Cải tiến mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi nhằm đẩy mạnh huy động vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Bãi Cháy

Mục lục Lời nói đầu Chương I: Tài khoản tiền gửi đối với công tác huy động vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại. 1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động của Ngân hàng thương mại Trong nền kinh tế thị trường. 3 1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại 5 1.2.1. Đặc điểm tài chính và kinh doanh của Ngân hàng thương mại 5 1.2.2. Nghiệp vụ bên nợ của Ngân hàng thương mại 8 1.2.3. Nghiệp vụ bên có của Ngân hàng thương mại 9 1.2.4. Nghiệp vụ trung gian của Ngân hàng thương mại 16

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cải tiến mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi nhằm đẩy mạnh huy động vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Bãi Cháy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.3. Tài khoản tiền gửi trong việc tạo lập vốn của Ngân hàng thương mại 17 1.3.1. Nguồn vốn tiền gửi 17 1.2.3. Các loại tài khoản tiền gửi 20 Chương II: Thực trạng mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại NHCT Bãi Cháy 2.1. Khái quát tình hình phát triển kinh tế địa phương và kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT Bãi Cháy 24 2.1.1. Quảng Ninh đổi mới và phát triển 24 2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT Bãi Cháy 27 2.2. Thực trạng mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi ở NHCT Bãi Cháy 37 2.2.1. Cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn của NHCT Bãi Cháy 37 2.2.2. Cơ cấu tiền gửi theo chủ tài khoản 42 2.2.3. Đánh giá tình hình mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi ở NHCT Bãi Cháy 44 Chương III Kiến nghị về việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi khách hàng nhằm khơi tăng nguồn vốn kinh doanh của NHCT Bãi Cháy 3.1. Một số định hướng chung 46 3.1.1. Sự cần thiết khách quan về việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng 46 3.1.2. Đẩy mạnh công tác huy động vốn trên cơ sở sử dụng có hiệu quả ngồn vốn 47 3.1.3. Thực hiện đa dạng hoá hệ thống tài khoản huy động vốn 49 3.1.4.Phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân để mở rộng công tác thanh toán 50 3.2. Một số kiến nghị và đề suất về mở và sử dụng tài khoản khách hàng để khơi tăng nguồn vốn huy động mở rộng kinh doanh 52 3.2.1. Những kiến nghị chung 52 3.2.1.1. Đối với chính phủ và Ngân hàng Nhà nước 52 3.2.1.2. Đối với NHCT Việt Nam 55 3.2.1.3. Đối với NHCT Bãi Cháy 56 3.3. Những đề xuất đối với việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của khách hàng 58 3.3.1. Tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế 58 3.3.2. Cải tiến hình thức tài khoản đối với tiền gửi dân cư 60 3.3.3. Đối với tài khoản tiền gửi tiết kiệm của dân cư 60 3.3.4. Chuyển tiền gửi tiết kiệm dưới dạng thẻ sang hình thức tài khoản tiền gửi có kỳ hạn cho dân cư 61 3.3.5. Mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân và dịch vụ thanh toán trong dân cư 62 3.3.6. Tiếp tục nghiên cứu thí điểm để hoàn thiện đề án gửi một nơi lĩnh nhiều nơi 64 kết luận Lời nói đầu Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính quan trọng nhất hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ - tài chính theo chế độ tự chủ và hạch toán kinh doanh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Vốn, công nghệ, nhân lực và khách hàng là những nhân tố cấu thành cơ sở để tổ chức hoạt động kinh doanh. Huy động vốn, sử dụng vốn, an toàn hiệu quả và không ngừng phát triển vốn là chức năng và phương châm chỉ đạo hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nếu nguồn vốn tự có là tiền đề cho khởi sự hoạt động kinh doanh, mức độ tự chủ và sự an toàn kinh doanh thì nguồn vốn huy động là chủ yếu thể hiện mức độ mở rộng hoạt động kinh doanh giữ vai trò quyết định đảm bảo cơ sở tài chính cho kinh doanh. Từ nhận thức rõ tầm quan trọng của nguồn vốn, chiến lược nguồn vốn và chiến lược khách hàng bao giờ cũng là nền tảng đối với sự thành bại của hoạt động ngân hàng. Một ngân hàng có nguồn vốn lớn, ổn định vững chắc với những khách hàng lớn và đông đảo, như con tàu lớn trên biển cả, nó xác định vị thế trên thị trường, là sự đảm bảo sức mạnh cạnh tranh giành thắng lợi. Vì vậy, chiến lược chiếm lĩnh thị trường, tranh giành thu hút khách hàng là bộ phận quan trọng của kinh doanh. Muốn thành đạt trên thị trường tài chính ngân hàng thương mại phải mở rộng huy động vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn chinh phục lòng tin của khách hàng, bảo vệ khách hàng, đảm bảo an toàn tiền gửi của khách hàng và mang lại lợi nhuận cao cho khách hàng. Một trong những công cụ giúp cho Ngân hàng thực hiện được mục tiêu trên là vấn đề đa dạng hoá , cải tiến mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi thoả mãn tối đa nhu cầu phong phú của khách hàng gửi tiền hay đầu tư kiếm lời. Vì vậy tôi chọn đề tài chuyên đề của mình là "Cải tiến mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi nhằm đẩy mạnh huy động vốn kinh doanh của Ngân hàng công thương Bãi Cháy”. Là học viên vừa thực tập vừa làm, năng lực nghiên cứu có hạn chắc chắn đề tài của tôi không tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong nhận được sự hướng dẫn, chỉ đạo, đóng góp của các thầy cô giáo, của lãnh đạo và đồng nghiệp giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và xin phép được trình bày luận văn tốt nghiệp. Quảng ninh, ngày tháng năm 2001 Chương I Tài khoản tiền gửi đối với công tác huy động vốn kinh doanh của Ngân hàng thương mại 1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong kinh tế thị trường: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, hạch toán kinh doanh. Mọi giao dịch kinh doanh của các doanh nghiệp đều thông qua hệ thống thị trường, lao động, công nghệ thiết bị, hàng hoá, dịch vụ và thị trường tiền tệ - tài chính. Vốn tiền tệ là bà đỡ ra đời của mọi loại hình doanh nghiệp, là kết quả cuối cùng của chu kỳ sản xuất. Vì vậy vấn đề quản trị tài chính, huy động nguồn vốn phân bổ sử dụng vốn bảo toàn vốn và phát triển vốn được đặt ra đối với mọi doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Trong hoạt động kinh doanh mỗi doanh nghiệp có khả năng và nhu cầu cung cấp vốn tạm thời cho nhau trên nguyên tắc hoàn trả và có lãi. Sự gặp gỡ trực tiếp giữa chủ thể dư thừa vốn và thiếu hụt vốn phù hợp về số lượng, thời điểm và thời hạn gặp nhiều khó khăn trở ngại. Chính vì lẽ đó, dần dần hình thành một định chế trung gian tài chính giữ vai trò huy động và cung ứng vốn tạm thời nhàn rỗi cho các tác nhân kinh tế mà định chế trung gian tài chính quan trọng nhất là Ngân hàng thương mại. Như vậy NHTM là chủ thể kinh doanh trên thị trường tiền tệ , mang tính chất dịch vụ , nhằm thoả mãn nhu cầu cung ứng vốn và vay mượn vốn trên nguyên tắc hoàn trả và thu lợi nhuận cùng các dịch vụ hỗ trợ như chuyển tiền, thanh toán không dùng tiền mặt, tư vấn quản lý tài chính - tiền tệ.v.v. Ngân hàng và kinh doanh ngân hàng đã xuất hiện ngay từ buổi bình minh của nền sản xuất hàng hoá và không ngừng phát triển mở rộng và hoàn thiện cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hoá sang kinh tế thị trường, từ phạm vi quốc gia vươn ra phạm vi quốc tế, từ thị trường tự do tự phát tiến lên thị trường có điều tiết của Nhà nước và các tổ chức tiền tệ - tài chính quốc tế. Ngày nay hệ thống tài chính được cấu thành bởi hai kênh : Một là : Thị trường tài chính thực chất là các thị trường vốn dài hạn giao dịch trực tiếp giữa các chủ thể dư thừa và thiếu hụt vốn bao gồm thị trường, cổ phiếu, thị trường trái phiếu. Hai là : Hệ thống tài chính trung gian bao gồm NHTM, các tổ chức tín dụng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, quỹ lưu trú, quỹ tín dụng.v.v. Trong đó NHTM là địa chế quan trọng nhất. NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt và có nguồn vốn về sử dụng vốn về sản phẩm " Hàng hoá " tạo ra và cung cấp về quan hệ với khách hành là loại hình doanh nghiệp tự chủ tài chính rất thấp vì vốn tự có chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong nguồn vốn hoạt động, là loại hình kinh doanh đặc biệt vì sử dụng vốn gặp nhiều rủi ro. Là ngành kinh doanh được tổ chức theo hệ thống mạng liên hệ chặt chẽ với nhau. Tất cả các vấn đề về an toàn kinh doanh, về khả năng thanh toán, khả năng sinh lời và hoạt động quản trị đều được Nhà nước giám sát kiểm soát bằng quy chế pháp quy chặt chẽ, vì sự khủng hoảng của một ngân hàng có thể lan truyền gây ra sự hoảng loạn toàn bộ hệ thống ngân hàng gây lên khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế và có thể tác động đến nhiều quốc gia. Chính vì NHTM có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đối với tiết kiệm và đầu tư của dân cư, đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế quốc dân. Hơn nữa là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt, một ngành kinh doanh dịch vụ cao cấp nên phải không ngừng được đổi mới, hiện đại hoá và công nghiệp hoá, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm vào thực tiễn. Ngày nay, xu hướng đổi mới hoạt động kinh doanh theo khuynh hướng: - Tư nhân hoá nguồn vốn ngân hàng. - Chứng khoán hóa tài sản có và tài sản nợ. - Vạn năng hoá nghiệp vụ kinh doanh và quốc tế hoá phạm vi hoạt động. Nhằm mở rộng và củng cố vị thế, thâm nhập giành giật thị trường và khách hàng, đảm bảo an toàn và nâng cao khả năng sinh lời hiệu quả kinh doanh. 1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM : 12.1. Đặc điểm tài chính và kinh doanh của NHTM : NHTM là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên thị trường tiền tệ theo cơ chế tự chủ tài chính, hạch toán kinh doanh. Trong hoạt động kinh doanh. NHTM nghiên cứu hoạch định tổ chức cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng sao cho chi phí tối thiểu, doanh thu tối đa, nâng cao tỉ suất doanh lợi và lợi nhuận đảm bảo an toàn, bảo toàn và phát triển vốn . Hoạt động kinh doanh ngân hàng có thể phân chia thành ba nhóm: Nghiệp vụ bên có, nghiệp vụ bên nợ, nghiệp vụ trung gian dịch vụ. Trước khi nghiên cứu khái quát các nghiệp vụ trên chúng ta tìm hiểu những đặc điểm tài chính và kinh doanh ngân hàng. Tình hình tài chính tại một thời được tổng hợp trên bảng cân đối kế toán giữa tài sản có và tài sản nợ. a) Tài sản có của NHTM : Là toàn bộ tài sản tài chính và vật chất hiện có thuộc quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt trong kinh doanh ngân hàng, được chia thành 4 nhóm sau: - Nhóm 1: Khoản mục dự trữ gồm tiền mặt, ngân phiếu, tiền gửi dự trữ bắt buộc ở NHTW và tiền gửi thanh toán tại các ngân hàng khác. - Nhóm 2: Khoản mục cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn cho hộ gia đình và mọi doanh nghiệp. - Nhóm 3: Khoản mục đầu tư chứng khoán, mua trái phiếu kho bạc hoặc cổ phiếu... - Nhóm 4: Khoản mục bất động sản và tài sản công cụ, thiết bị. Trong đó: + Nhóm 2 và nhóm 3 là những khoản mục sinh lời và nhiều rủi ro cần đặc biệt quan tâm sử dụng và quản lý sao cho an toàn và hiệu quả. + Nhóm 1 và nhóm 4 là hai nhóm tạo lập điều kiện kinh doanh cần duy trì ở mức tối thiểu cần thiết. b) Tài sản nợ : Phản ánh nguồn gốc hình thành vốn của NHTM từ chủ ngân hàng và các chủ nợ được phân thành 4 nhóm sau: - Nhóm 1: Nguồn vốn của ngân hàng do chủ ngân hàng tạo thành bao gồm: Vốn điều lệ; các quỹ và lãi chưa chia, thể hiện quy mô và mức tăng trưởng của ngân hàng. - Nhóm 2: Khoản mục tiền gửi: Không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm... Đây là nhóm quan trọng nhất về tỷ trọng và trách nhiệm cần đặc biệt quan tâm. - Nhóm 3: Nguồn vốn đi vay từ ngân hàng nhà nước hoặc ngân hàng khác trên thị trường liên ngân hàng chủ yếu đáp ứng nhu cầu thanh toán hoặc đầu tư cơ hội... - Nhóm 4: Nguồn vốn chứng khoán nghĩa là ngân hàng phát hành chứng khoán, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu tạo nguồn vốn có kỳ hạn một cách chủ động để mở rộng kinh doanh. c) Những đặc điểm tài chính và kinh doanh : 1. NHTM là một doanh nghiệp tự chủ tài chính thấp so với những loại hình doanh nghiệp khác, tỷ trọng vốn tự có trên tổng vốn hoạt động của NHTM rất thấp có thể chỉ 5%. Điều này nếu kinh doanh thua lỗ, ngân hàng dễ bị phá sản mặc dù có thể vẫn hoạt động hoàn toàn dựa vào vốn ngoại lai. 2. Tài sản dự trữ chiếm tỷ trọng thấp trên tài sản có. Vì vậy khi khách hàng rút tiền đồng loạt dễ làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán. 3. Kinh doanh ngân hàng là mua và bán quyền sử dụng vốn tiền tệ. Giá cả tức lãi suất chỉ là % của giá trị " Hàng hoá " mua, bán thời gian hoàn trả dài, vì vậy ngân hàng gặp rất nhiều rủi ro trong kinh doanh, tài sản có dễ bị suy giảm cần phải dự phòng. Rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng mang tính chất " Tổng hợp ". Tức là rủi ro do bản thân hoạt động của Ngân hàng gây lên, và rủi ro do kinh doanh của người vay vốn gây lên . 4. Kinh doanh ngân hàng phải thận trọng đối với người mua vì giá trị vốn hàng hoá bán lớn hoàn trả sau một thời gian dài. Nếu không dễ bị tổn thất bởi khoản nợ khó đòi hoặc không đòi được. 5. Kinh doanh ngân hàng đòi hỏi xác lập duy trì trạng thái cân bằng giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Vấn đề đọng vốn tức huy động mà không cho vay được sẽ giảm doanh thu và lợi nhuận. 6. Hệ thống ngân hàng thường liên hệ mạng rộng lớn. Một Ngân hàng khủng hoảng dễ gây phản ứng dây chuyền gây hoảng loạn toàn bộ hệ thống ngân hàng. Trên đây là những vấn đề cần quan tâm trong quản trị kinh doanh ngân hàng. 1.2.3. Nghiệp vụ bên nợ của NHTM : Đây là những nghiệp vụ tạo nguồn vốn cho ngân hàng hoạt động. Tạo nguồn vốn ổn định và ngày càng lớn với chi phí tối thiểu, là một yêu cầu quan trọng của kinh doanh ngân hàng. Trong các nghiệp vụ bên nợ thì nghiệp vụ nguồn vốn ngoại lai tạo ra nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động kinh doanh. Đây là bộ phận chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của một NHTM có thể đạt trên 90%. Nghiệp vụ bên nợ nguồn vốn tự có nguồn vốn ngoại lai Đi vay Chứng khoán TG của khách hàng Quỹ dự trữ Quỹ dự phòng Lợi nhuận chưa chia TG thanh toán TG có kỳ hạn TG tiết kiệm TG khác Đi vay NH TW Đi vay NH TM Đi vay NH nước ngoài Chứng chỉ TG Trái phiếu NH Phiếu gửi Sơ đồ hoá nghiệp vụ bên nợ: 1.2.2. Nghiệp vụ bên có của NHTM : Nghiệp vụ bên có là nghiệp vụ sử dụng vốn, là nghiệp vụ trọng yếu của ngân hàng tạo ra doanh thu và lợi nhuận cho ngân hàng. Vấn đề trước tiên của nghiệp vụ bên có là phân bố tài sản có theo một cơ cấu tối ưu, tối đa hoá tài sản sinh lời (nhóm 2 và nhóm 3), hợp lý tài sản điều kiện cần thiết (nhóm 1 và nhóm 4). Vấn đề thứ hai đa dạng hoá sản phẩm ngân hàng sáng tạo những hình thức cho vay, chính sách lãi suất để mở rộng kinh doanh ngân hàng. Vấn đề thứ ba, đặc biệt nghiên cứu dự báo khách hàng và thị trường. Đưa ra và sử dụng các công cụ đảm bảo tín dụng thận trọng như cầm cố, thế chấp, bảo chứng, bảo hành... để đảm bảo an toàn tài sản cho vay, phòng rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất của kinh doanh ngân hàng . Nghiệp vụ bên có của NHTM có thể được khái quát hoá theo Sơ đồ sau đây : nghiệp vụ bên có Tín dụng đầu tư ngân quỹ Cho vay hộ gia đình Cho vay doanh nghiệp Cho vay các ngân hàng Đầu tư chứng khoán DNNN Đầu tư chứng khoán DN công ty Đầu tư hợp vốn liên doanh Tiền mặt Tiền gửi Tiền gửi NHTW Tiền gửi NH khác Tiền mặt và Ngân phiếu Vàng bạc đá quý TG dự trữ BB TG thanh toán TG đại lý TT a) Vốn tự có : - Vốn tự có là vốn riêng của ngân hàng do chủ sở hữu đóng góp và được vốn hoá lợi nhuận giữ lại của ngân hàng. + Về phương tiện quản lý vốn tự có được phân chia thành vốn cơ bản và vốn bổ sung. + Vốn tự có cơ bản bao gồm cổ phần thường (vốn điều lệ) vốn cổ phần ưu đãi, các quỹ dự trữ, quỹ dự phòng, lợi nhuận không chia và điều chỉnh tăng giá tài sản cố định, chứng khoán, thu nhập bất thường. Vốn tự có bổ sung bao gồm cổ phần ưu đãi có thời hạn, trái phiếu trung hạn được chuyển đổi nhưng chỉ được phép < 50%. Vốn tự có là điều kiện pháp lý và tài chính để thành lập ngân hàng và hoạt động kinh doanh. Vốn tự có là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng có 3 chức năng. - Chức năng điều kiện hoạt động. - Chức năng bảo vệ. - Chức năng điều chỉnh. Là bộ phận nguồn vốn phản ánh quy mô, tầm cỡ của ngân hàng vì nó quyết định quy mô huy động vốn và quy mô mở rộng nghiệp vụ tài sản có. Tỷ trọng vốn tự có trên tổng nguồn vốn cho thấy mức độ chủ tài chính của ngân hàng. Vốn điều lệ là vốn ban đầu do các cổ đông sáng lập góp. Khi góp vốn điều lệ, tiền được đưa vào một tài khoản phong toả tại ngân hàng nhà nước trong một thời gian nhất định sau đó mới được giải toả để hoạt động. Vì lượng vốn rất lớn hàng chục, hàng trăm tỷ, nên lượng vốn tạm tồn đọng không sinh lời trên tài khoản phong toả gây ra tổn thất ban đầu đáng kể cho ngân hàng. Vì vậy cần rút ngắn thời gian đóng bằng vốn trên tài khoản phong toả. Mỗi lần muốn và được phép tăng vốn điều lệ cũng tiến hành tương tự. Đây là vấn đề ngân hàng cần quan tâm ngay từ đầu. * Các hệ số an toàn của vốn tự có: Nhằm mục đích đảm bảo an toàn kinh doanh và hạn chế rủi ro, bảo vệ khách hàng gửi tiền và phòng ngừa hoảng loạn hệ thống ngân hàng. Các cơ quan quản lý ngân hàng đưa ra quy định các hệ số vốn tự có. 1. Hệ số vốn tự có so với tổng số tiền gửi : Vốn tự có Hệ số 1 = Tổng các khoản nợ Hiện nay theo luật ngân hàng, hệ số 1 phải ( 5% tức là không được huy động quá 20 lần tổng số vốn tự có. Theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt nam, tiền gửi huy động của ngân hàng bao gồm: - Tiền gửi thanh toán. - Tiền gửi không kỳ hạn khác. - Tiền gửi có kỳ hạn. - Tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền giữ hộ. - Trái phiếu ngân hàng cả tiền Việt nam và ngoại tệ. 2. Hệ số vốn tự có trên tài sản có : Trong những năm 30 của thế kỷ 20 các nhà kinh tế ngân hàng ngoài việc đưa ra quỹ bảo hiểm an toàn tiền gửi đã đưa ra các nguyên tắc " Ngón tay cái " tức là hệ số vốn tự có so với tài sản có tối thiểu là 10%. Vốn tự có  Hệ số 2 = Tổng tài sản có 3. Hệ số COOK : Vốn tự có Hệ số COOK = Tổng giá trị quy đổi của tài sản rủi ro Tài sản rủi ro là những khoản mục thuộc tài sản có của bảng tổng kết tài sản có thể bị tổn thất trong kinh doanh. Các nhà nghiên cứu và thực tiễn cho thấy hầu hết tài sản có đều bị rủi ro trừ một số khoản mục sau : . Tiền mặt và ngân phiếu thanh toán . Tiền gửi tại ngân hàng TW. . Trái phiếu kho bạc ngắn hạn dưới 90 ngày, bất động sản. Mỗi tài sản có mức độ rủi ro khác nhau được các cơ quan quản lý ngân hàng đánh giá và quy đổi như sau: - Tài sản nội bảng. + Tín dụng được bảo lãnh của cơ quan bảo hiểm chuyên nghiệp 0%. + Tín dụng cấp cho ngân hàng khác 20%. + Tín dụng được ngân hàng khác bảo hành 20%. + Tín dụng được các tổ chức kinh tế phi tài chính bảo lãnh 50%. + Tín dụng cầm cố hoặc thế chấp 50%. + Chứng khoán công ty 100%. + Tín dụng không đảm bảo 100%. - Tài sản ngoại bảng. + Bảo lãnh cho các ngân hàng 5%. + Bảo lãnh cho các doanh nghiệp 20%. Tổng giá trị quy đổi của tài sản rủi ro = [ Tài sản rủi ro x Tỉ lệ rủi ro ] Hiện nay ngân hàng trung ương của nhiều nước quy định hệ số COOKE tối thiểu là 8%, ở nước ta hệ số này chưa áp dụng. b) Nguồn vốn đi vay : Trong thực tiễn kinh doanh, khi ngân hàng có cơ hội đầu tư kinh doanh nhưng nguồn vốn khác không đảm bảo hoặc khi dự trữ bắt buộc cao hơn dự trữ thực tế cần vay bù đắp cũng như khi khách hàng đến rút tiền vượt mức dự trữ dự kiến đảm bảo thanh toán... Ngân hàng phải đi vay để bù đắp phương tiện thanh toán. Vào những năm 70, do vốn khả dụng thấp, các tài sản cố định như văn phòng trụ sở của ngân hàng không dễ dàng nhanh chóng nhượng bán để thu hồi tiền đảm bảo sẵn sàng chi trả vô điều kiện làm cho nhiều ngân hàng đổ vỡ phá sản và khủng hoảng ngân hàng. Các khoản cho vay về phương diện lý thuyết các NHTM có thể nhượng bán lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng khi cần thiết. Song thực tế rất khó thực hiện chính vì lẽ đó các NHTM đầu tư một lượng vốn đáng kể vào chứng khoán vừa sinh lời, có tính khả dụng cao, dễ dàng chuyển đổi trên thị trường tài chính. Về phương diện nguồn vốn có một mâu thuẫn rất lớn: Một là: Các khoản tiền gửi của khách hàng khó chuyển nhượng cho nhau. Hai là: Các doanh nghiệp thường có nhu cầu lớn về vay vốn trung và dài hạn để đầu tư kinh doanh. Nhưng ngân hàng không có khả năng vì phần lớn khách hàng chỉ gửi vốn ngắn hạn vì họ muốn phòng tránh rủi ro lạm phát cũng như có thể rút tiền khi có nhu cầu chi tiêu. Ba là: Một số nước có những quy định hạn chế nguồn vốn tiền gửi để đảm bảo an toàn kinh doanh ngân hàng. Cho nên vào thập kỷ 80 nhiều ngân hàng đổi mới tài chính tìm giải pháp chứng khoán hoá nguồn vốn. Họ đã tạo ra những công cụ huy động vốn mới. - Chứng chỉ tiền gửi: Ngân hàng chủ động phát hành chứng chỉ tiền gửi để bán trên thị trường. Là những chứng khoán ngắn hạn ghi danh hoặc vô danh, dễ dàng chuyển nhượng để thu tiền mặt, lãi suất tuỳ theo kỳ hạn, tất nhiên phải chấp nhận rủi ro về giá cả của chứng chỉ trên thị trường tương tự cổ phiếu. Mỹ là nước đầu tiên đưa ra chứng chỉ tiền gửi (1961), ở Pháp (1984), ở Đức (1986). Hạn kỳ từ 6 tháng đến 3 năm. Mệnh giá 100.000 USD có thể là 1.000.000 USD. Khách mua chứng chỉ là doanh nghiệp, ngân hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm. - Phiếu quỹ: Là chứng khoán có thể chuyển nhượng lãi suất cố định như cổ phiếu ưu đãi, ghi danh hoặc vô danh, không sử dụng được trước hạn. - Trái phiếu ngân hàng: Là chứng khoán do ngân hàng phát hành vay vốn hàng năm từ cuối những năm 70, lãi suất có thể cố định hoặc thay đổi, thời hạn trên 5 năm. 1.2.4. Nghiệp vụ trung gian của NHTM : Nghiệp vụ trung gian là hoạt động kinh doanh dịch vụ của NHTM có liên quan đến nghiệp vụ bên có hoặc bên nợ hay nghiệp vụ ngoại bảng. Đây là những nghiệp vụ đang phát triển mạnh mẽ và mang lai nguồn lợi không nhỏ cho ngân hàng. Bản chất của nghiệp vụ dịch vụ này là thoả mãn một nhu cầu nào đó của khách hàng mà ngân hàng có khả năng cung cấp. - Trước hết, nhờ tổ chức theo hệ thống mạng, các ngân hàng thông qua tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng thoả mãn nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt với nhiều thể thức phong phú: Séc thanh toán, ngân phiếu thanh toán, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, thẻ thanh toán... - Nghiệp vụ quản lý hộ tài sản tiền bạc hay cho thuê két sắt. - Nghiệp vụ đại lý thu hộ, chi hộ, phát hành hộ cổ phiếu, trái phiếu, mua, bán hộ chứng khoán. - Nghiệp vụ chuyển tiền, đổi tiền, chiết khấu kỳ phiếu... - Nghiệp vụ cung cấp thông tin và tư vấn về tài chính cho các doanh nghiệp, hộ gia đình và nhà nước. Trên đây là những nghiệp vụ trung gian chủ yếu. 1.3. Tài khoản tiền gửi trong việc tạo lập vốn cho NHTM: 1.3.1. Nguồn vốn tiền gửi : Tài khoản nói chung, tài khoản tiền gửi nói riêng là công cụ kế toán phân loại các khoản mục tài sản hoặc quan hệ kinh tế tài chính, cách thức ghi chép số liệu giá trị tiền tệ phản ánh sự tăng giảm của các khoản mục hay quan hệ tài chính đó nhằm cung cấp thông tin kế toán phục vụ quá trình ra quyết định và quản trị kinh doanh. NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp đa năng trên thị trường vốn tiền tệ nhàn rỗi của nền kinh tế quốc dân với nghiệp vụ bên có, nghiệp vụ bên nợ, nghiệp vụ trung gian như chúng ta đã trình bày ở phần trên. Tài khoản tiền gửi không những là phương thức ghi chép phản ánh tình hình tiền gửi mà còn là những " Sản phẩm" được NHTM tạo ra cung ứng cho thị trường nhằm " Mua " quyền sử dụng vốn tiền tệ của các chủ thể kinh tế hộ gia đình hoặc doanh nghiệp. NHTM là doanh nghiệp cung ứng dịch vụ tài chính cho khách hàng trên thị trường nhằm mục đích kiếm lời thu hút khách hàng và tiền gửi của họ để trở thành vấn đề sống còn của công nghiệp kinh doanh của ngân hàng. Từ lâu các ngân hàng đã nghiên cứu toàn diện cụ thể mọi đối tượng khách và nhu cầu gửi tiền của họ để đưa ra những thể thức gửi tiền thích hợp với các tài khoản tiền gửi tương ứng để ghi chép theo dõi quản lý và sử dụng tiền gửi của khách sao cho hiệu quả. Kế toán ngân hàng một mặt được xây dựng như kế toán một doanh nghiệp với hệ thống tài khoản theo sự phân loại tài sản có và tài sản nợ của mình, các tài khoản quản lý như doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh, các tài khoản ghi chép, tài sản cố định hay các khoản phải thu, hàng tồn kho tức tiền mặt, chứng khoán tại quỹ... Trong hệ thống có một nhóm tài khoản mà các doanh nghiệp khác không có là tài khoản giao dịch với khách hàng để ghi chép các khoản cho vay nghiệp vụ thanh toán và nhận tiền gửi. Một ngân hàng lớn số lượng các tài khoản tiền gửi rất lớn. Quan hệ đầu tiên của khách hàng với ngân hàng là quan hệ tiền gửi. Trên cơ sở tài khoản tiền gửi của khách hàng mở tại ngân hàng sẽ phát triển sang các quan hệ vay vốn, dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền đổi tiền, mua chứng khoán.v.v. Nguồn vốn tiển gửi là nguồn vốn tỷ trọng rất lớn có thể gấp hàng chục lần vốn tự có tạo tiền đề cho ngân hàng mở rộng nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của kinh doanh ngân hàng. Nguồn vốn tiền gửi càng lớn, càng ổn định càng đảm bảo khả năng mở rộng và kinh doanh an toàn . Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh ngày càng gay gắt, thị trường tiền tệ càng không ổn định do lạm phát, ngân hàng càng gặp khó khăn trong kinh doanh, nguồn vốn không ổn định cho vay gặp nhiều rủi ro, lãi suất tiền gửi và cho vay đều tăng lên và biến động theo thị trường. Từ lý do trên, các ngân hàng dần dần bãi bỏ hệ thống lãi suất cố định thay thế bằng hệ thống lãi suất thị trường lấy lãi suất thị trường liên ngân hàng làm cơ sở như Luân Đôn vào lúc 12 giờ trưa gọi là lãi suất LIBOR, ở Singapore gọi là Sibor, ở Tokio gọi là Tobor nhằm chuyển rủi ro lãi suất sang khách hàng vay vốn, đồng thời bảo hiểm lãi suất tiền gửi theo thị trường để thu hút và giữ khách hàng gửi tiền. Quá trình cạnh tranh khiến các ngân hàng nghiên cứu tìm tòi tạo ra dịch vụ mới, thể thức gửi tiền mới, tạo ra tài khoản tiền gửi mới đa dạng vừa thoả mãn nhu cầu, mục đích gửi tiền của khách hàng vừa đảm bảo nhu cầu nguồn vốn lớn ổn định lâu dài ít chịu rủi ro lãi suất của ngân hàng. Các NHTM tạo ra và sử dụng rất nhiều loại tài khoản tiền gửi của khách hàng. Nhưng chung quy có các loại cơ bản sau: + Tài khoản vãng lai hay tài khoản " Séc ". + Tài khoản tiền gửi ( Không kỳ hạn - Có kỳ hạn ). + Tài khoản tiền gửi thanh toán ( Tổ chức kinh tế - Cá nhân ) Mục đích chung của các khách hàng gửi tiền là tiền gửi an toàn, được dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, rút tiền thuận tiện nhanh chóng và được lãi suất cao. - Tiền gửi của các doanh nghiệp chủ yếu nhằm mục đích được ngân hàng cung ứng dịch vụ thanh toán hơn là kiếm lời. Ngược lại, doanh nghiệp lại thường có nhu cầu vay vốn trung và dài hạn cho đầu tư đổi mới công nghệ. - Các hộ gia đình, cá nhân là những chủ thể tiết kiệm đầu tư kiếm lời bằng gửi tiền vào ngân hàng hoặc mua chứng khoán. Vì những lý do trên trước khi đi sâu vào từng loại tài khoản tiền gửi khách hàng chúng ta xem xét vấn đề quản trị tài chính tức là mối quan hệ giữa nguồn vốn sử dụng nhằm đảm bảo an toàn kinh doanh đồng thời không đọng vốn kém hiệu quả . Hiện nay luật ngân hàng các nước thường không cho phép NHTM sử dụng toàn bộ nguồn vốn tiền gửi để cho vay vì khi khách hàng đến rút tiền nhiều dễ làm ngân hàng mất khả năng thanh toán nếu không cứu trợ sẽ làm ngân hàng ngừng hoạt động gây phản ứng dây chuyền hoản loạn ngân hàng. Các ngân hàng phải dự trữ một tỷ lệ tối thiểu gọi là dự trữ bắt buộc. Ngoài ra các ngân hàng còn tự phòng xa, tự bảo vệ nên họ còn duy trì một lượng dự trữ tại két ( Dự trứ quá mức ) để đáp ứng nhu cầu thanh toán tức thì . Từ năm 1933 ở Mỹ đã thiết lập hệ thống bảo hiểm tiền gửi do hệ thống dự trữ liên bang đảm nhiệm, có nước do hiệp hội ngân hàng bảo vệ khách hàng gửi tiền và bảo vệ an toàn kinh doanh ngân hàng. Chính điều này đã tạo ra vị thế ổn định vững chắc và suốt một thời gian dài ở Mỹ không xẩy ra một cuộc hoảng loạn ngân hàng. Một ngân hàng mạnh thường thu hút được nhiều khách hàng lớn gửi tiền và tổng nguồn vốn tiền gửi lớn, ổn định do sự bù trừ giữa tăng và giảm các số dư tài khoản tiền gửi, tạo điều kiện cho ngân hàng cho vay trung hạn, dài hạn với lãi suất cao, doanh thu lớn, lợi nhuận nhiều. 1.3.2. Các loại tài khoản tiền gửi : a) Tài khoản vãng lai hay tài khoản séc : Là tài khoản nhận tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng và thông qua tài khoản này ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán thu hộ, chi hộ cho khách hàng, dịch vụ rút tiền chuyển tiền hộ. Việc sử dụng séc thanh toán rất tiện lợi với nhiều thể loại như: Séc rút tiền mặt, séc chuyển tiền cầm tay, séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức, séc du lịch.v.v. Nên có tên gọi khác là tài khoản séc. Ngoài ra chủ tài khoản có thể sử dụng tất cả các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt như UNC chuyển tiền, uỷ nhiệm thu, thư tín dụng rút ngân phiếu thanh toán, sử dụng thẻ thanh toán. Hơn nữa, thông qua tài khoản này có thể sử dụng để vay tiền tạm thời của ngân hàng khi cần thiết ( Lúc đó tài khoản dư nợ ) được gọi là thấu chi. Như vậy tài khoản này có thể dư nợ hoặc dư có. Nhờ những đặc điểm này nên tài khoản này rất thông dụng phổ biến ở các nước cho các doanh nghiệp và cho cả người dân, sử dụng rất tiện lợi, linh hoạt uyển chuyển phù hợp với kinh tế thị trường. Tài khoản này hiện nay ở nước ta không áp dụng. Tuy nhiên khoản thấu chi phải được thoả thuận và chấp nhận của ngân hàng đưa vào kế hoạch nguồn vốn cho thấu chi theo hạn mức. Thông thường không phải mọi khách hàng được phép thấu chi. Đối với khách hàng không được phép thấu chi mà phát hành séc quá số dư hoặc được phép nhưng phát hành quá hạn mức sẽ gây ấn tượng xấu về ngân hàng, cần có chế độ tài phạt, thu hồi quyền thấu hoặc đóng tài khoản nếu cần thiết. Theo dõi tình hình thu, chi trên tài khoản vãng lai được ghi trên bảng kê cung cấp cho khách hàng cá nhân hàng tháng, cho doanh nghiệp hàng tuần, hàng ngày nếu giao dịch nhiều để đối chiếu kiểm tra. Khối lượng dịch vụ đối với tài khoản vãng lai nhiều, phức tạp vất vả nên có mức thu phí dịch vụ định kỳ, từng lần cũng có nước miễn phí không trả lãi hoặc miễn phí có trả lãi nhằm thu hút khách hàng và tiền gửi. Tài khoản này cũng có thể sử dụng cho các loại ngoại tệ. b) Tài khoản tiền gửi : * Tiền gửi không kỳ hạn: Tài khoản này được mở và sử dụng nhằm vừa đáp ứng nhu cầu tiền gửi hưởng lãi suất thấp vừa đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hành vô điền kiện bất cứ lúc nào. Khách hàng mở và sử dụng tài khoản này chủ yếu là người dân, họ thường trích một phần thu nhập hàng tháng gửi vào tài khoản để dự phòng chi tiêu, khi cần họ rút tiền ra để sử dụng. Đây là một tài khoản tiền gửi không kỳ hạn nhưng không sử dụng các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt. Mặc dù khách hàng có quyền rút tiền bất kỳ lúc nào nhưng nhìn chung tổng số dư tiền gửi tiết kiệm vẫn tăng ổn định và chắc chắn theo mức thu nhập bình quân, tỷ lệ tiết kiệm của dân cư tăng. Số lượng khách hàng mở và sử dụng ngày càng tăng và rất lớn nên nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm tăng lên ổn định tạo cho ngân hàng tính toán sử dụng để cho vay có kỳ hạn. Lãi suất trả thấp và được tính lãi theo ngày, trả theo định kỳ tháng, quý, nửa năm theo lãi đơn hoặc lãi kép. ở nhiều nước ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng tài khoản này để thanh toán với các thể thức thanh toán thông dụng như séc thanh toán, ngân phiếu thanh toán, thẻ thanh toán nên được coi là tài khoản tiền gửi thanh toán hay tài khoản tiền gửi cá nhân. ở một số nước ngân hàng còn cho phép sử dụng tài khoản này như một tài khoản vãng lai cho người dân tức là họ được quyền sử dụng hạn mức thấu chi, sử dụng thẻ t._.ín dụng. * Tiền gửi có kỳ hạn: Mục đích mở và sử dụng tài khoản này của khách hàng doanh nghiệp hay cá nhân là nhằm mục đích kiếm lời. Khách hàng gửi tiền vào các tài khoản này theo kỳ hạn nhất định tương tự như mua tín phiếu được hưởng lãi suất cao hơn vì không được rút tiền trước hạn. Tuy nhiên thực tế khách hàng được phép rút tiền trước ngày đến hạn nhưng ngân hàng không khuyến kích nên không trả lãi hoặc lãi rất thấp cho những ngày đã gửi. Tương tự như những loại tín phiếu không ghi danh có thể chuyển nhượng trên thị trường và sẽ bị chiết khấu. Đối với nguồn vốn tiền gửi trên tài khoản là có kỳ hạn nên ngân hàng có thể chủ động và yên tâm sử dụng cho vay và có thể chuyển hoá cho vay trung hạn. ở một số nước trong quá trình đổi mới tài chính người ta nhận thấy người dân mở và sử dụng tài khoản này vừa nhằm mục đích kiếm lời vừa nhằm để giành tích lũy mua nhà đất hoặc tài sản đắt tiền như ô tô... Nên họ đưa ra tài khoản tiền gửi ( Tiết kiệm ) dài hạn, vừa được hưởng lãi suất cao hơn vừa có thể được vay một món tiền nhất định khi tích luỹ gần đủ. c) Tài khoản tiền gửi thanh toán tổ chức kinh tế: Hầu hết các doanh nghiệp đều phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Việc mở tài khoản tại ngân hàng nó đã tạo ra được rất nhiều thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán được nhanh chóng, an toàn cũng như để tạo điều kiện tốt cho quan hệ tín dụng với ngân hàng được nảy sinh khi doanh nghiệp có nhu cầu về vốn. d) Tài khoản tiền gửi cá nhân : Đây là loại tài khoản tiền gửi được cải tiến từ tài khoản tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Tài khoản này dùng cho người dân, từng bước cho họ làm quen với thanh toán không dùng tiền mặt, trước hết sử dụng phát hành séc rút tiền mặt, sau này là séc thanh toán, thẻ thanh toán và có thể cả thẻ tín dụng. Chương II thực trạng mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng công thương bãi Cháy 2.1. Khái quát tình hình phát triển kinh tế địa phương và kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng công thương Bãi cháy : 2.1.1. Quảng Ninh đổi mới và phát triển : Cùng với các Đảng bộ trong cả nước Đại hội Đại biểu lần XI của Đảng bộ tỉnh ta được tiến hành vào thời điểm lịch sử có ý nghĩa quan trọng. Nhân loại vừa kết thúc thể kỷ 20, bước sang thể kỷ 21. Công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua 15 năm, mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức đã thu được nhiều thành tịu quan trọng tạo đà phát triển cho thời gian đó. Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh làn thứ XI có nhiệm vụ đánh giá kết qủa 15 năm đổi mới, kiểm điểm 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X, đề ra phương hướng, nhiệm vụ cụ thể của Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta trong nhiệm kỳ tới nhằm tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng Quảng Ninh ngày càng giầu đẹp, văn minh. Trong 15 năm qua ( 1986 - 2000 ) thực hiện đường lối đổi mới theo tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, và các nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII, IX, X Kinh tế - Xã hội của tỉnh đã trải qua các giai đoạn phát triển với những cơ hội thuận lợi và những khó khăn thách thức lớn. Giai đoạn từ 1986 - 1990, chúng ta cùng đứng trước những khó khăn thử thách gay gắt chung của cả nước: Nền kinh tế đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng do cơ chế tập trung quan liêu bao cấp còn nặng nề và những sai lầm lớn trong chính sách giá - Lương - Tiền ... Giai đoạn 1991 - 2000 ngoài những khó khăn nêu trên lại có những khó khăn, thách thức mới. Thời tiết diễn biến phức tạp, nhiều đợt thiên tai liên tiếp xảy ra, tình hình Quốc tế không ổn định, nhất là sự tác động nhiều mặt của cuộc khủng hoảng tài chính - Tiền tệ khu vực. Trong hoàn cảnh đó, Đảng bộ và nhân dân tỉnh ta đã phát huy truyền thống, bản chất cách mạng, ý thức tự lực tự cường của giai cấp công nhân vùng mỏ, kiên định và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng phù hợp với điều kiện của địa phương, đoàn kết, khắc phục khó khăn, phấn đấu vươn lên và đạt được những kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực chính trị, Kinh tế - Xã hội, an ninh quốc phòng. Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 1991 - 2000 bình quân hàng năm tăng 11% ( Theo giá trị thực tế ) cao hơn giai đoạn 1986 - 1990. Riêng từ năm 1996 - 2000 tốc độ tăng trưởng chung của cả nước có giảm nhưng ở tỉnh ta vẫn giữ được nhịp độ khá, tăng hàng năm 11%. GDP bình quân đầu người năm 2000 so với năm 1990 tăng lên hai lần. - Văn hoá - Xã hội phát triển có nhiều tiến bộ mới. Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, phát thanh truyền hình được củng cố xây dựng và mở rộng cả về quy mô và chất lượng. - Đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện, các nhu cầu thiết yếu của nhân dân ngày càng đảm bảo. - Tình hình chính trị - Xã hội ổn định, an ninh - Quốc phòng được giữ vững. Công tác trị an trên các địa bàn quan trọng như vùng biên giới, hải đảo, vùng dân tộc được tăng cường. Những thành tựu qua 15 năm đổi mới của tỉnh ta là to lớn, đã làm thay đổi căn bản bộ mặt thành thị, nông thôn, tạo ra sự chuyển biến về chất đối với cuộc sống của nhân dân các dân tộc trong tỉnh, củng cố và làm tăng vị thế của một tỉnh nằm trong vùng trọng điểm phát triển kinh tế Bắc Bộ. Ngân hàng công thương Bãi Cháy nằm trên địa bàn khu vực Bãi Cháy gôm 03 phường và 01 xã nằm phía tây Thành phố Hạ Long. Trong thời kỳ đổi mới Bãi Cháy đã diễn ra quá trình đô thị hoá rất nhanh, gắn liền với chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ Nông nghiệp, Lâm nghiệp sang công nghiệp dịch vụ và thương mại là chủ yếu. Bãi cháy có tầm quan trọng lớn lao về chiến lược phát triển kinh tế an ninh chính trị quốc phòng đặc biệt là tiềm năng để phát triển kinh tế biển và du lịch. Là đầu cầu năm bên Vịnh Hạ Long di sản thiên nhiên của thế giới. Trung tâm nổi tiếng trong nước và thế giới phía trong là cảng dầu lớn và cảng nước sâu Cái Lân lớn nhất nước ta có thể đón tàu có trọng tải lớn vào cảng dễ dàng, mặt khác cảng biển nước sâu Cái Lân còn có lợi thế là nắm trong Vịnh Hạ Long thuận tiện ẩn tránh cho tầu bè vào mùa mưa bão. Ngoài ra khu công nghiệp Cái Lân đã ra đời và đi vào hoạt động nhà máy dầu thực vật,... còn nhiều nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng lớn đã cung cấp sản phẩm cho nhu cầu xây dựng trong toàn tỉnh và các tỉnh bạn. Bãi Cháy là đầu mối giao thông quan trọng giữa miền tây và miền đông của tỉnh các cơ sở kinh tế của trung ương và địa phương đóng trên địa bàn hàng năm đã đóng góp cho ngân sách của địa phương một khoản thu đáng kể. Có thể hình dung Bãi cháy là một vùng kinh tế mở phát triển nhanh và được nhìn nhận là bộ mặt của Thành Phố Hạ Long và tỉnh Quảng Ninh trong thời kỳ đổi mới. 2.1.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng công thương Bãi Cháy năm 1998 , 1999, 2000, 2001. a) Cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Ngân hàng công thương Bãi Cháy: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, ngành ngân hàng cũng đã lớn mạnh không ngừng, cả quy mô và hình thức. Có một vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh đầu tư, ổn định tiền tệ và phục vụ thanh toán được nhanh chóng... góp phần tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển. Chiếm vị trí chủ đạo trong hoạt động ngân hàng là các ngân hàng quốc doanh mà ngân hàng công thương Việt Nam là một trong nhưng ngân hàng hàng đầu trong cả nước với một hệ thống rộng khắp từ trung ương đến địa phương để đáp ứng nhu cầu về vốn, tiền tệ cũng như việc thanh toán kịp thời đối với nền kinh tế. Chi nhánh ngân hàng công thương Bãi Cháy đã được thành lập, trên cơ sở nâng cấp từ một phòng giao dịch thuộc hội sở ngân hàng công thương Quảng Ninh, được hoạt động chính thức từ 01 tháng 4 năm 1990. Ngân hàng công thương Bãi Cháy là một ngân hàng hoạt động trên nguyên tắc hạch toán theo toàn ngành chịu sự chỉ đạo toàn diện của ngân hàng công thương Việt Nam mà trực tiếp là ngân hàng công thương Quảng Ninh. Với đội ngũ 56 cán bộ công nhân viên. Ngân hàng Công thương Bãi Cháy có một cơ cấu tổ chức tương đối hoàn chỉnh cụ thể như sau. Ban giám đốc Phòng kinh doanh Phòng kế toán tài chính Phòng ngân quỹ Phòng hành chính nhân sự Tổ kiểm tra b) Các mặt công tác nghiệp vụ: Bãi Cháy là một phường đông dân cư và là một địa danh du lịch nổi tiếng, cho nên cùng với hoạt động của ngân hàng công thương, là các ngân hàng khác như ngân hàng Nông Nghiệp, ngân hàng cổ phân Nông Thôn chính những điều đó đã gây nên ảnh hưởng phần nào đối với quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhưng với sự năng động sáng tạo trong quá trình hoạt động kinh doanh nên ngân hàng công thương Bãi Cháy đã thu hút được phần lớn khách hàng là các doanh nghiệp, các cá nhân trong địa bàn hoạt động chủ yếu của chi nhánh là huy động tiền gửi và cho vay làm dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, hạch toán theo hệ thống tài khoản kế toán thống nhất của Ngân hàng công thương Việt Nam, hàng năm chi nhánh tự xây dựng kế hoạch đã được Ngân hàng cấp trên phê duyệt như kế hoạch về nguồn vốn và sử dụng vốn, các kế hoạch về tài chính. Khách hàng của chi nhánh là các doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu trong các lĩnh vực sản xuất vật liệu xây dựng, đóng tầu, xăng dầu, du lịch, dịch vụ và tư nhân cá thể. Mặc dù đặc điểm địa bàn kinh doanh của ngân hàng công thương Bãi Cháy đa đạng phong phú có kinh tế biển, kinh tế rừng và hoạt động du lịch phát triển. Song trong những năm qua ở Quảng Ninh nền công nghiệp thương mại và du lịch có một thời kỳ phát triển rầm rộ sau đó chững lại bộc lộ những khó khăn làm ăn thua lỗ, mặt hàng xuất khẩu nghèo nàn, doanh thu du lịch giảm việc làm ăn buôn bán với Trung Quốc bị công nợ dây dưa kéo dài ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các chi nhánh ngân hàng công thương trong tỉnh Quảng Ninh nói chung và ngân hàng công thương Bãi Cháy nói riêng. Từ thực tế trên trải qua 10 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng dưới sự lãnh đạo của cấp Uỷ Chính Quyền tỉnh nhà, của ngân hàng cấp trên. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh ổn định chi nhánh ngân hàng công thương Bãi Cháy cải tiến phong cách lề lối làm việc chấn chỉnh hoạt động ngân hàng, thực hiện tốt phương trâm " Đi vay để cho vay " Ngân hàng công thương Bãi Cháy tự nỗ lực phấn đấu vươn lên trong một môi trường kinh doanh hết sức khó khăn để tự khẳng định mình và đã gặt hái một số kết quả trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, về tiền tệ tín dụng, dịch vụ ngân hàng qua số liệu của những năm gần đây như sau. a) Công tác huy động vốn: Biểu 1 tình hình huy động vốn ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 31/12 31/12 ± so với 98 31/12 ± so với 99 31/12 ± so 2000 Tổng nguồn 83.335 94.940 + 11.605 109.697 + 14.757 137.188 +27.491 TG tiết kiệm kỳ phiếu 75.851 88.447 + 12.596 100.831 + 12.384 127.062 + 26.231 TG các tổ chức kinh tế 7.484 6.493 - 992 8.380 + 1.888 9.695 +1.315 Huy động khác 486 431 -55 Nguồn: theo báo cáo tổng kết năm 1998, 1999, 2000, 2001 Nhìn bảng số liệu trên cho ta thấy công tác huy động vốn tại ngân hàng công thương Bãi Cháy đã tăng đều đặn qua các năm trong đó nguồn tiền gửi kỳ phiếu ( Trong dân cư ) chiếm đại đa số đây là nguồn vốn rất quan trọng, đặc biệt tiền gửi có kỳ hạn với nguồn vốn tiết kiệm có kỳ hạn tăng ổn định, số dư vững chắc, chiếm tỷ trọng lớn đã giúp cho ngân hàng công thương Bãi Cháy có thể sử dụng nguồn vốn chủ động trong kinh doanh. + Tổng nguồn vốn tính đến 31/12/1999 đạt 94.940 triệu đồng so với năm 31/12/1998, tăng tỷ trọng 13,9%. - Trong đó tiền gửi tiết kiệm kỳ phiếu năm 1999 so với năm 31/12/1998 tăng tỷ trọng 16,6 %. - Tiền gửi các tổ chức kinh tế năm 1999 là 6.493 triệu đồng so với năm 31/12/1998 giảm 992 triệu đồng tỷ trọng giảm - 13,25%. - Tiền gửi các tổ chức kinh tế đến 31/12/2000 đạt 8.380 triệu đồng so với năm 31/121999 tăng 1.888 triệu đồng. + 31/12/2000 tổng nguồn vốn huy động 109.697 triệu đồng so với năm 31/12/1999 tăng tỷ trọng 15,35% - Tiền gửi tiết kiệm kỳ phiếu 31/12/2000 đạt 100.831 triệu đồng so với 31/12/1999 tỷ trọng tăng 14%. - Tiền gửi các tổ chức kinh tế 31/12/2000 đạt 8.380 triệu đồng so với 31/12/1999 tỷ trọng tăng 29,08%. + 31/12/2001 tổng nguồn vốn huy động đạt 137.188 triệu đồng so với 31/12/2000 tăng 27.491 triệu đồng tỷ trọng tăng 25,06%. - Tiền gửi tiết kiệm kỳ phiếu 31/12/2001đạt 127.062 triệu đồng so với 31/12/2000 tăng 26.231 triệu đồng tỷ trọng tăng 26,01%. - Tiền gửi các tổ chức kinh tế 31/12/2001 đạt 9.695 triệu đồng so với 31/12/2000 tăng 1.315 triệu đồng tỷ trọng tăng 15,69%. - Huy động khác 31/12/2000 đạt 431 triêụ đồng so với 31/12/2000 giảm 55 triệu tỷ trọng giảm 11,3%. Mặc dù công tác huy động vốn của ngân hàng công thương Bãi Cháy gặp nhiều khó khăn: Ngân hàng công thương Việt Nam liên tục điều chỉnh lãi suất tiền gửi trong khi các ngân hàng trên địa bàn thường xuyên huy động với lãi suất cao, hệ thống Bưu điện triển khai thực hiện dịch vụ tiền gửi dân cư song qua số liệu thực tế về tình hình huy động vốn năm 2000, 2001 ( biểu 1 ) cho thấy tổng nguồn vốn huy động đều tăng so với năm 1998, 1999 và giữ được thế chủ động tăng trưởng. Tuy nhiên nguồn tăng tập trung chủ yếu ở bộ phân tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi các tổ chức kinh tế tăng nhưng không đáng kể, huy động vốn ngoại tệ còn rất yếu chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng nguồn. Biểu 2: Công tác sử dựng vốn ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1998 năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 31/12 31/12 ± so 98 31/12 ± so 99 31/12 ± so 2000 Tổng dư nợ cho vay 71.244 97.203 + 25.959 55.937 - 41.266 41.712 -14.225 * Cho vay ngắn hạn 57.846 84.528 + 26.682 45.450 - 39.078 28.446 -17.004 - Kinh tế quốc doanh 50.519 79.011 + 28.492 41.360 - 37.651 26.168 -15.192 - KT ngoài quốc doanh 7.327 5.517 - 1.810 4.090 - 1.427 * Cho vay trung hạn 12.159 10.923 - 1.236 9.190 - 1.733 9.555 +365 - Kinh tế quốc doanh 8.500 6.679 - 1.821 4.432 - 2.247 3.666 -766 - KT ngoài quốc doanh 3.659 4.244 + 585 4.758 + 514 5.889 +1.131 *Cho vay tài trợ uỷ thác 1.239 1.195 - 44 593 - 602 381 -212 Nguồn: Theo báo cáo tổng kết năm 1998, 1999, 2000, 2001 Qua số liệu trên cho thấy tình hình sử dụng vốn của ngân hàng công thương Bãi Cháy như sau: * Tổng dư nợ đến 31/12/ 1999 đạt 97.203 triệu đồng so với 31/12/1998 tăng tỷ trọng 36,43%. + Cho vay ngắn hạn đến 31/12/1999 đạt 84.528 triệu đồng so với 31/12/1998 tăng tỷ trọng 46,12%. - Kinh tế quốc doanh đến 31/12/1999 đạt 79.011 triệu đồng so với 31/12/1998 tỷ trọng tăng 56,39%. - Kinh tế ngoài quốc doanh đến 31/12/1999 đạt 5.517 triệu đồng so với 31/12/1998 giảm tỷ trọng - 24,70%. + Cho vay trung hạn đến 31/12/1999 đạt 10.923 triệu đồng so với 31/12/1998 giảm tỷ trọng - 10,16%. - Kinh tế quốc doanh đến 31/12/1999 đạt 6.679 triệu đồng so với 31/12/1998 giảm tỷ trọng - 21,42%. - Kinh tế ngoài quốc doanh đến 31/12/1999 đạt 4.244 triệu đồng so với 31/12/1998 tăng tỷ trọng 15,98%. + Cho vay tài trợ uỷ thác đên 31/12/1999 đạt 1.195 triệu đồng so với 31/12/1998 giảm tỷ trọng - 3,55%. * Tổng dư nợ đến 31/12/2000 đạt 55.937 triệu đồng so với 31/12/1999 giảm tỷ trọng - 42,45%. + Cho vay ngắn hạn 31/12/2000 đạt 45.450 triệu đồng so với 31/12/1999 giảm tỷ trọng - 46,23%. - Kinh tế quốc doanh đến 31/12/2000 đạt 41.360 triệu động so với 31/12/1999 giảm tỷ trọng - 47,65%. - Kinh tế ngoài quốc doanh đến 31/12/2000 đạt 4.090 triệu đồng so với 31/12/1999 giảm tỷ trọng - 25,87%. + Cho vay trung hạn đến 31/12/2000 đạt 9.190 triệu đồng so với 31/12/1999 giảm tỷ trọng - 15,86%. - Kinh tế quốc doanh đến 31/12/2000 đạt 4.432 triệu đồng so với 31/12/1999 giảm tỷ trọng - 33,64%. - Kinh tế ngoài quốc doanh đến 31/12/2000 đạt 4.758 triệu đồng so với 31/12/1999 tăng tỷ trọng 12,11%. + Cho vay tài trợ uỷ thác đến 31/12/2000 đạt 593 triệu đồng so với 31/12/1999 giảm tỷ trọng - 50,37%. * Tổng dư nợ đến 31/12/2001 đạt 41.712 triệu đồng so với 31/12/2000 giảm tỷ trọng - 25,43%. + Cho vay ngắn hạn đến 31/12/2001 đạt 28.446 triệu đồng so với 31/12/2000 giảm tỷ trọng - 37,41%. - Kinh tế quốc doanh đến 31/12/2001 đạt 26.168 triệu đồng so với 31/12/2000 giảm tỷ trọng - 44,3%. - Kinh tế ngoài quốc doanh đến 31/12/2001 đạt 1.278 triệu đồng so với 31/12/2000 giảm tỷ trọng - 68,75%. + Cho vay trung hạn đến 31/12/2001 đạt 9.555 triệu đồng so với 31/12/2000 tăng tỷ trọng 3,97%. - Kinh tế quốc doanh đến 31/12/2001 đạt 3.666 triệu đồng so với 31/12/2000 giảm tỷ trọng - 17,28%. - Kinh tế ngoài quốc doanh đến 31/12/2001 đạt 5.889 triệu đồng so với 31/12/2000 tăng tỷ trọng 23,77%. + Cho vay tài trợ uỷ thác đến 31/12/2001 đạt 381 triệu đồng so với 31/12/2000 giảm tỷ trọng - 35,75%. - Năm 2000 so với năm 1999 giảm 41.266 triệu đồng nhìn chung hoạt động tín dụng của chi nhánh năm 2000 đã phần nào bị thu hẹp. Tuy nhiên ngân hàng công thương Bãi Cháy còn có chính sách khách hàng như ưu đãi về lãi suất đối với khách hàng có số dư nợ cao, làm ăn có uy tín để thu hút được những đơn vị , nhà máy lớn về quan hệ với giao dịch tại ngân hàng công thương Bãi Cháy vì vậy số dư nhìn chung qua các năm của thành phần kinh tế quốc doanh tăng chiếm tỷ trọng lớn, góp phần vào tăng trưởng về đầu tư cho vay tại ngân hàng công thương Bãi Cháy. c) Về công tác ngân quỹ : Biểu 3: Thu chi tiền mặt ĐVT: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Doanh số thu 318.800 402.628 559.496 476.136 Doanh số chi 419.238 396.633 562.901 476.233 Nguồn: Theo báo cáo tổng kết năm 1998, 1999, 2000, 2001. Đảm bảo nhu cầu về tiền mặt đối với mọi tổ chức cá nhân trong địa bàn cũng là một khâu quan trọng trong hoạt động ngân hàng. Nếu thu, chi tiền mặt được tốt đảm bảo chính xác, kịp thời thoả mãn được mọi nhu cầu về tiền mặt của khách hàng sẽ làm tăng sự tin cậy và uy tín của ngân hàng. Ngoài nguồn thu tiền mặt rồi dào để thoả mãn nhu cầu tại chỗ của khách hàng, ngân hàng công thương Bãi Cháy còn điều chuyển về ngân hàng công thương Quảng Ninh để thoả mãn nhu cầu chung trong toàn tỉnh. d) Kết quả kinh doanh: Biểu 4: Thu nhập chi phí và kết quả kinh doanh: ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 31/12 31/112 Tỷ trọng 31/12 Tỷ trọng 31/12 Tỷ trọng Tổng thu nhập 8.648 9.837 13,74 7.825 -20,45 9.692 23,85 Tổng chi phí 8.011 8.895,5 11,04 7.943 -10,70 10.341 30,08 LN hạch toán/1lđ 12 16,4 36,66 2 -87,8 1 -50 LN hạch toán 637 868,5 36,34 112 -87,1 -678 -705 Nguồn : theo báo cáo tổng kết năm 1998, 1999, 2000,2001 Kết quả kinh doanh là mục đích cuối cùng trong kinh doanh của mọi doanh nghiệp trong đó có ngân hàng công thương Bãi Cháy. Qua số liệu trên cho ta thấy: Lợi nhuận hạch toán năm 1998,1999 rất khả quan nhưng năm 2000 bị giảm. Lợi nhuận hạch toán trên một lao động cũng tương tự. Nhìn vào đây cho ta thấy lợi nhuận của hai năm 98, 99 khả quan yếu tố chủ yếu là do chất lượng của công tác tín dụng được cải thiện, dẫn đến chất lượng kinh doanh được tăng lên rõ rệt nên lợi nhuận hạch toán đã đạt được kết quả đáng khích lệ trong năm 2000 lợi nhuận hạch toán bị giảm cũng là do hoạt động tín dụng bị thu hẹp. đến năm 2001 lợi nhuận hạch toán dương nhưng do đầu năm ngân hàng hạch toán dự thu dự trả cho nên đến cuối năm 2001 mới có kết quả âm. Vì vậy hoạt động tín dụng là yếu tố quan trọng quyết định đến lợi nhuận của ngân hàng. 2.2 Thực trạng mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi ở ngân hàng công thương Bãi Cháy. - Nền kinh tế thị trường vận hành theo quy luật cung cầu trên các thị trường nói chung trên thị trường vốn tiền tệ nói riêng. Vấn đề khách hàng đực đặt lên vị trí hàng đầu của kinh doanh. Vì vậy các ngân hàng thương mại xem khách hàng là nguồn vốn tiền gửi là vấn đề cốt tử đối với kinh doanh ngân hàng. Hiện nay nền kinh tế nước ta đang chuyển mạch sang sản xuất hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường. Đa dạng hoá phương thức hoạt động, đa phương hoá quan hệ không ngừng mở rộng. Khách hàng của ngân hàng cũng ngày càng phong phú, nhu cầu của khách hàng cũng đa dạng. Mỗi khách hàng có nhu cầu mục đích khác biệt trong quan hệ với ngân hàng. Cho nên muốn chiếm lĩnh giành giật thị trường và thu hút khách hàng ngân hàng phải đổi mới toàn diện tạo ra các " Sản phẩm dịch vụ ngân hàng " đa dạng thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng. 2.2.1. Cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn của ngân hàng công thương Bãi Cháy. Hiện nay tại ngân hàng công thương Bãi Cháy cơ cấu tiền gửi theo kỳ hạn gồm có: - Tiền gửi các tổ chức kinh tế. - Tiền gửi dân cư. a) Tiền gửi các tổ chức kinh tế Là của các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân mở tài khoản tại ngân hàng để phục vụ công tác sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình gồm chuyển tiền đi và nhận tiền chuyển đến. Tiền gửi thanh toán doanh nghiệp. Tức là khách hàng uỷ thác trong ngân hàng quản lý một khối lượng tài sản nhất định, khách hàng không mất quyền sở hữu và quyền sử dụng số tiền này, họ có thể sử dụng bất kỳ lúc nào để chi trả cho bất kỳ ai cũng được. Thông qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt các dịch vụ tạo khả năng to lớn để khách hàng thực hiện được các nghiệp vụ có giá trị to lớn, cùng khắp địa phương một cách nhanh chóng chính xác đảm bảo an toàn mà bản thân khách hàng nếu tự đứng ra thực hiện sẽ rất tốn kém và khó khăn cho nên từ trước tới nay các tổ chức kinh tế có hoạt động sản xuất kinh doanh hầu hết đều mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng nhưng thực chất lượng tiền trên các tài khoản này chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số nguồn vốn huy động của ngân hàng công thương Bãi Cháy. Một phần do vốn của các tổ chức kinh tế do nhà nước cấp quá ít phải sử dụng vốn vay là chủ yếu nên đồng tiền phải quay vòng luân chuyển liên tục, không được phép " Nằm ì " trên tài khoản, và một phần cũng do mức lãi suất của loại tiền gửi này không có sự hấp dẫn với doanh nghiệp. Tiền gửi của các tổ chức kinh tế gồm hai loại: - Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền mà các tổ chức kinh tế gửi vào ngân hàng không có sự thoả thuận về thời hạn rút tiền, khách hàng có thể gửi vào rút ra bất kỳ lúc nào khi có nhu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn nói chùng là tiền còn nằm trong lưu thông chủ tài khoản có thể sử dụng bất kỳ lúc nào cho nên ngân hàng chỉ được dùng nguồn vốn này để cho vay ngắn hạn. - Tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế: Là khoản tiền mà các tổ chức kinh tế gửi vào ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời hạn rút tiền, về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn thoả thuận. Song trong thực tế do áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng để khuyến khích và thu hút khách hàng thì các ngân hàng có thể cho khách hàng rút tiền trước hạn song trong trường hợp ấy khách hàng không được hưởng lãi suất hoặc được hưởng nhưng lãi suất thấp, cho nên ngân hàng có nguồn vốn này lớn thì sẽ tạo ra được những thuận lợi đáng kể trong việc sử dụng vốn bởi vì nó xuất phát từ tính ổn định của nguồn vốn có kỳ hạn vì lý do đó nên các ngân hàng đã tìm mọi biện pháp này. Ví dụ: Như các ngân hàng có thể đưa ra nhiều thời hạn gửi tiền khác nhau để khách hàng có nhiều phương án lựa chọn sao cho phù hợp nhất với thời gian nhàn rỗi của các khoản tiền của họ, đồng thời ngân hàng áp dụng một chính sách lãi suất linh hoạt trên nguyên tắc thời hạn gửi tiền càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại. Với nguồn vốn tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế ngân hàng có thể cho vay mà không làm mất khả năng thanh toán. Nhưng trên thực tế nguồn vốn của các tổ chức kinh tế chiếm một tỷ trọng khôn lớn trong tổng số nguồn vốn huy động của ngân hàng công thương Bãi Cháy. b) Tiền gửi dân cư Tiền gửi dân cư chính là nghiệp vụ huy động tiết kiệm tiền nhàn rỗi trong nhân dân của toàn ngành ngân hàng. Đối với ngân hàng công thương Bãi Cháy tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động để phục vụ kinh doanh. Tiền gửi dân cư hiện nay ngân hàng công thương Bãi Cháy áp dụng hai hình thức huy động chủ yếu là: - Tiết kiệm không kỳ hạn - Tiết kiệm có kỳ hạn. Tiết kiệm không kỳ hạn là loại tiền gửi tiết kiệm mà khách hàng và ngân hàng không có sự thoả thuận về rút tiền loại tiết kiệm không kỳ hạn lãi suất thấp được áp dụng dưới hình thức gửi vào rút ra dễ dàng. Cho nên nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn thường là rất ít, nhưng tổng số tiền gửi này là rất lớn một khi trình độ nghiệp vụ của ngân hàng được nâng cao và sẽ là nguồn tài nguyên quan trọng của ngân hàng. Đối với người dân ngân hàng phải là nơi gửi có tín nhiệm để những số tiền mà người dân chưa sử dụng không còn là " Tiền chết ", cất dấu đâu đó trong nhà hay dưới gầm giường mà phải được gửi vào hệ thống ngân hàng từ đó được sử dụng có hiệu quả kinh doanh cho toàn nền kinh tế. Tuy vậy đối với ngân hàng công thương Bãi Cháy thì việc sử dụng nguồn vốn tiết kiệm không kỳ hạn không phải là nguồn chính mà nó chỉ là mang tính chất bổ trợ. - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là những khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cố định cho một số tiền nhất định nào đó. Nói cách khác khi khách hàng gửi một khoản tiền có kỳ hạn họ chỉ có thể rút ra khi đến hạn đã được thoả thuận, vì số tiền gửi kỳ hạn là cố định người gửi tiền có muốn cũng không thể tăng số dư trên một sổ tiền gửi khi chưa đến thời hạn thoả thuận, mà phải mở một sổ mới việc phát hành một sổ tiền gửi mới cho tiền gửi có kỳ hạn có thể thực hiện bất kỳ lúc nào và không có quy định số tiền quy định số tiền bắt buộc ban đầu, tuy nhiên để bù đắp các chi phí giao dịch ban đầu các ngân hàng thường quy định số tiền tối thiểu khi mở một sổ tiết kiệm có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn luôn được trả lãi mà các lãi suất được ngân hàng ấn định tuỳ thuộc vào thời hạn gửi tiền và thay đổi theo từng thời kỳ, khách hàng chỉ được hưởng toàn bộ lãi nếu rút tiền đúng hạn. Nhưng trong điều kiện kinh doanh với các áp lực cạnh tranh lớn để thu hút khách hàng các ngân hàng thường áp dụng chính sách vẫn trả lãi cho các khách hàng rút tiền trước thời hạn với lãi suất thấp hơn mức lãi suất thoả thuận ban đầu và thường bằng lãi suất của tiết kiệm không kỳ hạn. Ưu điểm của loại tiết kiệm này là mức lãi suất cao cho nên thu hút được nhiều lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư, lãi suất rằng buộc thời hạn nên hình thức tiết kiệm này là nguồn vốn khá ổn định để ngân hàng kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay và đi vay. Và đó cũng chính là dịch vụ kinh tế mà ngân hàng cung ứng với tư cách là người trung gian. Số liệu sau đây cho thấy nguồn vốn huy động bằng tiền gửi dân cư luôn tăng trưởng và cũng nói lên được nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng công thuơng Bãi Cháy luôn luôn ổn định. Biểu 5: Cơ cấu tiền gửi dân cư Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tiền gửi dân cư 75.851 88.447 100.831 127.062 Có kỳ hạn 73.492 86.767 88.501 122.986 Không kỳ hạn 2.359 1.680 12.330 5.076 Nguồn: Bảng cân đối năm 1998, 1999, 2000, 2001. 2.2.2 Cơ cấu tiền gửi theo chủ tài khoản : Tiền gửi tại Ngân hàng công thương hiện nay chủ yếu gồm 2 loại sau đây: + Tiền gửi cá nhân + Tiền gửi doanh nghiệp a) Tiền gửi cá nhân : Có thể nói việc mở tài khoản cá nhân trước tiên là việc tạo thu nạp tiền nhàn rỗi của mọi người dân tiếp đó là việc tạo tiền đề cho việc việc chi tiêu một cách đa năng bằng tiền mặt và không bằng tiền mặt, nhanh chóng gọn nhẹ an toàn mở tài khoản cá nhân là xu thế tiến bộ thích ứng và phù hợp với sự phát triển của xã hội và sự hoà nhập với cộng đồng Quốc tế. Việc mở tài khoản cá nhân nó chiếm tỷ trọng lớn trong các loại tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Một bài toán đơn giản việc triển khai mở rộng thanh toán trong khu vực dân cư chắc chắn sẽ có con số ngàn tỷ đồng trên số dư tiền gửi ở các ngân hàng thương mại để làm nguồn vốn cho vay nền kinh tế. Nâng cao tiện ích cho khách hàng cải tiến thủ tục lề nối làm việc đặc biệt tăng tiện ích trong lĩnh vực thanh toán. Mở rộng khối lượng thanh toán tài khoản cá nhân vấn đề này đang gặp không ít khó khăn. Từ thủ tục chứng từ thanh toán qua ngân hàng vẫn chưa cải tiến đơn giản hơn nên chưa phù hợp với trình độ phổ thông chung của dân cư. Do số lượng giao dịch thanh toán của dân cư qua ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng nhỏ bé nên toàn bộ nền kinh tế phải chịu những bất lợi sau: - Tiềm năng vốn nhàn rỗi trong dân cư là rất lớn nhưng chưa được khai thác có hiệu quả, mỗi cá nhân, mỗi gia đình có một khoản dự trữ tiền mặt để phục vụ cho nhu cầu giao dịch hàng ngày nhưng chưa gửi vào ngân hàng thương mại làm phân tán nguồn vốn nội lực của đất nước. Từ thực tế ở địa phương cho thấy phát triển tài khoản cá nhân là đúng đắn, vì một bộ phận dân cư đã dùng tài khoản để chi trả công lao động, mua sắm hàng hoá, chuyển tiền. Góp phần làm giảm lượng tiền trong lưu thông thúc đẩy thanh toán qua ngân hàng Là nguồn vốn chiếm tỉ trọng lớn và góp phần quan trọng trong toàn bộ cơ cấu vốn tiền gửi của Ngân hàng công thương trong kinh doanh tiền tệ , nó thường chiếm tỉ trọng từ 65-70% trong toàn bộ các loại tiền gửi tại Ngân hàng . Khả năng nguồn tiền gửi này còn có thể tăng ( Nếu thủ tục, hình thức huy động và lãi suất đơn giản, thích hợp và kích thích được người gửi ). Loại này chỉ 1 bản thân cá nhân gửi đồng thời là chủ tài khoản . b) Tiền gửi doanh nghiệp : Được cơ quan có thẩm quyền quyết định thành lập, có chỉ định người là chủ tài khoản cho doanh nghiệp. Nếu là doanh nghiệp Nhà nước phải được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định thành lập doanh nghiệp và chủ tài khoản. Phải có kế toán trưởng theo điều lệ. Loại này thường chiếm tỷ trọng từ 20-25% trong các nguồn tiền gửi. Hiện nay cũng như xu hướng tới nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp, tại các Ngân hàng số dư tiền gửi doanh nghiệp thường duy trì ở mức cần thiết do trình độ kinh doanh và khả năng tài vụ của doanh nghiệp ngày càng cao, vòng quay vốn càng được tận dụng tốt thì tiền gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng sẽ luôn biến động . Biểu: 6 Cơ cấu tiền gửi tổ chức kinh tế Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tiền gửi các tổ chức kinh tế Không kỳ hạn 7.484 6.493 8.380 9.695 Nguôn báo cáo tổng kết năm 1998, 1999, 2000, 2001. 2.2. 3 Đánh giá tình hình mở và sử dụng các loại tài khoản tiền gửi ở Ngân hàng công thương Bãi Cháy: Thực trạng mở và sử dụng tài khoản tiền gửi hiện nay của Ngân hàng công thương Bãi Cháy là : Được sự đầu tư của Ngân hàng công thương V._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28191.doc