Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG KHOA SƯ PHẠM ----- [ \ ----- VĂN THỊ HỒNG HOA LỚP DH5C1 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGÀNH NGỮ VĂN Giảng viên hướng dẫn TIÊU MINH ĐƯƠNG LONG XUYÊN. 5/2008 VÀI NÉT VỀ NGUYỄN MINH CHÂU (1930 – 1989) Tên khai sinh: Nguyễn Minh Châu cũng là bút danh, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930. Quê gốc: làng Thôi, xã Quỳnh Hải, huyện Huỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tốt nghiệp Thành Chung. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Na

pdf74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 7480 | Lượt tải: 10download
Tóm tắt tài liệu Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m (1972). * Vào các năm 1944 - 1945, Nguyễn Minh Châu học Trường Kỹ nghệ Huế. Năm 1945 ông tốt nghiệp Thành chung. Tháng 1 năm 1950 ông học chuyên khoa Trường Huỳnh Thúc Kháng (Hà Tĩnh) và sau đó gia nhập quân đội theo học Trường sỹ quan Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956 ông công tác tại Ban tham mưu tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến năm 1958 ông là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961 ông theo học Trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962 về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông tạ thế ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội. * Tác phẩm chính đã xuất bản: Cửa sông (tiểu thuyết, 1987); Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970); Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972); Miền cháy (tiểu thuyết, 1977); Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977); Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983); Bến quê (truyện ngắn, 1985); Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982); Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987); Cỏ lau (truyện vừa, 1989). - Nguyễn Minh Châu đã được nhận Giải thưởng Bộ Quốc phòng năm (1984 - 1989) cho toàn bộ tác phẩm của ông viết về chiến tranh và người lính; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1988-1989) cho tập truyện vừa Cỏ lau. LỜI CẢM ƠN Để có thể hoàn thành tốt khoá luận, tôi đã nhận được nhiều sự ưu ái của Gia đình tôi, nhất là ba mẹ, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh thần. Gia đình đã tạo cho tôi tâm thế thoải mái để làm công việc nghiên cứu đầy khó khăn, luôn khuyến khích để tôi vững tin vượt qua mọi trở ngại trong quá trình hoàn thành khoá luận. Trường Đại học An Giang, các phòng ban, khoa sư phạm, đặc biệt là quý thầy cô trong ngành Ngữ văn đã tận tình giúp đỡ, sẵn sàng hỗ trợ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, đóng góp những ý kiến quý báu, cung cấp những tư liệu, tài liệu, tri thức cần thiết để tôi nghiên cứu vấn đề đạt hiệu quả. Thầy Tiêu Minh Đương đã quan tâm sâu sát và kịp thời hướng dẫn tôi giải quyết những khó khăn bước đầu trong công việc mang tính chất mới mẻ và lạ lẫm này. Thầy đã tận tình giúp đỡ, động viên tôi về mặt tinh thần để tôi tự tin thực hiện công trình trên cơ sở phát huy khả năng tìm tòi, học hỏi và sáng tạo. Có thể nói tôi học được rất nhiều từ phía thầy về kinh nghiệm nghiên cứu một đề tài, các bước thực hiện và trình bày theo khoa học và nhất là hứng thú, niềm say mê nghiên cứu khoa học, thấy được ý nghĩa thật sự của việc nghiên cứu. Các bạn cùng khoá học đã nhiệt tình hợp tác, đóng góp, giúp đỡ, ủng hộ tôi trong mọi thao tác, mọi bước hình thành khoá luận. XIN NHẬN Ở TÔI LỜI CẢM ƠN CHÂN THÀNH VÀ SÂU SẮC NHẤT! Tuy nhiên với vốn kiến thức còn hạn chế của một sinh viên sắp ra trường, chắc chắn khoá luận sẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy cô và các bạn! Long Xuyên. Tháng 5/ 2008 SV VĂN THỊ HỒNG HOA MỤC LỤC Lời cảm ơn A Phần mở đầu 1 Lý do chọn đề tài .............................................................................. 1 2 Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................. 2 3 Phạm vi nghiên cứu............................................................................ 4 4 Phương pháp nghiên cứu.................................................................... 4 5 Mục đích nghiên cứu.......................................................................... 5 6 Cấu trúc luận văn................................................................................ 5 7 Đóng góp của khoá luận..................................................................... 6 B Phần nội dung Chương I Cơ sở lý luận ......................................................................... 7 1 Cảm hứng và cảm hứng nhân đạo.................................................. 7 1.1 Cảm hứng tư tưởng ...................................................................... 7 1.2 Cảm hứng nhân đạo và chủ nghĩa nhân đạo ................................ 8 2 Cảm hứng nhân đạo trong văn học Việt Nam ............................. 11 2.1 Từ văn học dân gian đến văn học giai đoạn 1945....................... 11 2.2 Giai đoạn 1945 – 1975 ................................................................ 13 2.3 Sau năm 1975 đến nay ................................................................ 15 Chương II Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 ...................................................................... 19 1 Tinh thần khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người ............ 19 1.1 Ca ngợi con người giác ngộ lý tưởng biết làm chủ vận mệnh mình................................................................................................................ 19 1.2 Phê phán những hành động giả trá, thiếu nhân tính.................... 32 2 Tinh thần cảm thông về số phận và những nỗi đau khổ của con người trong mỗi tác phẩm .................................................................... 41 2.1 Niềm trân trọng đối với con người............................................... 41 2.2 Niềm tin vào khả năng thức tỉnh và hướng thiện của mỗi con người............................................................................................................... 56 C Phần kết luận ........................................................................................ 66 Tài liệu tham khảo........................................................................................ 68 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tuấn Thành và Vũ Nguyễn (tuyển chọn). 2007. Truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, tác phẩm và dư luận. NXB Văn học. 2. Đại học quốc gia, Trường viết văn Nguyễn Du, Tạp chí văn nghệ Quân đội. 1999. 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng 8. NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 3. Đỗ Đức Hiểu. 2000. Thi pháp hiện đại. Hà Nội: NXB Hội nhà văn. 4. Đặng Thai Mai. 1997. Toàn tập, tập I,II. NXB Văn học Hà Nội. 5. G. N. Pospelov (chủ biên). 1985. Dẫn luận nghiên cứu văn học I. NXB Giáo dục. 6. Hà Minh Đức. 2000. Đi tìm chân lý nghệ thuật (tiểu luận, phê bình). NXB Văn Học Hà Nội. 7. Hà Xuân Trường. 1986. Văn học, cuộc sống và thời đại. NXB Văn học Hà Nội. 8. Hoàng Ngọc Hiến. 1997. Văn học và học văn. Hà Nội: NXB Văn học. 9. Hoàng Ngọc Hiến. 2006. Những ngả đường vào văn học. Hà Nội: NXB Giáo dục. 10. Lương Duy Trung (chủ biên). 1993. Văn học và ngôn ngữ (kỷ yếu). Trường Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh. 11. Nguyễn Đức Khuông. 2005. Tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam trong con mắt người nước ngoài. NXB Đại học sư phạm. 12. Nguyễn Minh Châu. 2006. Tuyển tập truyện ngắn. NXB Văn học 13. Nguyễn Thanh Bình và Nguyễn Đức Khuông (tuyển chọn và giới thiệu). 2005. Tìm hiểu nhà văn và tác phẩm trong nhà trường. NXB Đại học sư phạm. 14. Nguyễn Thị Bình. 1999. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải - Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường. NXB Giáo dục. 15. Nguyễn Trọng Hoàn (giới thiệu và tuyển chọn). H, 2001. Nguyễn Minh Châu, tác giả, tác phẩm. NXB Giáo dục. 16. Nguyễn Văn Kha. 2003. Nguyễn Minh Châu, nhà văn chiến sĩ. NXB Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học TP Hồ chí minh. 17. Nguyễn Văn Long và Lã Nhâm Thìn (chủ biên). 2006. Văn học việt nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy. NXB Giáo dục. 18. Phạm Đăng Dư và Lê Lưu Oanh. 2002. Giáo trình lý luận văn học. Bộ giáo dục và đào tạo, Đại học Huế, TT Đào tạo từ xa. 19. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình. 2004. Lý luận văn học. NXB Gíao dục. 20. Tôn Phương Lan (sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu). 2002. Nguyễn Minh Châu, Trang giấy trước đèn. NXB khoa học xã hội. 21. Tôn Phương Lan. 2002. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu. NXB Khoa học xã hội. 22. Lý luận và phê bình văn học. 1996. Văn học và cuộc sống. NXB Lao động. 23. Vân Trang, Ngô Hoàng, Bảo Hương (sưu tầm và biên soạn). 1997. Văn học 1975-1985, tác phẩm và dư luận. NXB Hội nhà văn Hà Nội. 24. Văn học và tuổi trẻ, số 8/ 2001. MỤC LỤC Lời cảm ơn A Phần mở đầu 1 1 Lý do chọn đề tài ................................................................. 1 2 Lịch sử vấn đề nghiên cứu .................................................................................. 1 3 Phạm vi nghiên cứu............................................................................................. 2 4 Phương pháp nghiên cứu..................................................................................... 2 5 Mục đích nghiên cứu........................................................................................... 3 6 Cấu trúc luận văn ................................................................................................ 3 7 Đóng góp của khoá luận...................................................................................... 3 B Phần nội dung ........................................................................................................ 5 Chương I Cơ sở lý luận ........................................................................................ 5 1 Cảm hứng và cảm hứng nhân đạo................................................................... 5 1.1 Cảm hứng tư tưởng ....................................................................................... 5 1.2 Cảm hứng nhân đạo và chủ nghĩa nhân đạo ................................................. 5 2 Cảm hứng nhân đạo trong văn học Việt Nam hiện đại ................................ 6 2.1 Từ văn học dân gian đến văn học giai đoạn 1945........................................ 6 2.2 Giai đoạn 1945 – 1975 ................................................................................. 7 2.3 Sau năm 1975 đến nay ................................................................................. 7 Chương II Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 ............................................................................................................... 8 1 Tinh thần khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người ............................. 8 1.1 Ca ngợi con người giác ngộ lý tưởng biết làm chủ vận mệnh mình ............. 8 1.2 Phê phán những hành động giả trá, thiếu nhân tính ..................................... 8 2 Tinh thần cảm thông về số phận và những nỗi đau khổ của con người trong mỗi tác phẩm....................................................................................................... 9 2.1 Niềm trân trọng đối với con người................................................................ 9 2.2 Niềm tin vào khả năng thức tỉnh và hướng thiện của mỗi con người ........... 10 C Phần kết luận.......................................................................................................... 10 Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 1 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Mỗi sáng tác văn học đều bắt nguồn từ đời sống, mà “cái thiện và cái ác gắn liền với những hiện tượng trong đời sống, từ tâm trạng đến hành động của con người và cũng là đối tượng phản ánh, sáng tạo trong nghệ thuật” [6; 33-34]. Nói như thế có nghĩa là trong quá trình tiếp xúc hiện thực hai mặt tồn tại trong tương quan đó, nhà văn chiêm nghiệm và nhận ra “trong con người đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ” [12; 133], từ đó hình thành nên cảm hứng, nguồn động lực thôi thúc họ phản ánh vào tác phẩm. Bằng nhãn quan nghệ sĩ, họ luôn cúi xuống những số phận, những con người ở mọi tầng lớp từ nhiều góc độ để tìm tòi, phát hiện ra “chất người” bị hoà vào những bề bộn, ngổn ngang của cuộc sống, để từ đó họ lên tiếng ngợi ca hoặc phê phán nhằm khẳng định những chân giá trị, những phẩm chất tốt đẹp nơi con người. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ và đặc biệt ông là nhà văn đi tiên phong ở thời kì đổi mới. Ông sớm nhận ra được trong mỗi con người luôn tồn tại hai mặt thiện – ác. Vì thế, sau năm 1975, khi đất nước được giải phóng, Nguyễn Minh Châu đã thẳng thắn soi rọi vào thực tế chiến tranh, ông đã phát hiện ra đằng sau những con người cao cả, “thánh nhân” ấy là những thói nhỏ nhen, ích kỷ, tham sống sợ chết. Ông nhìn thấy được nỗi ân hận, day dứt đến tột cùng của họ về những lỗi lầm trước đây khi đang sống thật với lòng mình, đang nhìn thẳng vào sự thật cuộc đời mình. Và ông đã phản ánh vào các sáng tác của mình để người đọc cùng chiêm nghiệm, cùng nhận ra những điều tưởng chừng như không thể có trong những lúc ranh giới giữa sống và chết rất mong manh. Vậy mà nó vẫn xảy ra và nó trải đều qua mỗi số phận con người trong xã hội. Quen sống với hào khí chiến công làm cho người ta không ngừng nảy sinh những điều dối trá, mập mờ và vì hoàn cảnh mà con người ta dường như tạm quên đi ý thức tìm về sự thật, thậm chí có thể bị dị ứng khi phát hiện ra sự thật. Nguyễn Minh Châu không như thế, với ông lúc này đây không còn chiến tranh chống kẻ thù, thì con người cần nhìn thẳng vào sự thật, cần đấu tranh với chính bản thân mình, với chính những sai lầm của bản thân để tự phê phán, để sửa chữa, để hoàn thiện cuộc đời. Hơn nữa, Nguyễn Minh Châu cũng đã đi tìm cái “hạt ngọc”, “cái sợi chỉ xanh óng ánh” ẩn sâu trong những thân phận con người đã lầm lạc để từ đó nâng con người lên một tầm cao hơn, hoàn thiện nhân cách con người. Sau 1975, sự tự ý thức và tinh thần nhân bản là cảm hứng chủ đạo của nền văn học. Nguyễn Minh Châu cũng đã góp mặt cùng trào lưu bằng một mảng những sáng tác đậm chất nhân văn qua một loạt các tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” (1983); “Bến quê” (1985); “Cỏ lau” (1989). Tác giả đã dõi theo từng bước đi, từng việc làm, từng suy nghĩ và từng phút giây tự vấn lương tâm vì lầm lạc của những con người trong tác phẩm. Sau đó bằng sự cảm thông sâu sắc cũng như lòng trân trọng, tràn đầy tình yêu thương, ông đã khẳng định bên trong mỗi con người đều có hai mặt thiện - ác, nhưng lúc nào họ cũng luôn vươn lên, hoàn thiện Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 2 mình, đấu tranh loại bỏ mặt tiêu cực của bản thân để giữ lại phẩm chất tốt đẹp vốn có trong mỗi con người. Nhận được những điều đó qua các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, chúng tôi chọn đề tài này như một sự say mê tìm tòi, phát hiện và chứng minh điều tác giả đã khẳng định. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Vấn đề mà đề tài thực hiện đã có rất nhiều người quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận từ các góc độ khác nhau nhưng nhìn chung, dường như sự tập trung không phải là xâu chuỗi toàn bộ sáng tác của nhà văn mà điểm dừng trên từng tác phẩm riêng lẻ vì thế chưa khái quát thành một hệ thống. Trước hết, xuất phát từ lập trường Xã hội học Nhà nghiên cứu Nguyễn Trọng Hoàn đi sâu vào truyện ngắn “Bức tranh” để đi sâu khai thác “cuộc đấu tranh nội tâm với khát vọng tìm tòi và phục hiện ánh sáng nhân tính trong khả năng tự thức tỉnh của “con người bên trong con người” (Bakhtin)” [15; 143]. Tác giả đi vào những trạng huống tâm lý nhân vật phức tạp với diễn biến đa chiều, những hình thức nghệ thuật đặc sắc nhằm thể hiện tư tuởng chủ đề của tác phẩm là khát vọng thức tỉnh lương tâm, hướng tới cái đẹp của sự hoàn thiện nhân cách trong cuộc sống . Cũng từ góc độ này, N.I.Niculin trong “Nguyễn Minh Châu và sáng tác của anh” đã thấy được qua truyện vừa “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”. Sự lo lắng của nhà văn, khát vọng bảo vệ tất cả những gì tích cực, đẩy lùi cái ác, đã bộc lộ rõ rệt trong cuốn sách mới này của anh. Ngay ở đây anh vẫn giữ một niềm tin không chút dao động vào cái đẹp tâm hồn của con người. Ở các truyện ngắn như “Bức tranh”, “con người bị phán xét bởi lương tâm mình, không gì khe khắt và công bằng hơn sự phán xét này” [15; 291]. Thứ hai, từ góc độ nội dung tư tưởng Các tác giả tìm hiểu cảm hứng ngợi ca và phê phán nhưng chỉ trong một vài tác phẩm riêng lẻ. Hồ Hồng Quang phát hiện ra qua những tác phẩm về chiến tranh những năm 1980 có một sự chiêm nghiệm lại về cuộc chiến và người lính cách mạng của Nguyễn Minh Châu, tìm hiểu hai mặt tương phản của hai lớp người trong chiến tranh: người anh hùng và kẻ đớn hèn như Lực trong “Cỏ lau” và Thái trong “Mùa trái cóc ở miền Nam” hay trong chính bản thân của mỗi con người như Lực vừa là một con người anh dũng trong chiến đấu, cao thượng trong tình yêu, trong ứng xử vừa có những lúc nhỏ nhen, tự ái, thù vặt. Phạm Quang Long nhìn thấy thái độ của Nguyễn Minh Châu đối với con người: niềm tin pha lẫn lo âu. Nhà nghiên cứu cho rằng “Những tác phẩm như “Cơn giông”, “Bức tranh”, “Mùa trái cóc ở miền Nam”, “Cỏ lau” viết trong những năm Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 3 cuối đời ông chính là sự thể hiện nỗi đau đời mà ông đã day dứt trong bao nhiêu năm ấy” [15; 268-269]. Đối với tác giả Huỳnh Như Phương thì sự phân tích nhiều dằn vặt của người họa sĩ trong truyện “Bức tranh” là một thái độ đạo đức bao hàm tình cảm có tội và phần nào ý thức trách nhiệm. Vì thế, đem lại cho nó một ý nghĩa mới, đó là một vết đen của nhân cách mà tôi đã nhận ra và đang nổ lực rửa sạch đi. Thứ ba, từ cơ sở Thi pháp học, có những tên tuổi như Ngọc Trai, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Thị Hiếu, Lê Quang Hưng và điểm gặp gỡ giữa các nhà nghiên cứu là chỉ dừng lại khám phá những xung đột nội tâm, những trăn trở, day dứt của con người trong tác phẩm “Bức tranh”, “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, “Khách ở quê ra” và “Phiên chợ Giát”. Chu Văn Sơn đi vào cảm hứng ca ngợi trong tác phẩm “Cỏ lau”. Xem vẻ đẹp nữ tính của Thai, thiên chức làm mẹ, làm vợ là linh hồn của tác phẩm “Cỏ lau”, từ đó không ngừng nhận ra “hạt ngọc” trong tâm hồn những con người trong tác phẩm. Còn Hoàng Ngọc Hiến có trải cái nhìn từ truyện “Bức tranh” đến “Phiên chợ Giát”. Ở “Bức tranh” tác giả chú ý đến quá trình tự nhận thức của người hoạ sĩ. Còn trong “Phiên chợ Giát” thì chú ý quan hệ giữa Bò Khoang và lão Khúng ở con người nông dân là quan hệ “lẫn lộn bò và người”, “hai mà một, một mà hai”. Đỗ Đức Hiểu thì tìm hiểu tác phẩm Phiên chợ Giát như “là một tâm trạng lớn, là những cảm xúc và những suy tư sâu thẳm, một văn bản đa thanh, một tác phẩm nghệ thuật mở, một bức tranh lạ lùng, tức là Phiên chợ Giát có một tầm cỡ lớn” [3; 250]. Tôn Phương Lan đi vào tìm hiểu cảm hứng nhân đạo ở tư tưởng nghệ thuật, quan niệm về hiện thực và con người, tìm hiểu về nhân vật, tình huống và điểm nhìn trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu. Hoàng Thi Văn thì đi sâu vào cảm hứng nhân đạo mang tính tập trung, cụ thể là hai truyện ngắn “Cỏ lau và Phiên chợ Giát” và nhấn mạnh ở nhân vật Lực và lão Khúng về cuộc đời cũng như những trăn trở của họ. Hoàng Thi Văn nhận ra, nhà văn Nguyễn Minh Châu bằng tấm lòng ưu ái đối với cuộc đời nên cảm hứng tư tưởng thể hiện ở hai sắc thái vừa ngợi ca, vừa phê phán. Tinh thần ngợi ca đã “khắc hoạ hình ảnh người lính với nét đẹp đời thường, thái độ lặng lẽ chấp nhận những thiệt thòi, mất mát, tâm trạng dằn vặt, trăn trở, tự vấn mình về một lỗi lầm trong quá khứ” [10; 55]. Một tình yêu duy nhất thuỷ chung mang theo suốt cuộc đời- đó chính là vẻ đẹp trong tâm hồn và trong cuộc đời sống tinh thần của người chiến sĩ. Và tác giả đã tìm hiểu lão Khúng, hình ảnh người nông dân với những dòng hồi tưởng, những giây phút đấu tranh tâm trạng đan xen trong ông. Tác giả nhận ra ngòi bút của Nguyễn Minh Châu giàu lòng yêu thương, sáng tác với ý thức “đi tìm cái hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người, miêu tả với tất cả sự đa dạng, phong phú, tiềm ẩn bên trong vẻ ngoài mộc mạc, chất phác muôn đời của người Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 4 nông dân” [10; 55]. Đối với phê phán là bản tính ích kỉ đời thường của người lính đã dẫn đến sự hy sinh không đáng của người liên lạc trẻ, cũng như lột tả khía cạnh bảo thủ, trì trệ trong bản tính của người nông dân [10; 58]. Nghiên cứu về Cảm hứng nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, có thể nói, các nhà nghiên cứu đã tập trung khai thác và lý giải diễn ra trên diện rộng, mỗi người có mỗi cách lý giải nhưng điểm gặp gỡ ở họ là xác định cảm hứng nhân đạo của nhà văn. Đáng kể nhất là bài nghiên cứu của Hoàng Thi Văn đã đi sâu vào yêu cầu của đề tài nhưng lại chỉ dừng lại ở hai tác phẩm “Cỏ lau và Phiên chợ Giát”. Từ những ý kiến trên sẽ là cơ sở cho chúng tôi đi vào nghiên cứu cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975. 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Khách thể nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu mà cụ thể là chín tác phẩm: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cơn giông, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam, Phiên chợ Giát. Và ở đây, chúng tôi xem các sáng tác như một chỉnh thể thống nhất xâu chuỗi với nhau và sợi chỉ đỏ xuyên thấm là cảm hứng nhân đạo của nhà văn. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Là cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu, cụ thể là cảm hứng ca ngợi hoặc phê phán. Ở đây cũng cần thấy rằng ngợi ca hay phê phán thì sáng tác văn học của bất kì nhà văn chân chính nào cũng hướng về khẳng định giá trị con người và cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu không ngoài quy luật đó. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 với một số lượng tác phẩm khá lớn vừa có tiểu thuyết, vừa có truyện ngắn. Trong giới hạn của đề tài, với chín truyện ngắn thì cảm hứng nhân đạo như mối dây xuyên qua từng tác phẩm. Có thể nói, mỗi tác phẩm đều có cách thể hiện cảm hứng nhân đạo khác nhau ở từng phương diện, từng khía cạnh làm nên đặc điểm nổi bật cho từng tác phẩm. Vì thế, để kết quả nghiên cứu đạt hiệu quả tốt nhất, chúng tôi sử dụng hệ thống phương pháp Trước hết, cơ sở không thể thiếu được cho nghiên cứu là lập trường duy vật biện chứng. Tức là tinh thần của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở để chúng tôi tiến hành xác lập mọi tiếp cận đối tượng nghiên cứu. Khi đi vào nghiên cứu cụ thể thì việc phân tích là một trong những phương pháp chủ yếu. Cụ thể, để làm rõ cho việc lý giải cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của nhà văn thì việc phân tích hình tượng nghệ thuật trong từng tác phẩm là điều không thể thiếu trong nghiên cứu. Tuy nhiên, như đã nói, với số lượng chín tác Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 5 phẩm mà chúng tôi xem như một chỉnh thể thống nhất thì việc phân tích ở đây là phân tích – hệ thống. Tất nhiên, tính hệ thống không chỉ dừng lại sự xâu kết, mà còn góp phần cho chúng tôi lý giải trong một chỉnh thể thống nhất đó ở hai bình diện là cảm hứng ngợi ca và cảm hứng phê phán. Có thể nói, phương pháp phân tích - hệ thống là cơ sở có nhiều ưu điểm cho chúng tôi nghiên cứu cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của nhà văn Nguyễn Minh Châu . Ngoài ra, trong quá trình phân tích, lý giải thì việc so sánh cũng là điều rất cần thiết. Vì có so sánh mới làm sáng rõ được đối tượng nghiên cứu. Đó là đi vào so sánh ngang giữa các tác phẩm để nhận biết các tác phẩm có những điểm gì giống và khác nhau về loại hình nhân vật, có nhiều bước chúng tôi so sánh với các tác phẩm ngoài giới hạn đề tài.Văn học phản ánh chân thật hiện thực đời sống nên chúng tôi đã đặt tác phẩm vào mối tương quan với xã hội bên ngoài, từ đó rút ra hiện thực mà tác giả phản ánh vào tác phẩm. Như đã nói, lập trường duy vật biện chứng và thông qua những phương pháp cụ thể thì cơ sở lý luận không thể không dung hợp. Nghĩa là ở đây, tinh thần lý luận văn học là điều kiện xác lập cảm hứng nhân đạo, nhưng trong quá trình lý giải thì chúng tôi phần nào lý giải trên cơ sở Thi pháp học hiện đại. Bởi cảm hứng nhân đạo là bình diện thuộc tư tưởng nghệ thuật. Vì thế, tinh thần dung hợp cơ sở lý luận không làm sai lệch kết quả nghiên cứu. Tóm lại, tất cả các phương pháp trên đều nhằm mục đích nghiên cứu, khai thác đề tài đạt hiệu quả cao nhất. 5. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Từ những gì tìm hiểu về tác phẩm, nhận ra thái độ, tư tưởng cũng như cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu về con người trong tác phẩm, ình thành một cách nhìn mới về con người. Đó chính là sự trăn trở của tác giả trước đời sống, nhà văn không hề thờ ơ hay lạnh nhạt trước số phận của những con người dù họ đang lầm lạc. Hay nói đúng hơn, tác giả luôn thấu hiểu, xót thương và cảm thông với những lỗi lầm của họ nên đã phơi bày một cách chân thật những miền nội tâm, những suy nghĩ về những việc làm đã khiến họ ray rứt trong cuộc sống. 6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung nghiên cứu gồm 2 chương Chương I Cơ sở lý luận. (từ trang 7 đến 18) Đi vào tìm hiểu những khái niệm về cảm hứng tư tưởng và cảm hứng nhân đạo.Và sau đó đi vào cảm hứng nhân đạo qua các giai đoạn văn học, từ văn học dân gian đến văn học hiện đại. Xoáy sâu vào giai đoạn 1945 - 1975 và sau 1975, nhất là trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975. Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 6 Chương II Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 (từ trang 19 đến 67). Ở chương này chúng tôi tìm hiểu: 1. Tinh thần khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người 1.1. Ca ngợi con người giác ngộ lý tưởng biết làm chủ vận mệnh mình. Ca ngợi những người lính với những mất mát, hy sinh thầm lặng trong cuộc đời, ca ngợi những người phụ nữ với phẩm chất thuỷ chung, suốt đời chịu thương chịu khó vì chồng vì con. 1.2. Phê phán những hành động giả trá thiếu nhân tính Lên án những hành vi vô nhân tính của những con người vì vật chất mà tha hoá. Cũng như phê phán phút giây lầm lạc của những con người chưa vượt qua “cái tôi” của mình. 2. Tinh thần cảm thông về số phận và những nỗi đau khổ của con người 2.1. Niềm trân trọng đối với con người. Ở phần này, chúng tôi đi sâu phân tích từng số phận, nỗi đau khổ, bất hạnh và niềm hạnh phúc thật sự cũng như khát vọng của con người trong tác phẩm. 2.2. Niềm tin vào khả năng thức tỉnh và hướng thiện của mỗi người. Thông qua quá trình phản tỉnh của con người trong tác phẩm, khẳng định niềm tin của tác giả vào phẩm chất tốt đẹp của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng muốn vượt lên số phận để hoàn thiện bản thân. 7. ĐÓNG GÓP CỦA KHOÁ LUẬN Nghiên cứu cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975, trước hết giúp cho chúng tôi có điều kiện hiểu rõ về bình diện tư tưởng trong sáng tác của nhà văn để góp phần trang bị kĩ hơn cho mình về mặt kiến thức để giúp cho nghề nghiệp sau này. Nhà văn Nguyễn Minh Châu có vị trí khá đặc biệt của nền văn học Việt Nam sau 1975, vì thế nghiên cứu cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của ông cũng là cơ sở cho việc hiểu biết thêm về văn học dân tộc trong giai đoạn ấy. Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 7 CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN 1. CẢM HỨNG VÀ CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO 1.1. Cảm hứng tư tưởng Theo giáo trình lý luận văn học (Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình) Cảm hứng - trạng thái tâm lý then chốt và bao trùm trong sáng tác của nhà văn. Cảm hứng được biểu hiện rõ nhất khi nhà văn bắt đầu viết, nhưng có thể bàng bạc trong hầu hết các khâu của quá trình sáng tác. Dĩ nhiên, cảm hứng cũng có thể có trong tất cả các ngành sản xuất khi mà con người lao động hoàn toàn tự nguyện theo những mục đích hoàn toàn phù hợp với lý tưởng và khả năng của mình. Nhưng khác với thành phẩm của tất cả các ngành lao động khác, tác phẩm văn học nghệ thuật còn chứa đựng tình cảm chủ quan của chủ thể sáng tạo, cho nên cảm hứng sáng tạo của văn nghệ sĩ vốn phải mãnh liệt. Nguyễn Quýnh nói “Người làm thơ không thể không có hứng, cũng như tạo hoá không thể không có gió vậy… Tâm người ta như chuông như trống, hứng như chày và dùi. Hai thứ đó gõ, đánh vào chuông trống khiến chúng phát ra tiếng; hứng đến khiến người ta bật ra thơ, cũng tương tự như vậy”. Cũng có nhà văn không coi trọng cảm hứng, Phlôbe không tin tưởng nhiều vào cảm hứng. Phrăngxơ cảm thấy ngọn lửa cảm hứng trong ông rất ôn hoà. Xtăngđan có lúc hối tiếc không sử dụng tốt mười năm của đời mình vì cứ chờ đợi cảm hứng. Dôla nói rằng “sáng sáng ông ngồi vào bàn viết như nhà buôn ngồi vào bàn tính sổ”. Giorgiơ Xăng cũng hằng ngày viết đều đặn một số trang nhất định. Tô Hoài còn nói rõ hơn “Dù không thấy hứng, cũng cứ viết… Hôm ấy, dù không thích cũng viết… Lúc sửa có vứt mấy trang hôm ấy, nhưng cũng còn lại cái thói quen làm việc”. Như thế không có cảm hứng mà miễn cưỡng viết, chẳng qua là tập thói quen. Và chính đó là con đường động não, tích luỹ sẽ tạo cảm hứng thật sự. Cho nên tuy có nhanh chậm, cao thấp, kéo dài hoặc chóng tan khác nhau, nhưng sáng tác văn học nghệ thuật không thể không có cảm hứng. Viết văn là gan ruột, tâm huyết, chỉ bộc lộ những gì đã thực sự tràn đầy trong lòng, không thể cho ra những sản phẩm của một tâm hồn bằng lặng, vô vị, miễn cưỡng. Cảm hứng là một trạng thái tâm lí căng thẳng nhưng say mê khác thường. Sự căng thẳng của ý chí và trí tuệ, sự dồi dào về cảm xúc, khi đạt đến sự hài hoà, kết tinh, sẽ cháy bùng trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, dẫn dắt họ đến những mục tiêu da diết bằng con đường gần như trực giác, bản năng. Cảm hứng chỉ có thể là kết quả bất ngờ của việc thai nghén lâu dài, suy tư, cấu tứ, tưởng tượng trước đó. Traixcapxki đã nói chí lí rằng “cảm hứng là một khách quan không ưa thăm đến kẻ lười”. Sinle nói “cái mà uổng ._.công suốt mấy tuần liền, thì được giải quyết trong ba ngày nhờ một tia nắng dịu; song rõ ràng là sự thường xuyên của tôi đã chuẩn bị cho bước tiến triển đó”. Bôđơlơ cũng nói “Cảm hứng là nghị lực, là sự phấn khởi mang tính chất trí tuệ và là khả năng nương giữ cái sức mạnh trong trạng thái kích thích”. Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 8 Dẫn luận nghiên cứu văn học (G. N. Pospelov (chủ biên)) Sự lý giải đánh giá sâu sắc và chân thực – lịch sử đối với các tính cách được mô tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư tưởng sáng tạo của nhà văn và của tác phẩm của nhà văn. Ngay các triết gia cổ Hy Lạp và sau này là Hegel và Belinsky đều đã dùng từ “cảm hứng” (tiếng Hy Lạp cổ: pathos – một tình cảm sâu sắc, nồng nàn) để chỉ trạng thái phấn hưng cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc sống mà họ mô tả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt nguồn từ lý tưởng xã hội của nhà văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại. Ở những tác phẩm không có chiều sâu của hệ vấn đề, sự lý giải và đánh giá các tính cách sẽ không nâng lên được thành cảm hứng. Ở những tác phẩm mang tư tưởng giả tạo, cảm hứng chỉ được tạo nên do ý chí chủ quan của nhà văn và vì vậy cảm hứng sẽ mang tính chất gượng gạo, cố tình. Do những khác biệt cốt yếu của bản thân cuộc sống được nhận thức, cảm hứng của các tác phẩm văn học cũng được bộc lộ một số biến thể. Nó có thể là cảm hứng anh hùng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng kịch tính, cảm hứng thương cảm… Nhưng tất cả đều là sự ý thức và đánh giá chân thực và sâu sắc về những gì đang diễn ra và đang tồn tại trong thực tế. Theo Giáo trình Lý Luận văn học (Phạm Đăng Dư, Lê Lưu Oanh) Nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học không bao giờ chỉ là sự lý giải dửng dưng, lạnh lùng mà gắn liền với xúc cảm mãnh liệt . Cảm hứng trong tác phẩm trước hết là niềm say mê khẳng định chân lý, lý tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với những nhân vật chính diện, là sự phê phán, tố cáo các thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường. Cảm hứng của tác giả dẫn đến sự đánh giá theo quy luật của tình cảm. “Nghệ thuật vận dụng quy luật riêng của tình cảm”. Niềm tin yêu, say mê và khẳng định tư tưởng, chân lý làm cho cảm hứng trong tác phẩm thường mang tính chất “thiên vị”, “thiên ái” đối với nhân vật của mình, chân lý của mình. 1.2. Cảm hứng nhân đạo và chủ nghĩa nhân đạo Từ “Nhân đạo” (theo nghĩa của từ điển Tiếng Việt của Minh Tân - Thanh Nghi - Xuân Lâm biên soạn) là đạo đức thể hiện ở sự thương yêu, quý trọng và bảo vệ con người. Chủ nghĩa nhân đạo theo quan niệm của một số nhà nghiên cứu như Trần Thanh Đạm, Hoàng Ngọc Hiến đã hướng vào lý giải văn học Trước hết, theo Trần Thanh Đạm [22; 23] quan niệm Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 9 Nói đến chủ nghĩa nhân đạo là trước hết nói đến lòng thương người, sự mẫn cảm trước nỗi khổ đau, bất hạnh của đồng loại, sự quan tâm, mưu cầu điều tốt, điều lành, niềm hạnh phúc cho người vốn dễ dàng bất hạnh hơn là hạnh phúc. Chủ nghĩa nhân đạo là thái độ đạo đức đối với con người như là đối tượng của tình thương yêu. Nếu chủ nghĩa nhân bản thiên về sự thấu hiểu, thông cảm phần thể xác của con người thì chủ nghĩa nhân đạo chú tâm hơn phần đạo lý của nó. Chủ nghĩa nhân đạo chân chính không chỉ thương xót hay thương yêu mà còn quý trọng và đòi hỏi. Con người không phải là thần thánh nhưng con người phải vươn lên thế giới của thần thánh, xa dần thế giới của loài vật càng nhiều càng tốt. Nói như ai, con người phải dần dần bớt phần “con” mà thêm phần “người”. Chủ nghĩa nhân bản xác lập cái chân, chủ nghĩa nhân đạo khuyến khích cái thiện. Nhưng con người xứng đáng với vị thể và danh hiệu loài người, không chỉ sống thực, sống tốt mà còn sống đẹp; cái đẹp chân chính bao gồm cả cái thực và cái tốt bên trong. Đây là lĩnh vực của chủ nghĩa nhân văn, giang sơn của văn hóa, văn chương, nghệ thuật (nghĩa của chữ “văn” là đẹp, vẻ đẹp, cái đẹp). Chủ nghĩa nhân văn cũng là chủ nghĩa nhân bản, chủ nghĩa nhân đạo là tri thức và đạo đức về con người trong cái biểu hiện về văn hóa, nghệ thuật, là hình thái tổng hợp và sáng tạo của cả ba nhân tố. Hoàng Ngọc Hiến trong “Những ngả đường vào văn học” thì xem xét nội dung này rất cụ thể, theo ông Trong các biểu hiện đa dạng của lý tưởng nhân văn tiến bộ trong lịch sử văn học Việt Nam có hai cảm hứng nhân văn đáng được chú ý. Cảm hứng thứ nhất là lòng ưu ái, tình thương đối với con người, đặc biệt những con người khốn khổ gặp cảnh hoạn nạn. Nguyễn Du tiêu biểu cho dòng cảm hứng nhân văn này. Trong tư tưởng truyền thống của nhân dân ta, tư tưởng nhân đạo trước hết được diễn đạt bởi khái niệm tình thương, khái niệm này, dĩ nhiên không thể chứa đựng được nội hàm của chủ nghĩa nhân đạo mới. Tình thương, theo nghĩa đơn giản nhất của từ này, là năng lực thông cảm với nỗi đau của người khác. Không phải ngẫu nhiên trong ngôn ngữ của ta, “đau” và “ thương” đi với nhau. Thông cảm với nỗi đau của người khác cũng là một cái đau, một sự xót xa của chính mình: tình thương thật sự bao giờ cũng là đau xót. Tình thương là một năng lực nhân tính vĩ đại. Đau thương bao giờ cũng là nguồn cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa lớn lao của văn học nghệ thuật. Nguyễn Du, Lỗ Tấn… đã trở thành những nghệ sĩ lớn, trước hết là vì hơn bất cứ ai, họ đã thông cảm sâu sắc và đau đớn da diết những nỗi đau nhân tình trong thời đại của họ. Mỗi lần văn học chuyển giai đoạn thì trong ý thức của văn học thường xuất hiện những “vùng đau mới”. Đau thương là bằng chứng của sức sống con người. Bắt đầu của tình thương là sự thông cảm với nỗi đau của người khác. Tình thương là một năng lực nhân tính phổ biến, vì trên đời này có ai không có nỗi đau. Trong quan hệ giữa người và người, ngoài yêu cầu tình thương: đó là sự kính trọng, sự quý trọng lẫn nhau trong quan hệ giữa người và người của cộng đồng xã hội mới. Nói đến cái đáng quý trọng của con người, trước hết phải nói đến những phẩm giá nhân tính, những phẩm giá thuộc về cơ thể, trí tuệ, tình cảm, ý chí của con Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 10 người, đó là tài sắc, đức hạnh và những phẩm giá khác của con người. Vậy thì trong cộng đồng xã hội của chúng ta, người nào chả đáng quý trọng, ngay ở những người bình thường cũng có thể tìm thấy vài ba nét phẩm giá kể trên. Mỗi người đều đáng quý trọng trước hết vì mỗi người là một nhân cách rất riêng, không ai thay thế được. Định nghĩa của Hêgel về tình thương bao hàm một nghịch lý “quên mình đi chính là làm chủ bản thân mình, hơn nữa, quên mình đi, đó là lần đầu tiên tìm được bản thân mình và làm chủ được bản thân mình”. “Thương người”- đúng theo cách hiểu của Hegel về tình thương – là nguyên tắc xả thân. Còn “thương mình”, mặt nào đó, có thể xem là nguyên tắc vị kỉ. Quan hệ “thương người – thương mình” nằm trong mối quan hệ giữa nguyên tắc xả thân và nguyên tắc vị kỉ. Có những việc làm rõ ràng có lợi cho cá nhân, có những suy tính cá nhân nhưng không thể quy là ích kỉ được. Ngược lại, có những hành động đóng góp lớn cho tập thể nhưng xét về động cơ thì không đơn thuần chỉ có sự xả thân. Dòng cảm hứng nhân văn thứ hai – không phổ biến như cảm hứng nhân văn “tình thương” và gần gũi hơn với lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa – trực tiếp đặt yêu cầu phát triển năng lực của con người. Tuy không thật nổi đậm, nhưng vẫn có thể tìm thấy thấp thoáng cảm hứng này ở Nguyễn Trãi, Nam Cao. Có thể hiểu được lí tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi qua bài thơ số 173 trong thơ chữ Nôm “Quốc âm thi tập” của ông Nên thợ nên thầy vì có học No ăn no mặc bởi hay làm. Ở đây tác giả đặt ra những vấn đề và những yêu cầu cơ bản nhất của cuộc sống làm người: “làm” và “học”, “no ăn no mặc” và “nên thợ nên thầy”. Nói theo cách diễn đạt của Mác, “no ăn no mặc” đó là “yêu cầu thoả mãn những nhu cầu bức thiết nhất” và “nên thợ nên thầy” là yêu cầu phát triển các năng lực con người. Trong dòng văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng, Nam Cao là tác giả có những cảm hứng gần gũi hơn cả với lý tưởng nhân văn của chủ nghĩa cộng sản. Cảm hứng nhân văn này được bộc lộ trong những suy nghĩ day dứt của Thứ (trong “sống mòn”) về cách sống và lẽ sống làm người: “Thứ - tác giả viết – rằng sống chỉ là làm thế nào cho con mình, vợ mình có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm cái gì đẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ (HNH nhấn mạnh) những khả năng của loài người chứa đựng ở trong mình…”. Câu sau cùng giống như một câu được trích dẫn trong nguyên tắc của Mác. Tác giả còn khẳng định xây dựng nhân cách con người mới là một vấn đề lớn của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Ở đây chúng tôi thống nhất khái niệm với Hoàng Ngọc Hiến, cảm hứng nhân đạo Thứ nhất đó là lòng ưu ái, tình thương đối với con người, đặc biệt là những con người khốn khổ, gặp cảnh hoạn nạn. Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 11 Thứ hai là cảm hứng trân trọng và đề cao phẩm chất tốt đẹp, nhu cầu nâng cao, phát triển năng lực của con người. 2. CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, lý tưởng nhân đạo có nhiều biểu hiện khác nhau và phát triển, biến đổi dần cho phù hợp với thời đại. 2.1. Từ văn học dân gian đến văn học giai đoạn 1945 Trong văn học dân gian, nhân đạo thể hiện ở tư tưởng “ở hiền gặp lành”, người tốt gặp Tiên, Phật, Bụt giúp đỡ như Tấm trong “Tấm Cám”, người em trong “Cây khế” hay trong “Hà rầm hà rạc”. Đến giai đoạn văn học trung đại thì nhân đạo chủ yếu là ca ngợi cảnh đẹp quê hương đất nước như Bát ngát sóng kình muôn dặm, Thướt tha đuôi trĩ một màu. Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu. (Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu) Ca ngợi những con người anh hùng với những chiến công vang dội Đánh một trận, sạch không kình ngạc, Đánh hai trận, tan tác chim muông. …………… Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay (Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu) và phê phán những thế lực xâm lược tàn bạo để khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người. Rõ hơn có lẽ không đâu bằng lời lên án trong “hùng văn thiên cổ” (Bình ngô đại cáo) Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai hoạ. Đọc câu văn mà nghe đau xót vô hạn như chính da thịt của người cầm bút bị nướng, bị vùi. Tiêu biểu nhất cho thời kì này là tác gia Nguyễn Trãi. Ông là người đầu tiên đề xướng một khái niệm nhân đạo mới. Nhân đạo theo ông đúng với cái nghĩa của nó không chỉ là thương người mà còn tin tưởng, tôn trọng ngợi ca, bảo vệ, phát huy, phát triển con người chống mọi đều ngược lại. Ông đề cao sức mạnh của dân, nhận thức họ ở tầm cao hơn, trân trọng, đề cao đúng tầm con người. Chính vì thế mà Nguyễn Trãi không ngại mà cứ nêu, cũng trong bài Cáo, họ là manh lệ bốn phương, họ là số đông trong nghĩa quân, vô hạn trung thành và anh dũng, ở lại dưới cờ khi “quân không còn một lữ” tại Chí Linh là họ, diệt địch “sạch không kình ngạc, tan tác chim muôn” là dưới lưỡi gươm họ tại Chi Lăng, Xương Giang thắng lợi quyết định của cuộc kháng chiến. Nêu mạnh dạn như thế, đánh giá họ cao như thế cho thấy ông rất quý trọng con người. Và cuối cùng tha cho giặc để khỏi Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 12 đánh nhau là để họ được nghỉ ngơi. Đưa họ trở về đời sống yên lành cũng là nghĩ tới đời sống con người của họ. Cũng nhìn họ ở tầm cao, nên đối với họ, những con người có phẩm chất và giá trị lớn đó, ông chủ trương “ăn lộc” nước, tức cơm áo, của cải do họ làm ra là phải đền ơn và vua quan đều phải lấy việc chăm lo cho hạng người đó làm tiêu chuẩn đánh giá đạo đức của mình. Tinh thần nhân đạo ấy của Nguyễn Trãi, trước chưa có. Đến giai đoạn sau, tất cả những nội dung ấy mà cơ bản bắt nguồn từ tư tưởng nhân văn, nhân đạo dân tộc vốn đã tiếp bước được tiếp tục. Biểu hiện của khuynh hướng tư tưởng nhân văn trong văn học sẽ là sự lên án, tố cáo hiện thực cuộc sống đương thời chà đạp lên quyền sống con người; đấu tranh đòi cuộc sống ấm no; đòi phát triển cá nhân; giải phóng tình cảm, bản năng; là thái độ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người; là thái độ đồng tình, xót thương, cảm thông của các tác giả đối với các nạn nhân của xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn này, đại thi hào Nguyễn Du đã bằng tấm lòng yêu thương và thông cảm sâu sắc đối với những kiếp người đau khổ, bất hạnh trong xã hội đã thông qua cuộc đời của nhân vật chính, Thuý Kiều, trong “Truyện Kiều”, để tố cáo những thế lực tàn bạo của xã hội phong kiến chà đạp lên quyền sống của con người. Bên cạnh đó, tác giả còn nói đến những phụ nữ tài sắc bị vùi dập như người con gái trong bài “Điếu La Thành Ca Giả” Phấn son lúc sống không rồi nợ Trăng gió đời sau tiếng để danh Hay như nàng Tiểu Thanh trong “Độc Tiểu Thanh Ký” Son phấn có thần chôn vẫn hận Văn chương không mệnh đốt còn vương Đối với những kiếp người khổ đau vì miếng cơm, manh áo nhà thơ có cả một chùm thơ nói về nỗi đau khổ của quần chúng lao động ở khía cạnh đói cơm rách áo. Hai bài thơ đặc sắc nhất là “Thái Bình mại ca giả” và “Sở kiến hành”. Thời kì 30-45, chủ nghĩa nhân đạo thấm nhuần trong các xu hướng văn học ở cả bộ phận văn học công khai và không công khai nhưng nó lại có những biểu hiện khác nhau. Nhìn chung các nhà văn đều hướng tới những con người bình thường, hướng tới những người lao động, những số phận đau khổ trong xã hội bằng một tấm lòng cảm thông, một trái tim nhân hậu. Nhưng nếu các nhà văn lãng mạn, đặc biệt là các tác giả của nhóm Tự lực văn đoàn quan tâm đến việc lên án lễ giáo phong kiến hủ bại, đấu tranh của tình yêu tự do, cho hạnh phúc cá nhân của con người qua cuộc đời nhân vật Mai trong “Nửa chừng xuân”, An trong “Gia đình” của Khái Hưng hay Loan trong “Đoạn tuyệt” của Nhất Linh… Thì các nhà văn hiện thực lại đi sâu vào nỗi khổ cùng cực của con người, đặc biệt là người nông dân, dân nghèo thành thị, người trí thức nghèo…, phát hiện và tỏ ra yêu thương, quý trọng những phẩm chất tốt đẹp của họ, đồng thời thể hiện nỗi xót xa, đau đớn trước tình trạng những kiếp người ấy phải sống mòn mỏi, vô nghĩa, quẩn quanh, bế Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 13 tắc trong một xã hội đói nghèo, tối tăm như Thứ trong “Sống mòn”, Hộ trong “Đời thừa” (Nam Cao) mang bi kịch tinh thần của người trí thức bị “nợ áo cơm ghì sát đất”. Có thể nói, đến Nam Cao thì khái niệm nhân đạo đạt được sự hoàn chỉnh nhất. Trước hết, ông quan niệm văn chương có một sứ mệnh hết sức quan trọng, nó vừa đề cập đến những nỗi đau của con người bằng niềm thông cảm, yêu thương đồng thời nó cũng góp phần thêm sức mạnh nó giúp con người có thể vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, một cuộc sống đầy lòng nhân ái, công bình “Chao ôi! Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”. Đọc Nam Cao người đọc nhận ra biết bao thảm cảnh đau thương của người nông dân với những cảnh đời cơ cực, xót xa. Mỗi nhân vật của Nam Cao là một cảnh ngộ riêng. Hầu như những gia đình nông dân không mấy khi được toàn vẹn. Cuộc sống đói nghèo và nạn cường hào địa chủ đã bắt vợ chồng, anh em, cha con… phải ly tán, người thì đi phu, người đăng lính, người lên rừng kiếm ăn, kẻ tha phương cầu thực, kẻ tìm lấy cái chết… (Lang Rận, Chí Phèo, tư cách mõ…). Nam Cao cũng viết về cái nghèo, về cái đói và cái miếng ăn của người nông dân (Một bữa no, Mò sâm banh…). Hầu như chưa có nhà văn nào đi vào vấn đề số phận con người sâu sắc và đầy day dứt như Nam Cao. Những điều đó thể hiện rõ nhất qua tác phẩm “Chí Phèo”. Nam Cao đã miêu tả với một sức mạnh lạ lùng, bằng một ngòi bút hiện thực nghiêm nhặt quá trình lưu manh hoá của một bộ phận người nông dân trong tình cảnh bị đè nén, áp bức bóc lột đến cùng cực. Nhà văn bị ám ảnh bởi một hoàn cảnh khắc nghiệt, bất công, vô lý, những con người bị biến chất, tha hoá, bị cuộc đời tàn phá từ nhân hình đến nhân tính như Binh Tư, Chí Phèo… Nam Cao đã tạo ra một mẫu hình mới về người nông dân bị biến chất, bị tha hoá do bị xã hội thực dân phong kiến xô đẩy đến bước đường cùng. Cuộc đời Chí Phèo là một con số không to tướng. Chỉ có điều dù sống trong tình trạng cô độc nhưng hắn đã không ý thức được điều đó, hắn càng không nghĩ rằng cái xã hội lạnh lùng kia đã cự tuyệt hắn. Thêm vào đó một thế lực vô hình luôn muốn thủ tiêu cái khát vọng chân chính của con người, đó là những định kiến của xã hội. Đó chính là điều làm nhà văn day dứt khôn nguôi. 2.2. Văn học giai đoạn 1945-1975 Sau 1945, tinh thần nhân đạo được thể hiện trong khát vọng giải phóng con người, trong lòng nhân ái và tình nghĩa thuỷ chung. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học giai đoạn này hướng về người lao động, phát huy tình cảm giai cấp và những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng nhân dân, khẳng định con đường giải phóng và sự trưởng thành của quần chúng trong cách mạng. Tình cảm gắn bó sâu sắc, máu thịt, niềm tự hào của con người Việt Nam với Đảng, với Bác Hồ vĩ đại được các nhà thơ khẳng định, ngợi ca trong nhiều bài thơ như “Tổ quốc bao giờ đẹp như thế này chăng?”, “Sao chiến thắng” của Chế Lan Viên, “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, “Việt Nam máu và hoa” của Tố Hữu, “Quê Hương” của Giang Nam, “Vàm Cỏ Đông” của Hoài Vũ… Đó là sự Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 14 khám phá về hình tượng tổ quốc cũng có nghĩa là khám phá dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam với những phẩm chất cao đẹp và bền vững. Văn học Việt Nam giai đoạn này hầu như đều viết về đời sống chiến trường, phản ánh được tính chất ác liệt, dữ dội, những hi sinh gian khổ của con người Việt Nam trong chiến tranh. Họ đã phải sống trong những cảnh Không có kính không phải vì không có kính Bom giật, bom rung, kính vỡ mất rồi (Bài ca về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật) Tôi với anh biết từng cơn nóng lạnh Rét run người vầng trán đẫm mồ hôi …………….. Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá, chân không giầy Thương nhau tay nắm lấy bàn tay (Đồng chí – Chính Hữu) Cố gắng ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước và vẻ đẹp con người Việt Nam “Việt Nam đất nước ta ơi Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều Quê hương biết mấy thân yêu Bao nhiêu đời đã chịu nhiều đắng cay Mặt người vất vả in sâu Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn” (Quê hương Việt Nam – Nguyễn Đình Thi) “Hoan hô anh giải phóng quân Kính chào anh con người đẹp nhất Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất Sống hiên ngang bất khuất ở trên đời Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi” (Hoan hô Giải phóng quân - Tố Hữu) Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 15 Làm sống lại hình ảnh của cuộc kháng chiến trường kì anh dũng của toàn dân ở nhiều địa phương trên nhiều mặt trận, trong nhiều hoàn cảnh khó khăn, những thử thách nghiệt ngã Cha ông xưa có bao giờ bố trí các binh đoàn Trên vạn đỉnh Trường Sơn, dọc bờ Đông Hải Trên Tổ quốc vang ngoài bờ cõi, Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng Ta mọc dậy trước mắt nhìn nhân loại Hai tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng (Thời sự hè 72, bình luận – Chế Lan Viên) Cả những chiến công to lớn và cả sự hi sinh nhiều khi thầm lặng. Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng Và Anh chết trong khi đang đứng bắn Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng. (Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân) Chuyện kể rằng em cô gái mở đường Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương Cho đoàn xe kịp giờ ra trận Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa Đánh lạc hướng thù hứng lấy làn bom” (Khoảng trời, hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ) Hướng về đời sống hiện tại, phản ánh những đổi thay của đất nước và con người trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, với những cuộc xung đột và cuộc đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước là đề tài thu hút nhiều cây bút văn xuôi. Ở mảng đề tài này ta thấy Nguyễn Khải có cả tập truyện ngắn “Mùa lạc” hay “Tầm nhìn xa”…. 2.3. Giai đoạn sau 1975 Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở tinh thần nhân bản là nền tảng tư tưởng và cảm hứng chủ đạo bao trùm của nền văn học từ sau 1975. Từ sau 1975, cuộc sống dần trở lại với những quy luật bình thường của nó, con người trở về với muôn mặt đời thường, phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề trong một giai đoạn có nhiều biến động, đổi thay của xã hội. Bối cảnh đó đã thúc đẩy sự thức tỉnh ý thức cá nhân, Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 16 đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi người và từng số phận. Văn học ngày càng đi tới một quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con người mà nền tảng triết học và hạt phân cơ bản của quan niệm ấy là tư tưởng nhân bản. Văn xuôi có nhiều đổi mới về nghệ thuật tự sự, từ sự thay đổi điểm nhìn trần thuật đến xây dựng nhân vật, độc thoại nội tâm và dòng ý thức, tính đa thanh và đa giọng điệu… Và những năm đầu của thời kì đổi mới đã phát triển sôi nổi một khuynh hướng trong văn xuôi, có thể gọi là khuynh hướng nhận thức lại. Để đáp ứng yêu cầu nhìn thẳng sự thật, nhiều cây bút đã nhìn lại hiện thực của thời kì vừa qua. Vì vậy, bên cạnh ca ngợi nhân cách, lẽ sống, niềm tin, khát vọng của con người, các tác giả còn mạnh dạn vạch trần những hiện tượng tha hoá về đạo đức và suy thoái về nhân cách trong đời sống chiến đấu, cũng như những phơi bày những mặt trái còn bị che khuất, những hiện tượng tiêu cực, những mặt lạc hậu, trì trệ trong cuộc sống, lên án những lực lượng, những tư tưởng của thói quen đã lỗi thời, trở thành vật cản trên bước đường phát triển của xã hội. Chiến tranh cũng được nhận thức lại từ sự tác động ghê gớm của nó đến tính cách và số phận con người, với bao nhiêu nỗi éo le, bi kịch, xót xa với nỗi buồn dai dẳng. Nếu không có tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh làm sao ta có thể hình dung được mặt trái của chiến tranh khắc nghiệt đến thế. Không ai có thể ngờ, trong lúc bom rơi đạn lạc, cái sống cái chết cách nhau trong gang tấc vậy mà vì bản năng họ có thể chà đạp lên một con người. Phương không chết vì chiến tranh lại chết đi một nửa linh hồn trong nỗi đau khổ vì những kẻ lợi dụng chiến tranh làm những hành động phi nhân tính. Chiến tranh qua đi, nhưng hậu quả để lại quá nặng nề, mà dường như người phụ nữ là người chịu vết thương lớn nhất, đau đớn nhất. Trong xu hướng dân chủ hoá của xã hội, văn học còn là một phương tiện cần thiết để tự thể hiện, bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính kiến của mọi nghệ sĩ về xã hội và con người. Hiện thực không chỉ là hiện thực cách mạng, các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà nó còn là hiện thực của đời sống hằng ngày đối với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan đa sự, phức tạp chằng chịt, đan dệt nên những mạch nổi, mạch ngầm của đời sống. Nó còn là đời sống cá nhân của mỗi con người với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, với khát vọng mọi mặt, cả hạnh phúc, cả bi kịch. Tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu đã phản ánh một hiện thực cuộc sống phức tạp bởi sự chi phối của hủ tục lạc hậu, “nạn tảo hôn”, nó đã khiến cho Giang Minh Sài trở thành con người sống phân thân thành hai con người: một con người vui vẻ chấp nhận cuộc sống hiện tại vào ban ngày và một con người đau đớn về tinh thần khi đêm về. Mà điều đáng nói ở đây là hai con người ấy hình thành từ lúc Sài mới mười bốn tuổi. Mặc dù Sài thành công trên con đường chính trị, nhưng anh không được miêu tả như một con người anh hùng mà là một con người đau khổ vì chưa thoát khỏi sự trói buộc của ý thức hệ tư tưởng gia trưởng, một ý thức hệ lâu nay bàng bạc trong đời sống tinh thần của xã hội nhưng chưa được nhận dạng, một hệ tư tưởng hết sức phức tạp, có lúc nghiệt ngã đến tàn bạo. Đến nay, với yêu cầu đổi mới của đất nước, Lê Lựu đã vạch trần mặt tiêu cực của ý thức hệ này và thăng thắn đả kích thông qua sự thất bại trong đời sống tinh thần của Sài, Sài đã thất bại trong đời sống riêng, phải chấp nhận sống cô đơn với Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 17 tình yêu của mình. Cuộc sống đầy bi kịch tinh thần, không có hạnh phúc của Sài là hồi chuông báo động tình trạng xuống cấp và không còn phù hợp với thời kì đổi mới này. Gắn liền với sự thức tỉnh ý thức cá nhân là cảm hứng khám phá, nghiền ngẫm hiện thực và cố bày tỏ tư tưởng riêng trong việc đổi mới tư duy của nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật. Bởi thế trong văn học xuất hiện nhiều đề tài, chủ đề mới với sự nhìn nhận, khám phá con người ở nhiều vị thế, nhiều bình diện và tầng bậc khác nhau trên nền tảng của tư tưởng chủ nghĩa nhân bản như một loạt tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, “Bến không chồng” của Dương Hướng…”. Ta thấy, qua những nhân vật trong “Bến không chồng” của Dương Hướng, là những con người luôn sống trong sự phản tỉnh. Đó là Nguyễn Vạn với lần lầm lạc ở gần cuối cuộc đời, là Hạnh phút giây sa ngã vì khát khao cuộc sống hạnh phúc, là Thuỷ vì thương chồng chấp nhận qua đêm với người đàn ông khác để có con, Nghĩa và Hạnh phải chấp nhận xa nhau vì lời nguyền của hai dòng họ,…từng con người lầm lạc trong chính suy nghĩ của họ chỉ vì một điều duy nhất, họ muốn được sống hạnh phúc. Nhưng trải qua cuộc sống gian khổ đấu tranh vì độc lập tự do, họ là người chịu hậu quả trực tiếp vì chiến tranh. Những Nghĩa, những Thuỷ đã bị chiến tranh cướp đi khả năng làm cha làm mẹ của họ, đó là điều nghiệt ngã nhất. Những Nhân, mẹ Hạnh, những mụ Hớn, những Thắm, những Cúc, những Dâu…đều khao khát cuộc sống gia đình, vậy mà chiến tranh đã cướp đi người chồng, người yêu của họ, để giờ đây bến này là “bến không chồng”. Nhất là hình ảnh cuối tác phẩm, đám tang Nguyễn Vạn, chị Nhân đã phải xót xa vì chị đã bốn lần đưa tang thì đã ba lần đưa những chiếc quan tài trống, không người, chỉ có duy nhất lần này là có người. Dù ba người trước là những người thân yêu nhất là chồng và hai con mình. Chiến tranh khắc nghiệt thế đấy, nhưng trước đây, ta toàn thấy những thắng lợi, chiến công, còn những bức tranh hiện thực với nhiều mảng tối trước đây thường bị khuất lấp, thì nay mới hiện ra với bao điều xót xa và cả sự nhức nhói mà các tác giả muốn thức tỉnh trong mỗi người đọc cũng như toàn xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân tạo nên sự đa dạng về kiểu, loại nhân vật, mà đáng lưu tâm là sự xuất hiện kiểu nhân vật tự thú, tự vấn như người họa sĩ trong “Bức tranh” của Nguyễn Minh Châu. Kiểu nhân vật này đòi hỏi nhà văn phải đi sâu khám phá chiều sâu tâm lý, khai thác dòng độc thoại nội tâm của nhân vật, đòi hỏi nhà văn phải đổi mới quan niệm về con người, phải chiêm nghiệm sâu sắc hơn từ tình yêu cuộc sống và tình thương, sự cảm thông đối với con người và nhất là phải làm gì để giúp họ vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc đời. Có thể nói người đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học, người “mở đường tinh anh và tài năng” đã đi được xa nhất ở chặng đầu này là Nguyễn Minh Châu với những truyện ngắn hướng vào các vấn đề thế sự - đạo đức trong đời sống hằng ngày của con người (Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Mùa trái cóc ở miền Nam, Cỏ lau, Cơn giông…). Nguyễn Minh Châu với trách nhiệm phản ánh sự thật ở đời đã tìm hiểu Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 18 mặt trái của chiến tranh. Nhìn lại đằng sau những chiến công, những thành tích của những anh hùng trong kháng chiến để nhận ra những giây phút yếu lòng dẫn đến sự sai lầm của những người lính một thời anh hùng. Song song đó, ông cũng lên án, vạch trần những hành động giả trá, phi nhân tính của những con người không đủ kiên định để vượt qua cám dỗ vật chất tầm thường đã đánh mất tính lương thiện trong mình. Nhưng điều đó không có nghĩa là ông phủ định mà nhằm khẳng định phẩm chất của họ, nhằm chỉ ra họ cũng là những con người bình thường và những chiến công của họ là những chiến công của người bình thường chứ không là của “thánh nhân”. Và vì thế trên những trang viết càng nâng cao giá trị của họ, cho thấy họ đã vượt lên những cái bình thường của con người để đấu tranh giành độc lập và thấy họ càng cao cả hơn. Họ trở thành thánh nhân trong chính hành động của họ. Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 19 CHƯƠNG II CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO TRONG MỘT SỐ SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN MINH CHÂU SAU 1975 1. TINH THẦN KHẲNG ĐỊNH PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP CỦA CON NGƯỜI Cách mạng và chiến tranh có một sức lay động rất mạnh mẽ, là thử thách khắc nghiệt nhất đối với con người, là một cuộc xét duyệt trên tất cả các mặt xã hội, tâm lý, đạo đức… “Trong bão tố cách mạng và chiến tranh con người phải phơi bày cái bản chất của mình ra nhanh chóng hơn lúc bình thường. Trong cách mạng và chiến tranh không có sự ve vuốt để yên tâm, thói lịch sự để che đậy, mọi con người đều là chính mình nhất” [20; 57]. Nhưng đứng trước cuộc chiến tranh một mất một còn, Nguyễn Minh Châu nhận thấy rằng “các tác phẩm viết về chiến tranh của ta, các nhân vật thường khi có khuynh hướng mô tả một chiều, thường là quá tốt, chưa thực. Hình như tất cả những mặt tính cách đa dạng phải phơi bày trong đó thực thì lại có thể tạm thời giấu mình trên trang sách” [20; 57]. Và nhà văn lý giải là._.đã đi từ sai lầm này đến ngộ nhận khác. Qua đó đã đánh tan suy nghĩ “tình yêu tôi có thể cứu sống được hết tất cả mọi người” [12; 179], đã giúp Quỳ sống thật với lòng mình, và có lý tưởng sống vì mọi người nhiều hơn. Ở cô sống dậy một tình yêu khác: tình yêu con người. Và Quỳ đã tham gia vào đội lái xe Nữ N.68 và sống hết mình cho công việc mở đường, chuyển thương binh…với hy vọng bù đắp những gì cô đã nợ đối với người lính đã mãi mãi nằm xuống. Sự thức tỉnh trong Quỳ chính là trái tim cô luôn tràn đầy nhiệt huyết vì đất nước và vì những con người trên đất nước, cô đã đến gần những anh hùng của thời đại. Sau cùng, Quỳ đã quyết định hy sinh tình yêu của mình, một tình yêu cũng tha thiết, cháy bỏng với bác sĩ Thương bởi “cơn khát sự hồi sinh của mọi tài năng” [12; 194] để góp phần kiến thiết đất nước. Quỳ muốn khắc phục lỗi lầm, đang cố làm thay Hòa cái điều anh luôn ấp ủ là dùng đôi bàn tay mình kiến thiết đất nước, mang lại cuộc sống ấm no cho người dân, “làm sao cho mọi người sống và làm ăn đỡ cực nhọc, vất vả” [12; 189] bằng các phương tiện máy móc thay thế sức người. Quỳ đã cố gắng kiềm chế mình, vượt qua lòng kiêu hãnh của một người phụ nữ để lần lượt vào tìm Ph., bạn của Hòa lúc còn học chung “khoa chế tạo máy ở Đại Học cơ điện”. Quỳ đã bằng lòng nhẫn nại và ước muốn thực hiện tâm nguyện của Hòa, người cô yêu tha thiết và cũng đã nhớ thương da diết khi nhớ đến, nhẫn nhục khuyên giải và khôi phục được một tài năng cho đất nước đang chìm ngập trong mặc cảm tội lỗi ấy. Quỳ đã cứu vớt con người tội lỗi ấy ra khỏi vùng lầy của vật chất, danh vọng và vực anh dậy bằng tình yêu chân thành của một con người không nỡ để tài năng bị mai một, khi mà tài năng đó rất cần để xây dựng lại đất nước. Cái giây phút mà Quỳ từ chối Thương, cô đã thức tỉnh thực sự trở lại một con người thực tế, không còn đi lên con tàu mộng du, cô đã trở lại đúng con người mình “sẽ chẳng bao giờ tôi còn đánh mất đi một cái gì đó lớn hơn, quý báo hơn, đồng chí ạ, chỉ còn một chút xíu nữa là có lẽ tôi kêu thét lên một tiếng vô cùng đau đớn, vì cái con người yêu quý đang ngồi trước mặt, tôi sắp đánh mất, tôi sắp phải từ chối anh ấy! Tôi cũng sắp phải từ chối và đánh mất tất cả vui vẻ tình yêu của tôi.” [12; 200]. Và phút giây chị sống thật với lòng đã giúp chị có một quyết định đúng đắn, từ hành động đó có thể thấy lại con người cô đơn trong lý tưởng ấy vẫn còn biết sống vì Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 59 người khác, vẫn còn sự hy sinh vì đất nước, chị đã tự tìm ra lối thoát cho mình, chị đã thay Hoà thực hiện mong ước của anh, từ chối tình yêu với bác sĩ Thương để kết hôn với Ph. Với hy vọng là lấy tình yêu chân thành vực dậy một tài năng, mong muốn mang tình yêu hồi sinh một tâm hồn đã khô cằn vì tội lỗi to lớn với đất nước. Và thật vậy, người đàn bà ấy đã đáp con tàu trong mộng tưởng, bước xuống con tàu với cuộc sống của một con người và tưới lên tài năng tưởng đã mai một đó một thứ nước tinh diệu từ lòng chân thành và tài năng ấy đã lại trổ hoa, lại phục vụ lại một cách có ích cho đời. Dù đánh mất tình yêu nhưng Quỳ đã có lại một tình người cao cả, Quỳ đã có thể đáp lại tình yêu của Hòa, của Hậu, của những con người đã yêu cô và đã nằm xuống. Hòa và Hậu đã hy sinh tính mạng để giành lại độc lập cho đất nước, để mang lại cuộc sống cho người thân yêu trong đó có Quỳ, vậy thì Quỳ chỉ là đang tiếp bước đang giúp họ hoàn thành chặn đường tiếp theo là xây dựng nước nhà. Đó là ý nghĩa thật sự của một người đàn bà, là quyết định sáng suốt và đúng đắn nhất của một con người luôn luôn nhầm lẫn. Quỳ đã ra khỏi con tàu tốc hành trong mộng tưởng để sống thật giữa cõi đời thật, không còn cô đơn trong khát vọng đi tìm “thánh nhân”. Đặt Ph., một con người sống thực tế với đầy đú thói xấu của một con người bên cạnh một người có một thời sống trong mộng tưởng đi tìm “thánh nhân”, tìm một con người hoàn thiện hoàn toàn thì thật là khập khiểng. Nhưng đó là sự khập khiểng có ý đồ và đầy ý nghĩa của Nguyễn Minh Châu, cho thấy sự thức tỉnh kịp thời của hai con người. Chỉ một cuộc kết hợp tưởng như là cố ý nhưng thật ra lại rất có lý, nó là sự hướng thiện của cả hai con người. Một con người kiên quyết từ bỏ lối sống vật chất hóa và một con người giác ngộ, xa vời cuộc sống lý tưởng hóa, cả hai đều đang đáp xuống cuộc sống thực của con người lương thiện. Ph. là hiện thân của một tài năng đang tiềm ẩn trong tội lỗi và Quỳ thì lại khao khát khôi phục tài năng đó. Và sự vươn dậy của Ph. cũng như sự hy sinh tình yêu để cứu rỗi tài năng của Quỳ đều nhằm mục đích sửa chữa lỗi lầm cả hai đều là mong muốn làm một điều gì đó để cải thiện cuộc sống của mình để cứu rỗi chính linh hồn mình. Và một trong hai con người ấy ý thức rõ rằng “một con người sống có ý thức thì cũng có một đôi khi, tôi nói là có đôi khi thôi_ Quỳ nhấn mạnh _sống ngoài ý thức, không hoàn toàn làm chủ được mình, cũng có lúc cáu giận, cũng có khi làm xong rồi nghĩ lại mới thấy là sai, là không thực sáng suốt như lúc sau này nghĩ lại” [12; 141]. Họ là nơi tác giả đặt trọn niềm tin và họ đã chứng minh niềm tin đó đã đặt đúng chỗ. Quỳ đã “bước lên con tàu_đoàn tàu tâm tưởng cuối năm_sau khi cuối hôn lên một cái nắm đất một lần cuối cùng và đoàn tàu đang hổn hển băng mình lao vun vút đi giữa lòng hồ, lòng mạc, giữa hơi thở nóng hổi của cuộc đời, đem chị ra khỏi cánh rừng thiêng liêng để trao trả lại cho cuộc đời hiện tại”[12; 202]. Nhưng cuối cùng con người đó đã thay đổi. Qua nhân vật “tôi”, nhân vật tác giả kí thác suy nghĩ, đã khẳng định “người đàn bà này, từ những năm kháng chiến ở trong rừng đã tìm ra cái chân lý trong cõi đời chỉ có những con người chứ không có ai là thần thánh cả, thế vậy mà khi quyết định đem đời mình gắn bó với Ph., chị vẫn muốn làm một thánh nhân, nhưng chính vì thế chị lại càng làm một người của cõi đời và khiến cho tôi càng thêm kính trọng chị. Một con người của cõi trần gian Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 60 chúng ta là thế đấy, bao giờ cũng muốn sống vượt lên mình một chút. Rồi thì vẫn chả ai là thần thánh cả, cả những con người sẽ mỗi ngày tốt đẹp hơn, cuộc sống sẽ ngày càng tốt đẹp hơn, vì thế!” [12; 201]. Quỳ và Ph. là hai hình thức lầm lỡ khác nhau. Quỳ là vô thức còn Ph là có ý thức. Và Quang cũng như Ph. hoàn toàn nhận thức rõ được việc mình làm, hắn phạm sai làm một cách cố ý. Dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu, tên Quang dường như mất cả nhân tính, không còn có thể phục thiện được, không còn biết việc mình làm là đúng hay sai, hành động như một con thú dữ. Nhưng không, dù trong bất kì hoàn cảnh nào, dù con người có tàn ác, nhẫn tâm đến mức nào thì trong người họ vẫn còn chút gì gọi là hối hận, bởi vì họ còn có trái tim biết suy nghĩ, biết tự trọng. Nguyễn Minh Châu tin như vậy nên sau khi chiến tranh qua đi, là lúc “Quang bước ra từ một trại cải tạo sĩ quan ngụy.” Y như Ph. cả hai đều trải qua giai đọan học tập tư tưởng từ nơi giam cầm sự tự do, nhưng Ph còn có bàn tay Quỳ đỡ lấy nâng dậy, còn Quang, hắn một mình bước đi trong những nổi lo “không khéo tàu đến thì cơn giông cũng đến”, lo “trong đám người đang nằm hay ngồi trên mấy chiếc ghế băng với quang gánh cùng hành lý đặt sát bên cạnh, có nhiều người hình như biết mặt y” [12; 207] và Quang cảm thấy “y đứng ở góc nào cũng có người nhìn” và “y đã nép vào một góc kín đáo để tránh cái nhìn của mọi người” [12; 207], thậm chí “chính sự hiện diện của cô gái lại khiến y càng trở nên bứt rứt và bối rối, sợ sệt.” [12; 217]. Nhưng đó là do Quang ghê tởm chính bản thân mình, không dám nhìn mọi người, tránh cái nhìn của mọi người. Do Quang tưởng tượng ra thôi vì Quang biết rằng: hắn đã từng phản bội đồng đội, đã từng sống độc ác vì danh lợi. Quang bây giờ thật thảm hại “y tìm thấy một chiếc ghế băng các chân đã gần long ra, khập khiễng, mặt ghế bám đầy những tảng vôi đã khô. Y liền ngồi xuống đấy, khoanh hai cánh tay vạm vỡ trên ngực…y móc túi lôi ra một mẩu bánh mì ăn dở. Nhai hết mẩu bánh, y thè lưỡi liếm mép, rồi thu cả hai chân lên chiếc ghế băng”.[12; 207, 208]. Trước khi vào trại hắn lịch lãm với “dáng một sĩ quan thiết giáp nguỵ”, thì giờ đây Quang là kẻ bại trận, Quang thất bại với bản thân mình, Quang quá thê thảm, cái giá của sự phản bội quá đắt nhưng xứng đáng, Quang né tránh mọi người và cô độc, lẻ loi, hổ thẹn với lỗi lầm của mình. Nguyễn Minh Châu dù đã khoác vào người Quang “bộ quần áo sĩ quan cải tạo”. Nhưng ông không xa lánh, ruồng rẫy Quang mà ông vẫn để cho lòng tự trọng của Quang sống dậy và ở Quang dần hình thành khát khao có lại mối quan hệ đối với xã hội. Chúng ta cần để ý đại từ gọi Quang dã thay đổi, trước đây gọi là “hắn” thì giờ đã đổi thành “y”, mức độ khinh ghét của tác giả đã nhẹ nhàng hơn, cái nhìn về Quang đã bớt gay gắt hơn. Vì ông nhìn thấy tự bản thân Quang “xích gần ra chiếm lĩnh cái đầu ghế đằng kia” khi “trông thấy một người con gái mặc chiếc áo cánh màu xanh vừa đến ngồi với y trên chiếc ghế, ở tận ngoài đầu mút” [12; 208]. Quang đã bắt đầu có ý thức, có cơ hội nối lại sợi dây liên hệ với mọi người mà trước đây mình từng đứng ở trận tuyến đối nghịch, đó là một ân huệ lớn đối với Quang. Quang cảm thấy “quả thật với bộ quần áo sĩ quan cải tạo, y không bao giờ dám chờ Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 61 đợi một câu trao đổi bình thường như vậy. Nó có cái gì đó quá độ lượng” [12; 208] khi có một cô gái xinh đẹp và có văn hoá, quá lễ phép khi trả lời Quang “dạ, dạ thế ấy” [12; 208]. Và khi tiếp xúc với cô gái, dòng kí ức của Quang về ngày xưa, về vợ, Hân, hiện về cho thấy Quang bắt đầu thức tỉnh, con người lương thiện trong Quang đang hồi sinh. Quang đang quay về gây dựng lại mối quan hệ với mọi người. Quang quay về với quá khứ và xấu hổ, tự vấn lương tâm về những hành vi đáng lên án của mình. Quang ý thức “ôi, suốt một đời tài hoa – y tự phong – như một cái ngọn cây dẻo dai uốn theo mọi chiều giông bão, vậy mà đến lúc cuối cùng, lại bị gãy”. Quang “gãy” trong chính nhân cách của mình. Sau một thời gian dài giam mình trong mặc cảm tội lỗi ở trại, giờ đây điều làm Quang vui mừng và hãnh diện là “cải tạo tốt” và “bây giờ tôi còn được liệt vào diện các cộng tác viên, những trại viên tin cậy của trại” [12; 209], Quang đã tỉnh ngộ thật sự, Quang đã muốn làm lại cuộc đời. Như vậy Thăng, nhân vật tư tưởng nói thay suy nghĩ của tác giả, đã đúng khi nói với Hạnh “chị hãy tin mọi con người đều có thể thay đổi” [12; 234]. Và Phận đã minh chứng cho điều đó, khẳng định cho niềm tin đó khi mà Phận “bất giác nhớ chợt nhớ đến cái lúc hắn cứ ngồi xích ra ở đầu mút chiếc ghế băng trong góc phòng đợi nhà ga.” [12; 234], một hành động chứng minh Quang đã “thành khẩn cải tạo” và đã có lại ý thức của một con người biết xấu hổ với chính mình, Quang đang trên con đường phục thiện. Có những lúc chúng ta vì chút tự ái, nhỏ nhen, vì lòng sĩ diện mà vô tình gây ra hậu quả nghiêm trọng hay đẩy đưa người khác vào thế khó xử, sau đó nghĩ lại chúng ra hối hận và sửa chữa, mà không phải lúc nào cũng có thể sửa chữa nhất là khi vì sự sai lầm đó mà đẩy người khác vào chỗ chết. Và một khi đã xảy ra hậu quả đó thì chúng ta còn có thể làm gì hơn để cầu xin sự tha thứ trong khi bản thân chúng ta lại không thế tha thứ cho ta, không gì đau đớn bằng bản thân phải ngồi tự trách mình. Và Lực trong “Cỏ lau” đã trải tâm trạng dằn vặt như thế đó. Xin mượn lời một nhân vật trong “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, Kiên, anh đã thừa nhận “Thực ra trong chiến tranh thì Kiên được hưởng nhiều may mắn hơn thời bình, bởi vì trong chiến tranh anh đã được sống, chiến đấu, trưởng thành bên những người đồng chí thật tốt. Tuy nhiên, giá của sự may mắn ấy là anh đã lần lượt mất hết những người bạn, người anh em, người đồng đội chí thiết nhất. Họ bị giết ngay trước mặt anh hoặc là đã chết ngay trong bàn tay anh. Nhiều người đã chết để gỡ cho tính mạng Kiên. Nhiều người hy sinh bởi lỗi lầm của anh”. Theo như Kiên một người đã sống sót qua những khủng khiếp thì sống nghĩa là mang món nợ với những người đã khuất. Và Lực của Nguyễn Minh Châu cũng cùng suy nghĩ với Kiên, Lực cũng mang món nợ lớn với những người đã khuất và anh đang ngày ngày sống trong sự dằn vặt của lương tâm, chấp nhận mọi sự thiệt thòi về mình. Chấp nhận rời xa người vợ dù cho rằng mình đã chết vẫn còn yêu mình tha thiết sau hai mươi năm xa cách. Chấp nhận cuộc sống cô đơn bên người cha già giữa vùng núi Đợi dù vợ anh muốn hàn gắn lại tình xưa. Chấp nhận bỏ ra phần thời gian còn lại của mình để đi tìm hài cốt các liệt sĩ để bù đắp phần nào do phút giận dữ và sự ích Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 62 kỷ của bản thân gây ra. Lực khác với Quang và Ph., ở anh đã thức tỉnh từ lâu. Thức tỉnh từ ngay sau lúc sai lầm, ngay cái giây phút chứng kiến Phi lao đi trong bão đạn. Lúc đó Lực “mơ hồ cảm thấy chỉ tí phút nửa cậu ta sẽ chết, còn tôi như một người bị chính mình trói mình, bởi cái mệnh lệnh vô lý vừa ban ra, tôi tức tối chỉ muốn tự cởi trói. Để vùng chạy đi cứu lấy một cái gì rất mực quý giá” [12; 502]. Chỉ tiếc là sự thức tỉnh đó vẫn còn muộn so với phút giây định mệnh của Phi, điều đó làm cho Lực đau khổ suốt quãng đời còn lại vì phút giây nông nỗi của mình. Khi đối mặt với Phi Phi, bạn gái của anh liên lạc Phi, một cô gái hồn nhiên nhưng từng trải, thì cái “khuôn mặt quá trẻ”, đầy lạnh lùng” kia lại xoáy sâu vào tâm trí anh, khứa trái tim tưởng đã làm sẹo của anh tứa máu. Trong anh cứ đau đáu “đằng sau cái vẻ mặt lạnh lùng, một ánh mắt trách móc và đằng sau sự trách móc, một phản ứng tự trọng đầy kiêu hãnh” [12; 502] của Phi khi lao vụt ra khỏi hầm để thi hành. Chính khoảnh khắc “trong khoảng ánh sáng hình chữ nhật đầy chói chang, bay lơ lửng bụi gạch đục ngầu hiện ra một gương mặt đang quay về sau nhìn tôi”. Trước khi ra khỏi hầm” [12; 502, 503] đang ngày ngày giằng xéo con tim anh. Lương tâm anh bị gậm nhắm dần suốt hai mươi bốn năm qua. Và khi gặp Phi Phi, một lần nữa nỗi đau đó, sự dằn vặt đó lại khuấy động và tiếp sau đó là một loạt mỗi “đêm là một chuyện tự thú”. Nhất là khi Phi Phi bảo anh là một người tốt vì anh đang làm một công việc hết sức cao cả là tìm mộ liệt sĩ. Phi đâu biết rằng anh đang cố bù đắp laị lỗi lầm của mình. Trong một phút thiếu suy nghĩ, “giận cá chém thớt”, Lực đã đẩy người liên lạc của mình vào chỗ chết. Dù anh đã tự bào chữa “giá lúc bấy giờ, trước đó chỉ mấy phút, người chiến sĩ khôn ngoan hơn biết mím miệng đừng có góp lời bình luận về trận tập kích thất bại hoặc bình luận sau lưng mà không nói ra trước mặt tôi như mọi người vẫn làm, hoặc giả làm một kẻ lính dốt nát chỉ biết tuân lệnh ngoài ra chẳng biết gì, không nói trúng vào những điều tôi đang muốn giấu, trong khi chuẩn bị trận đánh, tôi chỉ có ra lệnh mà không kiểm tra và nhát gan sợ chết trong một lúc tập đánh quá ác liệt…” [12; 512]. Thoạt nhìn, dường như là Lực đang đổ thừa hoàn cảnh để lấp liếm, che giấu tội lỗi của mình, nhưng thật ra anh đang thú tội, đang phơi bày tội lỗi, đang cúi đầu chấp nhận sự trừng phạt của mọi người. Anh đã thẳng thắn mổ xẻ mọi tội lỗi “vì sao tôi giết một con người?” [12; 512], “tại sao tôi lại giết Phi , người chiến sĩ liên lạc của tôi và it nhất mà thêm một đồng chí của mình nữa ở cái góc thành phố đông nam” [12; 512]. Anh không biện giải cho mình, không trốn tránh trách nhiệm mà lại đau đớn, chua chát hơn trong nỗi hối hận khôn cùng. Anh đã can đảm nhận lỗi, điều đáng trân trọng là sau đó anh đã dũng cảm thừa nhận mình đã vì hai tiếng “sĩ diện” khi bị người khác chỉ trích, phơi bày sự hèn nhát dẫn đến thất bại của trận tập kích, nên vô tình đẩy hai người lính dưới quyền mình vào chỗ hy sinh không đáng. Anh đã để Phi Phi, bạn gái của anh liên lạc, phán xét, để mặc “Phi Phi nhảy bổ vào tôi như một con thú đầy giận dữ, giang tay tát tới tấp, vừa tát vừa nguyền rủa “thế mà tôi cứ nhằm là ông tốt, hoá ra mày là một kẻ giết người!”. Còn những người lính của tôi cùng cả đám thanh niên đứng nhìn” [12; 513] và chấp nhận sống cô đơn suốt đời sống bên cạnh người cha già “giữa những hình người đàn bà bằng đá đầy cô đơn giữa trời xanh, Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 63 đứng nhìn xuống một vùng thung lũng đất đai được tưới bón đã trở nên phì nhiêu,…thỉnh thoảng một mình chèo một chiếc thuyền gỗ xuôi dòng sông Đồng Vôi về làng chơi” [12; 519] và sống “vì ngày mai của những người đang sống” không còn nghĩ đến cá nhân. Anh không phá vỡ hạnh phúc gia đình Thai, mà lại đi tìm hài cốt liệt sĩ để khôi phục lại thân phận, để giúp họ được về với gia đình dù họ đã chết. Đó là việc làm sau cùng cho thấy anh đã tìm được chính mình, quay lại “đường ngay nẻo chính”. Không còn lầm lạc. Đó là nét đẹp của người chiến sĩ anh hùng trong thời chiến hay thời bình anh vẫn sống thật chính lòng mình. Nhưng ít ra anh hơn được người hoạ sĩ trong “Bức tranh” bởi anh còn được tự thú tội trước người khác, được người khác phán xét và trừng phạt, nên đỡ được phần nào sự day dứt não nề. Còn người hoạ sĩ vấp phải sai lầm nhưng không dám đối mặt với nó, không dám phơi bày tội lỗi của mình, nhưng lương tâm ông quá công minh, công bằng không cho phép ông mãi chạy trốn. Ông đã vì hai chữ “danh lợi” đầy phù phiếm mà đánh mất thứ quan trọng nhất của con người là “chữ tín, tình người và lòng tri ân”. Để giờ đây, khi đã trở thành một họa sĩ có tên tuổi thì người họa sĩ ấy lại đang trong tâm trạng “một họa sĩ muốn dùng ngọn bút vẽ để tự tìm hiểu mình, tự phán xét mình.” [12; 117] Bởi vì ông đã nhẫn tâm hai lần phụ tấm lòng của anh chiến sĩ. Ông đã vì danh tiếng mà nỡ làm mẹ anh bị lòa vì khóc nhớ thương con. Nguyễn Minh Châu đã để cho nhân vật ngay lúc ở tột đỉnh của vinh quang đã phải đối mặt với vực thẳm tội lỗi. Không ai xét xử ông, anh chiến sĩ cũng không trách hờn ông lại còn treo bức tranh đoạt giải của ông ở trong cái quán hớt tóc nghèo có bà mẹ mù lòa của mình. Tất cả thật như là sự trùng hợp ngẫu nhiên dưới ngòi bút tài tình của Nguyễn Minh Châu. “Nhà và cơ quan của người họa sĩ đều ở phía cuối thành phố, còn tiệm hớt tóc của anh chiến sĩ lại ở tận đầu phía Tây Bắc thành phố, lại nằm trên một phố nhỏ khuất nẻo có lẽ là lần đầu tiên tôi đặt chân đến” [12; 123]. Và lúc đó “nếu trong túi tôi có một mẩu bút chì và cuốn sổ kí họa thì sau đó không bao giờ tôi nảy ra cái ý định đi cắt tóc” [12; 123], thậm chí khi “bước vào một cửa hiệu có hai ghế thì cả hai đều đã có khách” [12; 123]. Rõ ràng số phận đã an bài cho cuộc gặp gỡ giữa người họa sĩ nổi tiếng, đang mang ơn, đang cố lãng quên ân nhân, mang nặng lời hứa, và người thợ hớt tóc, người làm ơn, đang cố sống thanh cao, đang muốn quên đi kẻ thất hứa nhẫn tâm. Bức tranh ở tiệm như một nhân chứng xác đáng nhất để họ nhận nhau và nhớ đến chuyện năm xưa. Để kẻ quên ơn ngày ngày đau đáu, thấp thỏm vì lỗi lầm của mình và để người làm ơn hiển hiện ra phẩm chất tốt đẹp của một con người cao thượng. Ngòi bút của Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nên tình tiết ngẫu nhiên gặp mặt và đối mặt giữa hai con người đứng ở hai bình diện Tốt - Xấu. Dụng ý của ông khi để cho người hoạ sĩ từ từ nhận ra mẹ và anh chiến sĩ rồi dần dần sống lại những kí ức, thời gian cứ trở đi trở lại giữa quá khứ và hiện tại và những lúc nỗi dằn vặt, niềm day dứt càng ăn sâu vào tâm trí người hoạ sĩ. Mặc dù người chiến sĩ vẫn làm như không quen biết ông nhưng ông trước con người ấy, trước kẻ bị đối xử bất nhẫn mà không một lời trách móc ấy, thì nội tâm của người họa sĩ diễn ra một xung đột lớn. Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 64 Lúc phát hiện ra người thợ hớt tóc chính là người chiến sĩ năm xưa thì “cảm giác phạm tội” đã khiến ông “lúc ấy, tôi chỉ muốn có một cái mặt nạ, hoặc bé xíu lại như một hạt đậu trên cái ghế cắt tóc.” [12; 125]. Đoạn trữ tình ngoại đề “có bao giờ bạn dọn nhà không? Khi người ta phải thay đổi chỗ ở, có những thứ đồ đạc tưởng mất biến đi từ lâu, lục lọi, tìm kiếm khắp vẫn không thấy thì, tự nhiên lòi ra tận trong góc tủ, dưới gặm giường. Có những thứ đồ vật vô nghĩa. Có những thứ nhắc tới một chút kỉ niệm đẹp đẽ. Có những thứ gợi lên một câu chuyện chẳng hay ho gì, tưởng như đã quên hẳn cái chuyện đó thì bây giờ cái đồ vật lại từ xó xỉnh, bụi rậm, từ xó tối từ từ bò ra, cái vật vô tri lại thủ thỉ nói chuyện với ông, khiển trách ông, lên án ông…[12; 125] tưởng như vô nghĩa nhưng thật ra đó lại là cách dẫn dắt tới cánh cửa quá khứ và mở toang ra giây phút xảy ra lỗi lầm của người hoạ sĩ, cái kí ức chẳng tốt đẹp gì mà lại còn mang lại sự hổ thẹn cho một con người vốn rất kiêu hãnh như người hoạ sĩ. Ông đã phải sống trong tâm trạng “có lẽ tôi ngồi trên ghế cắt tóc ở cái quán này đã hơn nửa thế kỉ?” và ông lại lo sợ “chốc nữa, sắp tới ông sẽ làm gì tôi đây?” [12; 127]. Cái cảm giác ấy cứ trở đi, trở lại nhiều lần, day dứt trong tâm hồn người họa sĩ, còn anh chiến sĩ vẫn cứ làm như chưa hề quen biết ông.Và lúc lương tâm ông bị giày xéo tức là lúc ông trở lại đúng bản chất tốt đẹp của một con người tưởng như đã bị lợi danh che khuất đi. Và ông tự nhận ra nếu tôi là “một người tử tế ra thì không khéo bà cụ sẽ không bị loà, không những thế mà tôi còn làm cho bà cụ khoẻ ra? Chính tôi đã làm cho bà mẹ ông trở thành mù loà?” [12; 129]. Từ những hành động tự vấn, tự trách và tự trốn tránh và trốn đi, đạp xe thẳng qua và cuối cùng quay trở lại cái quán cắt tóc mà ông đã muốn và đã trốn đi để tự mang mình đến “nạp” mình cho quá khứ tội lỗi, dù người chiến sĩ dời đi nơi khác để tránh mặt ông, cho ông cơ hội trốn chạy, lãng quên đi quá khứ, nhưng ông vẫn tìm đến, đã nêu bật lên sự thành thật của một con người, ông đã nhận thức được lỗi lầm của mình, ông cũng “không cho phép mình lấy đồng tiền để thay cho cái mặt mình”. Và tình huống ông nghe bà chủ quán nước nói “có người tốt vậy, có đứa đểu cáng, lật lọng hết chỗ nói”, ông lại giật mình và cảm nhận lời bà lão nói là dành cho chính mình, ông càng hổ thẹn và cay đắng trong lòng hơn. Tác giả đã phê phán chân thật thái độ vô cảm, thờ ơ đến mức vô tình trước nỗi đau của người khác của người hoạ sĩ. Tác giả đã diễn tả sự bế tắc và đuối lý của người hoạ sĩ cuối cùng ông qua hành động tự mình hoạ lấy bức chân dung gương mặt bên trong của chính mình. Không gì đau đớn, khổ sở bằng một mình độc thoại với chính nội tâm mình, đối diện với mặc cảm tội lỗi quá lớn không thể bù đắp, cứu chữa của mình. Cuộc chất vấn diễn ra trong nội tâm nhân vật được khắc họa hiệu quả sinh động qua những dòng độc thoại và cả đối thoại nội tâm của người họa sĩ. Anh đã phân thân để tự lên tiếng chỉ trích là “đồ dối trá”, tự nhạo báng mình “người ta đã trân trọng ghi tên mày bên dưới, bên cảnh mấy chữ, chân dung chiến sĩ Giải phóng. Thật là danh tiếng quá!” [12; 127], tự xỉ vả mình “A ha! vì mục đích phục vụ số đông của người nghệ sĩ cho nên anh quên tôi đi hả…có quyền lừa dối hả? Thôi anh bước khỏi mắt tôi đi! Anh cút đi!” [12; 127]. Thoạt nhìn đó là lời người họa sĩ Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 65 tự biện minh để khỏa lấp tội lỗi của mình, nhưng ở đây người kể tội anh là anh và người biện minh cũng là chính anh, đó chính là sự dằn vặt lớn nhất, một mình đối mặt với chính cái phần người đen tối của mình, tự mình phơi bày tội lỗi chiêm nghiệm về lỗi lầm đó và dù cố bào chữa bằng tất cả lý do gì thì cuối cùng anh vẫn không tha thứ cho mình. Lần đối thoại nội tâm thứ hai là lần người họa sĩ tự trả lời cho lỗi lầm của mình bằng chính cái ơn mà người chiến sĩ đã trao tặng. Anh đã vạch rõ bộ mặt thật của mình là kẻ “quên ơn bội ước”. Anh ý thức được rằng “trong con người tôi đang sống lẫn lộn người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ” [12; 133]. Đó là sự thức tỉnh của một con người. Lúc đầu anh cứ trốn chạy, đi đến tiệm khác hay chạy xe vù qua không ghé thì giờ đây anh sẵn sàng ngồi đây vạch rõ sự xấu xa của mình. Như vậy là anh đã ý thức, lấy lại lòng tự trọng để mong lương tâm mình tha thứ cho mình. Hành động ngồi vẽ bức tranh của chính bộ mặt mình cho thấy anh đang trên con đường phục thiện, đang cố quay về với sự thanh thản trong tâm hồn một con người đang hối hận khôn nguôi, đang tìm về với bản chất tốt đẹp của mình. Hình ảnh xuất hiện ở đầu và cuối tác phẩm, bức tranh vẽ “một cái mặt người rất lớn chiếm gần trọn bức tranh. Những luồng ánh sáng hàng nghìn nến từ phía trước và trên đầu chiếu thẳng xuống một nửa cái đầu tóc tốt rợp như một khu rừng bí ẩn và nửa mái tóc đã cắt thoạt trông như phần bộ óc màu xám vừa bị mổ phanh ra. Khuôn mặt của một người khách: hai cặp mắt mở to nhìn trừng trừng vào luồng ánh sáng, một cái nhìn khắc khoải, bồn chồn, kinh ngạc và đầy nghiêm khắc. Phần bên dưới của khuôn mặt như vẫn đang được dấu kín dưới một cái mặt nạ: cái cằm, hai bên mép bị phủ kín bởi bọt xà phòng. Không thấy rõ cái miệng, chỉ trông thấy một vệt lờ mờ màu đen nổi bồng bềnh trên đám bọt xà phòng phồng to” [12; 118]. Nhân vật tự biết “đó chính là khuôn mặt bên trong của mình, khuôn mặt bên trong của chính mình” [12; 118]. Người hoạ sĩ đã tự nhớ lại tội lỗi của mình và mỗi ngày đối với ông là những day dứt khi chứng kiến đôi mắt bà mẹ già mù loà, và ông đã trải qua những chuỗi ngày vùng vẫy trong mặc cảm tội lỗi vô bờ. “Hiện thực của văn học có khi không phải là cái hiện thực đang tồn tại mà là cái hiện thực mọi người đang hy vọng, đang mơ ước” (viết về chiến tranh). Và Nguyễn Minh Châu đã chứng minh điều này qua các nhân vật trên, ở mọi nhân vật ông đều gửi gắm một niềm tin, một mơ ước vào ngày mai tươi sáng. Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 66 Cảm hứng trong tác phẩm trước hết là niềm say mê khẳng định chân lý, lý tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với những nhân vật chính diện, là sự phê phán, tố cáo các thế lực đen tối, các hiện tượng tầm thường. Cảm hứng nhân đạo cũng không nằm ngoài điều đó mà hơn nữa thông qua ngợi ca hay phê phán để bày tỏ niềm cảm thông, thái độ trân trọng, yêu thương, tin tưởng con người, khẳng địng phẩm chất tốt đẹp của con người. Cảm hứng nhân đạo bàng bạc trong các sáng tác văn học, trải dài từ văn học dân gian đến văn học đương đại. Từ những lý thuyết của lý luận văn học, chúng tôi đã tiến hành vận dụng vào việc nghiên cứu cảm hứng nhân đạo trong văn học Việt Nam giai đoạn sau 1975, cụ thể là trong một số sáng tác của tác giả Nguyễn Minh Châu. Nguyễn Minh Châu là người đi tiên phong trong việc đổi mới văn học, đổi mới quan niệm nghệ thuật, đổi mới cách nhìn về con người và cả tự do sáng tạo. Ông đã kết nối, kế thừa tinh thần nhân đạo truyền thống nhưng kế thừa có phát huy và cả phát triển để kịp thích ứng, phù hợp với nhu cầu thời đại, một thời đại mà yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật đang diễn ra mạnh mẽ và qua những trang viết của Nguyễn Minh Châu chúng tôi nhận ra Nguyễn Minh Châu hoặc ngợi ca hoặc phê phán nhưng tựu trung lại vẫn là làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp của con người. Lúc nào ông cũng tin rằng một lúc nào đó, con người sẽ có những phút giây phản tỉnh, sẽ nhìn lại chính mình, họ nhận ra, đau đớn và hổ thẹn với chính lòng mình, với ông “mọi con người đều sẽ thay đổi”. Qua các tác phẩm, thời gian như không tiếp tục dòng chảy nữa mà ngưng đọng lại, lùi về quá khứ ở đó phơi bày ra bao sự thật của cuộc đời. Bên cạnh cuộc sống gian khổ đầy hy sinh, mất mát của những con người kiên cường, anh hùng là một sự thật hiện thực đầy đau lòng về những giây phút yếu lòng của những con người không kiên định. Hiện thực chiến tranh không chỉ là hoàn toàn tốt đẹp, toàn kì tích, chiến công mà nó cũng có những sự xấu xa, những kẻ phản bội. Chiến tranh là kính lọc trung thực nhất, qua đó chúng tôi thấy những giọng cười hạnh phúc luôn xen kẻ với giọt nước mắt xót xa. Và hiện thực trong tác phẩm đã là một hiện thực đầy dủ, toàn diện. Nhà văn hoàn toàn không tô hồng, không bôi đen, không bóp méo nhưng cũng không né tránh. Cuộc sống là một hiện thực muôn màu, muôn vẻ: tốt xấu lẫn lộn, Thiện- Ác khó phân ranh giới, ánh sáng và bóng tối cách nhau bởi tấm màn mỏng, mong manh chỉ một phút sơ sảy là một con người từ tốt đẹp trở thành xấu xa, đáng lên án ngay. Nhưng lúc nào con người cũng cần sự cảm thông, chia sẻ, chúng ta không nên quá lý tưởng hoá con người, quá hy vọng tìm một con người hoàn thiện, có chăng chỉ là tình cảm, chỉ có tình cảm mới trọn vẹn, mới hoàn thiện, mới vững bền. Và cũng có tình cảm mới có thể làm cho con người trở nên phi thường. Đó là tình yêu lứa đôi, nghĩa vợ chồng, tình mẫu tử, tình đồng chí, tình đồng đội, …những cái đó sẽ làm Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 Văn Thị Hồng Hoa 67 cho mối quan hệ giữa người và người tốt đẹp hơn và con người cũng hoàn thiện hơn. Chỉ có đặt niềm tin vào những con người tội lỗi thì mới cho họ sức mạnh đứng lên. Dù là người tốt hay kẻ xấu thì cũng có lúc họ lạc lòng, vì ranh giới giữa thiện và ác rất mong manh và trong tâm hồn họ lúc nào cũng diễn ra những phiên toà do chính lương tâm họ xét xử. Chúng ta phải trân trọng mọi con người, không có ai là thánh nhân thì cũng không có ai là xấu xa hoàn toàn, không có ai suốt đời bán linh hồn cho quỷ dữ. Từ đó rút ra kết luận về cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu sau 1975 là cảm hứng ca ngợi nhưng ca ngợi gắn bó chặt chẽ, hữu cơ, biện chứng với phê phán để khẳng định; ca ngợi để làm gốc, sự gắn bó này có thể bao gồm nhiều dạng phê phán khẳng định, khẳng định để phê phán, trong phê phán có khẳng định. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1237.pdf
Tài liệu liên quan