BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THOA
CẢM HỨNG LỊCH SỬ TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN HUY TƯỞNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Lời cảm ơn
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Hữu Tá, người thầy đã tận tình
hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Ngữ Văn, đặc biệt là cá
101 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c thầy cô trong
Tổ Văn học Việt Nam trường ĐHSP TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho em
trong thời gian em học tập tại trường.
Cuối cùng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân: Gia đình, bạn bè, đồng nghiệp...
đã luôn luôn động viên giúp đỡ tôi để có được kết quả này.
Nguyễn Thị Phương Thoa
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Nguyễn Huy Tưởng là một tác gia lớn của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, “chiếm
vị trí xứng đáng trên văn đàn trước và sau cách mạng tháng Tám” [76, 11]. Sinh năm 1912,
Nguyễn Huy Tưởng là bạn đồng thời với nhiều tác giả nổi tiếng trên văn đàn giai đoạn 1930
- 1945, nhưng ông chính thức gia nhập làng văn hơi muộn, đến đầu những năm 40 ông mới
thực sự sáng tác. Khát vọng một đời văn của ông vẫn còn dang dở khi ông ra đi ở tuổi 48,
dù vậy, khối lượng tác phẩm ông để lại khá đồ sộ. Ngoài sự đa dạng về thể loại, đề tài sáng
tác, sự nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng còn được đánh giá cao về giá trị tư tưởng và nghệ
thuật. Ông là một trong những nhà văn vinh dự được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật (đợt I) năm 1996.
Văn nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng may mắn được các con ông và bạn hữu gìn giữ
rất cẩn thận, hầu như còn nguyên vẹn. Những sáng tác ấy bao gồm tiểu thuyết, kịch bản điện
ảnh , kịch nói, truyện phim, truyện thiếu nhi, bút ký..., thậm chí còn cả những trang nhật ký
viết từ thời ông còn là cậu học trò thành chung ở Hải Phòng (năm 1930) đến trang nhật ký
cuối cùng (đề ngày 21/6/1960) khi ông đang trên giường bệnh, ít ngày trước khi qua đời.
Thông thường khi tìm hiểu lịch sử tư tưởng của một nhà văn chúng ta chỉ có thể biết thông
qua việc nghiên cứu tác phẩm. Nhưng trong trường hợp nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, điều
may mắn hơn là chúng ta có thể xác định rõ ràng tư tưởng, cảm hứng và định hướng sáng
tác của tác giả qua những dòng nhật ký ông để lại. Có thể coi đó là kim chỉ nam hỗ trợ quá
trình nghiên cứu tác phẩm của nhà văn. Đề tài trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng khá
đa dạng và phong phú: quá khứ và hiện tại, nông thôn và thành thị, chiến trường và hậu
phương... nhưng trong những đề tài ấy, nhà văn có sở trường đặc biệt về đề tài lịch sử. Đây
cũng là bộ phận sáng tác có giá trị nhất trong văn nghiệp của ông. Đề tài lịch sử xuất hiện
trong nhiều thể loại sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng như: tiểu thuyết, kịch bản, truyện thiếu
nhi, truyện phim. Tâm huyết với nghề văn, nhưng Nguyễn Huy Tưởng còn đặc biệt tâm
huyết với lịch sử quê nhà, đó là vùng quê ngoại thành Hà Nội. Có lẽ vì thế mà ông gắn bó
với mảnh đất Thăng Long bằng mối tơ duyên kỳ lạ. Hầu hết các câu chuyện lịch sử mà ông
khai thác đều tập trung ở mảnh đất kinh kì, qua đó nhà văn thể hiện sự am hiểu sâu sắc tâm
lý, cá tính con người thủ đô, cũng như những truyền thống văn hóa, những giai thoại lịch sử
của vùng đất ngàn năm văn hiến này.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Đời văn của Nguyễn Huy Tưởng khởi đầu bằng vở kịch Vũ Như Tô và kết thúc với
cuốn tiểu thuyết còn dang dở Sống mãi với thủ đô. Chỉ xét riêng những tác phẩm lớn nầy
cũng đủ thấy tâm huyết nhà văn dồn cho Thăng Long. Đây là mảnh đất đã chứng kiến biết
bao thăng trầm của lịch sử dân tộc, nơi hội tụ hồn thiêng sông núi, gợi cho nhà văn niềm tự
hào vô bờ về quá khứ và niềm đau xót khi chứng kiến thủ đô ngập tràn trong khói lửa của
những ngày toàn quốc kháng chiến. Bằng những tri thức tự tìm tòi, học hỏi, Nguyễn Huy
Tưởng đã dựng lại một không gian lịch sử của Thăng Long xưa và Hà Nội nay, vừa chân
thật vừa sống động với những nét văn hóa sâu sắc, tinh tế. Đó vừa là tấm lòng vừa là sở
trường sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng. Có thể nói nhà văn Nguyễn Huy Tưởng là cây bút
tiêu biểu của khuynh hướng tiểu thuyết lịch sử trong văn học Việt Nam hiện đại. Trong
những năm gần đây, giới nghiên cứu đã có nhiều công trình khoa học xoay quanh cuộc đời
và sự nghiệp của ông. Nhưng thế giới nghệ thuật trong văn xuôi Nguyễn Huy Tưởng vẫn
còn những khoảng trống chưa được giới nghiên cứu tìm hiểu thấu đáo. Từ nhỏ, người
nghiên cứu để tài này đã được tiếp xúc với những truyện lịch sử dành cho thiếu nhi đầy
cuốn hút như Lá cờ thêu sáu chữ vàng, Kể chuyện Quang Trung, cho đến những bộ tiểu
thuyết như Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với thủ đô... do đó ít nhiều đã cảm nhận
về lịch sử dân tộc và phần nào cốt cách lịch lãm của văn phong Nguyễn Huy Tưởng. Trân
trọng và ngưỡng mộ tài hoa của nhà văn, chúng tôi chọn đề tài này với mục đích muốn có
một cái nhìn bao quát về cảm hứng chủ đạo trong sự nghiệp sáng tác nói chung và tiểu
thuyết nói riêng của Nguyễn Huy Tưởng, góp phần khẳng định vai trò và vị trí của một nhà
văn lớn đối với nền văn học Việt Nam hiện đại. Đó là lý do gợi dẫn chúng tôi tiếp cận với
đề tài: “Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng.”
2. Lịch sử vấn đề:
Cho đến thời điểm hiện tại, số lượng các bài viết, các công trình nghiên cứu, phê bình
và giới thiệu về con người và sự nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng tuy chưa sánh bằng những
tên tuổi cùng thời như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử... nhưng cũng
không phải là con số khiêm tốn. Hầu hết những bài viết và các công trình nghiên cứu về ông
đều là của các tác giả có tên tuổi, có uy tín trong giới nghiên cứu. Gần đây các tác giả
Nguyễn Bích Thu và Tôn Thảo Miên đã biên soạn, chọn lọc những bài phê bình, nghiên cứu
có chất lượng về nhà văn trong cuốn: Nguyễn Huy Tưởng - về tác gia và tác phẩm. Đây là
một công trình khá công phu, là nguồn tư liệu quý để chúng tôi có thể tham khảo, phục vụ
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
cho đề tài. Tổng hợp từ các ý kiến đánh giá, chúng tôi xin chọn lọc một số ý kiến và phân
loại như sau:
2.1. Những ý kiến đánh giá về đề tài lịch sử trong sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng:
Với vốn tri thức rộng và sâu, quá khứ dân tộc trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng
không bao giờ là một nhát cắt đơn giản mà là nhiều đường mạch gắn bó với lịch sử “Và lịch
sử bao giờ cũng là sự kết nối từ quá khứ đến hiện đại, đó là sự song hành hoặc tương phản
giữa một bên là bạo lực của ngoại xâm, của cường quyền, của những rối ren và náo động
của xã hội, với một bên là sự mỏng manh, sự bấp bênh của những số phận, những cuộc tình,
những đam mê và khát vọng của con người, trong đó chiếm vị trí trung tâm là người trí
thức” [42,97]
Cũng là một trong những tác giả tâm huyết với văn học thiếu nhi, nhà văn Tô Hoài đã
từng coi Nguyễn Huy Tưởng là một cây bút sử thi hết sức hùng tráng. Đọc những sáng tác
của Nguyễn Huy Tưởng về đề tài này, ông đã nhận xét : “Anh thèm có những tài năng nào
đó đem được cả nghìn năm lịch sử dựng nước biến thành bộ truyện chói lọi hàng trăm,
hàng trăm nhân vật anh hùng (...) Từ lòng mong muốn đưa tâm hồn các em tới những đỉnh
cao đẹp trong tư tưởng tình cảm, Nguyễn Huy Tưởng chọn chủ đề truyền thống theo lối
riêng của mình thể hiện qua những đề tài cổ tích và lịch sử (...). Trong văn học thiếu nhi
của ta, kể chuyện lịch sử và cổ tích, cho đến bây giờ, chưa có ai chuyên và thành công như
Nguyễn Huy Tưởng” [ 23].
Trong chuyên khảo Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) Hà Minh Đức và Phan Cự
Đệ, đã nhận định: “Trong số các tác giả, Nguyễn Huy Tưởng là người có thế giới quan tiến
bộ nhất và đã cố gắng khai thác đề tài lịch sử một cách nghiêm túc và sáng tạo. Riêng
Nguyễn Huy Tưởng, trong tác phẩm của mình đã tỏ ra khá trung thành với tinh thần của
những thời đại quá khứ xa xưa. Để xây dựng những vở kịch và tiểu thuyết lịch sử của mình
Nguyễn Huy Tưởng rất chú ý tìm tòi nghiên cứu những tài liệu lịch sử, những tác phẩm của
các nhà văn quá khứ”. Trên cơ sở đó, hai nhà nghiên cứu khẳng định sự sáng tạo của nhà
văn: “Nguyễn Huy Tưởng đã có công nghiên cứu lịch sử nhưng anh không nô lệ tài liệu lịch
sử... Nguyễn Huy Tưởng đã đi sâu vào đời sống nội tâm, vào đời sống riêng của nhân vật,
chứ không phải chỉ trình bày nhân vật trong lúc mang quân phục lịch sử để diễu hành” (chữ
dùng của V.G. Biêlinxky). Năm 1996, Nguyễn Huy Tưởng được truy tặng giải thưởng Hồ
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Chí Minh về văn học nghệ thuật, Hà Minh Đức trong cuốn sách giới thiệu về Các nhà văn
được giải thưởng Hồ Chí Minh, đã nhấn mạnh đến cảm hứng chủ đạo của ngòi bút
Nguyễn Huy Tưởng như sau: “Nguyễn Huy Tưởng đã khơi nguồn cho tác phẩm của mình từ
dòng lịch sử của dân tộc với bao trang hào hùng rực rỡ chiến công chống xâm lược. Lịch sử
được cảm nhận sâu sắc trong những ngày đen tối của cuộc đời hiện tại. Hiện tại không chỉ
liên hệ với quá khứ theo dòng thời gian mà nhiều khi là điểm xuất phát và là cảm hứng trực
tiếp để khai thác đề tài lịch sử” [77.60]. Trong lời giới thiệu Tuyển tập Nguyễn Huy
Tưởng tập 1 (NXB Văn hóa Hà Nội, 1984), Hà Minh Đức đã đề cập: “Những sự kiện lịch
sử lớn lao đã được làm sống dậy chân thực và hào hùng trong tác phẩm của Nguyễn Huy
Tưởng. Có thể nói chất sử thi đã nảy nở trong cảm hứng lịch sử sâu sắc về đất nước trong
những phút trọng đại với những trang viết nhiều khói lửa về một dân tộc anh hùng” [15].
Nguyễn Bích Thu và Tôn Thảo Miên trong bài viết Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng
một đời văn đã nhận xét: “Đối với nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Huy Tưởng là
một trong số hiếm hoi những tiểu thuyết gia có sở trường về đề tài lịch sử”. Dẫn lời nhà văn
Nguyễn Minh Châu, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định trong bài viết này rằng: “Nguyễn
Huy Tưởng là một nhà văn đồng thời cũng là một nhà văn hóa”, cái nhìn của ông về lịch sử
là cái nhìn từ góc độ văn hóa học. Bài viết phân tích rõ cảm hứng của nhà văn Nguyễn Huy
Tưởng có sự gắn bó sâu sắc với lịch sử Thăng Long - Hà Nội. Mạch cảm hứng này xuyên
suốt trong những sáng tác của ông trong nhiều thể loại, ở nhiều thời khắc quan trọng của
mảnh đất này, từ cảm hứng về lịch sử Thăng Long thời nhà Trần chống quân Nguyên Mông,
đến ngày Hà Nội rực lửa căm hờn của buổi đầu kháng chiến chống Pháp, như lời nhà văn
Nguyễn Tuân nhận xét: “Đọc lại những tiểu thuyết lịch sử, kể cả Sống mãi với thủ đô,
người đọc vẫn gây gây mùi khói vấn vương ngàn năm Thăng Long chốn cũ” [83,324]. Các
nhà nghiên cứu cho rằng: “Trong các tiểu thuyết lịch sử của mình, Nguyễn Huy Tưởng
không chỉ muốn diễn đạt tri thức của ông về lịch sử... mà điều quan trọng hơn là muốn gieo
vào lòng họ những câu hỏi, đặt ra các vấn đề đối thoại trong sáng tác để mọi người cùng
nghiền ngẫm” [76,19]. Nhận định về các vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng, hai nữ tác giả
viết: “Ngòi bút sử thi mang màu sắc lịch sử kết hợp với phong vị lãng mạn, trữ tình là đặc
điểm cơ bản trong kịch Nguyễn Huy Tưởng” [76, 32]. Vở Vũ Như Tô - vở kịch xuất sắc
nhất của kịch tác gia Nguyễn Huy Tưởng - đã thành công “ở chỗ tác phẩm vừa bảo đảm
tính chân thực lịch sử vừa có tính chân thực nghệ thuật” [76,32].
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Nhà sử học Lê Văn Lan trong bài viết Nguồn sáng ở một nhà văn đi trước [33] đã
công nhận những ảnh hưởng của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng tới mình như sau: “Trong
khoảng hai mươi năm làm truyện lịch sử cho thiếu nhi, dưới ảnh hưởng của Nguyễn Huy
Tưởng, điều mà tôi học được, chủ yếu là qua những truyện lịch sử viết cho thiếu nhi của
anh - kể cả học mà chưa hành được - là tính khoa học, tính văn học - văn nghệ, tính văn học
thiếu nhi, đều ở mức cao”.
Trong bài Khắc khoải một đời văn nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh có viết: “Đọc
Nguyễn Huy Tưởng, ai cũng nhận ra một cảm hứng lịch sử dồi dào bao trùm phần lớn các
tác phẩm. Cái nguồn dồi dào ấy đủ sức phân nhánh ra nhiều thể loại: kịch lịch sử, tiểu
thuyết lịch sử, truyện lịch sử viết cho thiếu nhi... và làm nên nét đặc sắc của văn ông” [77,
209]. Viết về Những trăn trở và khát khao sáng tạo của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng,
Mai Hương nhận xét: “Những suy nghĩ sâu sắc ấy về lịch sử về dân tộc đã góp phần khơi
gợi nguồn mạch riêng cho ngòi bút Nguyễn Huy Tưởng để rồi lịch sử dân tộc mãi gắn bó và
trở thành dòng mạch dào dạt, xuyên chảy suốt cả đời viết văn của ông, đến như thành một
nổi ám ảnh, một sự đam mê” [28].
Qua một vài ý kiến tiêu biểu nhận xét như đã dẫn ở trên có thể khẳng định đề tài lịch
sử là phần tâm huyết nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng và ở đó người
đọc có thể nhận thấy một phong cách tài hoa lịch lãm của một nhà văn hóa lớn đầy tâm
huyết với lịch sử dân tộc và những khát khao sáng tạo.
2.2. Những ý kiến đánh giá về đề tài lịch sử trong bốn tiểu thuyết Đêm hội Long
Trì, An Tư, Lá cờ thêu sáu chữ vàng và Sống mãi với thủ đô:
Theo Hà Minh Đức: “Tác phẩm đầu tay Đêm hội Long Trì mở đầu cho quá trình sáng
tác của Nguyễn Huy Tưởng, tác phẩm dựa trên những tư liệu được đề cập đến trong Hoàng
Lê nhất thống chí và Việt Lam Xuân Thu, khai thác câu chuyện xoay quanh quan hệ giữa
chúa Trịnh Sâm và hai chị em Đặng Thị Huệ, Đặng Mậu Lân. Nguyễn Huy Tưởng không
chỉ muốn dừng sự việc lại ở đó. Anh muốn tìm đến một bàn tay dũng cảm vừa thể hiện tinh
thần công lý phù hợp với ý dân, vừa phải hợp với chân lý của lịch sử để trừng trị kẻ tàn
bạo” [77, 61].
Với An Tư, Hà Minh Đức nhận định: “Viết An Tư, Nguyễn Huy Tưởng muốn nói
nhiều hơn đến vận mệnh của dân tộc trong cơn sóng gió kinh hoàng của lịch sử. Chính vào
thời điểm như con thuyền sẽ bị chìm đắm, lại bộc lộ rõ sức mạnh hiệp đồng muôn người
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
như một của dân tộc...Qua An Tư, Nguyễn Huy Tưởng đã bắt được cái chất bi tráng của
một thời đại lịch sử thấm sâu trong số phận nhiều người. Nguyễn Huy Tưởng đã tránh được
cái nhìn sơ lược đối với những vấn đề lịch sử phức tạp”. Từ đó, ông nhận xét chung về
mảng đề tài lịch sử trong tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng: “Qua Đêm hội Long
Trì, Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện, An Tư...có thể nói toàn bộ sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng ở thời kỳ trước cách mạng tháng tám đều dành cho đề tài lịch sử. Nguyễn Huy
Tưởng không khai thác lịch sử theo quan điểm phục cổ, sùng bái và thêu dệt quá khứ.
Nguyễn Huy Tưởng tìm hiểu và thể hiện lịch sử theo quan điểm tiến bộ”
[77, 69].
Với Sống mãi với Thủ Đô và Lũy hoa, Hà Minh Đức khẳng định: “Nguyễn Huy
Tưởng đã rất có ý thức về thời gian nghệ thuật trong tác phẩm. Chiều dài của lịch sử thời
điểm đầu của cuộc kháng chiến thủ đô có một ý nghĩa hết sức quan trọng để miêu tả cuộc
sống và con người trên mảnh đất thiêng liêng này” [77, 79]. Nguyễn Huy Tưởng chú ý
nhiều hơn đến sự chuyển biến của xã hội và con người trong những năm tháng thiêng liêng
ấy. Cũng vì vậy mà Sống mãi với thủ đô “không chỉ nhằm diễn tả lại hai ngày đêm chiến
đấu của quân dân Hà Nội, sâu xa hơn, tác giả muốn nói đến quá trình của từng người dân
Hà Nội đến với Cách mạng và tham gia đấu tranh cách mạng. Thời điểm lịch sử này bộc lộ
rõ nét nhất, đa dạng nhất, chi tiết nhất cái riêng của Hà Nội mà không một thời điểm nào
trước đó và sau này lặp lại nữa” [77, 80]. Cái tài của nhà tiểu thuyết lịch sử là khả năng lựa
chọn những bối cảnh, tình huống quan trọng của lịch sử để vừa có cái nhìn bao quát về vận
mệnh dân tộc vừa đi sâu khai thác những biến chuyển trong đời sống của cá nhân con
người. Theo nhà nghiên cứu, “Nguyễn Huy Tưởng đã dựng lại được một Hà Nội bao quát
trong không gian, chuyển động và lắng sâu trong thời gian...Bề dày lịch sử đã tạo nên một
truyền thống kiên cường trong đấu tranh và cũng tạo dựng nếp sống văn hóa lâu đời... Viết
Sống mãi với thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng luôn có ý thức tìm tòi phát hiện ở mỗi cuộc đời,
mỗi căn nhà một điều gì đó còn ẩn tàng của hôm qua và hôm nay” [77, 80].
Nguyễn Bích Thu và Tôn Thảo Miên đặc biệt chú ý tới tiểu thuyết Sống mãi với thủ
đô bởi đây là tác phẩm được nhà văn nung nấu từ rất lâu, dù tác phẩm còn dang dở nhưng
cũng thể hiện được sự trưởng thành của ngòi bút đang độ sung sức của ông. Đánh giá về
tiểu thuyết này, hai nhà nghiên cứu viết: “Với Sống mãi với thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng
không chỉ thành công trong tái tạo không khí hào hùng bi tráng của lịch sử mà cả trong
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
miêu tả diễn biến tâm lý phức tạp, tinh tế của đời sống tâm hồn nhân vật, mang ý nghĩa
nhân bản, đề cao lòng yêu nước và sự sống con người. Ở góc độ khác, chỉ với ngòi bút hào
hoa, tác giả cuốn tiểu thuyết mới tả được những nét sang trọng, lịch sự của thủ đô. Sang
trọng lịch sự mà vẫn yêu nước, ghét Tây, điều đó làm nên bản sắc riêng, không lẫn với các
trường thiên tiểu thuyết cùng thời của Sống mãi với thủ đô” [76,21]
Nhà văn Như Phong đã cảm nhận được bước ngoặt mới trong quá trình sáng tạo của
Nguyễn Huy Tưởng mà Sống mãi với thủ đô là một minh chứng: “Tập tiểu thuyết chưa
trọn vẹn này đã làm cho ta thấy được các tính chất phức tạp của thực tế. Kháng chiến
không còn cái vẻ tráng lệ hơi dễ dãi, cái lối lý tưởng hóa con người hơi ngây thơ mà nhiều
tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng trước đây vẫn có. Với tác phẩm cuối cùng này, anh đã tự
đổi mới trong phương pháp nghệ thuật của mình” [54]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc
Thiện cũng chỉ ra giá trị của tác phẩm là ở sự lựa chọn một thời khắc lịch sử đáng giá để tạo
nền cho tiểu thuyết, “trong độ dồn nén căng thẳng của thời gian và sự bức bối chật hẹp của
không gian, tức một trường không thời gian thử thách nghiệt ngã bản lĩnh dân tộc cũng như
từng số phận con người. Qua đó, ông khẳng định những giá trị thẩm mỹ mang thuộc tính
nhân bản, cao thượng, tốt đẹp” [73] và cho rằng Sống mãi với thủ đô đồng dạng với
Chiến tranh và hòa bình ở việc khai thác lịch sử như là một quá khứ gần, ở nghệ thuật đan
cài giữa kể và tả, giữa khắc họa chân dung, hành động nhân vật với những mổ xẻ diễn biến
nội tâm qua những xung đột của ý chí, dục vọng, tình cảm dưới tác động của hoàn cảnh bên
ngoài, của người khác cũng như sự tự vận động trong tiềm thức, ám ảnh và những lò so nội
lực bị kìm giữ. Bài viết cũng chỉ ra sự phản ánh hiện thực của tác phẩm ở cấp độ tổng kết,
soi sáng theo chiều rộng và chiều sâu của những vấn đề đạo đức, nhân sinh, khám phá
những lĩnh vực còn tiềm ẩn trong thế giới tinh thần của những người hôm qua, đưa tất cả
trở thành sống động trước mắt người đọc.
Vân Thanh trong bài Cuối thế kỷ nhìn lại Nguyễn Huy Tưởng với các tác phẩm
viết cho tuổi thơ có nêu nhận định như sau: “Nguyễn Huy Tưởng là nhà văn viết cho thiếu
nhi rất có trách nhiệm. Hướng viết của ông là ca ngợi con người Việt Nam anh hùng trong
quá khứ và trong hiện tại. Truyện viết cho thiếu nhi của ông đều lấy truyền thống dân tộc
làm chủ đề miêu tả” .
Trong công trình nghiên cứu về tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng , Thiều Quang
khẳng định đây là một công trình sáng tác nghệ thuật đã đạt đến mức nghệ thuật rung cảm
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
được lòng người, cho nên mặc dù có đối tượng riêng của nó là thiếu nhi, nhưng thực tế nó
vẫn là một tác phẩm chung cho tất cả các giới, các tầng lớp bạn đọc.
Nhìn chung các bài phê bình và nghiên cứu xoay quanh đề tài tiểu thuyết lịch sử trong
sự nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng thường tập trung khai thác ở một vài điểm nổi bật như
góc nhìn, cách tiếp cận lịch sử, nghệ thuật xây dựng nhân vật... song chưa có cái nhìn bao
quát về cảm hứng lịch sử của nhà văn. Đặc biệt các nhà nghiên cứu thường tập trung vào
tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô ít có tài liệu viết về Lá cờ thêu sáu chữ vàng. Những bài
viết có đề cập đến hai tác phẩm Đêm hội Long Trì và An Tư đều chưa khai thác sâu cả về
nội dung và giá trị nghệ thuật mà chỉ dừng lại ở mức giới thiệu nội dung tác phẩm. Như vậy
những giá trị của Đêm hội Long Trì và An Tư đã bị chìm khuất so với chính những sáng
tác của cùng tác giả. Do đó, chúng tôi hy vọng qua luận văn có thể làm rõ hơn những giá trị
trong các tiểu thuyết lịch sử này.
3/. Mục đích nghiên cứu:
Luận văn tiến hành khảo sát nghiên cứu một cách bao quát và hệ thống về cảm hứng
lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng trong các tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi
với thủ đô, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, là những tiểu thuyết có tính chất như cái mới khởi
đầu và kết thúc văn nghiệp của ông. Chúng tôi mong muốn có cái nhìn khách quan và khoa
học về cảm hứng lịch sử của nhà văn từ góc độ thể loại. Trên cơ sở đó, ghi nhận những
đóng góp và khẳng định vị trí của nhà văn với sự phát triển thể loại tiểu thuyết lịch sử nói
riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.
Xét ở góc độ sư phạm, người viết luận văn nhận thấy việc đưa những tác phẩm văn
học viết về đề tài lịch sử dân tộc vào trong nhà trường còn quá hạn chế. Đó là nguyên nhân
dẫn đến hiện tượng mà những người tâm huyết với sự nghiệp giáo dục đang đề cập đến như
một vấn đề bất ổn. Thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay còn thờ ơ với lịch sử nước nhà, trong khi
lại am hiểu về lịch sử Trung Quốc. Nguyên nhân chính là sự truyền bá tràn lan lịch sử, văn
hóa Trung Quốc qua phim ảnh, truyền thuyết, còn những pho tiểu thuyết lịch sử Việt Nam,
do ít được phổ biến trong thực tế cuộc sống nên còn quá xa lạ với thế hệ trẻ hiện nay. Khám
phá giá trị tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng, những tiểu thuyết được viết nên bởi
tình yêu tha thiết với lịch sử dân tộc và ước muốn của cố nhà văn lưu lại những niềm tự hào
trong quá khứ cho thế hệ mai sau, người viết luận văn mong sẽ được góp thêm tiếng nói
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
vào việc đưa tiểu thuyết lịch sử nói chung và tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng nói
riêng vào giảng dạy trong nhà trường.
4/. Đối tượng nghiên cứu:
Cảm hứng lịch sử là một vấn đề thuộc phạm trù lý luận văn học - vấn đề cảm hứng chủ
đạo - là một trong những yếu tố chính hợp thành tư tưởng tác phẩm.
Xuất phát từ điều kiện thời gian, tư liệu, khả năng còn hạn chế của bản thân, trên cơ sở
tiếp thu những vấn đề lý luận có liên quan từ các công trình lý luận văn học và mỹ học trong
và ngoài nước, người viết luận văn sẽ tiến hành khảo sát cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết
của Nguyễn Huy Tưởng qua hai vấn đề cơ bản:
a. Miêu tả, phân tích cảm hứng lịch sử trong một số tiểu thuyết tiêu biểu.
b. Dựa vào cảm hứng lịch sử bước đầu khái quát một vài đặc điểm chủ yếu của tiểu
thuyết Nguyễn Huy Tưởng.
5/. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu bốn tiểu thuyết: Đêm hội Long Trì (1942), An Tư
(1944), Lá cờ thêu sáu chữ vàng (1960), Sống mãi với thủ đô (1961). Bốn tiểu thuyết này
được viết theo trình tự thời gian từ lúc bắt đầu đến khi kết thúc sự nghiệp của nhà văn.
Trong quá trình khảo sát bốn tác phẩm nói trên người viết luận văn có sự tham khảo và so
sánh với những tác phẩm của các nhà văn khác cùng đề tài.
6/. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài đóng góp thêm một cái nhìn mới có tính chất hệ thống và hoàn thiện hơn về
cảm hứng lịch sử trong sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng.
Trân trọng và kế thừa gợi ý của những người đi trước, bổ sung những tìm tòi mới, đề
tài tập trung nghiên cứu tương đối toàn diện, hệ thống và tỉ mỉ tiểu thuyết lịch sử của
Nguyễn Huy Tưởng trước và sau Cách mạng tháng tám trên phương diện tư tưởng thẩm mĩ.
Mong muốn của đề tài là sẽ góp thêm một tiếng nói hữu ích trong việc nghiên cứu văn
nghiệp Nguyễn Huy Tưởng, có thể làm tài liệu tham khảo cho việc dạy và học văn trong các
nhà trường phổ thông.
7/. Các phương pháp nghiên cứu:
7.1. Phương pháp lịch sử xã hội.
7.2. Phương pháp so sánh văn học.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
7.3. Phương pháp phân tích, đối chiếu.
7.4. Vận dụng lý thuyết thi pháp tác phẩm và thi pháp thể loại.
8/. Cấu trúc luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục, nội dung luận văn bao gồm 3 chương:
* Chương 1: Về một số khái niệm
Trình bày cách hiểu của người viết luận văn về một số khái niệm có liên quan đến đề
tài như cảm hứng, cảm hứng lịch sử, khái niệm tiểu thuyết, những đặc trưng cơ bản của thể
loại tiểu thuyết.
* Chương 2: Những chất liệu chủ yếu của cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết
Nguyễn Huy Tưởng
Miêu tả phân tích cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng trước và
sau cách mạng tháng Tám qua một số tác phẩm tiêu biểu.
* Chương 3: Một số đặc điểm chủ yếu của tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng.
Bước đầu tổng hợp, khái quát một số đặc điểm chung nhất của tiểu thuyết Nguyễn
Huy Tưởng gắn liền với đặc trưng tiểu thuyết và cảm hứng chủ đạo xuyên suốt những tác
phẩm.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
CHƯƠNG 1: VỀ MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1. Về khái niệm cảm hứng và cảm hứng lịch sử.
1.1.1. Về khái niệm cảm hứng và cảm hứng chủ đạo.
Cảm hứng là gì?
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng rất tâm huyết với đề
tài lịch sử. Đó là mảng đề tài xuyên suốt hành trình sáng tạo của ông. Lịch sử dân tộc đối
với ông là niềm say mê, đầy cuốn hút và đã trở thành cảm hứng chủ đạo trong văn nghiệp
của Nguyễn Huy Tưởng. Trong luận văn của mình, chúng tôi muốn nhìn nhận các sáng tác
của nhà văn từ góc độ bao quát nhất là cảm hứng chủ đạo. Đó vừa là điểm khởi đầu trong
quá trình sáng tác vừa là định hướng cho cả quá trình của nhà văn.
Quá trình sáng tạo của nhà văn bắt đầu từ khi nảy sinh những dự tính rồi sau đó là quá
trình nảy sinh những quan niệm mang tư tưởng sáng tạo của tác phẩm văn học, những tư
tưởng ấy thường gắn liền với sự thụ cảm của nhà văn với cuộc sống dưới hình thức cảm
xúc. Trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học.
M.B.Khrapchenkô cho rằng: “Sự dồi dào về cảm xúc của tác phẩm nghệ thuật là một đặc
điểm hữu cơ của tái tạo hiện thực bằng hình tượng, là một đặc điểm của sự thể hiện những
tư tưởng sáng tạo, sự phát triển của các tính cách” [48,38]. Nhà phê bình V.G.Biêlinxky
xác định vai trò và nguồn gốc của tư tưởng trong tác phẩm: “Trong những tác phẩm nghệ
thuật chân chính, tư tưởng đâu phải là một khái niệm trừu tượng được thể hiện một cách
giáo điều mà nó là linh hồn của chúng, nó chan hòa trong chúng như ánh sáng chan hòa
trong pha lê. Trong những tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng là cảm hứng chủ đạo của chúng.
Cảm hứng chủ đạo là gì? Đó là sự thâm nhập say mê và sự ham thích một tư tưởng nào đó,
mỗi tác phẩm nghệ thuật phải là kết quả của cảm hứng chủ đạo, phải thấm đượm nó. Thiếu
cảm hứng chủ đạo thì không thể hiểu được là cái gì đã buộc nhà thơ cầm bút và cung cấp
cho anh ta sức lực và khả năng để khởi đầu và kết thúc một tác phẩm đôi khi khá đồ sộ”
[87,56].Cảm hứng sáng tạo ở nhà văn không thể hiểu một cách giản đơn thô thiển như là
phút say mê bất chợt hoặc coi nó như là thần hứng trong nhà văn nảy sinh từ những xúc cảm
tâm linh kì quái. Cảm hứng sáng tạo ở người nghệ sĩ đơn giản và thực tế: “Cảm hứng là một
trạng thái lao động nghiêm túc của con người. Sự cao hứng trong tâm hồn không biểu hiện
ở điệu bộ phường tuồng và trong sự bốc đồng” [31,62]. A. Puskin đã định nghĩa cảm hứng
một cách chính xác và giản dị như sau: “Cảm hứng là trạng thái tâm hồn thích hợp cho sự
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
tiếp nhận một cách sinh động những ấn tượng, do đó, cho sự lĩnh hội một cách nhanh chóng
những ý niệm tức là những cái tạo điều kiện cho việc giải thích những ấn tượng nói trên”.
K. Pautopxki nhấn mạnh: “Cảm hứng là trạng thái lao động nghiêm túc, nhưng nó có màu
sắc thơ riêng biệt của nó... cảm hứng đi vào tâm hồn chúng ta giống như một buổi sáng mùa
hạ rực rỡ mới rũ khỏi thân mình sương mù của một đêm yên ả, nhưng vẫn còn là hạt sương
sớm với những bụi cây ẩm ướt. Nó nhẹ nhàng thở cái tươi mát tốt lành của nó vào mặt
chúng ta. Cảm hứng giống như mối tình đầu, khi tim ta rộn ràng cảm thấy trước những
cuộc gặp gỡ ly kỳ, đôi mắt đẹp tuyệt trần, những nụ cười và những câu nói ngập ngừng
dang dở... lúc đó thế giới bên trong chúng ta trở nên tinh tế và chuẩn xác như một cây đàn
kỳ diệu, đáp lại mọi âm thanh của cuộc đời, kể cả những tiếng động thầm kín nhất, khó
nhận thấy nhất” [31,63]. Như vậy, cảm hứng sáng tác vừa là cuộc hành trình nhọc nhằn,
vừa là sự nghỉ ngơi thư thái trong tâm hồn nghệ sĩ. Nó buộc người nghệ sĩ vào trạng thái lao
động nghiêm túc, cẩn trọng bằng niềm say mê, bằng tất cả niềm hứng khởi.
Cảm hứng chủ đạo.
Tiềm ẩn trong mỗi con người là một tâm hồn nghệ sĩ, đó là khả năng rung động trước
cái đẹp trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Đối với nhà văn, những khoảnh khắc rung động
ấy càng nhiều hơn những người bình thường và cũng mãnh liệt hơn. Những cảm xúc mãnh
liệt nhất bộc lộ thành tác phẩm là những cảm hứng chủ đạo của nhà văn. Trong Từ điển
thuật ngữ văn học, các tác giả đã đưa ra khái niệm về cảm hứng chủ đạo như sau: Cảm
hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật,
gắn với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của
những người tiếp nhận tác phẩm (...) Về sau lý luận văn học xem cảm hứng chủ đạo là “một
yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng và xúc cảm ở nghệ sĩ đối với
thế giới được mô tả” [43,29]. V. G. Bêlinxki từng nói: “Cảm hứng chủ đạo là gì? - Sáng
tác, đó không phải là trò đùa, và tác phẩm nghệ thuật không phải là sản phẩm của nhàn hạ
hay tùy hứng, nó đòi hỏi lao động của nghệ sĩ...cảm hứng là sức mạnh hùng hậu. Trong cảm
hứng nhà thơ là người yêu say tư tưởng, như yêu cái đẹp, yêu một sinh thể, đắm đuối vào
trong đó và anh ta ngắm nó không phải bằng lý trí, lý tính, không phải bằng tình cảm hay
một năng lực nào đó của tâm hồn, mà là bằng tất cả sự tràn đầy và toàn vẹn của tồn tại tinh
thần của mình và do đó tư tưởng xuất hiện trong tác phẩm không phải là những suy nghĩ
trừu tượng, không phải là hình thức chết cứng, mà là một sáng tạo sống động” [88,111].
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Ng._.uyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Cảm hứng được biểu hiện rõ nhất khi nhà văn bắt đầu viết, nó định hướng nhà văn
chọn lựa đề tài, nhân vật, v.v.. nhưng cũng có thể bàng bạc trong hầu hết các khâu của quá
trình sáng tác. Bất kỳ ngành nghề nào cũng cần cảm hứng, đặc biệt là nghề văn: “Viết văn là
gan ruột, tâm huyết, chỉ bộc lộ những gì đã thật sự tràn đầy trong lòng, không thể cho ra
những sản phẩm của một tâm hồn bằng lặng vô vị và miễn cưỡng. Cảm hứng là một trạng
thái tâm lý căng thẳng nhưng say mê khác thường. Sự căng thẳng của ý chí và trí tuệ, sự dồi
dào về cảm xúc, khi đã đạt đến sự hài hòa, kết tinh, sẽ cháy bùng trong tư duy nghệ thuật
của nhà văn, dẫn dắt họ đến những mục tiêu da diết bằng con đường gần như trực giác, bản
năng”. [43, 210]. Như vậy, cảm hứng nghệ thuật là yếu tố đầu tiên dẫn đến sự hình thành
của một tác phẩm. Đối với thi sĩ, cảm hứng có thể đến trong một giây phút xuất thần nhưng
với một tiểu thuyết gia, cảm hứng lại hình thành từ cả một quá trình tích tụ. Bởi lẽ, thơ là
cảm xúc bất chợt, nhưng tiểu thuyết là thể loại lớn có dung lượng đồ sộ, kết cấu phức tạp,
với hệ thống nhân vật phong phú và đa dạng. Để bắt tay vào quá trình xây dựng một tiểu
thuyết, nhà văn cần phải có sự say mê với hiện thực, phải hiểu hết những tình tiết trong hiện
thực được phản ánh. Trong cả quá trình sáng tác, cảm thức của nhà văn về thực tại không
thay đổi nhưng chính trong lúc làm việc, cảm hứng dấy lên những trận cuồng phong, những
dòng thác ý nghĩ mới và những từ mới. Cảm hứng ấy đòi hỏi nhà văn phải liên tục trau dồi
vốn sống, bởi nếu bỏ đói nó thì cảm hứng sẽ phụt tắt.
1.1.2 Cảm hứng lịch sử:
Cảm hứng chủ đạo là cái tạo nên nền tảng của giọng điệu trong tác phẩm của nhà văn,
nó chi phối việc xây dựng hệ thống hình tượng nhân vật, xác lập góc nhìn của tác giả đối
với hiện thực được phản ánh. Cảm hứng xuất hiện khi tác giả nói đến một cái gì cao cả, có ý
nghĩa tồn tại của con người, nói đến niềm vui, nỗi đau, lòng căm giận có ý nghĩa sâu rộng.
Ứng với mỗi nguồn cảm hứng ấy là một phương pháp sáng tác, một loại hình tác phẩm, một
giọng điệu riêng. Nếu cảm hứng là cao cả thì thế giới hình tượng là những hình tượng anh
hùng, giọng điệu tác phẩm là cao cả, nhà văn sẽ sử dụng các từ cao cả, to lớn, cổ kính, có
âm hưởng thống thiết. Nếu cảm hứng là chính luận, phê phán thì hệ thống nhân vật sẽ là
những nhân vật tầm thường, chứa đựng những nghịch lý trong tính cách và giọng điệu tác
phẩm thiên về phạm trù cái hài mang yếu tố mỉa mai, châm biếm,... Cảm hứng cảm thương
sẽ tạo nên thế giới hình tượng bi thương bằng giọng điệu ai oán. Chưa có nhà lý luận nào
đưa ra khái niệm cảm hứng lịch sử nhưng trong nhiều bài phê bình nghiên cứu về tiểu
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
thuyết lịch sử chúng ta dễ dàng bắt gặp thuật ngữ này. Căn cứ vào cách định nghĩa về cảm
hứng chủ đạo và các loại hình cảm hứng như trên, có thể thuật hiểu sơ lược về cảm hứng
lịch sử: Đó là cảm hứng sáng tác xuất phát từ cảm quan về hiện thực lịch sử, trong đó nhà
văn lấy lịch sử làm đề tài, chất liệu để tạo ra thế giới hình tượng, xác lập cho mình một điểm
nhìn vào quá khứ, tạo ra giọng điệu tác phẩm phù hợp với điểm thời gian mà nó tái hiện. Ở
các loại hình tiểu thuyết khác, trong quá trình sáng tạo, nhà văn có thể dựng lên hiện thực
hoàn toàn hư cấu; nhưng với tiểu thuyết lịch sử là thể loại viết về những con người và sự
việc có thật trong quá khứ nên yếu tố thực đòi hỏi chiếm một phần quan trọng trong tác
phẩm bên cạnh sự hư cấu, sáng tạo. Vì thế, khi chọn cho mình cảm hứng sáng tác là đề tài
lịch sử thì nhà văn không chỉ cần đến khả năng tưởng tượng, vốn ngôn ngữ, óc sáng tạo mà
còn phải thực sự am hiểu và say mê với những dữ liệu lịch sử ngắn ngủi khô khan, những
hiện thực đã hóa thạch, hiểu và tìm thấy trong đó sợi dây liên lạc giữa hôm qua và hôm nay.
Những nhà tiểu thuyết lịch sử xác định cho mình nhiệm vụ: dùng văn chương làm sống lại
quá khứ trong lòng hiện tại, để độc giả hôm nay và mai sau có thể tìm thấy sau những biến
cố thăng trầm của dân tộc, triều đại ấy là thế giới tâm linh, tình cảm của các cá nhân, những
anh hùng lịch sử và cả những con người nhỏ bé vô danh nhưng không thể thiếu trong mỗi
biến cố ấy, họ là đại diện của nhân dân. Tiểu thuyết lịch sử lấy đề tài, cảm hứng từ quá khứ
nhưng cái đích vươn tới là soi sáng thực tại và tương lai. Cảm hứng lịch sử không làm cho
hệ thống hình tượng trong tiểu thuyết xuất hiện đơn thuần trong tư thế của những tượng đài
lịch sử, người viết tiểu thuyết phải biến những tượng đài sẵn có ấy thành những con người
với cá tính đa dạng, phức tạp như chính họ trong cuộc sống. Nếu như những trang lịch sử
ghi lại được một phần, một mặt nào đó của con người, sự kiện trong quá khứ; tiểu thuyết
lịch sử có khả năng làm được điều kì diệu hơn là mô tả cả những phần khuất lấp sau những
bề mặt ấy. Những chi tiết kể như rất đời thường và vụn vặt, có thể dễ dàng bắt gặp trong
thực tại cuộc sống lại chính là những sinh khí tạo hồn cho nhân vật lịch sử.
Như vậy, có thể hiểu cảm hứng lịch sử chính là ngọn lửa say mê và nung nấu tâm can
nhà văn, nó thôi thúc và dẫn đường để nhà văn có thể làm công việc tạo nên da thịt và sinh
khí cho những xác ướp mà sử học cung cấp, để lịch sử được tái hiện sinh động hơn, sâu sắc
hơn trong những hình tượng văn học. Trong tác phẩm văn học cảm hứng lịch sử lắng sâu
trong ngôn ngữ, thấm đượm trong bối cảnh không gian và hiện hữu ở nhân vật, từ trang
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
phục đến cử chỉ, lời thoại, đặc biệt là tình huống chính của tác phẩm bao giờ cũng là một cái
mốc lịch sử trọng đại đối với hiện thực được phản ánh.
1.2 . Về đặc trưng tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử.
1.2.1. Khái niệm tiểu thuyết
Thuật ngữ tiểu thuyết chỉ thể loại tác phẩm tự sự trong đó sự trần thuật tập trung vào
số phận một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Sự trần thuật ở đây
được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để truyền đạt “cơ cấu”
của nhân cách.
V. G. Biêlinxky gọi tiểu thuyết là “sử thi của đời tư”, do chỗ nó “miêu tả những tình
cảm, dục vọng và những biến cố thuộc đời sống riêng tư và đời sống nội tâm của con
người”.
Tiểu thuyết trình bày đời sống cá nhân và đời sống xã hội như những tố chất có tính
độc lập tương đối, không làm cạn kiệt được nhau, không ngốn nuốt được nhau, đây là đặc
điểm quyết định nội dung thể loại của tiểu thuyết.
Tiểu thuyết phát triển trong những kết cấu cốt truyện rất đa dạng.
Ở Việt Nam, thể loại tiểu thuyết chí quái, tiểu thuyết truyền kỳ và tiểu thuyết chương
hồi đều được du nhập từ sớm. Nhưng thuật ngữ tiểu thuyết lại không du nhập cùng lúc với
thể loại. Trong một thời gian dài người Việt chỉ dùng một khái niệm truyện để định vị cho
nhiều hình thức tự sự khác nhau của mình. Trong truyện có cả văn xuôi, chủ yếu là văn xuôi
chữ Hán, và văn vần, chủ yếu là văn vần chữ nôm, về sau được học giả hiện đại định danh
là truyện thơ hay truyện nôm. Phải đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thuật ngữ tiểu thuyết
mới ra đời, lúc bấy giờ tiểu thuyết Pháp ngày càng được nhiều người Việt mô phỏng, nên
thuật ngữ tiểu thuyết ở Việt Nam sớm gắn bó với hình thức tiểu thuyết phương Tây, mặc dù
cũng được dùng để gọi tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc vốn được dịch khá ồ ạt ở miền Nam
và miền Bắc trong vài thập kỷ đầu thế kỷ XX. Tuy thế, khái niệm truyện vẫn không mất đi,
trái lại tồn tại song song cho đến nay.
1.2.2. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử
1.2.2.1. Tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm mang trọn đặc trưng của tiểu thuyết
nhưng lại lấy đề tài lịch sử làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Ở đây, tác giả dựa vào những
sự kiện trong quá khứ, hư cấu tưởng tượng thêm để tạo nên tác phẩm nhằm gây hứng thú
cho người đọc. Tiểu thuyết lịch sử tuy mượn đề tài và lấy cảm hứng từ lịch sử nhưng không
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
hề né tránh, xa rời với hiện tại, đúng như V. G. Biêlinxky đã khẳng định: “Chúng ta hỏi và
chúng ta chất vấn những cái đã qua để chúng ta giải thích cho hiện tại và chỉ ra tương lai
của chúng ta”. Mặc dù lấy những sự kiện, những nhân vật trong lịch sử nhưng các tác giả
của tiểu thuyết lịch sử không chỉ trình bày lại cái tư thế lịch sử mà còn cho chúng ta biết
nhiều mặt khác của đời sống con người, thậm chí cả những mặt sinh hoạt mang tính chất đời
tư của nhân vật “nhằm mang lại cho người đọc những khơi gợi bổ ích và những mỹ cảm văn
học”. Đặc biệt “về phương diện bút pháp, một mặt phải dựa vào lịch sử, nhưng mặt khác
vẫn cho phép hư cấu trong chừng mực thích hợp, nhằm phát huy trí tưởng tượng làm cho sự
chân thực lịch sử được thăng hoa thành chân thực nghệ thuật” [111,146].
Tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết thông thường có những điểm giống và khác nhau:
Môi trường của nhân vật tiểu thuyết lịch sử thuộc về thời quá khứ đòi hỏi nhà viết tiểu
thuyết lịch sử phải tìm cách dựng lại qua một quá trình nghiên cứu công phu. Vì thế nhà viết
tiểu thuyết lịch sử phải có sự hiểu biết như một nhà sử học. Tiểu thuyết lịch sử không chỉ
xây dựng những chi tiết, những sự kiện, nhân vật như trong lịch sử mà còn chú ý đến đời tư
của nhân vật. Yếu tố đời tư của nhân vật đã làm tăng tính chất văn chương, tính tiểu thuyết
và tính đời thường cho các sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử. Trong tiểu thuyết lịch sử, người
đọc có thể bắt gặp mọi sự diễn ra như trong cuộc đời. Tiểu thuyết lịch sử cũng đòi hỏi nhà
văn không được sao chép lịch sử một cách giản đơn mà đòi hỏi phải có sự sáng tạo. Sáng
tạo là bản chất của nghệ thuật và cũng là đặc trưng của thể loại tiểu thuyết lịch sử. Bởi vậy,
yêu cầu đặt ra trong tiểu thuyết lịch sử là cần phải có sự kết hợp hài hòa giữa hư cấu tưởng
tượng và sự thật lịch sử.
1.2.2.2. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử du nhập vào nước ta từ đầu thế kỷ XX cùng với
quá trình hiện đại hóa văn học. Ngay trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã phân biệt
khá rõ lịch sử, ký sự lịch sử và tiểu thuyết lịch sử. “Khi viết về một quyển lịch sử, nhà chép
sử không lưu tâm đến những việc cá nhân không ảnh hưởng đến xã hội. Nhưng khi viết
những bài lịch sử ký sự, nhà văn có thể viết một cách tỉ mỉ những việc cá nhân không ảnh
hưởng gì đến dân chúng chỉ có cái thú vị riêng của nó mà thôi. Không những thế, khi viết
một quyển lịch sử ký sự nhà văn lại cần phải lưu tâm đến những việc đời tư , lối ấy cũng
gần như lối chép sử vậy... còn như viết lịch sử tiểu thuyết, nhà văn chỉ phải căn cứ vào vài
việc con con đã qua rồi vẽ vời cho ra một chuyện lớn, cốt giữ cho mọi việc đừng trái với
thời đại, còn không cần phải hoàn toàn sự thật” [112, tr 342]. Với quan điểm này, Vũ Ngọc
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Phan xếp các tác phẩm của Nguyễn Triệu Luật, Đào Trinh Nhất, Phan Trần Chúc vào các
loại ký lịch sử mặc dù có những tác phẩm đã in khá rõ dấu ấn sáng tạo của tác giả ở cách
sắp xếp chi tiết, miêu tả nhân vật... có thể thấy mặc dù phân biệt các thể loại tương đối chính
xác nhưng Vũ Ngọc Phan vẫn còn khá mơ hồ về tiểu thuyết lịch sử.
Nguyễn Lương Bích trong lời giới thiệu tiểu thuyết Quận He khởi nghĩa đã trình bày
quan niệm của mình về tiểu thuyết lịch sử. “Đó là một loại hình văn học có tác dụng mạnh
trong việc giáo dục tư tưởng cho quần chúng, nó đem kiến thức lịch sử đến cho người đọc,
không bằng sử liệu, số liệu, không bằng lý luận, phân tích mà bằng con đường tình cảm. Nó
dùng nghệ thuật sáng tạo, dùng hình ảnh văn học để làm rung động người đọc, làm cho
người đọc hiểu lịch sử thông qua sự thưởng thức cái hay, cái đẹp của văn học nghệ thuật”
[118, tr 3].
Về mặt lý thuyết, các tác giả trên đều làm sáng tỏ được một vấn đề nào đó trong khái
niệm về tiểu thuyết lịch sử. Song trên thực tiễn sáng tác thì tiểu thuyết lịch sử của ta qua các
thời kỳ nhìn chung còn chưa đạt đến cái chuẩn lý tưởng mà thế giới đã biết đến. Phần lớn
các tiểu thuyết lịch sử của ta đều coi việc tái hiện sự kiện lịch sử, không khí lịch sử là mục
đích chính, nghĩa là tiểu thuyết lịch sử Việt Nam coi trọng nội dung phản ánh hơn là tính
tiểu thuyết. Nguyễn Tử Siêu đã xác định một quan điểm rõ ràng là “Bồi đắp được chút đỉnh
về cái quan niệm đối với tổ quốc, nhắc nhở cái nghĩa vụ đối với dân nước”. [63, 32]. Xu
hướng khai thác bài học lịch sử để rút ra bài học đạo đức và phản ánh trung thành lịch sử đã
dần trở nên tiêu biểu cho tiểu thuyết lịch sử nước ta. Thái Vũ cũng bày tỏ quan điểm của
mình: “Khi tôi nói, tôi viết tiểu thuyết lịch sử sự thật là tôi không biết tiểu thuyết mà tôi viết
lịch sử... trước hết, phải trung thực với mọi chi tiết lịch sử mà sử biên niên có ghi. Hư cấu
nhưng không phải bịa. Tôi viết tiểu thuyết về lịch sử nhưng tôi không viết tiểu thuyết mà qua
cách hư cấu của tôi: tôn trọng tính chân xác của lịch sử” [113].
Từ nửa đầu thế kỷ XX, giai đoạn từ 1930-1945, các nhà văn lãng mạn đã bắt đầu chú ý
đến cách viết tiểu thuyết lịch sử “Chú ý đến việc làm người đọc say đắm mơ màng bởi
những cái có thể có được” (Lan Khai). Đặc biệt, họ bắt đầu đổi mới cách viết theo kiểu của
những cuốn tiểu thuyết lịch sử hiện đại ở phương Tây mà biểu hiện rõ nhất là việc đưa tình
yêu lứa đôi vào để giữ vai trò trọng yếu của tác phẩm. Tình yêu trong trắng và đau xót của
Quỳnh Hoa và Bảo Kim trong Đêm hội Long Trì, của An Tư và Trần Thông trong tác
phẩm An Tư của Nguyễn Huy Tưởng, của Bội Ngọc và Lý Công Uẩn trong tác phẩm Cái
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
hột mận của Lan Khai... là những dẫn chứng tiêu biểu. Nếu quan niệm tiểu thuyết lịch sử
phải tái hiện sự kiện, không khí lịch sử là mục đích chính đã tạo nên thói quen đọc đối chiếu
như trước đây thì đến những tác giả này, họ chú ý nhiều hơn đến nghệ thuật tiểu thuyết như
xây dựng nhân vật, sự phong phú về đề tài... bước đầu đã làm cho tiểu thuyết lịch sử khởi
sắc, đỡ tẻ nhạt.
1.3. Hướng tiếp cận, lý giải cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy
Tưởng.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, số lượng những tiểu thuyết gia có sở trường về
đề tài lịch sử không nhiều. Trong giai đoạn 1930 – 1945, nhiều tiểu thuyết lấy đề tài lịch sử
ra đời nhưng phần lớn mang dáng dấp của tiểu thuyết kiếm hiệp hay rơi vào sự li kì hóa đời
tư các nhân vật lịch sử, biến những câu chuyện lịch sử thành những chuyện tình dễ dãi, lâm
li. Rất ít tác giả tôn trọng tinh thần của tiểu thuyết lịch sử là sáng tạo văn học dựa trên tinh
thần cơ bản của hiện thực lịch sử. Nguyễn Huy Tưởng nằm trong con số ít ỏi đó.
Phong cách, cảm hứng sáng tác của nhà văn do nhiều yếu tố tạo thành. Trước hết là
yếu tố con người, cuộc đời, môi trường hoàn cảnh sống, thứ đến là sự chi phối cảm quan
của thời đại. Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960) sinh ra trong một gia đình nhà nho tại làng
Dục Tú, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội). Ngay từ khi còn ngồi
trên ghế nhà trường, ông đã say mê những truyền thuyết, những câu chuyện về các nhân vật
anh hùng trong lịch sử. Cảm hứng lịch sử trong ông được vun đắp từ rất nhiều yếu tố và trở
thành niềm say mê thực thụ, sau này trở thành cảm hứng chủ đạo trong sáng tác của ông.
Nguồn cảm hứng ấy được hình thành từ hai nhân tố: Khách quan và chủ quan.
1.3.1 Nhân tố khách quan.
1.3.1.1 Bối cảnh thời đại.
Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực. Mỗi nhà văn là thư kí trung thành của thời
đại,sinh ra để làm tròn sứ mạng nào đó với thời đại của mình, điều đó dường như là qui luật.
Nguyễn Huy Tưởng sống chưa đầy nửa thế kỷ nhưng có cái may mắn là được chứng kiến
những trang sử đau thương nhất và cũng rất hào hùng của đất nước. Những bão táp lịch sử
tác động mạnh mẽ tới tâm hồn nhà văn. Bằng sự nhạy cảm riêng, ông tìm thấy cho mình
niềm cảm hứng trong những điểm mốc thời gian, ghi lại những biến động của dân tộc Việt
Nam và của thế giới. Thế kỷ XX là quãng thời gian nhiều thăng trầm nhất của lịch sử nhân
loại nói chung và của đất nước Việt Nam nói riêng. Đầu thế kỷ XX, hệ thống thuộc địa của
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
thế giới hình thành, cùng với nó là sự phát triển của chủ nghĩa thực dân đế quốc, chủ nghĩa
phát xít. Hai cuộc đại chiến thế giới nổ ra gây ảnh hưởng lớn tới đời sống của nhân loại. Sau
mỗi cuộc chiến tranh thảm khốc ấy, con người lại thúc đẩy nền khoa học kỹ thuật của mình
phát triển mạnh mẽ hơn. Đời sống vật chất thay đổi dẫn tới sự biến động trong đời sống tinh
thần của con người. Biểu hiện rõ nhất là sự ra đời của vô số những hệ thống tư tưởng triết
học, những trường phái văn học nghệ thuật với cảm quan đầy bế tắc trước thực tại cuộc
sống. Những lối sống ”nổi loạn”, những tư tưởng tiêu cực về nhân sinh rút cục chỉ là biểu
hiện của sự chán ghét thực tại, là mong ước tìm ra lối thoát một cách tuyệt vọng cho cuộc
sống hiện thực. Những học thuyết tư tưởng ấy theo con đường khai thác thuộc địa xâm nhập
vào đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam - cái xã hội đã ngủ quên trong một ngàn năm
thống trị của ý thức hệ phong kiến. Luồng gió mới của cuộc cách tân Âu hóa đầu thế kỷ,
cùng với sự ra đời của một thế hệ những trí thức Tây học đã thay thế những nhà nho truyền
thống, đã làm thay đổi diện mạo văn hóa nước nhà. Đời sống văn học cũng sôi động hơn
nhưng cũng phức tạp hơn với nhiều trào lưu và trường phái sáng tác khác nhau. Nhìn chung
ở trào lưu văn học công khai, các nhà văn đều cố gắng tìm lối thoát tư tưởng cho mình bằng
văn học. Quay trở về với quá khứ, với lịch sử cũng là một lối thoát trong tư tưởng đối với
một thế hệ những người sống trong thời đại ấy.
Lịch sử Việt Nam trong thế kỷ XX là khoảng thời gian có nhiều biến động nhất. Chỉ
tính riêng quãng thời gian non nửa thế kỷ mà nhà văn Nguyễn Huy Tưởng được sống và
chứng kiến, đã có bao biến cố thay đổi vận mệnh của mỗi con người. Đó là những năm
tháng cả dân tộc lầm than trong ách nô lệ của thực dân, phong kiến và phát xít, đỉnh điểm là
nạn đói thảm khốc năm 1945. Đó là những ngày tháng đấu tranh không mệt mỏi của một
dân tộc bé nhỏ nhưng có sức sống dẻo dai, mãnh liệt, với quyết tâm giành bằng được độc
lập tự do. Đó là những thời khắc hào hùng của cuộc cách mạng tháng Tám, khi người Việt
Nam dõng dạc tuyên bố nền độc lập trước nhân dân thế giới, kiêu hãnh xác lập vị trí của
mình trên bản đồ thế giới trong tư cách một quốc gia mang tư tưởng tiến bộ, có lập trường
kiên định trong công cuộc chống chủ nghĩa thực dân và phát xít. Đó cũng là bối cảnh đầy
sóng gió đối với một thể chế chính quyền dân chủ cộng hòa non trẻ vừa lập lên ngày
2/9/1945, ngay lập tức ngày 23/9/1945 đã bị thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Nam Bộ
đã phải đối phó với nguy cơ thù trong giặc ngoài. Là người con của thủ đô, Nguyễn Huy
Tưởng không khỏi đau xót khi chứng kiến những ngày cả thủ đô kháng chiến chìm trong
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
khói lửa (tháng 12-1946) và sung sướng, tự hào trong ngày về chiến thắng của người Hà
Nội sau chín năm trường gian khổ (10-10-1954). Ngay sau ngày hòa bình, nhà văn sống
trong không khí của một thời kỳ lịch sử đầy biến động, với những công cuộc cải cách có tác
động sâu sắc tới đời sống vật chất và tinh thần xã hội. Bản thân bối cảnh lịch sử ấy vừa là
vốn sống, vừa khơi lên niềm say mê mãnh liệt của nhà văn với lịch sử dân tộc. Đây chính là
một cơ may đối với thế hệ những “nhà văn trưởng thành qua hai chế độ”, khơi lên ngọn lửa
say mê đối với lịch sử dân tộc trong tâm hồn tác giả. Tuy nhiên yếu tố khách quan chưa phải
là yếu tố quyết định đối với sự hình thành cảm hứng trong quá trình sáng tạo, nhân tố chủ
quan mới là quan trọng hơn cả đối với nhà văn.
1.3.1.2 Quê hương
Quê hương không những là nơi “chôn rau cắt rốn”, mà còn là nơi con người tiếp nhận
những bài học làm người đầu tiên. Quê hương là nơi tạo nên nhân cách của mỗi cá nhân.
Những phong tục tập quán của quê hương ăn sâu trong tính cách con người đến mức dù khi
trưởng thành, con người có rời xa nơi ấy vẫn mang trong mình nếp nghĩ, lối sống đặc trưng
của nơi mình sinh ra. Đối với nhà văn, quê hương còn là cội nguồn cảm hứng sáng tạo, như
nhà văn Raxun Gamzatop từng ví quê hương Đaghextan của mình là “khung cửa nhỏ nhìn
ra đại dương”, là ngưỡng cửa đầu tiên đưa con người hòa nhập với thế giới bao la, quê
hương là đề tài vĩnh cửu trong sáng tạo nghệ thuật.
Làng Dục Tú - quê hương của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng là mảnh đất mà các nhà
nghiên cứu cho là “tất cả mọi cái đều là lịch sử”.Mảnh đất Đông Ngàn là quê hương của
những làng cổ, thuộc phủ Từ Sơn ngày trước. Trên mảnh đất ấy thấm đẫm những dòng lịch
sử: lịch sử dựng nước, lịch sử chống ngoại xâm, lịch sử văn hóa, lịch sử xã hội. Liền ngay
Dục Tú là Cổ Loa, đế đô của nhà Thục, nơi có ba vòng thành Ốc, có những đình miếu nguy
nga, giếng Ngọc sâu thẳm dưới một cây đa nghìn tuổi như nhân chứng lịch sử kiên định
trước bão táp cuộc đời. Xa hơn chút nữa là Đình Bảng, quê hương phát tích của nhà Lý với
ngôi đền Đô thờ tám vị hoàng đế của triều đại này; làng Phù Đổng, quê ông Gióng, người
anh hùng đánh đuổi giặc Ân. Đây cũng là nơi rộn rã bước chân hành quân của đạo quân
dưới sự chỉ huy của thái úy Lý Thường Kiệt lên phòng tuyến sông Cầu, là ngã ba Xà, nơi
vang lên bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư...”
trong cuộc kháng chiến hào hùng chống quân Tống xâm lược. Mỗi thời đại ghi dấu trên
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
mảnh đất quê ông bằng những chiến công tiếp nối chiến công, bằng truyền thống đáng tự
hào của dân tộc.
Đất Đông Ngàn còn là vùng quê văn hiến của tỉnh Kinh Bắc xưa, người dân ở đây vẫn
tự hào rằng: “Đất Đông Ngàn hơn người ngoan thiên hạ”. Đây là cái nôi của nhiều ông
Cống, ông Nghè, của Trạng Me, Trạng Ngọt, là quê hương của nhiều nhà thơ, nhà văn nổi
tiếng. Trên vùng đất này còn lưu dấu nhiều công trình kiến trúc nổi tiếng đậm chất dân tộc
như chùa Dâu, chùa Tháp Bút, với những tác phẩm điêu khắc là sản phẩm từ bàn tay những
con người tài hoa của làng nghề Kiêu Kị, Đồng Kị. Nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cổ
truyền còn được người dân nơi đây lưu giữ qua những hội hè đình đám mùa xuân: “Mồng
bảy hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu về xem hội Gióng”, rộn rã náo nức
trong khúc hát quan họ say đắm lòng người và tiếng trống quân, nhịp phách quanh chiếu
chèo. Chất tài hoa, vẻ đẹp văn hóa ngấm vào trong mạch máu của mọi người dân nơi đây,
và tự bao giờ thấm trong họ chất hào hoa, nghệ sĩ.
Đối với Nguyễn Huy Tưởng, quê hương vừa là mảnh đất thực tế sống động vừa là
mảnh đất huyền thoại, chuyện của nó vừa là chuyện của một vùng, một miền vừa là chuyện
của cả nước, cả dân tộc với ngàn năm lịch sử. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy, có thể nói
Nguyễn Huy Tưởng được “tắm mình trong bầu không khí của lịch sử, văn hóa truyền
thống”. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Huy Tưởng có một vốn sử phong phú
đến như vậy. Những câu ca, những huyền thoại dân gian là những bài học lịch sử dễ thấm
vào lòng người nhất, và những kí ức tuổi thơ cũng là những kí ức sâu sắc nhất ở trong cuộc
đời mỗi người. Sống ở buổi giao thời của văn hóa Đông Tây, trong lúc quốc gia chìm đắm
trong tủi nhục nô lệ, tình yêu quê hương càng thôi thúc ông tìm đến với lịch sử như tìm về
cội nguồn để thấy điểm sáng, hướng đi vượt qua những ngày tăm tối. Ông viết trong nhật kí:
“Tôi đi tìm chân lý từ những sách triết học, từ thuyết nhân nghĩa của đạo Nho, đến lý thuyết
từ bi bác ái của đạo Phật, tôi rơi vào chủ nghĩa sức mạnh của Nietzche, bởi vì tôi nghĩ đối
với một dân tộc yếu hèn thì sức mạnh là con đường giải thoát. Tôi vùi đầu vào trong đống
sách lịch sử để lấy cái vinh quang của ông cha mà bồi dưỡng lòng tự hào dân tộc cho mình.
Tôi chuẩn bị viết văn để ca ngợi lịch sử, ca ngợi dân tộc, kích động lòng yêu nước của đồng
bào”. [105]
1.3.2 Nhân tố chủ quan: Cuộc đời, con người và sự hình thành khuynh hướng sáng
tác nghiêng về cảm hứng lịch sử.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Năm lên bảy tuổi, cha Nguyễn Huy Tưởng qua đời. Tuổi thơ ông diễn ra khá êm đềm
dưới bàn tay săn sóc ân cần của người mẹ” đôn hậu, tảo tần, cởi mở, thanh lịch và giản dị”
[77,170].”Dòng họ Nguyễn của ông là một trong hai dòng tộc lớn nhất làng , đời đời gìn
giữ nho phong , vui trong cảnh thanh bạch”[77,169]. Suốt cuộc đời nhà văn vẫn ấp ủ ước
mơ sáng tác một tác phẩm tặng mẹ như một sự tri ân, có lẽ vì thế mà trong những trang văn
của ông luôn bàng bạc một thứ tình mẫu tử tha thiết. Nếp nhà giản dị, đạm bạc nhưng không
hề có bóng dáng của sự bần cùng là môi trường trong sạch để hình thành nên một nhân cách
hào hoa lịch lãm ở Nguyễn Huy Tưởng, một nhân cách vững bền, bất chấp những sóng gió
ngả nghiêng trong cuộc đời sau này. Mấy năm sau khi cha mất, mẹ ông gửi ông ra Hải
Phòng theo học, ở cùng chị gái và anh rể. Suốt thời gian học, Nguyễn Huy Tưởng không hề
nổi bật ở môn văn và những môn học khác nói chung cũng không có gì xuất sắc. Không giỏi
văn nhưng Nguyễn Huy Tưởng lại say mê văn học. Từ nhỏ, với một chút vốn Hán học do
ông bác dạy cho, Nguyễn Huy Tưởng đã mày mò tự học thêm để có thể đọc Đường thi và
tập sáng tác thơ Đường luật. Khi học lớp đệ nhất, cậu học trò nghèo đã dành dụm tiền tiêu
vặt để mua những sách văn học cổ điển phương Tây, loại rẻ tiền dành cho học sinh. Nhờ
vậy mà ông được tiếp xúc với những cây bút mẫu mực của văn học thế giới như F.Rabelais,
W.Shakespeare, A.Dante, Homère,F. Schiller... Quá trình Nguyễn Huy Tưởng đến với nghề
văn là quá trình mang tính tự học. Đây cũng là con đường chung của những nhà văn cùng
thời. Chỉ có khác là ở những nhà văn khác, con đường đến với nhà văn chỉ thuần là sự say
mê và mục đích mưu sinh; ở Nguyễn Huy Tưởng, nó xuất phát từ tâm nguyện của một
chàng thanh niên sớm giác ngộ ý thức công dân và tinh thần dân tộc: “Phận sự của một
người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi”
(Nhật ký ngày 19/12/1930) [105]. Chàng thanh niên 20 tuổi ấy đã ghi vào nhật ký những
dòng cảm xúc: “Ta đây tuổi còn trẻ, tính còn ngây thơ, đọc sử Bình Nguyên mà lòng yêu
quý non sông phơi phới, trong lúc thán phục các vị anh hùng, muốn nêu các vị vào khúc anh
hùng ca để truyền về hậu thế, cho muôn nghìn đời sau soi vào...Than ôi ! ta chẳng biết,
nhưng ta cảm các vị anh hùng, thì ta nêu các vị anh hùng lên, đó là chức trách của một
người quốc dân vậy” (ngày 12/10/1933) [105]. Ông sớm đã ý thức rõ tầm quan trọng của
việc truyền bá sử sách nước nhà đối với thế hệ trẻ, đặc biệt trong buổi giao thời của văn hóa
Đông Tây mà phần thắng thế đang ngả dần về phía văn minh Âu châu. “Người không biết
sử nước mình là một con trâu đi cày ruộng. Cày với ai cũng được, mà cày ruộng nào cũng
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
được” (Ngày 13/01/1932) [105]. Con đường truyền bá tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc qua văn chương chính là ngọn lửa thắp lên cảm hứng lịch sử trong tác phẩm văn học của
ông.
Lưu Văn Lợi là người bạn thân từ thuở thiếu thời của ông trong bài Nguyễn Huy
Tưởng trước khi là một nhà văn đã kể lại cuộc sống của nhà văn sau khi tốt nghiệp, đi
làm ở nhà Đoan. Công việc tẻ nhạt của một công chức lại là cái vỏ khá tốt để nhà văn có
được sự tự do thực hiện ao ước của mình. Nhiều trang bản thảo của Đêm hội Long Trì đã
ra đời trên bàn giấy, giữa ngổn ngang hồ sơ sổ sách về các vụ vi phạm luật lệ nhà Đoan toàn
miền Bắc. Trong những câu chuyện giữa hai người bạn, ngoài chuyện gia đình, sự nghiệp,
còn nỗi trăn trở trước thời cuộc, vận mệnh dân tộc. Những nỗi trăn trở trong cảnh “quốc gia
hưng vong” đòi hỏi kẻ “thất phu hữu trách”, là nỗi băn khoăn của những thanh niên một
thời tự tìm cho mình hướng đi. Chọn con đường viết kịch và tiểu thuyết lịch sử, trong thời
điểm bấy giờ, quả là một con đường mạo hiểm, vì độc giả còn đang say mê với văn học lãng
mạn, văn học hiện thực phê phán hay những trang tiểu thuyết đậm chất li kỳ của những
chuyện kinh dị, ít người quan tâm đến đề tài mang tính chất khô khan như thế. Tin vào vốn
sử phong phú của mình và với quyết tâm định sẵn từ năm hai mươi tuổi, Nguyễn Huy
Tưởng viết một cách miệt mài, say mê nhưng đầy khó khăn và trăn trở. Từ năm 1939, ông
đã xác định con đường đi cho mình là phải dựng lại pho sử thi về hành trình dựng nước và
giữ nước của dân tộc, về những vị anh hùng đã lưu danh trong sử sách như: Trần Hưng Đạo,
Trần Quốc Toản, Lê Thái Tổ, Quang Trung...Những tác phẩm đầu tay ra đời tuy chưa thật
hoàn thiện như chính nhà văn tự nhận định nhưng đó chính là những pho lịch sử sống động,
nhanh chóng nhận được sự động viên tán thưởng của các bạn văn, giúp ông thêm vững tin
vào con đường mà mình đã lựa chọn bằng tất cả sự say mê. Trong những năm 40, Nguyễn
Huy Tưởng tích cực tham gia hội Truyền bá quốc ngữ ở Hải Phòng, Hà Nội, Nam Định...,từ
đây ông bắt đầu tham gia hội Văn hóa cứu quốc, và trở thành thành viên trong ban biên tập
Báo Tiền Phong, tờ báo của hội. Những tác phẩm ra đời trong giai đoạn này (Đêm hội Long
Trì, An Tư, Vũ Như Tô, Cột đồng Mã Viện) tập trung chủ yếu vào đề tài lịch sử, trên tinh
thần truyền bá lịch sử để khơi lại truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc trong bối cảnh
tăm tối nhất của đất nước. Khi cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Huy Tưởng là
một trong những người lãnh đạo chủ chốt của Hội văn hóa cứu quốc. Đây là thời kỳ ông
chuyển hướng sáng tác từ những đề tài lịch sử sang những đề tài mang tính thời sự (hồi kí
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Lên chiến khu, kịch Bắc Sơn, Những người ở lại). Tham gia vào thực tế kháng chiến,
Nguyễn Huy Tưởng có cơ hội hiểu rõ hơn về nhữ._. tiểu thuyết, nhà văn làm sống lại một Đặng Mậu Lân
vừa vô lại, vừa ghê tởm. Qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn Huy Tưởng, Đặng Mậu Lân đã
được sáng tạo trở thành một tính cách trọn vẹn nhất của bóng tối, của tội ác và sự lộng hành.
Bằng cái nhìn tiểu thuyết, các nhân vật lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng đã được soi
chiếu ở nhiều góc độ, từ lý lịch, diện mạo, tính cách đến tâm hồn... Tất cả đã tạo nên những
hình tượng nghệ thuật giàu sức sống, giàu tính hiện thực. Có thể nói không quá lời, nhiều
nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng sống động “Chân thực hơn cả
lịch sử”. Nhân vật lịch sử do ông sáng tạo khác xa với nhân vật của Phan Bội Châu trong
Trùng Quang tâm sử.
Bên cạnh những nhân vật có tên trong lịch sử, nhà văn còn chú tâm xây dựng tuyến
nhân vật hư cấu: Nguyễn Mại, Bảo Kim.... ông gắn kết các nhân vật hư cấu vào cốt chuyện
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
một cách hợp lý, nhuần nhuyễn. Mỗi nhân vật là một dáng vóc cụ thể, tính cách rõ nét và
một số phận đặc biệt.
Tóm lại: Cách xử lý lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng khá linh hoạt mà công phu. Sự
đào sâu vào những tâm tư của con người, sự nhấn mạnh vào số phận của từng nhân vật, nhu
cầu cắt nghĩa mọi việc theo những điều mình chiêm nghiệm, suy ngẫm đã khiến người đọc
nghĩ rằng lịch sử đích thực của tác phẩm là lịch sử hư cấu. Nhưng nó là như thế. Điều này
hoàn toàn phù hợp với tinh thần của tiểu thuyết, không ngừng “nhận thức lại” lịch sử. Và
như vậy, bức tranh lịch sử không mang giá trị tự thân mà được sáng tạo theo những ý nghĩa
mới mang tính chân thực thời đại. Cái vỏ lịch sử thời Trần (An Tư), thời Lê (Đêm hội
Long Trì) có những điểm tương đồng thú vị nhất với điều đang ám ảnh nhà văn từ hiện tại.
Quan niệm này chính là một đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng trong quá trình hiện đại hóa
văn học.
3.4. Không gian lịch sử.
Việc tái tạo lại không gian lịch sử đòi hỏi nhà văn phải có vốn liếng giàu có về truyền
thống, văn hóa, địa lý, phong tục tập quán, ngôn ngữ, trang phục của thời đại lịch sử đã qua.
Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Huy Tưởng, Chu Thiên, Hà Ân...là những tác giả đã rất thành
công trong việc dùng vốn kiến thức uyên thâm, phong phú của mình tạo được không khí
thời đại cho tiểu thuyết lịch sử.
Trong cảnh Đêm hội Long Trì, không gian lịch sử được cảm nhận qua bức tranh toàn
cảnh của xã hội Việt Nam thời Lê Cảnh Hưng mà Nguyễn Huy Tưởng đã tái tạo một cách
chân thực và sinh động. Đằng sau cái vẻ nhàn tản, mơ mộng có vẻ như thái bình thịnh trị
của xã hội thời Trịnh Sâm là cả những giông tố, rối ren, thối nát, suy tàn và sự ăn chơi xa
xỉ... nhà Lê thì bạc nhược, chúa Trịnh Sâm thì bị Đặng Thị Huệ thao túng. Thấp thoáng sau
cái bóng của những nhân vật đã từng được ghi trong sử sách như Đặng Thị Huệ, Đặng Mậu
Lân, là cảnh triều chính mục ruỗng, tranh giành quyền lực, sát hại trung thần, dung túng cho
cái ác hoành hành, ức hiếp nhân dân, mọi kỷ cương phép tắc bị đảo lộn. Theo lời của Bảo
Kim và Lưu Sĩ Trực, “Chán vạn người công thần chỉ vì một tội nhỏ mà chết, vua chúa có
luận công bao giờ”, còn quan lại “bênh dân thì ít, hại dân thì nhiều”. Bối cảnh đó còn được
tô đậm qua những cảnh Đặng Lân chém giết người một cách “vô tư” và ngang nhiên làm
điều xằng bậy, quây màn ức hiếp con gái nhà lành ngay trên đường phố. Đặng Lân xuất hiện
nơi nào là nơi đó có loạn lạc, rụng rời, khiếp sợ hơn cả chạy giặc ngoại xâm.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
“Tưởng như có một trận cuồng phong thổi trong đám hội, người chạy như ong: tiếng
kêu, tiếng thét, tiếng gọi nhau liên tiếp... một thiếu phụ đầu tóc rũ rượi chạy vào hổn hển:
- Ai cứu tôi với. Cậu trời...” [102,tr44].
Hay: Khi thấy cửa phủ Đặng Lân mở rộng và cờ quạt ở trong ra, mấy người hàng phố
kêu lên ba tiếng thất thanh:
- Cậu trời đấy!
Tức thì người ta chạy tán loạn, nhất là những đàn bà con gái. Tiếng kêu trời kêu đất,
xen lẫn với những tiếng đóng cửa ầm ầm”.
Không gian lịch sử của Đêm hội Long Trì đã hiện dần qua từng chi tiết như vậy.
Trong An Tư, không khí loạn của những ngày binh lửa chiến tranh và không khí hừng
hực, sục sôi âm vang của những ngày hào hùng đánh giặc cũng in dấu lên mỗi số phận, lên
từng sinh hoạt của quân dân nhà Trần một cách chân thực. Bức tranh đất nước trong những
ngày chuẩn bị đánh giặc thật điển hình: “Người khuân vác, người luyện tập, tiếng đóng
thuyền xen lẫn với tiếng rèn binh khí... Vạn Kiếp tấp nập trong một bầu không khí tưng
bừng sửa soạn. Binh khí chất đống lên trong các kho, lương thảo quyên được của dân gian
tải về như mắc cửi...” [102. tr273]. Tái hiện lại bức tranh trong quá khứ, nhà văn còn gợi
được cả không khí căng thẳng phập phồng những lo âu, chết chóc: “Người dân đương thổn
thức lo âu. Các gia đình chỉ còn trơ những mái tóc điểm sương tựa cửa, những khăn yếm
chạy quanh, những miệng thơ gọi bố... Nhiều nhà mang trăn trở vì tin dữ đã đưa về. Biết
bao người chết đang bơ vơ bên mộ phần tiên tổ! Người còn sống ngẩn ngơ trước bàn thờ
lạnh giá...” [102.tr.269].
Diện mạo thời đại cũng được nhà văn tập trung miêu tả qua không gian văn hóa lịch
sử. Bằng vốn kiến thức sâu rộng, Nguyễn Huy Tưởng đã cung cấp cho người đọc những
hiểu biết tỉ mỉ, sống động về lễ hội Long Trì ở Thăng Long thời Trịnh Sâm. Nhà văn đã vẽ
lại một cách cụ thể lai lịch, ý nghĩa của đêm hội cho đến trang phục, quang cảnh, cách bài
trí, tục lệ... Trong những đoạn viết về đêm hội Long Trì, Nguyễn Huy Tưởng thực sự là
người am tường và rất công phu nghiên cứu địa chí Thăng Long thế kỷ XVIII để có được sự
chính xác trong việc miêu tả hồ Long Trì với những hàng phù dung, dương liễu treo muôn
thứ đèn lồng bằng gấm vóc, phủ cung phi đầy hương sắc các loại hoa thoang thoảng đưa vào
trong gió mát... Tái hiện lại bức tranh trong quá khứ, nhà văn còn gợi được cái không khí
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
khi tưng bừng náo nhiệt, khi thi vị du dương của những cảnh, những tình, với những tài tử
giai nhân “ngựa xe như nước áo quần như nem” trong đêm hội.
Sự chính xác, tỉ mỉ về việc sử liệu được kết hợp với trí tưởng tượng phóng khoáng,
bay bổng tạo nên những trang viết uyển chuyển, tài hoa giàu sức hấp dẫn đã hoàn toàn thủ
tiêu ở người đọc cảm giác đan xen những mẫu vật hóa thạch trong viện bảo tàng hay đang
đọc ký sự lịch sử. Tác giả tỏ ra khá linh hoạt khi xử lý chất liệu lịch sử. Cảm quan văn hóa
phương Đông cũng là một lợi thế giúp nhà văn nhạy cảm khi nắm bắt những chuyển động
âm thầm của bản chất lịch sử để khái quát chính xác cái “hằng số lịch sử”. Những đoạn kể,
tả, đối thoại giữa nam nữ thanh niên cách đây gần hai thế kỷ, hoàn toàn do tác giả sáng tạo
ra mà vẫn tự nhiên, không gây phản cảm vì được sử dụng hợp lý, đúng chỗ. Đó là phương
thức “nhào nặn” lịch sử đầy tính sáng tạo của một nhà văn thông minh tài hoa, giàu bản
lĩnh. Nhờ đó mà cái đã quen bỗng trở nên mới lạ hấp dẫn.
3.5. Những thời điểm, giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ dội mạnh mẽ với
Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống mãi với thủ đô, Lá cờ thêu sáu chữ vàng.
Nguyễn Huy Tưởng là một trong số hiếm hoi những tiểu thuyết gia có sở trường về đề
tài lịch sử.
Với cảm quan lịch sử nhạy bén, Nguyễn Huy Tưởng đã tái hiện lịch sử theo lối riêng
của mình, khai thác những sự kiện nằm ở khúc quanh của lịch sử, trong thời điểm xảy ra các
biến cố dữ dội, đầy sóng gió, thác ghềnh với con người và đất nước.
Tiểu thuyết Đêm hội Long Trì viết về thời điểm nhân dân oán ghét đến tột độ bọn quý
tộc phong kiến Trịnh Sâm, Đặng Thị Huệ, Đặng Mậu Lân. Đó là thời điểm lịch sử xã hội
phong kiến Việt Nam suy tàn, những mâu thuẫn giữa nhân dân và tập đoàn thống trị ngày
càng bộc lộ một cách sâu sắc. An Tư viết về giai đoạn nhà Trần chuẩn bị lực lượng chiến
đấu chống quân Nguyên xâm lược 1284 - 1285. Tác phẩm là bức tranh hoành tráng về cuộc
kháng chiến chống quân Nguyên. Thời Trần là một trong những thời đẹp đẽ của dân tộc
Việt Nam, của chế độ phong kiến Việt Nam. Nguyễn Huy Tưởng đã biết nắm bắt điểm mốc
vàng son này trong lịch sử dân tộc để sáng tác.
An Tư là một thiên truyện hùng tráng viết về một thời oanh liệt của dân tộc. Trong tác
phẩm ông mô tả hội nghị Diên Hồng, những khoảnh khắc thế trận giữa ta và địch.
Lá cờ thêu sáu chữ vàng kể lại một phần rất nhỏ về chiến thắng vĩ đại của quân dân
ta chống quân Nguyên và cũng chỉ thuật lại một phần cuộc đời của Hoài Văn Hầu, Trần
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
Quốc Toản, vị anh hùng niên thiếu của dân tộc ta xưa kia. Viết tác phẩm này, Nguyễn Huy
Tưởng đã biết khai thác sự kiện lịch sử Hội nghị Bình Than ở đời Trần, sự kiện không được
vào dự họp khiến Trần Quốc Toản đã hậm hực bóp nát quả cam của vua Nhân Tông ban
cho, về nhà Trần Quốc Toản giương cao lá cờ thêu sáu chữ vàng” Phá cường địch báo
hoàng ân” ( phá giặc mạnh, trả ơn vua) và chiêu mộ sáu trăm dũng sĩ thiếu niên làm lễ tế cờ,
xuất quân đánh giặc.
Sống mãi với thủ đô là tiểu thuyết lịch sử viết về giai đoạn lịch sử gần đây nhất với sự
kiện Hà Nội trong đêm nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc vào cuối năm 1946.
Nguyễn Huy Tưởng rất có ý thức về thời gian nghệ thuật trong tác phẩm. Chiều dài của lịch
sử, thời điểm đầu của cuộc kháng chiến thủ đô có ý nghĩa hết sức quan trọng để miêu tả
cuộc sống và con người trên mảnh đất thiêng liêng này. Đông Đô, Thăng Long, Hà Nội, đất
đế đô ngàn năm văn vật đã có biết bao nhiêu trang sử oanh liệt, nhưng cũng đã từ một thế kỷ
nay, âm thầm rên xiết dưới ách nô lệ của bọn thực dân xâm lược. Hà Nội đón chào cách
mạng tháng Tám giữa một mùa thu với niềm vui trào dâng của những thác người cuồn cuộn
xuống đường biểu dương sức mạnh, với hàng rừng cờ đỏ sao vàng rực rỡ trong khí thế chiến
thắng. Hà Nội nén lòng chịu đựng những gian khổ mỗi khi bóng đen của kẻ thù lại xuất hiện
với dáng vẻ khiêu khích và nghênh ngang trên đường phố. Tình thế đổi thay từng ngày,
không khí chính trị và xã hội phức tạp, lịch sử như bị dồn nén lại trong từng bước đi nặng
nề, dè dặt báo hiệu cho sự bùng nổ quyết liệt. Quá trình ấy tích tụ ở bên trong một sự
chuyển biến mạnh mẽ của quần chúng cách mạng. Từ 19/08/1945 đến 19/12/1946, khoảng
thời gian thật ngắn ngủi nhưng chính quyền cách mạng đã tạo được trong lòng nhân dân nền
móng tư tưởng và tình cảm vững chắc của chủ nghĩa yêu nước. Nỗi nhục nhã ê chề của cuộc
đời nô lệ và niềm vui tự do đầu tiên, ý thức về tổ quốc độc lập, về chính quyền nhân dân
trong những nhận thức ban đầu thiêng liêng và mới mẻ, tình cảm với đồng bào, đồng chí...
Tất cả đã thấm sâu và làm đổi thay tận gốc, cuộc sống tinh thần của nhiều người. Nguyễn
Huy Tưởng đã nắm bắt và thể hiện khá trọn vẹn những chuyển động sâu sắc và điển hình
của những năm tháng ấy, những năm tháng đã đi vào lịch sử. Từng sự kiện lịch sử, từng
hiện tượng chính trị xã hội nổi bật đã được đóng khung thời gian theo khuôn khổ lịch sử
trong từng trang viết của nhà văn.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
PHẦN KẾT LUẬN
Khảo sát “Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng”là tìm hiểu mối
liên hệ giữa phong cách và thể loại, bởi vì cảm hứng lịch sử vừa là một phương diện của nội
dung tư tưởng tác phẩm vừa là một phương diện của phong cách nghệ thuật.
Từ việc tìm hiểu, khảo sát trên, có thể rút ra mấy kết luận sau đây về cảm hứng lịch sử
trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng.
1.Tiểu thuyết lịch sử lâu nay vẫn là mảng văn học chìm khuất so với những loại hình
tiểu thuyết khác nhưng với Nguyễn Huy Tưởng tiểu thuyết lịch sử là một thành tựu quan
trọng trong sự nghiệp sáng tác của ông.Nó thể hiện tài năng, tâm huyết và chứa đựng những
tư tưởng lớn của nhà văn. Càng chiêm nghiệm về thời đại, về lịch sử, Nguyễn Huy Tưởng
càng day dứt khôn nguôi về số phận con người, số phận dân tộc. Ông luôn trăn trở và đi tìm
cái mới cho tư tưởng của người cầm bút.
2.Nguyễn Huy Tưởng đã viết tiểu thuyết lịch sử với một phong cách riêng. Sự kết hợp
giữa tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử trong tác phẩm của ông là một trong những bước bức
phá ngoạn mục đầy thú vị.Vừa coi trọng yếu tố lịch sử, vừa coi trọng yếu tố tiểu thuyết, nhà
văn đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa lịch sử và hư cấu nghệ thuật, tạo
nên những tác phẩm bề thế nhưng có một dáng dấp ổn định và chững chạc. Ông đã kết hợp
các thủ pháp tự sự truyền thống với kỹ thuật tiểu thuyết hiện đại để sáng tạo nên một hệ
thống nhân vật giàu tính biểu tượng và sinh động. Đặc biệt với nghệ thuật trần thuật linh
hoạt, luân chuyển điểm nhìn trần thuật, nhất là việc tạo ra các tình huống thử thách, và xây
dựng độc thoại nội tâm, tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng đã thật sự thoát ra khỏi lối đi
quen thuộc và trở thành tiền đề cho một hướng đi mới của tiểu thuyết lịch sử sau này. Ngôn
ngữ trong tiểu thuyết của ông đã thuyết phục được nhiều độc giả khó tính, có sức hấp dẫn
đối với đông đảo bạn đọc.Bởi ông đã “hoà giải” được ngôn ngữ lịch sử cổ kính trang nhã và
ngôn ngữ tiểu thuyết,vửa sang trọng đài các, vừa dân dã nôm na, vừa đậm màu sắc triết
lý,vừa giàu chất trữ tình.
3.Nhiều nhà văn khi khai thác những đề tài lịch sử thường ít khi đi theo đúng mạch
cảm hứng lịch sử. Họ có thể nhìn hiện thực lịch sử bằng con mắt phán xét của người đời
sau, gán cho những hiện thực lịch sử ấy một sắc thái tiểu thuyết nào đó, tùy theo cảm hứng
sáng tác khơi nguồn ở họ. Khái niệm cảm hứng lịch sử là một khái niệm chưa được định
danh.Dựa trên cách lập thuyết về cảm hứng sáng tác, qua quá trình khảo cứu, chúng tôi sơ
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
bộ đưa ra khái niệm như sau: Cảm hứng lịch sử là cảm hứng sáng tác xuất phát từ cảm quan
về hiện thực lịch sử, trong đó nhà văn lấy lịch sử làm đề tài, chất liệu để tạo ra thế giới hình
tượng, xác lập cho mình một điểm nhìn vào quá khứ, tạo ra giọng điệu phù hợp với điểm
thời gian mà nó tái hiện.
4.Nguyễn Huy Tưởng là một trong số ít những nhà văn viết về quá khứ bằng cảm
hứng lịch sử. Cảm hứng lịch sử là cảm hứng chủ đạo trong văn nghiệp của ông, nó xuất phát
từ tình yêu, lòng đam mê đầy tự hào của nhà văn với lịch sử dân tộc. Cảm hứng ấy gắn liền
với lòng yêu nước và ý thức trách nhiệm của người công dân Nguyễn Huy Tưởng, đồng thời
cũng chứa đựng cả chất nhân văn cao cả trong cái nhìn của nhà văn đối với cuộc đời. Với
cảm hứng lịch sử thấm đượm chất nhân văn ấy, Nguyễn Huy Tưởng là một trong số những
tác giả hàng đầu của thế kỷ XX, có đóng góp lớn cho một thể loại quan trọng trong nền văn
học dân tộc là tiểu thuyết lịch sử.
5.Cảm hứng lịch sử ở Nguyễn Huy Tưởng mang dấu ấn lịch lãm, uyên thâm của một
ngòi bút am tường về văn hóa, giàu triết lý, suy tư sâu sắc về cuộc đời và con người. Dù viết
về quá khứ bằng giọng văn trang nghiêm, cổ kính nhưng những tiểu thuyết lịch sử của ông
vẫn cuốn hút người đọc ở hơi thở gần gũi của nhịp sống thực tại. Thế giới hình tượng trong
tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Huy Tưởng là sợi dây kết nối những chiêm nghiệm của nhà
văn từ quá khứ về hiện tại và ẩn chứa cả những suy nghiệm đối với mai hậu. Đọc văn ông,
ta không chỉ hiểu sâu sắc hơn về những gì đã diễn ra trong trường kỳ lịch sử của dân tộc mà
còn thấu rõ tâm tư và suy nghĩ của những con người làm nên lịch sử ấy. Những trang viết
của ông chứa đựng cả niềm đau và tự hào. Cả phần sáng lẫn phần tối của quá khứ, rất chân
thực mà cũng đầy hư cấu. Điều đáng nói là nhà văn luôn hướng người đọc tới những giá trị
nhân bản, nhân văn, dù ở trong bất kỳ đề tài nào, thời chiến hay thời bình. Vì vậy, cho đến
hôm nay, dù đề tài lịch sử đã đi vào rất nhiều trong sáng tác của các nhà văn hiện đại, với
những hình thức mới lạ, những khuynh hướng cách tân nhưng những tiểu thuyết của
Nguyễn Huy Tưởng vẫn còn nguyên giá trị của nó và đã trở thành cổ điển, mẫu mực.
5.Nhìn lại vấn đề văn học và nhà trường, chúng tôi nhận thấy việc đưa tiểu thuyết lịch
sử vào nhà trường là rất cần thiết. Với những tiểu thuyết lịch sử mang tính giáo dục như
Đêm hội Long Trì, An Tư hay Sống mãi với thủ đô, học sinh sẽ tiếp nhận những tri thức về
quá khứ dân tộc một cách hào hứng hơn. Trong chương trình hiện hành, các soạn giả đã đưa
vào hai tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng và Vũ Như Tô. Tuy nhiên, Lá cờ thêu sáu chữ
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
vàng có thể phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh song Vũ Như Tô là một tác phẩm
có tầm tưởng tượng quá lớn, triết lý quá sâu sắc, e rằng không phù hợp với nhận thức của
lứa tuổi học sinh phổ thông. Vậy nên chúng tôi mạnh dạn đề xuất với những người biên
soạn chương trình: Nên đưa một trong các tiểu thuyết Đêm hội Long Trì, An Tư, Sống
mãi với thủ đô vào giới thiệu và bước đầu cho học sinh tìm hiểu. Đây cũng là tâm ý của
nhà văn khi sáng tác, là mong muốn để thế hệ sau không quay lưng lại với lịch sử nước nhà
nhất là trong bối cảnh hội nhập toàn cầu như hiện nay.
Trong khuôn khổ cho phép, luận văn không thể trình bày hết những cảm nhận, phân
tích trong quá trình nghiên cứu về cảm hứng lịch sử của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng qua
bốn tiểu thuyết. Chúng tôi hy vọng đã đóng góp môt phần nhỏ ý kiến vào công trình nghiên
cứu về tác giả Nguyễn Huy Tưởng, đồng thời mong muốn có thể thêm tiếng nói khẳng định
giá trị của một thể loại tiểu thuyết quan trọng nhưng lâu nay vẫn bị khuất lấp. Chúng tôi
mong sẽ có thể phát triển, hoàn thiện hơn đề tài này trong một tương lai không xa.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Ân, Vài ý kiến về sự thực lịch sử và hư cấu nghệ thuật trong truyện lịch
sử phục vụ các em, Tạp chí văn học số 3 /1979.
2. Lại Nguyên Ân, Suy nghĩ về một lối tiếp cận lịch sử, Tạp chí Nghệ thuật điện
ảnh, số 3/ 1990.
3. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1990.
4. Hoàng Nguyên Cát, Một phong cách uyên thâm lịch lãm (trong “Nguyễn Huy
Tưởng - Một sự nghiệp chưa kết thúc”), Viện văn học, 1992.
5. Nguyễn Minh Châu, Bên nhà văn Nguyễn Huy Tưởng cùng ngắm Hồ Gươm -
Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,1994.
6. Nguyễn Phương Chi, Sống mãi với thủ đô (mục từ), Từ điển văn học, tập II,
NXB Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 1984
7. Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Huy Tưởng nhật ký, tập I-II-III, NXB Thanh
niên Hà Nội, 2006.
8. Hoàng Định, Đêm hội Long Trì, Hà Nội mới chủ nhật, 25/3/1990.
9. Anh Đức, Nhớ anh Nguyễn Huy Tưởng, Văn nghệ 3/8/1985.
10. Hà Minh Đức, Nguyễn Huy Tưởng - nhà văn trưởng thành dưới chế độ mới,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học 10/1960.
11. Hà Minh Đức, Sống mãi với thủ đô tác phẩm cuối cùng của Nguyễn Huy
Tưởng, Nhân dân 18/6/1961.
12. Hà Minh Đức - Phan Cự Đệ, Nguyễn Huy Tưởng (19/12/1960),NXB Văn học,
Hà Nội, 1966.
13. Hà Minh Đức, Lời giới thiệu kịch Nguyễn Huy Tưởng (Vũ Như Tô, Cột đồng
Mã Viện, Bắc Sơn, Những người ở lại), NXB Văn học, Hà Nội,1963.
14. Hà Minh Đức, Nguyễn Huy Tưởng - Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975), NXB
Đại học và THCN, Hà Nội, 1979.
15. Hà Minh Đức, Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Huy Tưởng, NXB Văn học,
Hà Nội, 1984.
16. Hà Minh Đức, Đêm hội Long Trì trên màn ảnh, TC Nghiên cứu nghệ thuật điện
ảnh, tháng 3/1990.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
17. Hà Minh Đức, Nguyễn Huy Tưởng - Khảo luận văn chương, NXB khoa học xã
hội,Hà Nội, 1997
18. Đoàn Giỏi, Nguyễn Huy Tưởng, một người thầy, một người bạn, một người
anh, Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh 26/7/1985.
19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên),Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1997.
20. Đỗ Đức Hiếu, Bi kịch Vũ Như Tô, Tạp chí văn học số 10,1997
21. Tô Hoài, Lời giới thiệu Nguyễn Huy Tưởng tuyển tập, NXB Tác phẩm mới,
Hà Nội,1978.
22. Tô Hoài, Nhà văn Hà Nội Nguyễn Huy Tưởng, NXB Tác phẩm mới, Hà
Nội,1978.
23. Tô Hoài, Lời giới thiệu” Truyện viết cho thiếu nhi” của Nguyễn Huy Tưởng,
NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
24. Phạm Hổ, Nguyễn Huy Tưởng và những truyện viết cho thiếu nhi- Lời giới
thiệu tập truyện Tìm mẹ. NXB Kim Đồng,Hà Nội, 1982.
25. Nguyên Hồng, Gác Nguyễn Huy Tưởng,Tạp chí văn học số 4, 1984.
26. Nguyên Hồng, Những câu chuyện bỏ dở, Tạp chí Văn nghệ số 40, 1956.
27. Thanh Huyền, Nguyễn Huy Tưởng - người viết sử bằng văn chương. Tạp chí
Xưa và nay, số 32, 10/1996.
28. Mai Hương, Nguyễn Huy Tưởng với những trăn trở và khát khao sáng tạo,
Tạp chí Văn học 11 + 12/6/1992.
29. Mai Hương, Trở về với tuổi thơ Nguyễn Huy Tưởng ( trong “Nguyễn Huy
Tưởng - Một sự nghiệp chưa kết thúc”), Viện Văn học, 1992.
30. Mai Thị Hương, Thao thức Nguyễn Huy Tưởng, Văn hóa số 24, 30/10/1996.
31. K.Pauxtopxki, Bông hồng vàng và bình minh mưa, NXB Văn học Hà Nội,
1999.
32. Nguyễn Khải, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Văn học Hà Nội
số 177, 1961.
33. Lê Văn Lan, Nguồn sáng ở một nhà văn đi trước, (trong “Nguyễn Huy Tưởng
- Một sự nghiệp chưa kết thúc”), Viện Văn học, 1992.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
34. Kim Lân, Những ngày cuối cùng của Nguyễn Huy Tưởng, Tạp chí Văn học số
106/ 1960.
35. Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng và sự làm việc của anh, Văn nghệ số 9, 1961.
36. Phong Lê, Sống mãi với thủ đô trong “Quá trình sáng tác của Nguyễn Huy
Tưởng”, Nghiên cứu văn học số 12/1961.
37. Phong Lê, Bàn thêm về Nguyễn Huy Tưởng, Nghiên cứu văn học số 7/1967.
38. Phong Lê, Sống mãi với thủ đô trong Quá trình sáng của Nguyễn Huy Tưởng,
(trong Nguyễn Huy Tưởng - Văn và người), NXB Văn học, Hà Nội ,1976.
39. Phong Lê, Nguyễn Huy Tưởng qua hai chế độ - Tác gia văn xuôi Việt Nam
hiện đại, NXB KHXH, 1977.
40. Phong Lê, Nguyễn Huy Tưởng - những vấn đề còn bỏ ngỏ,(trong Nguyễn Huy
Tưởng-Một sự nghiệp chưa kết thúc), Viện văn học, 1992.
41. Phong Lê, Nguyễn Huy Tưởng trong vầng sáng hồi nhớ, Đại đoàn kết,
12/4/1997.
42. Phong Lê, Nguyễn Huy Tưởng - văn xuôi và kịch, (trong Văn học trên hành
trình của thế kỷ XX), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997.
43. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hòa,
Thành Thế Thái Bình, Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002.
44. Nguyễn Thị Liên, Một số vấn đề lý luận về tiểu thuyết lịch sử (qua Sông Côn
mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác và Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh). Luận
văn thạc sĩ khoa học. Trường ĐH KHXH&NV Hà Nội , 2004.
45. Nguyễn Văn Long, Nguyễn Huy Tưởng (mục từ) - Từ điển Văn học, tập II,
NXB khoa học xã hội, Hà Nội,1984.
46. Bùi Văn Lợi, Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX đến
1945, Luận án tiến sĩ năm 1999, ĐH sư phạm Hà Nội.
47. Lưu Văn Lợi, Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng trước khi là nhà văn, Tạp Chí Văn
học 5 + 6/1992.
48. M.B. Khrapchenkô, Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn
học, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1978.
49. Trần Đình Nam, Nguyễn Phương Chi, Lời giới thiệu Đêm hội Long Trì NXB
Hà Nội, 1985.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
50. Trần Đình Nam, Nguyễn Huy Tưởng với đề tài lịch sử, Văn nghệ, 23/12/1985.
51. Đỗ Hải Ninh, Tiểu thuyết Hồ Quý Ly trong sự vận động của tiểu thuyết lịch
sử nửa sau thế kỷ XX, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2003.
52. Nguyên Ngọc, Nguyễn Huy Tưởng và quan niệm kẻ sĩ - Nguyễn Huy Tưởng
toàn tập, tập V, NXB Văn học Hà Nội, 1996.
53. Mai Ngữ, Nhớ về Nguyễn Huy Tưởng, ( trong “ Nguyễn Huy Tưởng Một sự
nghiệp chưa kết thúc”), Viện văn học, 1992.
54. Như Phong, Vài điều ghi nhận trên một số tác phẩm văn học gần đây, Văn
nghệ, 9/1991.
55. Duy Phương, Một nhà văn Nguyễn Huy Tưởng về Dục Tú, Người Hà Nội,
3/2/1990.
56. Dương Trung Quốc, Lời giới thiệu Đêm hội Long Trì (Bộ ba tác phẩm gồm
Đêm hội Long Trì, An Tư, Vũ Như Tô), NXB Hà Nội, 1999.
57. Trần Đình Sử, Thi pháp học hiện đại - khuynh hướng - hệ hình -thành tựu,
NXB Giáo dục, Hà Nội,2003.
58. Ngô Thảo, Văn nghệ một thời nhìn qua lỗ khóa-(trong “Nguyễn Huy Tưởng
- Một sự nghiệp chưa kết thúc”), Viện văn học, 1992.
59. Nguyễn Huy Thắng, Cha tôi - hình ảnh dệt từ trí tưởng tượng, Tạp chí Văn
học, số 4, 7 + 8/1990.
60. Nguyễn Huy Thắng biên soạn, Nguyễn Huy Tưởng - văn và người, NXB Hội
nhà văn Hà Nội,1991.
61. Nguyễn Huy Thắng, Ấn tượng về những nhân vật cùng cảnh ngộ, (trong
“Nguyễn Huy Tưởng - văn và người”), NXB Hội nhà văn Hà Nội, 1991.
62. Nguyễn Huy Thắng, Cha tôi viết Sống mãi với thủ đô, Tạp chí Văn học, 6/1995.
63. Nguyễn Huy Thắng, Xây Cửu trùng đài sân khấu, Thế giới mới, số 168,
15/1/1996.
64. Nguyễn Huy Thắng, Những khúc sông, mảnh hồ trong cuộc đời cha tôi,Tạp
chí Tia sáng, 11/1996.
65. Nguyễn Huy Thắng, Cha tôi trong Sống mãi với thủ đô, Giáo dục và thời đại,
3/1/1997.
66. Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Huy Tưởng sống mãi, Tác phẩm mới, số 12/1996.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
67. Nguyễn Huy Thắng, Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời văn, Tuổi trẻ
chủ nhật, số 10, 27/4/1997.
68. Nguyễn Huy Thắng, Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, Giáo dục và thời đại chủ
nhật, 27/4/1997.
69. Nhiều tác giả - Nguyễn Huy Thắng biên soạn, Nguyễn Huy Tưởng trong vầng
sáng hồi nhớ, NXB Hà Nội, 1997.
70. Nguyễn Huy Thắng, Từ một tập giấy mỏng cha tôi để lại, Khoa học và Tổ
quốc, 5/1999.
71. Nguyễn Huy Thắng, Cụ Cử - người thầy của cha tôi, Giáo dục và thời đại chủ
nhật, số 52/2000.
72. Nguyễn Đình Thi, Vĩnh biệt Nguyễn Huy Tưởng, Văn học số 105, 1960.
73. Nguyễn Ngọc Thiện, Sống mãi với thủ đô - “Không chỉ là phản ánh, mà còn là
tổng kết, soi sáng”,( In trong “Văn chương và tác giả”). NXB Thanh niên, Hà
Nội, 1995.
74. Thiều Quang, Lá cờ thêu sáu chữ vàng- truyện lịch sử của Nguyễn Huy
Tưởng, Tạp chí Văn nghệ 1961.
75. Hoàng Trung Thông, Nhớ lại đôi điều về Nguyễn Huy Tưởng, TC Văn học số
4/1984.
76. Nguyễn Bích Thu - Tôn Thảo Miên, Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời
văn, (trong “Nguyễn Huy Tưởng về tác giả và tác phẩm”), NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1999.
77. Nguyễn Bích Thu - Tôn Thảo Miên tuyển chọn và giới thiệu, Nguyễn Huy
Tưởng về tác giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999.
78. Phan Đình Dũng, Cảm hứng lịch sử trong kịch nói của Nguyễn Huy Tưởng,
Luận văn thạc sĩ khoa học. Trường ĐH Sư phạm TP. HCM, 2003.
79. Cao Xuân Thử - “Cung đình” trong bộ ba tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng -
Nguyễn Huy Tưởng, một sự nghiệp chưa kết thúc, Viện văn học, 1992.
80. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Huy Tưởng - nghệ sĩ và công dân, Nhân dân,
17/4/1997.
81. Hoàng Tiến, Nguyễn Huy Tưởng với đề tài Hà Nội, Tạp Chí Văn học số
5/1984.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
82. Nguyễn Tuân, Lũy Hoa - Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 3, NXB Văn học, Hà
Nội,1996.
83. Nguyễn Tuân, Sống mãi với thủ đô - Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập 3, NXB Văn
học,Hà Nội, 1996.
84. Đinh Trọng Tuấn, Đêm hội Long Trì - Một bộ phim thành công, Văn nghệ,
31/3/1990.
85. Trịnh Thị Uyên, Nhà tôi - kỷ niệm của một thời và mãi mãi, Tạp chí văn học,
số 5, 9+10,1991.
86. Nguyễn Huy Tưởng với Hà Nội, Văn nghệ 6/10/1990.
87. V.G. Biêlinxky, Toàn tập tác phẩm, tập VII,(bản dịch), NXB Viện Hàn Lâm
Khoa Học Liên Xô, 1955.
88. V.G. Biêlinxky, Tác phẩm chọn lọc,(bản dịch), M.1975.
89. Hà Ân ,Trăng nước Chương Dương, NXB Văn học, Hà Nội,2000.
90. Phan Trần Chúc ,Tĩnh Đô Vương, NXB Văn học, Hà Nội,2000.
91. Hoàng Quốc Hải, Thăng Long nổi giận,NXB Văn học,Hà Nội,2000.
92. Lan Khai, Ái tình và sự nghiệp, NXB Văn học, Hà Nội,2000.
93. Nguyễn Triệu Luật, Loạn kiêu binh, NXB Văn học, Hà Nội,2000.
94. Nguyễn Triệu Luật, Hòm đựng người, NXB Văn học,Hà Nội,2000.
95. Nguyễn Triệu Luật, Bà Chúa Chè, NXB Văn học, Hà Nội,2000.
96. Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, NXB Văn học,Hà Nội,2000
97. Nguyễn Tử Siêu, Trần Nguyên Chiến kỷ,NXB Văn học, Hà Nội,2000.
98. Nguyễn Huy Tưởng, An Tư,NXB Kim đồng, Hà Nội,2005.
99. Nguyễn Huy Tưởng, Đêm hội Long Trì,NXB Kim Đồng,Hà Nội,2005.
100. Nguyễn Huy Tưởng, Sống mãi với thủ đô, NXB Kim Đồng,Hà Nội,2005.
101. Nguyễn Huy Tưởng toàn tập - tập I - NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
102. Nguyễn Huy Tưởng toàn tập - tập II - NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
103. Nguyễn Huy Tưởng toàn tập - tập III - NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
104. Nguyễn Huy Tưởng toàn tập - tập IV - NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
105. Nguyễn Huy Tưởng toàn tập - tập V - NXB Văn học, Hà Nội, 1996.
106. Nguyễn Huy Tưởng - Nhà Trần - NXB Kim Đồng,Hà Nội, 2005.
107. Nguyễn Huy Tưởng - Lá cờ thêu sáu chữ vàng, NXB Kim Đồng,Hà Nội, 2005.
Cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết Nguyễn Huy Tưởng Nguyễn Thị Phương Thoa
108. Nhiều tác giả , Những vấn đề thi pháp Dostoeveski, NXB Giáo dục, Hà Nội,
1993.
109. Nguyễn Văn Dân , Lý luận Văn học so sánh, NXB Khoa học Xã hội Hà
Nội,1998.
110. .M.BA KHTIN , Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Bộ Văn
hóa Thông tin , trường viết văn Nguyễn Du,1992.
111. .Nguyễn Đình Chú,Các thế hệ nhà văn ngót 100 năm kế tiếp nhau soi lại lịch
sử, Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung
Quốc xâm lược. NXB KHXH Hà Nội,1981.
112. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại Việt Nam,NXB KHXH,Hà Nội,1989.
113. Nguyễn Tý , Thái Vũ - Nhà văn hiện đại Việt Nam người trung thành viết
tiểu thuyết lịch sử, Báo Văn nghệ số 39, 2003.
114. Lan Khai, Ai lên phố Cát, Phổ thông bán nguyệt san (số 4).
115. Nguyễn Triệu Luật, Tuyển tập lịch sử Nguyễn Triệu Luật, NXB Văn
học,1998.
116. Viện KHXH Việt Nam, Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, NXB KHXH, Hà
Nội,1993.
117. Trung tâm KHXH và NV Quốc gia, Viện nghiên cứu Hà Nội, Đại Việt sử ký
tiền biên, NXB KHXH , Hà Nội,1997.
118. Hà Ân , Quận He khởi nghĩa, NXB Quân đội Nhân dân,1963.
119. Lê Thanh, Cuộc phỏng vấn các nhà văn, NXB Đời mới (không có năm xuất
bản).
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA7198.pdf