi là nền kinh tế - NKT). Tiêu chí để phân thành NHTW và NKT là: NHTW có chức năng can thiệp lên cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, còn nền kinh tế thì không có chức năng can thiệp. Theo quy tắc CCTTQT được lập trên cơ sở của nền kinh tế, do đó, các hoạt động can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối (mua bán nội tệ) nhằm tác động lên nền kinh tế, được xem là quan hệ giữa người cư trú với người không cư trú. Khi NHTW can thiệp bán ngoại tệ ra, làm cho dự trữ ngoại hối giảm, đồng thời làm tăng cung nội tệ cho nền kinh tế, do đó ta phải ghi có(+) . Khi NHTW can thiệp mua ngoại tệ vào làm cho dự trữ ngoại hối tăng, đồng thời làm tăng cầu ngoại tệ đối với NKT , do đó ta phả ghi nợ (-) 2.2.6. Nhầm lẫn và sai sót OB + OFB = 0 →OB = - OFB →CA+K+OM= - OFB →OM =-(CA+K+OFB) Đẳng thức cuối cùng cho thấy số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót chính là độ lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân vốn. Bởi vì cán cân bù đắp chính thức, cán cân vãng lai và cán cân vốn luôn được xác định (luôn thể hiện là một số cụ thể trên CCTTQT ), do đó đẳng thức trên được áp dụng số dư nhầm lẫn và sai sót khi lập CCTTQT trong thực tế. 3. Thặng dư và thâm hụt CCTTQT CCTT được lập theo nguyên tắc hạch toán kép, do đó tổng các bút toán ghi có luôn bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau. Điều này có nghĩa là, về tổng thể thì CCTTQT luôn được cân bằng. Do đó nói đến thặng dư, thâm hụt CCTTQT là nói đến thặng dư thâm hụt của một hoặc của một nhóm các cán cân bộ phận chứ không nói đến toàn bộ cán cân. Về mặt nguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt của CCTTQT được xác định theo hai phương pháp: Phương pháp xác định thặng dư thâm hụt của từng cán cân bộ phận. Phương pháp tích lũy. 3.1. Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại TB=X-M Như vậy cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu về hàng hóa Cán cân thương mại thặng dư: X > M, cho biết: - Thu từ người không cư trú > chi cho người không cư trú - Cung ngoại tệ > cầu ngoại tệ Cán cân thương mại thâm hụt: X < M, cho biết: Thu từ người không cư trú < chi cho người không cư trứ Cung ngoại tệ < cầu ngoại tệ Việc phân tích diễn biến cán cân thương mại có vai trò to lớn trong nền kinh tế, bởi vì: Cán cân thương mại là bộ phận chính cấu thành cán cân vãng lai, Thâm hụt và thặng dư cán cân thương mại thường quyết định đến tình trạng của cán cân vãng lai. Cán cân thương mại phản ánh kịp thời xu hướng vận động của cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì, cơ quan hải quan thường cung cấp kịp thời các số liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa, trong khi đố việc thu thập các số liệu về dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai thường diễn ra chậm hơn, tức là có một độ lệch về thời gian nhất định. Do tầm quan trọng của cán cân thương mại, cho nên hầu hết các nước phát triển thường công bố tình trạng cán cân này hàng tháng. Để cân bằng cán cân thương mại, các biện pháp chủ yếu thường được áp dụng sẽ tác động vào lượng hàng hoá xuất nhập khẩu thông qua các hình thức thuế quan, quotas, v.v… và tác động vào tâm lý tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu của công chúng. 3.2. Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai Cán cân vãng lai bao gồm cán cân “Hữu hình” và “Vô hình’, nên nhìn tổng thể thì nó quan trọng hơn cán cân thương mại. Công thức xác định: CA = TB + Se + Ic + Tr = Kl + Ks+ êR - Cán cân vãng lai thặng dư khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) > 0 Cán cân vãng lai thặng dư (CA > 0) có nghĩa thu từ người không cư trú lớn hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên.cung ngoại tề lớn hơn cầu ngoại tệ. - Cán cân vãng lai thâm hụt khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) < 0 Cán cân vãng lai thâm hụt ( CA < 0) có nghĩa là thu nhập của người cư trú từ người không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú giảm xuống. cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ. - Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái cán cân vãng lai là lý tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của quốc gia. Lý do có thể được giả thích như sau: Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái tổng nợ nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng nói lên rằng tổng nợ nước ngoài của quốc gia là không đổi ( quốc gia không là chủ nợ và cũng không là con nợ ). Cán cân vãng lai thặng dư phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần thế giới còn lại được tăng lên ( vị thế quốc gia là chủ nợ ). Ngược lại cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên ( vị thế quốc gia là con nợ). CA = 0, trong dài hạn Theo giả thiết cán cân vãng lai cân bằng, nghĩa là: ( X- M + Se + Ic + Tr ) = 0 Vì trong dài hạn hiệu ứng can thiệp của NHTW mang tính trung lập do đó chúng ta có thể coi dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi là bằng 0, tức: êR= 0 - Kl + Ks = 0.có 2 khả năng xảy ra + TH1: Kl 0. nếu luồng vốn ngắn hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn dài hạn chảy ra, có thể làm cho năng lực thanh toán của quốc gia trong tương lai bị đe dọa, dẫn đến áp lực tăng áp suất và giảm giá nội tệ + TH2: Kl > 0 và Ks < 0. nếu luồng vốn dài hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn ngắn hạn chảy ra, thì sẽ tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn để duy trì ổn định tỷ giá, lãi suất va thực hiện chiến lược phát triển kinh tế quốc gia. CA = 0 trong ngắn hạn Trong ngắn hạn, các khoản đầu tư dài hạn coi như không đổi, nghĩa là Kl=0, Ks + êR = 0 có 2 khả năng xảy ra: + TH1: êR > 0 và Ks < 0. Dây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy ra được bù đắp bởi sự giảm sút của dự trữ ngoại hối quốc gia. Trong thực tế tình huống này có thể xảy ra trong ngắn hạn, khi NHTW nỗ lực cân đối các luồng vốn ngắn hạn có tính đầu cơ chảy ra nước ngoài bằng cách can thiệp bán dự trữ trên thị trường noại hối nhằm bảo vệ tỷ giá, tức ngăn ngừa nội tệ giảm giá. Do vậy cho dù trang thái cán cân vãng lai là cân bằng, nhưng vẫn tồn tại áp lực giảm giá nội tệ hoặc phải tăng lãi suất nội tệ, nếu NHTW không tiếp tục can thiệp bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối + TH2: êR 0. Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy vào làm tăng ngoại hối dự trữ quốc gia. Trong thực tế, tình huống này có thêr xảy ra, khi NHTW tăng mức lãi suất của nội tệ để ngăn ngừa các luồng vốn ngắn hạn chạy ra và thu hút thêm các luồng vốn ngắn hạn chạy vào nhằm bảo vệ cho tỷ giá không tiếp tục tăng nữa ( tức ngăn không cho nội tệ tiếp tục giảm giá. Phân tích cán cân vãng lai có ý nghĩa rất quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô vì tình trạng của cán cân này tác động trực tiếp đến tỷ giá, lãi suất, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và cuối cùng tác động đến cán cân tổng thể. Để tác động đến tình trạng của cán cân vãng lai, cần phải có thêm các giải pháp tổng thể về tài khoá và tiền tệ hơn là chỉ các giải pháp về chính sách thương mại quốc tế và tác động vào tâm lý tiêu dùng. 3.3.Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản(BB) BB = CA + Kl Khi CA 0 thì quốc gia không hề chịu rủi ro thanh toán. Chính vì thế mà nhiều nhà kinh tế cho rằng, cán cân cơ bản phản ánh tổng quát hơn về trạng thái nợ nước ngoài của một quốc gia so với cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì; vốn dài hạn có đặc trưng của sự phân phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời gian dài giữa một quốc gia và thế giới. - Thông thường người ta cho rằng một sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín hiệu xấu của nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết phải như vậy, nghĩa là cho dù cán cân cơ bản bị thâm hụt nhưng đây chưa hẳn đã là điều xấu. Ví dụ, một quốc gia có thể đang bị thâm hụt cán cân vãng lai & đồng thời có các luồng vốn dài hạn chảy ra, điều này khiến cho cán cân cơ bản trở lên thâm hụt nặng; nhưng các luồng vốn chảy ra sẽ hứa hện những thu nhập như lãi suất, cổ tức hay lợi nhuận trong tương lai; những thu nhập mày sẽ góp phần cải thiện thâm hụt hay tạo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai. Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng dư. *) Tình trạng cán cân cơ bản có tác động một cách không rõ ràng đến nền kinh tế tuỳ theo cách tiếp cận. *) Đối với các nước đang phát triển, vốn là yếu tố cần thiết để thực hiện công nghiệp và hiện đại hoá, thặng dư cán cân cơ bản nhìn chung được coi là dấu hiệu tích cực. *) Các chính sách thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp là giải pháp cơ bản cho vấn đề này. Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng dư. Có hai cách để nhìn nhận vấn đề thặng dư của cán cân cơ bản như sau: - Cách thứ nhất cho rằng, do được phía nước ngoài tin tưởng nên quốc gia có khả năng nhập khẩu được nhiều vốn dài hạn, do đó không có vấn đề gì phải lo lắng khi cán cân vãng lai bị thâm hụt. - Cách thứ hai cho rằng, thặng dư cán cân cơ bản là một vấn đề phải xem xét, bởi vì việc một quốc gia nhập khẩu vốn dài hạn sẽ phải thanh toán các khoản lãi suất, cổ tức và lợi nhuận trong tương lai. Điều này có thể làm cho cán cân vãng lai trở lên xấu đi trong tương lai. 3.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể Cán cân tổng thể phản ánh bức tranh các hoạt động của Ngân hàng Trung ương trong việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối cùng của nền kinh tế. OB= X-M + Se + Ic +Tr + Kl + Ks OB = - OFB Cán cân tổng thể có ý nghĩa vì: (i) Nếu thặng dư nó cho biết số tiền có sẵn để một quốc gia có thể sử dụng để tăng dự trữ ngoại hối; (ii) Nếu thâm hụt nó cho biết số tiền một quốc gia phải hoàn trả bằng việc bán ngoại hối. Khái niệm thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể chỉ thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá cố định mà không thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá thả nổi. Sở dĩ vậy là do, nếu áp dụng tỷ giá thả nổi thì tỷ giá hoàn toàn tự do biến động và như thế thì cán cân tổng thể luôn có xu hướng vận động về trạng thái cân bằng , vì Ngân hàng trung ương không can thiệp mua vào hay bán ra đồng tiền của mình, do đó dự trữ ngoại hối không thay đổi. Trong tỷ giá thả nổi, nếu cầu về một đồng tiền lớn hơn cung của đồng tiền đó thì tỷ giá của nó sẽ tăng và ngược lại , do đó thông qua cơ chế biến đổi tỷ giá mà cán cân tổng thể sẽ luôn có xu hướng chuyển về vị trí cân bằng. Tuy nhiên, cán cân tổng thể là rất quan trọng đối với tỷ giá cố định vì nó cho biết áp lực dãn đến phải phá giá hay nâng giá đồng tiền như thế nào. Trong hệ thống tỷ giá cố định một quốc gia có thâm hụt cán cân tổng thể phải chịu áp lực cung nội tệ lớn hơn cầu, do đó để tránh phá giá, Ngân hàng trung ương phải tiến hành bán dự trữ *) Tình trạng của cán cân tổng thể là rất quan trọng và tác động trực tiếp đến nền kinh tế và sự vận hành các chính sách vĩ mô, đặc biệt khi cán cân tổng thể ở tình trạng thâm hụt *) Các giải pháp cân bằng đối với cán cân tổng thể khi ở tình trạng thặng dư không những không khó mà luôn mang lại những hiệu ứng tích cực, kể cả trong ngắn hạn và dài hạn *) Ngược lại, các biện pháp cân bằng khi ở tình trạng thâm hụt không những khó khăn hơn mà tác động mặt trái thường rất nặng nề, thậm chí có thể mang lại những hậu quả trong dài hạn *) Cân bằng cán cân tổng thể cần lựa chọn và thực hiện các giải pháp một cách hết sức thận trọng. II. CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 1. Thực tế CCTTQT của Việt Nam 1.1. Cán cân thương mại (TB) Tổng lưu chuyển hàng hoá XNK của Việt Nam giai đoạn từ 2000 – 2008 Triệu USD Tổng số Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại 30,119.2 14,482.7 15,636.5 -1,153.8 31,247.1 15,029.2 16,217.9 -1,188.7 36,451.7 16,706.2 19,745.6 -3,039.5 45,405.1 20,149.3 25,255.8 -5,106.5 58,453.8 26,485.0 31,968.8 -5,483.8 69,208.2 32,447.1 36,761.1 -4,314.0 84,717.3 39,826.2 44,891.1 -5,064.9 111,326.1 48,561.4 62,764.7 -14,203.3 143,398.9 62,685.1 80,713.8 -18,028.7 Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại 8T/2009 Nhận xét chung: Cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam luôn có xu hướng thâm hụt (nhập khẩu cao hơn xuất khẩu), con số thâm hụt ngày một tăng lên. Nếu như vào năm 2000, thâm hụt cán cân thương mại chỉ ở mức 1,153.8 triệu USD thì đến năm 2008 con số này đã lên tới 18,028.7 triệu USD (tăng gấp 15 lần so với năm 2000. Nhìn vào xu hướng đó có thể thấy thâm hụt cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam ngày càng gia tăng. Trong 8 tháng đầu năm 2009, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng chủ lực và thị trường xuất khẩu chủ yếu được duy trì. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt 79,13 tỷ USD, giảm 22,7% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, xuất khẩu là 37,06 tỷ USD, giảm 14,6% và nhập khẩu là 42,08 tỷ USD, giảm 28,7%. Kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng chủ lực như hàng dệt may, cao su, gỗ và sản phẩm gỗ, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện… tăng trưởng đều vào các tháng trong quý III/2009. Bên cạnh đó, giá xuất khẩu bình quân của nhiều mặt hàng chủ lực đã tăng dần lên so với những tháng đầu năm. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân trong Quý III/2009 đạt 4,6 tỷ USD/tháng cao hơn so với mức bình quân 4,5 tỷ USD/tháng trong Quý II nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức bình quân 5,98 tỷ USD/tháng của cùng kỳ năm 2008. Tính chung 9 tháng, nhập siêu là hơn 6 tỷ USD chiếm gần 16% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Xuất khẩu: * Quy mô và tốc độ. Tháng 8/2009, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước là 4,52 tỷ USD, giảm 5,9% so với tháng 7/2009.Trong đó, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBTC1035.doc
Tài liệu liên quan