Cái nhìn không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài (Qua hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ---------- NGUYỄN HOÀNG HÀ CÁI NHÌN, KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG HỒI KÝ CỦA TÔ HOÀI (Qua hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều) LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN – 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ---------- NGUYỄN HOÀNG HÀ CÁI NHÌN, KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬ

pdf113 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2337 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Cái nhìn không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài (Qua hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T TRONG HỒI KÝ CỦA TÔ HOÀI (Qua hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều) Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số : 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học : T.S. MAI THỊ NHUNG Thái Nguyên – 2009 MỤC LỤC Trang Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 PHẦN MỞ ĐẦU………………………………………………........... 1 1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………... 1 2. Lịch sử vấn đề …………………………………………………….. 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ………………………………… 6 4. Mục đích nghiên cứu ……………………………………………… 6 5. Nhiệm vụ nghiên cứu …………………………………………….. 7 6. Phương pháp nghiên cứu ………………………………………….. 7 7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ………………………….. 7 8. Cấu trúc luận văn ………………………………………………...... 8 PHẦN NỘI DUNG …………………………………………………... 9 Chƣơng 1: Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài ……… 9 1.1. Đặc điểm hồi ký của Tô Hoài …………………………………… 9 1.1.1. Khái niệm hồi ký ……………………………………………… 9 1.1.2. Nhà văn Tô Hoài và hành trình viết hồi ký của tác giả ……….. 11 1.1.3. Đặc điểm hồi ký của Tô Hoài …………………………………. 14 1.2. Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài ………………….. 16 1.2.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật ………………………………… 16 1.2.2. Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài ………………... 19 1.2.2.1. Cái nhìn chân thực mang đậm dấu ấn lịch sử ……………….. 19 1.2.2.2. Cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt đời thường 25 Chƣơng 2: Không gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài …… 39 2.1. Khái niệm không gian nghệ thuật ……………………………….. 39 2.2. Không gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài ……………….. 44 2.2.1. Không gian hiện thực cụ thể gắn với những sự kiện đáng nhớ… 44 2.2.2. Không gian sinh hoạt đời thường………………………….. 57 Chƣơng 3: Thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài ……… 79 3.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật ………………………………….. 79 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 3.2. Thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài ………………….. 83 3.2.1. Thời gian lịch sử rộng mở đa chiều ………………………….. 83 3.2.2. Thời gian đời tư đồng hiện chồng chéo ………………………. 91 KẾT LUẬN ………………………………………………………….. 100 THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO …………………………. 104 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Nhắc đến Tô Hoài là ta nhắc đến “một nhà văn có nghề nghiệp vững vàng với một công phu rèn luyện dẻo dai, bền bỉ”. Trên hành trình sáng tạo nghệ thuật gần 70 năm, Tô Hoài đã trải qua những mốc lịch sử đặc biệt quan trọng: trong chiến tranh và sau chiến tranh, trước và sau cách mạng, trước và sau thời kỳ đổi mới văn học. Thành tựu xuất sắc và độc đáo của Tô Hoài là những đóng góp quan trọng cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Đóng góp ấy thể hiện trên nhiều thể loại và đề tài: từ đề tài miền xuôi đến đề tài miền núi, từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện thiếu nhi đến kịch, ký,… . Hầu như ở thể loại và đề tài nào Tô Hoài cũng để lại dấu ấn rõ nét, đúng như G.S Hà Minh Đức đã nhận xét: “Tô Hoài là một cây bút văn xuôi sắc sảo và đa dạng”. 1.2. Tô Hoài được độc giả biết đến từ những sáng tác trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 với những truyện viết về đề tài thiếu nhi, về những con người ở một vùng quê ven đô. Những năm kháng chiến rồi hòa bình, ngòi bút của Tô Hoài chưa bao giờ ngưng nghỉ. Ông viết truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi ký… trong đó hồi ký là thể loại có vị trí đặc biệt thể hiện đậm nét phong cách nghệ thuật của nhà văn. Hồi ký của Tô Hoài thực sự được người đọc quan tâm và có những đánh giá sâu sắc khi các thể loại khác của ông đi vào giai đoạn gần như đã viên mãn. Hai tập hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều đã ghi lại hiện thực cuộc sống một cách chân thực, sinh động và sáng tạo. Nhắc đến hồi ký của Tô Hoài, chúng ta không thể không nhắc đến hai tập hồi ký này. 1.3. Tiếp cận và nghiên cứu văn học từ góc độ thi pháp là cách có sức hấp dẫn, hiệu quả khoa học cao. Bởi đối tượng của thi pháp học là tính quy luật nội tại của quá trình sáng tạo nghệ thuật văn chương. Trong đó hình thức là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 phương thức tồn tại và biểu hiện của nội dung. Để hiểu được nội dung chỉ có con đường là khám phá về hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Chính mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong nghệ thuật đã qui định cách tiếp cận của thi pháp học. Vì thế, việc nghiên cứu hồi ký của Tô Hoài từ góc độ thi pháp (cái nhìn, không gian và thời gian) sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn những giá trị các tập hồi ký của nhà văn Tô Hoài. 1.4. Lâu nay, các nhà nghiên cứu phê bình văn học đã dành nhiều công sức cũng như tâm huyết cho các sáng tác của Tô Hoài nhưng những công trình coi thể hồi ký là đối tượng chuyên biệt còn khá khiêm tốn. Đặc biệt, với mong muốn giúp giáo viên giảng dạy ở các bậc học cũng như bạn đọc yêu mến nhà văn Tô Hoài có một cái nhìn tổng quát về tác giả, đồng thời thấy được vẻ đẹp văn chương, sự cảm nhận tinh tế về hiện thực cuộc sống của nhà văn, chúng tôi chọn đề tài: “Cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài”. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam, một nhà văn “vừa vào nghề sớm lại vừa kéo dài tuổi nghề - một sự kéo dài đàng hoàng chứ không phải lê lết trong tẻ nhạt”(Vương Trí Nhàn). Trên nhiều trang viết của mình ông luôn có “một giọng điệu riêng, một cách nói riêng”(Phong Lê). Các trang viết với giọng điệu và cách thể hiện riêng ấy đã đem đến cho Tô Hoài một phong cách nghệ thuật đặc sắc. Bàn về giá trị văn chương Tô Hoài, xưa nay có rất nhiều ý kiến của các nhà văn, các nhà lý luận và phê bình văn học, nhưng nghiên cứu về hồi ký của ông thì cho đến nay chỉ có một vài bài viết và ý kiến nằm rải rác trong các công trình mang tính khái quát. Trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ điểm duyệt những nhận xét có liên quan đến hồi ký nói chung và những vấn đề có liên quan đến đối tượng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 nghiên cứu của đề tài: Cái nhìn, không gian và thời gian trong hồi ký của Tô Hoài nói riêng. Người đầu tiên nghiên cứu văn chương Tô Hoài là nhà nghiên cứu phê bình Vũ Ngọc Phan. Trong cuốn Nhà văn hiện đại, khi giới thiệu về Tô Hoài, Vũ Ngọc Phan đã có những đánh giá rất thiết thực và ý nghĩa về phong cách viết tiểu thuyết của Tô Hoài. Sau năm 1945, Tô Hoài đã cho ra đời nhiều tác phẩm. Số lượng công trình nghiên cứu văn chương Tô Hoài cũng không ngừng gia tăng. Những nhà phê bình có tên tuổi yêu thích văn chương Tô Hoài như: Phong Lê, Nguyễn Đăng Mạnh, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Vân Thanh, Nguyễn Văn Long, Vương Trí Nhàn, Trần Hữu Tá, Nguyễn Đăng Điệp… đã có những đánh giá thật tinh tế khách quan về các tác phẩm và văn chương của ông. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh khi nhận xét khái quát về tự truyện, hồi ký của Tô Hoài đã khẳng định: “Hồi ký, tự truyện của Tô Hoài là thể văn sở trường nhất của Tô Hoài … ở thể văn này, nhân vật trung tâm chính là cái tôi của người viết. Cho nên sự hấp dẫn của văn phong Tô Hoài xét đến cùng là sự hấp dẫn của cái tôi ấy ” [22. 43]. Trong bài viết Tô Hoài, sáu mƣơi năm viết, GS Phong Lê đã có những nhận xét rất tổng quát về các cuốn hồi ký của Tô Hoài từ Cỏ dại đến Chiều chiều. GS cho rằng: “Tô Hoài không chỉ là người có sức nhớ kỹ, nhớ dai mà hơn thế, những cái sống, cái nhớ của ông luôn dư đầy, là luôn luôn có mặt trong hiện tại. Một quá khứ luôn luôn được dồn về hiện tại, được hiện tại hóa – nhưng vẫn trong trang phục của quá khứ” [32. 43]. Qua bài viết Tô Hoài qua Tự truyện, PGS Vân Thanh lại nhận ra rằng: “Nhưng dẫu gần hoặc xa, dẫu là chuyện bản thân hoặc gia đình, làng xóm đâu đâu, qua những trang hồi ức của Tô Hoài, cũng vẫn một màu xám, một điệu buồn như vậy. Một cái buồn thấm vào tất cả từng tế bào, từng chân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 lông của cơ thể xã hội… Tôi cho là Tô Hoài đã thực sự có đóng góp vào văn học ta mảng sống buồn bã, vật lộn của một thế hệ tuổi thơ – hoặc được nhìn qua cách nhìn trẻ thơ để nói một cái gì bản chất của cuộc đời cũ. Mảng sống đó rất có nét dáng, góc cạnh, trước hết vì khả năng nhớ dai và rất động ở ký ức của Tô Hoài”. [32. 382 - 383]. Tác giả Phạm Việt Chương trong Những gƣơng mặt- Chân dung văn học Tô Hoài, cũng có nhận xét xác thực: “Chúng ta gặp lại Tô Hoài, tác giả của những tác phẩm phiêu lưu kỳ thú, khi anh viết về một loạt tác giả Việt Nam mà bạn đọc hằng yêu mến. Một điều dễ nhận, Tô Hoài sống, lăn lóc cùng các bạn văn thơ của mình viết về họ bằng bút pháp tả thực. Hiện thực trần trụi đọng lại thành kỷ niệm. Giọng văn hóm hỉnh mà không khinh bạc, anh điểm những câu kết gây cho người đọc nụ cười cố quên đi nỗi buồn nào do anh vừa kể qua,…” [32. 387]. Trong cuộc trao đổi giữa Xuân Sách và Trần Đức Tiến về Cát bụi chân ai, Trần Đức Tiến đã nhận xét: “Có thể nói, bằng cuốn sách của mình, lần đầu tiên ông đã cho thế hệ cầm bút chúng tôi nhìn một số “nhân vật lớn”của văn chương nước nhà từ một cự ly gần,… Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng thì không nói làm gì – các ông đã trở thành người thiên cổ từ khi chúng tôi chưa ra đời, hoặc còn bé xíu. Còn Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, chúng tôi cũng hầu như không có cơ hội để gần gũi, thậm chí để biết mặt. Không có một nhịp cầu liên hệ nào khác giữa các ông với chúng tôi, ngoài chính tác phẩm của các ông – những tác phẩm mà hàng chục năm mài đũng quần trên ghế nhà trường, chúng tôi chỉ có việc ra sức tìm bằng được những cái hay, cái tuyệt! Bây giờ, qua Tô Hoài, chúng tôi được “nhìn” gần – một khoảng cách tàn nhẫn, nhưng chính vì thế mà chân thực và sâu sắc” [32. 394]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 Cũng nghiên cứu về Cát bụi chân ai, tác giả Đặng Thị Hạnh đi sâu tìm hiểu cấu trúc thời gian và chỉ ra: “Dòng hoài niệm trong Cát bụi chân ai chạy lan man, rối rắm như ba mươi sáu phố phường, những phố hẹp của Hà Nội cổ đan xen nhau dày đặc, với những rẽ ngoặt quanh co…, vương quốc của Tô Hoài, Nguyễn Tuân (người sáng tạo ra từ “phố Phái”) và bạn bè. Thời gian hồi tưởng như ngẫu hứng, cũng chạy long bong theo dòng hoài niệm, móc vào đâu đấy, dừng lại một lát rồi lại đi, vấp phải một câu nói, có khi chỉ là một từ, tên con tàu Chantilly chẳng hạn, chứ không hẳn phải là một bóng chiều trên sóng hồ lăn tăn nhà Thủy Tạ, là đã có thể đổi chiều, đi ngược về trước hoặc lùi về sau, có khi hàng chục năm. Tưởng đó cũng là bình thường khi “trò chơi lớn”của văn viết hồi ký là đặt chồng lên nhau các lớp thời gian, cách viết này đã được nhiều nhà văn các nước, trước tiên là Chateaubriand “khánh thành”từ thế kỷ trước. Đối với giới nghiên cứu phương Tây điều này đánh dấu sự chuyển đổi vị trí (nghĩa là tầm quan trọng) của cái tôi nhân chứng trong các sự kiện lịch sử thời hiện đại: Việc không còn tuân thủ trình tự biên niên như hồi ký cổ điển khiến cho không gian và thời gian truyện kể được đặt cao hơn không gian và thời gian các sự cố được kể” [32. 398]. Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn cũng có những nhận xét về thể hồi ký của Tô Hoài. Trong Lời bạt: Tô Hoài và thể hồi ký, tác giả viết: “Trong cái động có cái tĩnh, dường như trong kho văn chương của tác giả luôn có một góc riêng dành cho cái mà người xưa hay gọi là dĩ vãng và nó được ông quan niệm như một bộ phận không thể thiếu của hiện tại”[25. 927- 928]. PGS. TS Đoàn Trọng Huy khi nghiên cứu về ký của Tô Hoài đã nhận ra rằng: “Sau Tự truyện là Cát bụi chân ai (1992). Đây là tập hồi ký đan xen vào nhau từng mảng hồi ức và kỷ niệm gắn với đời văn, bạn văn … trong một không gian và thời gian rộng mở”. “Cách viết nhiều biến hóa với những liên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 tưởng mạnh mẽ tung hoành theo không gian và thời gian nhiều chiều” [16. 495]. Nhìn chung các nhà nghiên cứu đều khẳng định vai trò và những đặc điểm riêng trong các tập hồi ký của Tô Hoài. Các tập hồi ký này có giá trị đánh dấu vị trí quan trọng trong toàn bộ sáng tác của tác giả. Các tập hồi ký của Tô Hoài đã cho chúng ta một cái nhìn toàn diện hơn về cuộc sống và con người trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Như vậy, vấn đề về hồi ký nói chung và về cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài nói riêng đã được các nhà nghiên cứu đề cập trong một số bài viết của mình. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những nhận xét ban đầu mà chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt. Vì vậy, tiếp thu và phát triển ý kiến của những người đi trước, chúng tôi đi sâu nghiên cứu vấn đề: “Cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài” với mong muốn tìm hiểu kỹ hơn về hồi ký ở góc độ thi pháp. 3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn không đi sâu nghiên cứu tất cả những vấn đề thi pháp mà chỉ tập trung vào: Cái nhìn nghệ thuật, không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Vì thời gian có hạn, luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề đặt ra qua hai tập hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều. Để có một cái nhìn toàn diện, chúng tôi có so sánh với những tập hồi ký khác của tác giả. 4. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài” nhằm hướng tới các mục đích sau: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 4.1. Cảm thụ hồi ký của Tô Hoài một cách sâu sắc hơn, hiểu rõ hơn một số phương diện thi pháp trong hồi ký, đồng thời làm rõ hơn đặc sắc riêng trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. 4.2. Từ đó có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về đóng góp của Tô Hoài cho nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, đặc biệt là trong thể hồi ký. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết có liên quan đến đề tài - Nghiên cứu một số phương diện: cái nhìn, không gian, thời gian nghệ thuật trong hai tập hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều của Tô Hoài 6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Để hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, luận văn sẽ vận dụng các quan điểm và thao tác nghiên cứu thi pháp học, sử dụng và phối hợp các phương pháp nghiên cứu văn học sau: - Phương pháp thống kê, khảo sát - Phương pháp phân tích, tổng hợp - Phương pháp so sánh, đối chiếu - Phương pháp hệ thống 7. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 7.1. Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Từ trước tới nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu cũng như bài viết về sáng tác của Tô Hoài. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt về vấn đề thi pháp: cái nhìn, không gian và thời gian trong hồi ký của Tô Hoài. Luận văn là công trình đầu tiên có tính chất chuyên biệt về vấn đề trên. Luận văn vừa kế thừa những nhận định, đánh giá của các nhà nghiên cứu đi trước, vừa tìm tòi, lựa chọn một số phương diện tiêu biểu trong thế giới nghệ thuật của nhà văn và đặt chúng trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ, để Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 từ đó nêu bật những đặc điểm thi pháp: cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài. 7.2. Kết quả của luận văn ít nhiều góp phần gợi mở hướng tiếp cận tác phẩm hồi ký trên phương diện thi pháp học. Giải quyết những vấn đề đặt ra luận văn đem lại cho người đọc yêu thích nhà văn Tô Hoài một cái nhìn đầy đủ hơn về tác giả. Đồng thời luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho giáo viên, học viên, sinh viên khi nghiên cứu tác giả Tô Hoài. 8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài Chương 2: Không gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài Chương 3: Thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 CÁI NHÌN NGHỆ THUẬT TRONG HỒI KÝ CỦA TÔ HOÀI 1.1. Đặc điểm hồi ký của Tô Hoài 1.1.1. Khái niệm hồi ký Thể loại hồi kí ra đời rất sớm, từ thời cổ Hi Lạp. Hồi ức của Kxê - nô – phôn và Xô- cơ- rát và những ghi chép của ông về các cuộc hành quân của người Hi Lạp (thế kỉ V tr. CN) thường được coi là những tác phẩm hồi kí cổ xưa nhất. Ở nước ta vào những năm cuối thập niên 90 thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI trên văn đàn xuất hiện nhiều tác phẩm hồi ký của văn nghệ sĩ, chủ yếu là các nhà văn đã tạo dựng một mảng sinh động của đời sống văn học mà có thể nói rằng trước đó chưa thể có. Nhiều sự kiện văn học quá khứ, nhiều số phận văn chương cùng nhiều vấn đề phức tạp của quá khứ gần, xa… đã được tái dựng theo một cách nhìn mới. Những chuyển động ban đầu báo hiệu tầm ảnh hưởng sâu rộng của hồi ký đối với tư tưởng cũng như cuộc sống có thể kể đến Đặng Thai Mai hồi ký, Từ bến sông Thƣơng của Anh Thơ và tiếp đó là những tác phẩm thu hút sự quan tâm, tạo được ấn tượng mạnh đối với độc giả như Cát bụi chân ai, Chiều chiều của Tô Hoài, Bút ký song đôi của Huy Cận, Nhớ lại một thời của Tố Hữu v.v. Vậy thế nào là hồi ký? Các tác giả của cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã đưa ra khái niệm: “Hồi ký là một thể loại thuộc loại hình ký, kể lại những biến cố đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người tham dự hoặc chứng kiến”. Nhóm tác giả cho rằng: “Xét về phương diện quan hệ giữa tác giả với sự kiện được ghi lại về tính chính xác của sự kiện, về góc độ và phương thức diễn đạt, hồi ký có nhiều chỗ gần với nhật ký. Còn về phương diện tư liệu, về tính xác thực và Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 không có hư cấu thì hồi ký lại gần với văn xuôi lịch sử, tiểu sử khoa học” [12. 152]. Cùng với quan niệm đó, tác giả Lại Nguyên Ân trong cuốn 150 thuật ngữ văn học cũng khẳng định: “Hồi ký là một dạng trứ tác thuộc nhóm thể tài ký. Tác phẩm hồi ký là một thiên trần thuật từ ngôi tác giả, kể về những sự kiện có thực trong quá khứ mà tác giả tham dự hoặc chứng kiến.” [2. 153]. Quan tâm đến vấn đề này, các tác giả của cuốn Lí luận văn học đã dành một chương nghiên cứu về tác phẩm kí văn học. Các tác giả cho rằng: “Phải là loại văn xuôi tự sự trần thuật những người thật việc thật với những đặc điểm riêng biệt trong mức độ và tính chất hư cấu, trong vai trò của người trần thuật cùng mối liên hệ giữa nó với đặc điểm của kết cấu và cốt truyện v.v…. thì mới làm nên đặc trưng của kí.” [13. 423]. Cũng trong cuốn này, các nhà lí luận văn học khẳng định: “Xét từ gốc và bản chất, thì kí không nhằm thông tin thẩm mĩ, mà là thông tin sự thật.” [13. 424]. Như vậy là, trong quan niệm của các nhà nghiên cứu, hồi ký là một thể loại văn học luôn đề cao tính chính xác và độ chân thực của các sự kiện. Nhà văn Tô Hoài – nhà văn rất thành công trong thể loại hồi ký cũng đưa ra nhận định riêng của mình về: “Ký là một thể loại mang tính cách riêng, tính cách của một lối viết ra những cảm xúc trước sự việc mắt thấy, tai nghe. Ký có lối xây dựng chủ đề, nhân vật, kết cấu, tình tiết, ngôn ngữ… riêng biệt” [55. 20]. Chính từ quan niệm đó mà hồi ký của Tô Hoài có những đặc điểm riêng. Một mặt nó tuân theo những yêu cầu riêng của hồi ký, một mặt nó in đậm cá tính sáng tạo của nhà văn. Trong đó hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều là những tác phẩm tiêu biểu minh chứng cho phong cách viết hồi ký của tác giả. Như vậy hồi ký là một thể quan trọng trong ký tự sự. Hồi ký là một cách thể hiện nhu cầu khám phá đời sống và con người. Sức hấp dẫn của hồi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 ký chính là sự tường minh của hồi ức và sự sắp xếp các mạch của hồi ức. Các tác giả không chỉ xây dựng được diện mạo của người cùng thời mà qua chuyện của mình phác họa được gương mặt của thời đại. Nói như nhà thơ Huy Cận: “Viết hồi ký là sống lại một lần nữa cuộc đời mình, cũng là san sẻ cho người trong thiên hạ vui buồn của mình, thân phận của mình và phần nào những trải nghiệm dọc đời đã sống” [54. 83]. 1.1.2. Nhà văn Tô Hoài và hành trình viết hồi ký của tác giả Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen, sinh ngày 27/9/1920 trong một gia đình thợ thủ công nghèo ở làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Hoàn cảnh đó khiến nhà văn từ nhỏ đã sớm hòa mình trong cuộc sống của gia đình, làng quê lúc phong lưu cũng như khi sa sút, túng quẫn. Tô Hoài cũng đã cảm nhận được niềm vui và nỗi buồn trong từng bước thăng trầm của làng nghề truyền thống. Tuổi thơ của Tô Hoài hầu như không được sống trong cảnh êm đềm. “Cậu bé Sen” thường được chứng kiến cảnh ông ngoại nghiện rượu để rồi khi thì ông sinh sự, đay nghiến chửi bà, khi lại rất hiền lành âu yếm kể biết bao nhiêu là chuyện ngày xưa… Bà ngoại vừa cam chịu, cũng vừa lắm điều nhiều lời. Và các dì, cuộc sống quẫn bách nên cũng không còn thuần khiết như xưa, cũng cãi lại cha mẹ, cũng tình ý với thầy giáo làng để bị đánh ghen giữa nơi Kẻ Chợ, cũng đánh chửi con cái… Chính hoàn cảnh ấy đã tác động sâu sắc đến nhãn quan của Tô Hoài. Tô Hoài chỉ được học hết bậc tiểu học, rồi cũng như mọi thanh niên trai làng khác, Tô Hoài sớm trở thành anh thợ cửi. Nhưng cảnh nhà nghèo, nghề dệt lại lụi bại dần, Tô Hoài lận đận trong mưu kế sinh nhai. Ông phải đi kiếm sống bằng nhiều nghề: thợ cửi, bán hàng, phụ kế toán, coi kho cho hiệu buôn giầy, dạy học và còn sống qua những ngày thất nghiệp tủi nhục không một đồng xu dính túi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Tô Hoài vừa đi làm, vừa tự học, đọc sách báo và tập viết văn. Ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình bằng một số bài thơ có tính chất lãng mạn, sau đó ông đã nhanh chóng chuyển sang viết văn xuôi theo xu hướng hiện thực. Đó là một sự tự ý thức sâu sắc, tinh nhạy và từ đó ông đã gặt hái được rất nhiều thành công. Tô Hoài sớm giác ngộ cách mạng. Thời kì Mặt trận dân chủ, ông tham gia phong trào hội Ái hữu thợ dệt ở Hà Đông và Thanh niên Dân chủ ở Hà Nội. Sau đó ông gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc, hoạt động tuyên truyền Việt Minh, viết báo bí mật. Sau Cách mạng tháng Tám, ông làm báo Cứu quốc, cơ quan của Tổng bộ Việt Minh. Ông đi nhiều nơi: Việt Bắc, Tây Bắc… . Đặc biệt Tô Hoài đi theo bộ đội hàng tháng trời trong chiến dịch lớn, thâm nhập thực sự với quần chúng và đời sống nhân dân. Sau khi hòa bình lập lại, ông đã trở lại miền núi để sống và viết. Tô Hoài tham gia công tác lãnh đạo văn nghệ và gắn bó với công tác xã hội. Vào tuổi 70, 80 ông vẫn mải mê đi và viết. Tất cả những gì Tô Hoài được chứng kiến và cảm nhận đều trở thành những tư liệu quý giá trong các trang viết của nhà văn. Tô Hoài vốn có khiếu quan sát tinh quái, đến “con ruồi bay qua không lọt khỏi mắt” (Vương Trí Nhàn), do đó mọi hoàn cảnh, mọi số phận, buồn vui, hay dở trong cuộc sống đều được nhà văn cảm nhận sâu sắc đầy tính nhân bản. Cùng với nhu cầu thôi thúc tự bên trong, Tô Hoài còn rất say mê học tập và ham hiểu biết. Để tự trau dồi kiến thức cho mình, ông rất chăm chỉ đọc sách báo, ghi chép hằng ngày một cách tỉ mỉ, chi tiết, từ giá cả sinh hoạt chợ búa, đến tiếng nhà nghề, tiếng địa phương… . Ông học trong sách, học ngoài cuộc đời và học nhân dân, đức tính quý báu ấy đã giúp ông có được những chất liệu phong phú cho sự nghiệp sáng tác của mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 Có thể nói, Tô Hoài là người được chứng kiến mọi bước thăng trầm của gia đình và xã hội. Bản thân ông cũng trải qua những vui buồn, những nhọc nhằn cay đắng, cũng được gần gũi nhiều nhà văn có tên tuổi. Bên cạnh đó với những tố chất vốn có của mình, Tô Hoài đã đem đến cho người đọc thế giới muôn hình, muôn vẻ của con người và cuộc sống. Đó là các yếu tố góp phần làm nên những đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện của Tô Hoài. Viết hồi ký là sự tiếp nối mạch sáng tác dồi dào của Tô Hoài. Từ những Dế mèn phiêu lƣu ký (1941), Quê ngƣời (1941), O chuột (1942) đến Truyện Tây Bắc (1953), Mƣời năm (1957), Miền Tây (1967), Quê nhà (1981) … Tô Hoài không lôi cuốn người đọc ở những mảng sống bạo liệt hay những nhân vật tầm vóc với những biến động lớn lao mà sáng tác của ông thu hút bạn đọc từ những gì bình dị, đời thường ông đã gặp, đã trải. Hồi ký của ông cũng được viết theo nguồn mạch đó. Những trang viết đầu tiên về năm tháng tuổi thơ trong Cỏ dại (1944) đến tập Tự truyện (1973) kể về cuộc sống của người thợ thủ công vùng ngoại ô Hà Nội, kể về những gian truân, vất vả trên con đường đi tìm “miếng cơm manh áo”, lý tưởng, lẽ sống của người thanh niên trong xã hội cũ, thấp thoáng những bạn văn, những người cùng hoạt động trong nhóm Văn hóa cứu quốc. Cỏ dại và Tự truyện là những dấu ấn đầu tiên để Tô Hoài viết những hồi ký tiếp theo trong hành trình viết hồi ký – một hành trình đấu tranh tư tưởng của mình. Có thể nói thành bại của một cuốn hồi ký là ở sự thật quyết định trong từng con chữ. Do đó hành trình đến Cát bụi chân ai (1990) và Chiều chiều (1999) đã khẳng định ngòi bút chân thực, khách quan, không tô điểm của Tô Hoài. Trong những dòng hồi ký ấy, Tô Hoài vừa cho người đọc thấu hiểu một thời kỳ lịch sử, vừa cho người đọc chiêm ngưỡng các tác gia văn học từ góc độ sinh hoạt đời thường. Như vậy với phong cách đặc biệt, Tô Hoài đã đem đến cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm hồi ký xuất sắc. Trong đó Cát bụi chân ai là cuốn hồi ký tiêu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 biểu in đậm phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Ở độ tuổi “thất thập”, Tô Hoài đã thể hiện độ chín cả về cái nhìn và tư tưởng nghệ thuật, cộng thêm một vốn sống phong phú, Cát bụi chân ai đã thực sự gây chú ý của độc giả và khẳng định một lần nữa vị trí không thể thiếu của nhà văn trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Hành trình viết hồi ký của Tô Hoài là hành trình xuyên suốt trong quá trình sáng tác của ông. Mỗi tác phẩm hồi ký là một sự chiêm nghiệm về cuộc sống, về con người, về lịch sử và trên hết đó là sự thật, vì Tô Hoài quan niệm: sự thật đã là đẹp rồi. 1.1.3. Đặc điểm hồi ký của Tô Hoài Hồi ký là lối văn nói về chính cái tôi, và sự cuốn hút là khi cái tôi ấy gợi được một điều gì đáng nói của cuộc đời. Mỗi nhà văn khi viết hồi ký đều phải tôn trọng sự thật. Hồi ký của Tô Hoài cũng không đi chệch khỏi quỹ đạo đó. Ngòi bút của Tô Hoài ở thể loại này đầy sức thuyết phục bởi tính chân thực, khách quan của dòng hồi tưởng. Trước năm 1945, Tô Hoài đã có tập hồi ký Cỏ dại viết về quãng đời thơ ấu nhọc nhằn cay đắng của mình. Đây là đề tài quen thuộc của rất nhiều cây bút, trong đó có Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, … Sau đó Tô Hoài viết Tự truyện, rồi đến Cát bụi chân ai và Chiều chiều. Hành trình đó in đậm đặc điểm riêng trong thể loại hồi ký của nhà văn. Nhà văn Nguyễn Tuân đã từng quan niệm trong sáng tạo nghệ thuật: “Mỗi người có một vision (nhãn quan) riêng. Nó đẻ ra phong cách. Do thế mà anh thích tả gió, tả nắng, anh thì thích tả mây, tả mưa … Anh thì có sở trường sở trường này, sở trường nọ …”. Như vậy mỗi nhà văn đều có cái riêng của mình, Tô Hoài cũng vậy. Hồi ký của ông có những đặc điểm riêng không lẫn vào ai, điều đó góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật Tô Hoài. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Đặt ký Tô Hoài bên ký Nguyên Hồng chúng ta sẽ thấy trong tác phẩm của hai ngòi bút này cuộc sống hiện lên muôn màu muôn vẻ. Họ cùng phản ánh rất chân thực cuộc sống phong phú, đa dạng vào ký của mình, nhưng mỗi người có một cách biểu hiện khác nhau. Ở Nguyên Hồng, cảm hứng hướng nội là cảm hứng chủ đạo. Từ Những ngày thơ ấu trước Cách mạng tháng Tám đến những hồi ký sau cách mạng như Bƣớc đƣờng viết văn, Một tuổi thơ văn vẫn là nhấn mạnh cảm hứng hướng nội với cái Tôi tràn đầy cảm xúc, tâm trạng. Trong khi đó, hồi ký Tô Hoài là cảm hứng hướng ngoại, thể hiện một cái Tôi tự sự giản dị, tỉnh táo, điềm tĩnh. Hồi ký của Tô Hoài giàu chất “truyện” và chất “tiểu thuyết” trong kết cấu mạch lạc, rõ ràng, mang tính tự sự, trong giọng điệu “đa âm” và ngôn ngữ chính xác, linh hoạt. Nếu hồi ký Nguyên Hồng thu hút người đọc bằng giọng điệu và ngôn ngữ tràn đầy cảm xúc, tâm trạng thì hồi ký của Tô Hoài hấp dẫn bạn đọc bởi sự linh hoạt, năng động. Từ sự lựa chọn sự kiện trong cách kể chuyện khách quan, tỉnh táo và chân thực đến giọng điệu dí dỏm, khôi hài pha chút bông đùa, đôi chút mỉa mai, tinh quái nhưng cũng rất nghiêm trang và thâm thúy. Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký của Tô Hoài là “ngôn ngữ văn xuôi” – một thứ ngôn ngữ đa dạng, lắm cung bậc và thật nhiều sắc thái. Chất hài hước, sự khôn ngoan minh mẫn, vẻ “đáo để” của Tô Hoài cũng bộc lộ thật sâu sắc trên các trang hồi ký của mình. Trong hồi ký của mình, Tô Hoài thiên về tự sự. Nhà văn xây dựng chân dung các văn nghệ sĩ theo hướng khách quan, để cho nhân vật tự bộc lộ hơn là có sự tham gia trực tiếp của chủ quan tác giả. Khi viết chân dung, Tô Hoài vẫn cứ là cây bút hiện thực bám chặt vào “chất văn xuôi” của đời sống. Hồi ký là viết về những gì đã qua, đã trải trong quá khứ, nhưng với cái nhìn tỉnh táo, giọng kể tự sự, hồi ký Tô Hoài là sự trở đi trở lại uyển chuyển giữa quá khứ và hiện tại. Từ đó tạo những trang viết đặc sắc, ấn tượng. Nhà văn luôn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 tìm cách phá vỡ trình tự không gian – thời gian, hay nói cách khác, đảo ngược, xen kẽ không gian – thời gian trong thế giới hoài niệm của mình từ đó tạo những trang viết đặc sắc, ấn tượng. Ngoài những đặc điểm trên, chúng ta còn nhận thấy nếu cái Tôi trong hồi ký Nguyên Hồng là cái Tôi của chính tác giả thì trong hồi ký của Tô Hoài cái Tôi có sự phân thân do đó nó tạo nên lối kể chuyện khách quan, tỉnh táo. Sự hòa nhập những câu chuyện riêng chung đã làm nên đặc trưng phản ánh hiện thực._. của hồi ký Tô Hoài. Tóm lại, hồi ký của Tô Hoài bên cạnh những đặc điểm của hồi ký nói chung tác giả còn tạo cho mình những đặc điểm riêng. Những đặc điểm riêng ấy tạo nên một thế giới nghệ thuật đặc sắc trong hồi ký của tác giả trong đó cái nhìn nghệ thuật không thể lẫn với bất kỳ ai để tạo nên phong cách nghệ thuật Tô Hoài. 1.2. Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài 1.2.1. Khái niệm cái nhìn nghệ thuật Trong cuốn Dẫn luận thi pháp học GS Trần Đình Sử khẳng định: “Cái nhìn là một năng lực tinh thần đặc biệt của con người, nó có thể thâm nhập vào sự vật, phát hiện đặc điểm của nó mà vẫn ở ngoài sự vật, bảo lưu sự toàn vẹn thẩm mỹ của sự vật, do đó cái nhìn được vận dụng muôn vẻ trong nghệ thuật” [47. 106] Sáng tạo nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với một tư tưởng nhất định. Và tư tưởng đó tập trung thể hiện qua cái nhìn của tác giả - một phẩm chất nghệ thuật của nhà văn. Hay nói một cách khác, trong khi phản ánh đời sống người nghệ sĩ không thể không có một cái nhìn nghệ thuật riêng. Nhận thức rõ yếu tố quan trọng này GS Trần Đình Sử đã khẳng định: Thiếu quan tâm đầy đủ tới cái nhìn nghệ thuật của tác giả, người phê bình dễ không đánh giá đúng cái phong phú của sáng tác. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Viện sĩ Nga M.B.Khrapchenco xác nhận: “Chân lý cuộc sống trong sáng tác nghệ thuật không tồn tại bên ngoài cái nhìn nghệ thuật có tính cá nhân đối với thế giới vốn có ở từng nghệ sĩ thực thụ, không tồn tại bên ngoài các đặc điểm về tư duy hình tượng, bút pháp sáng tác nghệ sĩ” [31. 106]. Nhà văn Pháp Mácxen Prutxt khi nói về tầm quan trọng của cái nhìn càng khẳng định: “Đối với nhà văn cũng như nhà họa sĩ, phong cách không phải là vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề cái nhìn”. Do vậy cái nhìn là một biểu hiện tinh thần đặc biệt của tác giả. Để hiểu được nội dung phong phú của cuộc sống trong tác phẩm, chúng ta không thể không khám phá cái nhìn nghệ thuật, cách tư duy, cách cảm nhận của chính nhà văn. Cái nhìn thể hiện trong tri giác, cảm giác, quan sát, từ đó nó có thể phát hiện cái đẹp, cái xấu, cái hài, cái bi … . Cái nhìn xuất phát từ một cá thể, mang thị hiếu và tình cảm yêu, ghét. Cái nhìn gắn với liên tưởng, tưởng tượng, cảm giác nội tâm, biểu hiện trong ví von, ẩn dụ … Cái nhìn có thể đem các thuộc tính xa nhau đặt bên nhau, hoặc đem tách rời thuộc tính khỏi sự vật một cách trừu tượng. Trong tác phẩm nghệ thuật cái nhìn thể hiện trong chi tiết nghệ thuật, bởi chi tiết là điểm rơi của cái nhìn. Như vậy “Chi tiết không đơn thuần chỉ là một vật đã được quan sát. Chi tiết nghệ thuật mang nặng tính tổng quát. Đối với những nghệ sĩ chân chính, chi tiết thuộc vào hệ thống của nghệ thuật. Nó nói lên đặc điểm nhận thức của người nghệ sĩ đối với thế giới bên ngoài, cái quan điểm riêng của người nghệ sĩ về môi trường xung quanh, cái bản chất nghệ sĩ của anh ta (…) nhờ có chi tiết mà nhà văn mới phát hiện được những quan hệ mới, những đặc điểm mới, những màu sắc mới. Chi tiết tức là bút pháp vậy” [30. 12]. Chi tiết có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện cái nhìn của nhà văn. Khi nhà văn trình bày cái họ nhìn thấy cho ta cùng chiêm ngưỡng thì ta đã tiếp thu cái nhìn của họ và cùng bước vào phạm vi ý thức của họ, chú ý cái mà họ chú ý. Khi ta nhận thấy nhà văn này chú ý cái này, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 nhà văn kia chú ý cái kia, tức là ta đã nhận ra con người nghệ sĩ của tác giả. Chẳng hạn chi tiết con tàu đi qua phố huyện trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam vào thời gian đêm khuya, không gian tĩnh đến vô cùng, nhà văn đã cho ta thấy cái nhìn chân thật về cuộc sống leo lét, mờ mịt của những con người nơi đây. Họ hi vọng vào ánh sáng của đoàn tàu – của một thế giới khác. Đó cũng là cái nhìn đầy tính nhân văn của nhà văn. Cái nhìn nghệ thuật là một yếu tố làm nên hình tượng tác giả. Giáo sư Trần Đình Sử trong cuốn Dẫn luận thi pháp học đã khẳng định: “Theo một cách nhìn hợp lý thì hình tượng tác giả biểu hiện chủ yếu ở cách nhìn riêng, độc đáo, nhất quán có ý nghĩa tư tưởng, đạo đức, thị hiếu…” [47. 105]. Mỗi nhà văn đều có cái nhìn riêng độc đáo biểu hiện trong thế giới nghệ thuật của mình. Sự độc đáo ấy là yếu tố quan trọng tạo nên phong cách của mỗi nhà văn. Dưới con mắt của Nguyễn Tuân, con người luôn được cảm nhận ở phẩm chất tài hoa, tài tử, ở họ ít có những dung tục đời thường, còn dưới con mắt của Nam Cao (trước cách mạng), con người lại được hiện lên với những cái “vặt vãnh” nhỏ nhặt nhưng ở đó họ lại luôn ý thức sâu sắc về bản thân mình, về cuộc sống, nên nhiều khi họ phải dằn vặt, đau đớn trước những bi kịch của kiếp người (Chí Phèo, Lang Rận, Lão Hạc…). Còn với Tô Hoài, cái nhìn của ông mang một nét riêng không lẫn vào ai. Tác giả của chú Dế Mèn đã phát hiện rằng: “người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ”, có nghĩa là con người ta phải “sở hữu” tất cả những gì mà “ông trời” ban tặng: có phẩm chất, có thói tật, có hay, có dở… . Theo Tô Hoài con người không phải là thánh nhân, mà có cả xấu - tốt, thiện – ác, thậm chí còn có cả những phần đen tối lẩn khuất trong tâm hồn. Trong cái nhìn của ông, con người cũng có những khổ đau, bất hạnh nhưng họ biết vươn lên cho Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 dù phải vật lộn với hoàn cảnh cuộc sống khó khăn. Họ vươn lên trên đau khổ để tìm lại cuộc sống của chính mình. Cái nhìn nghệ thuật không chỉ thể hiện trên phương diện con người mà còn bộc lộ trên rất nhiều mặt của cuộc sống. Với cái nhìn toàn diện đối với cuộc đời, Tô Hoài đã cho người đọc chiêm ngưỡng cuộc sống muôn màu, muôn vẻ, phong phú và phức tạp để từ đó hiểu thêm cuộc sống quanh mình và có niềm tin vào cuộc sống. 1.2.2. Cái nhìn nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài Tô Hoài luôn hướng cái nhìn vào hiện thực cuộc sống đời thường để phát hiện mọi cung bậc trong đời sống thường nhật. Nhưng không phải vì thế mà dấu ấn lịch sử không hiện diện trong sáng tác của ông. Đặc điểm này không chỉ thể hiện trong truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim … mà còn in đậm trong hồi ký của tác giả. Nghiên cứu cái nhìn trong hồi ký của Tô Hoài chúng tôi thấy cái nhìn của tác giả rất chân thực, vừa mang đậm dấu ấn lịch sử, vừa nghiêng về cuộc sống sinh hoạt đời thường. 1.2.2.1. Cái nhìn chân thực mang đậm dấu ấn lịch sử Hai tập hồi kí Cát bụi chân ai và Chiều chiều là sự nối tiếp có hệ thống trong hành trình viết hồi ký của nhà văn. Đó là sự nối tiếp theo chiều dài của thời gian lịch sử và của chính tác giả. Nếu như trong các tác phẩm: Truyện Tây Bắc, tiểu thuyết Miền Tây… tác giả đã nhìn rõ sự đổi thay của cuộc sống người dân miền núi Tây Bắc thì vẫn cái nhìn chân thực mang đậm dấu ấn lịch sử, hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều tác giả lại cho người đọc thấy được những giai đoạn lịch sử đầy ắp sự biến động. Hai tập hồi ký này được ra đời vào những năm đất nước đã không còn tiếng súng. Cát bụi chân ai và Chiều chiều là những cuốn phim tư liệu về lịch sử, về cuộc sống, về bạn bè, về người dân và về chính tác giả. Tô Hoài đã viết về những gì đã qua với cái nhìn chân thực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 nhất. “Người xưa hay gọi là dĩ vãng và nó được Tô Hoài quan niệm như một bộ phận không thể thiếu của hiện tại” [32. 928]. Có thể nói, thời gian viết hai tập hồi ký này là thời gian lắng đọng và chiêm nghiệm về những gì đã trải đã qua của tác giả. Bởi với Tô Hoài mỗi lần viết hồi ký là mỗi lần đấu tranh tư tưởng để nói lên sự thật, nói một cách khách quan chân thực nhất. Nếu như ở Truyện Tây Bắc, tiểu thuyết Miền Tây “với cái nhìn biện chứng, anh đã nhận thấy trước hướng đi lên, sự phát triển trong tương lai của những hiện tượng lúc bấy giờ còn chưa phổ biến” [3. 97] đó là con đường đến với cách mạng của các dân tộc miền núi, là công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của Tây Bắc thì trong hai tập hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều bằng cái nhìn chân thực nhất rất nhiều sự kiện của lịch sử, của cuộc đời “cũ” đã được Tô Hoài thuật lại một cách sâu sắc và thấm thía. Cái nhìn chân thực ấy của Tô Hoài được trải rộng qua rất nhiều sự kiện lịch sử. Sự thật bao giờ cũng đem đến nhiều thông điệp thú vị cho người đọc. Cách mạng tháng Tám thành công là một sự kiện quan trọng đem lại niềm tin, sự lạc quan cho mỗi người. Cách mạng cũng đem lại những đổi thay trong cuộc sống cho mọi người. Chính tác giả đã viết trong hồi ký của mình: “Không có cách mạng, tôi làm sao nên người như bây giờ” [25. 479]. Không chỉ có Tô Hoài mà cả dân tộc Việt Nam nhờ ánh sáng của Đảng, của cách mạng cuộc sống mới thực sự đổi thay. Đây là một sự thật của lịch sử đất nước. Lịch sử của đất nước trải qua những giai đoạn thăng trầm. Là người có trách nhiệm với đất nước, Tô Hoài đã chứng kiến những cung bậc thăng trầm ấy. Chính vì lẽ đó mà rất nhiều sự kiện của lịch sử được nhà văn đưa vào hồi ký của mình. Dưới con mắt của Tô Hoài sau chín năm kháng chiến chống Pháp, với chiến thắng Điện Biên Phủ cuộc sống của dân tộc đã khác. Khi miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì người người “Bắt đầu được Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 lĩnh lương tháng. Không nhớ bao nhiêu, nhưng tối nào cũng có thể la cà hàng quán được. Có cảm tưởng “cả loài người tiến bộ” đổ tiền của đến mừng Việt Nam Điện Biên Phủ. Chúng tôi ngỡ ngàng một cách khoan khoái.” [25. 424]. Trong hồi ký hiếm khi Tô Hoài bộc lộ trực tiếp cảm xúc của mình như thế. Có lễ đây là lần thật hiếm hoi. Chiến thắng đó đã thổi vào tâm hồn tác giả và bạn bè những niềm vui sướng, tưởng chừng như đó là sự ngỡ ngàng, khác lạ chưa bao giờ được biết đến. Không chỉ là sự thay đổi trong thói quen sinh hoạt của tầng lớp trí thức mà còn là những người nông dân thuần túy. Đó là ông Ngải – một ông lão thật thà chịu khó với những thói quen chẳng bao giờ thay đổi: uống nước chè vò đặc sánh thay cho bữa ăn sáng, ngủ ngoài bụi tre, một người “không bị bắt đi đòng, đi bảo an, vì đã hom hem râu ria”, [24. 79] cũng có nhận xét, đánh giá rất thực tế về sự thay đổi của chính sách. Có hợp tác ông Ngải vào ngay, ông được bầu làm chân kiểm soát trong ban quản trị. Ông vào hợp tác với lý do rất đơn giản: “Ông tính “Vợ chồng tôi già rồi. Con cái thì có nhớn mà chẳng có khôn. Thì phải dựa vào trên chứ dựa vào ai, trên bảo làm thế thì làm” (…). Ông lại cắt nghĩa rằng vào hợp tác ai cũng phải lao động. Lao động được chấm công, ăn thóc, không làm thì nhịn há mồm ra.” [24. 80 - 81]. Thông qua suy nghĩ của nhân vật ông Ngải một người nông dân chất phác, quanh năm gắn liền với ruộng đồng đã cho người đọc thấy rõ sự thật về một giai đoạn lịch sử - xây dựng hợp tác xã. Hợp tác xã đã từng là một mô hình phát triển trong một giai đoạn nhất định của lịch sử và ở một mức độ nào đó đã đưa lại niềm vui, niềm tin cho tất cả mọi người dân. Lịch sử bao giờ cũng có những hạn chế của nó. Bên cạnh bao điều tốt đẹp như những luồng gió mát còn có những điều sau một chặng đường đã qua con người phải trăn trở băn khoăn. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, một nhà văn rất tôn trọng sự thật, đã ghi lại lịch sử bằng cái nhìn chân thực nhất. Tô Hoài Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 đã từng nói: Có một quá khứ chưa ai biết của tôi bảo đảm cho điều đó… Là chuyện “của tôi”, của bản thân tác giả nhưng đó cũng là chuyện của cuộc đời. Không chỉ có cái nhìn về đời sống xã hội, Tô Hoài còn quan tâm đến đời sống văn học. Những người quan tâm tới lịch sử văn học đều không thể quên vụ án Nhân văn – Giai phẩm. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bùng phát mạnh mẽ, nhưng chỉ sau ba tháng đã bị dập tắt và trở thành vụ án Nhân Văn Giai Phẩm. Tô Hoài không né tránh, ông nhìn sự kiện lịch sử này bằng cái nhìn chân thực nhất. Sự thật là “Báo nhân văn đã ra được mấy số. Có dư luận báo chống đối. Người thành phố nghe ngóng và tò mò. Nhưng mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài bài báo trên Nhân văn, mà cái nhìn chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của một số giới không phải là những người làm báo Nhân văn trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc ấy. Báo Nhân văn hô hào dân chủ và in một số sang tác phong cách mới. Bạn đọc chú ý và chờ đợi sự đổi mới của văn nghệ. Nhưng không ai lưu tâm người bỏ tiền cho vốn in báo và những hoạt động chính trị đòi thay đổi và chia quyền lãnh đạo đã âm thầm dấy lên, trong giới tư sản đương bối rối, trong một số tri thức ở vùng mới giải phóng và ở đảng Dân Chủ. Báo Nhân văn chỉ là một phần bề ngoài và là một thủ thuật chính trị dựa vào “trăm hoa đua nở. … Chiến thuật thâm hiểm ấy gây nên cách nhìn lẫn lộn số đông tác giả với lòng chân thành ở mỗi người và ở tổ chức” [25. 433]. Vấn đề rất “nhạy cảm”, ít được nhắc tới nhưng với cái nhìn chân thực mang đậm dấu ấn lịch sử, tác giả đã tái hiện bức tranh lịch sử một thời biến động. Có rất nhiều văn nghệ sĩ “dính líu” tới Nhân văn – Giai phẩm, và tất nhiên họ đều bị kiểm điểm và kỷ luật, nặng nhẹ tùy vào mức độ tham gia vào phong trào này. “Các đoàn thể tổ chức kiểm điểm và kỷ luật nội bộ những cán bộ tham gia viết và hoạt động cho báo Nhân văn và ở hội Nhạc, Đặng Đình Hưng bị khai trừ Đảng. Văn Cao phải cảnh cáo, chỉ được ở hội Nhạc không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 được ở hội Văn, hội Vẽ. Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm và Dương Bích Liên, tuy chỉ làm có cái bìa sách cho nhà xuất bản Minh Đức nhưng chắc là không khí sát phạt ở các buổi họp khiến các anh ngại, đã xin ra Đảng. … Nguyễn Sáng vẽ ký họa trên báo Nhân văn một đầu người ở cổ có vết khía, như cái lá. Người ta bảo đấy là chân dung Trần Dần và cái sẹo còn lại khi anh định tự vẫn. Nguyễn Sáng không được bình huân chương kháng chiến. Những năm sau, trong lúc Hà Nội bị máy bay Mỹ quấy báo động liên miên, Nguyễn Sáng đã lo xa, lo rất đứng đắn. “Rồi giải phóng miền Nam, tao về thăm quê, họ hàng bà con hỏi chú đi làm Việt Minh, Việt Cộng bao nhiêu năm thế mà trên ngực không có mề đay nào? Mày bảo tao trả lời ra sao? Tao buồn lắm.” Hoàng Cầm bị ra khỏi ban chấp hành, phải thôi việc nhà xuất bản, chuyển công tác về Sở Văn hóa Hà Nội. Phùng Quán nhờ có chú Phùng Thị, chánh văn phòng bộ Văn hóa đưa lên làm ở vụ Văn hóa quần chúng. Nhưng ai cũng bức bối không yên” [25. 445]. Với cái nhìn chân thực, Tô Hoài khách quan kể lại những gì xảy ra xung quanh sự kiện văn học khiến độc giả cảm nhận rõ không khí ngột ngạt căng thẳng “bức bối không yên”. Nhưng làm sao có thể thay đổi được. Đó cũng là tâm sự của một thế hệ văn nghệ sĩ. Sự thật nhiều khi thật phũ phàng. Tô Hoài đã rất khách quan nói lên sự kiện văn học mang dấu ấn lịch sử này. Những chủ trương của Nhân văn – Giai phẩm là những chủ trương thái quá, đã đi không đúng với tôn chỉ và mục đích của chế độ xã hội chủ nghĩa, đành rằng tự do cá nhân là nhu cầu tất yếu. Tuy nhiên cái tự do cá nhân ấy đã đi qua giới hạn cho phép. Không chỉ ở Cát bụi chân ai, trong tập hồi ký Chiều chiều, một lần nữa Tô Hoài nhắc tới vụ việc Nhân văn – Giai phẩm: “Tôi không biết Nguyễn Khắc Dực đã bị kiểm điểm tóe khói hay thế nào. Dực đã về công tác hội Sân khấu. Việc Nhân văn – Giai phẩm đã qua lâu, nhưng việc này thì như vết tràm trên trán, không xóa được” [24. 19]. Như vậy có những sự kiện lịch sử làm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 thay đổi cuộc sống, thay đổi tư duy, thay đổi lý tưởng theo chiều tốt đẹp nhưng có những sự kiện lại mang đến cho xã hội sự nhức nhối. Đúng là tác giả của hai hồi ký đặc sắc Cát bụi chân ai và Chiều chiều “với một cái nhìn tỉnh táo điềm đạm – đã nhìn nhận lại “Nhân văn – Giai phẩm” và những vấn đề văn chương phức tạp một thời với tất cả tính thời sự và cả tính bi kịch của nó. Bằng sức mạnh của hồi tưởng, nhà văn đã mạnh dạn, thẳng thắn nói ra những “chuyện buồn quá khứ”, những “ấu trĩ trong quan niệm văn học và chính trị một thời”, giúp người đọc có được một hình dung và nhận thức “tường minh” hơn về lịch sử văn học nước nhà những năm tháng đầy biến động …” [54. 80]. Ngoài sự kiện Văn nhân – Giai phẩm, Tô Hoài còn có cái nhìn chân thực về sự kiện cải cách ruộng đất 1953 – 1956. Trong Chiều chiều, Tô Hoài đã đưa chúng ta về một làng quê ở Thái Bình với câu chuyện “cải cách ruộng đất” và “sửa sai” liên quan đến số phận của bao người. Những ấu trĩ một thời đã trở thành sai lầm đáng tiếc.: “Người chỉ có miếng ruộng loại riêng ra mà chẳng có ruộng đất nhưng bị tố là có tội ác với nông dân thì …, gọi là tên cường hào cá biệt” [24. 36]. Những chuyện buồn quá khứ trong những năm tháng đầy biến động được nhà văn cảm nhận sâu sắc và thấm thía. Mỗi trang viết về sự kiện này là những “tâm sự đau đáu” (Vương Trí Nhàn) của Tô Hoài. Nhà văn vừa điềm đạm gợi lại nỗi buồn đã qua vừa gửi gắm những trăn trở suy tư của bản thân lên từng trang sách. Đó là những bài học kinh nghiệm xương máu không chỉ cho một ai đó cụ thể mà cho cả một dân tộc. Năm 2005, cố thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nhìn nhận: “Trong các chiến dịch cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, nhiều nhân sĩ yêu nước, nhiều nhà kinh doanh có công với cách mạng đã không được coi như bạn nữa, gây những tổn thất lớn về chính trị và kinh tế”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Cùng có những thành công khi viết hồi ký, nhưng Tô Hoài và Nguyên Hồng có cái nhìn khác nhau. Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ có cái nhìn hướng nội chất chứa những cung bậc tình cảm, cảm xúc chứa chan. Hồi ký Những ngày thơ ấu trước cách mạng và một số hồi ký sau cách mạng của Nguyên Hồng đều có cái nhìn hướng nội, ngoại cảnh chỉ để làm rõ hơn tâm trạng, cảm xúc của nhà văn. Cái nhìn của Tô Hoài lại thể hiện sự tỉnh táo khách quan đến hiếm thấy khiến trên từng trang hồi ký của ông người đọc cảm nhận cả những đổi thay lớn lao của đất nước, cả những bi kịch một thời đã qua. Tô Hoài đang “quay đầu về với cái cũ” (Vương Trí Nhàn) nhưng cái cũ ấy vẫn còn giá trị đối với công cuộc đổi mới hiện nay. Cái cũ ấy có cả những điều tốt đẹp, cái đúng có giá trị vĩnh hằng và những điều chưa đúng, sai lầm cần nhận thức lại. Tất cả đều là những bài học để nhìn nhận, rút kinh nghiệm làm sao cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Như vậy, với cái nhìn chân thực mang đậm dấu ấn lịch sử Tô Hoài đem đến cho người đọc những trang viết đầy ắp sự kiện lịch sử có giá trị. 1.2.3. Cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt đời thường Cảm quan nhân bản đời thường là cảm quan xuyên suốt, bao trùm trong các tập hồi ký của Tô Hoài, từ Cỏ dại, Tự truyện đến Cát bụi chân ai và Chiều chiều. Đặc biệt hai tập hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều cảm quan nhân bản đời thường càng hiện diện rõ nét. Tô Hoài quan niệm người viết văn trước hết là người nghệ sĩ. Là người được tiếp xúc nhiều, được sống nhiều với các bạn văn nên ông hiểu được rất rõ các bạn đồng nghiệp của mình. Vì thế dù viết về ai, những người bạn nghệ sĩ, những con người bình thường hay chính bản thân mình, Tô Hoài cũng xuất phát từ quan niệm: “người ta ra người ta thì người ta phải là người ta đã chứ” [25. 385]. Xuất phát từ quan niệm đó nên chân dung của các nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 văn lớn, của chính tác giả hiện diện một cách sinh động và chân thực nhất. Cuộc sống và con người được tác giả miêu tả ở những phương diện đời thường nhất, mộc mạc, chân chất và gần gũi biết bao. Trong Cỏ dại, đó là những ngày tháng sống vô vị và buồn chán ở Kẻ chợ của “cu Bưởi”, suốt ngày chỉ cọ chai, vần ra vần vào mấy cái lốp ôtô, rồi nhìn ra cửa, nhớ nhà; để cuối năm mới được về với cái đầu mốc trắng mà chẳng có lấy một hột chữ nào nhét vào bụng. Được về với mẹ, với bà ngoại và các dì, và với việc cõng em là niềm vui của “cu Bưởi”. Đến Tự truyện chuyện cá nhân, gia đình, làng quê,…được tác giả ghi lại với cái nhìn nhân bản. Một cậu bán hàng ở hiệu giày bata, gọi là làm công, nhưng chỉ được giao mỗi việc “rình gái cho chủ”… đến tuổi trưởng thành, lang thang khắp các cửa chùa, rồi phiêu bạt ra Hải Phòng nương nhờ người bạn … Ở hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Tô Hoài vẫn theo mạch cảm hứng và cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt, chuyện đời thường từ các hồi ký trước. Đó là cuộc sống sinh hoạt của chính bản thân nhà văn trong những ngày ở đội cải cách ruộng đất. Khi bị tháo dạ “Tôi cứ chạy đùng đùng, thằng Tào Tháo đuổi tôi cả đêm. May quanh bờ rào bãi hoang, bĩnh chỗ nào cũng được.” [24. 37] bởi cái món ăn lạ - món “dái trâu” nhà chủ thết đãi. Trong những năm tháng cực khổ ấy, nhà văn còn cảm nhận được cuộc sống ấm áp của người nông dân và bản chất chăm chỉ làm ăn của họ. Nhân vật ông Ngải để lại ấn tượng cho người đọc một cách rõ nét thông qua cái nhìn rất nhân bản của tác giả. “Ông Ngải đã chùi tay vào mỏm cọc cầu ao rồi lên tựa lưng vào bụi tre. Quanh đấy, lỉnh kỉnh ống điếu cày, ấm nước, mấy mẩu gộc cây làm ghế cạnh cái bát đàn, như bàn uống nước ngồi chơi ngay bờ ao” [24. 42]. Cuộc sống rất dân dã, mộc mạc, cuộc sống ấy của ông Ngải gắn liền với thiên nhiên, ruộng đồng rất đặc trưng của Việt Nam. Đó là cây tre, bờ ao… và cả Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 thói quen hút thuốc lào với cái điếu cày, ấm nước chè xanh… . Uống nước chè xanh đặc trước khi đi làm buổi sáng và ngủ ngoài bụi tre đã trở thành thói quen của ông Ngải. Tô Hoài đã đưa người đọc tới những cảnh sinh hoạt gần gũi của những người nông dân. Tất cả được Tô Hoài ghi lại như những cảnh phim quay chậm, không gò ép mà tự nhiên. Cảnh sinh hoạt gia đình ông Ngải là tiêu biểu ở vùng quê nghèo: bà Ngải đi chợ bán buồng chuối dấm, cái Hến – con của ông bà Ngải dậy sớm bắc nồi, thổi lửa, ông Ngải thì ra sân coi lúa, ông “chăm chút từ lúc trồng vườn xoan tơ cho đến năm những cây xoan đầu lứa được ngả xuống cưa, đẽo rồi ngâm vào bùn ao” [24. 79]. Không những thế với “một nhãn quan phong tục đặc biệt” (Trần Hữu Tá), Tô Hoài còn rất nhạy cảm với những cảnh sinh hoạt, những tập tục quen thuộc của mỗi vùng quê. Trong con mắt của Tô Hoài những hủ tục không chỉ ở vùng núi cao, nơi các dân tộc ít người sinh sống mà tập tục, hủ tục còn hiện diện ngay cả vùng thấp, đồng bằng. Việc lấy chồng của người con gái là một việc quan trọng vậy mà có những gia đình phải gả con khi tuổi còn rất nhỏ. Đứa con gái ông Ngải “sắp về nhà chồng” [24. 85] khi “mới chỉ khoảng tuổi mười lăm” [24. 85]. Trước tình cảnh ấy, nhà văn đã bộc lộ tâm trạng, sự cảm thông cho hoàn cảnh của họ. Từ xưa đến nay, để đánh giá mức sống của người dân cao hay thấp một phần dựa vào sự sầm uất, nhộn nhịp của chợ. Với đôi mắt quan sát tinh tế của mình, tác giả đã miêu tả cảnh chợ - nơi nhà văn tham gia đội cải cách ruộng đất. “Chợ lèo tèo ngay giữa phố, gió lùa đùng đùng. Bánh ngô, bánh đúc bị táp cát, ăn nhai cả sạn, thì vẫn ăn thế. Một chốc chợ tan, các cọc lều được nhổ lên, đàn vịt lại à vào rúc cái bãi trống.” [24. 89]. Từ cách miêu tả của Tô Hoài chúng ta có thể tưởng tượng ngay cảnh chợ tàn tạ, tiêu điều của vùng quê này. Chợ diễn ra “giữa phố, gió lùa đùng đùng”. Các mặt hàng trong chợ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 thì bị dính cát vì những trận gió. Chợ được dựng lên một cách tạm bợ, khi chợ tan thì “các cọc lều được nhổ lên”. Chợ vốn dĩ đã xơ xác thì giờ lại càng xác xơ, cái chợ trước đó còn “lèo tèo” bây giờ chỉ còn là bãi đất trống. Khi tạo dựng cảnh họp chợ ở nơi đây, Tô Hoài đã chú ý lựa chọn chi tiết, hình ảnh rất phù hợp với cuộc sống nghèo của người dân. Cảnh chợ ở vùng quê này không giống với cảnh chợ ở Phìn Sa trong tiểu thuyết Miền Tây. Cũng với cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt nhưng chợ ở Phìn Sa được Tô Hoài miêu tả hoàn toàn khác: “cố nhiên ngày chợ vùng cao đẹp như ngày chủ nhật rồi”, “cả ngày tấp nập người tới người đi”. Cảnh chợ ở vùng núi rất đông vui, tấp nập, người đọc thấy được sự đổi thay cuộc sống của người dân Tây Bắc. Hai cảnh chợ đối lập nhau ở cùng khoảng thời gian lịch sử. Rất tinh tế và nhạy cảm, đó chính là Tô Hoài. Sau mỗi cảnh chợ ta thấy cái nhìn nhân bản, “một niềm tâm sự đau đáu” (Vương Trí Nhàn), một trái tim đầy cảm thông của tác giả. Cùng ở thể loại hồi ký, nếu như Tô Hoài phát huy sở trường miêu tả như một phong cách nghệ thuật thì Nguyên Hồng lại hay dùng câu kể. Chính điều này tạo nên sự khác nhau giữa hai phong cách. Tô Hoài miêu tả cảnh chợ sinh hoạt để thấy được cuộc sống của người dân, còn Nguyên Hồng lại dùng câu kể: “họ sống vất vả chui rúc trong những căn nhà lụp xụp, hoặc trần lưng lao động trong xưởng máy, trong hầm mỏ hoặc lang thang nơi quán chợ gầm cầu” [55. 26] để khắc họa cảnh tối tăm, nghèo đói không có lối thoát của những con người lao động lầm than ở thành phố Hải Phòng và trên hết là nhà văn bộc lộ tình cảm thương xót cho những con người cùng khổ ấy. Điều đó cho thấy cùng là nói tới cuộc sống của người dân nhưng mỗi nhà văn có cái nhìn riêng, không giống nhau. Xuất phát từ quan niệm “người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ”, Tô Hoài luôn cảm nhận con người ở tất cả mọi phương diện. Theo ông Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 con người trước hết phải là chính mình, phải là tất cả những gì thuộc bản chất vốn có của họ, có cả tốt xấu dở hay, cả những phẩm chất và thói tật, có khi là những “bí mật riêng tư” trong sinh hoạt và đời sống tinh thần. Tô Hoài đã rút ngắn đến mức thấp nhất khoảng cách giữa người kể với đối tượng để giúp người đọc được tiếp cận, được bước vào một lãnh địa với tất cả sự trần trụi khách quan mà không phải cây bút nào cũng có được. Điều đáng nói ở đây là ngay cả khi viết về những thói tật của những nghệ sĩ lớn, Tô Hoài vẫn viết bằng tất cả tấm lòng chân thành của một nghệ sĩ chân chính. Bằng thái độ chân tình của tác giả chúng ta không cảm thấy nhà văn bị hạ thấp hay những thần tượng của bạn đọc bị “đập vỡ”. Trái lại ta càng hiểu về cuộc đời riêng của họ, càng cảm thấy cảm thông, chia sẻ, hiểu người để từ đó hiểu văn của họ nhiều hơn. Các nhà văn lớn được Tô Hoài miêu tả và xuất hiện trên hầu hết các trang viết là Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, …. . Cảm hứng nhân văn đời thường là cảm hứng xuyên suốt trong các tập hồi ký cũng như các thể loại khác của Tô Hoài, chính vì lẽ đó mà G.S Nguyễn Đăng Mạnh rất có lý khi nhận xét Tô Hoài là nhà văn của người thường, của chuyện thường, của đời thường. Ở những trang đầu của hồi ký Cát bụi chân ai, chân dung của các văn nghệ sĩ hiện lên thật cụ thể. Người xuất hiện trước tiên là chân dung nhà văn Nguyễn Tuân: “Đi bên này Hồ Gươm thấy Nguyễn Tuân ngồi trong nhà hàng Hoàng Gia, cái quán rượu kiểu Pháp che cánh sáo ra kín vỉa hè. Nhà văn chơi chua khác đời. Khăn lượt vố, áo gấm trần, tay chống dọc chiếc quạt thước thay ba toong, chân bít tất dận giày mõm nhái Gia Định” [25. 383]. Cách ăn mặc của Nguyễn Tuân cũng đã cho người đọc thấy được “cái ngông” của ông - cách ăn mặc và sinh hoạt khác thường. Ăn mặc khác người, văn cũng khác người. Tô Hoài chân thực nhận xét : “Đem cái “duyên” đẹp đẽ mọi bề quàng cho Nguyễn Tuân có thể chưa kín nghĩa, mà cũng không hẳn đúng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 Về nhà văn và cả về đời. Có người mê Nguyễn Tuân như điếu đổ, từng chữ. Có người chỉ lướt một đoạn đã không chịu được cái giọng khụng khiệng, khệnh khạng. Triết lý và câu văn Nguyễn Tuân không giống vị hoài sơn trong thang thuốc bắc, ghé bổ một tý vô thưởng vô phạt. Cái chơi của Nguyễn Tuân cũng thế. Với người này, không thể thiếu Nguyễn Tuân. Người kia thì không chịu đựng nổi.” [25. 384, 385]. Cái thú ăn chơi, sinh hoạt của Nguyễn Tuân luôn khác đời, khác người. Dưới cái nhìn của Tô Hoài, Nguyễn Tuân không chỉ khác người về cách ăn mặc mà thú vui ẩm thực cũng khác: “Những cái thích và vui ẩm thực của Nguyễn Tuân không dễ dãi vì miếng ăn miếng uống, mà phải là hợp khẩu vị, ngon theo ý mình. Lọ muối vừng, hộp nước mắm chưng, cái gặc – măng – dê trữ trên ba lô, thời chiến và thời bình, vẫn thế. Nguyễn Tuân sành ăn và kỹ tính tuyệt nhiên không xô bồ. Nóng oi quá, nhắm rượu mướp đắng giải nhiệt, nhưng mà không xơi mướp đắng mắm tôm như người ta. Không bao giờ đụng đến mắm tôm chợ. Ăn tinh đến thế, mà lại kỵ tỏi, ghét mùi tỏi.” [25. 402, 403]. Phải gần gũi Nguyễn Tuân nhiều lắm Tô Hoài mới hiểu cách sinh hoạt của Nguyễn Tuân như thế. Thú ẩm thực của Nguyễn Tuân chính là quá trình thưởng thức cái ngon và sự tinh tế của các món ăn theo cách riêng. Tô Hoài đã hiểu rõ cái yêu thích của nhà văn tài hoa và rất “ngông” về món phở bò: “Ít ai biết Nguyễn Tuân chỉ ăn một thứ phở, phở chín, phở thịt bò chín….. Thịt bò chín, nạm hay mỡ, bánh vừa phải không nẫu vồng lên, không thái sẵn và thái máy như Sài Gòn mà Nguyễn Tuân gọi đùa là vằn thắn phở. Xúc bánh xong, thái thịt rồi bày lên rắc hành hoa và hạt tiêu – không ớt, mặc dù thích cay.” [25. 403]. Nguyễn Tuân đã từng nói rằng “Tôi không ăn phở để tẩm bổ” [25. 403], do đó khi ăn phở Nguyễn Tuân không cho thêm bất kỳ một loại gia vị nào, cái cốt yếu là thưởng thức cái tinh túy của nước dùng xương. Phải chăng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 cách cảm nhận tinh tế từ những cái bình thường nhất trong cuộc sống đã tạo nên nét đặc sắc và độc đáo trong những tác phẩm của ông? Không chỉ hiểu Nguyễn Tuân ở phương diện sinh hoạt với những thú ẩm thực mà Tô Hoài còn hiểu cả sở trường của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân là một người rất thích đi, và mỗi lần đi ông “sửa soạn đi còn kỹ lưỡng hơn đi” [25. 394], “mải mê quên ngày tháng, nhưng tính đếm sửa soạn thì phải nhớ từng ly. Cái phóng khoáng của ông ấy không lẫn với buông tuồng, cẩu thả.” [25. 395]. Như vậy, Nguyễn Tuân là con người rất có cá tính, Nguyễn Tuân không chỉ c._.iệt của đế quốc Mỹ. Sự kiện lịch sử này là cái mốc quan trọng báo hiệu nền hòa bình ở miền Bắc đang bị đe dọa. Chiến tranh chống đế quốc Mỹ đã bắt đầu. Sự tàn phá của chúng không thể không dữ dội, cách mạng Việt Nam lại bước vào một chặng đường mới. Các sự kiện lịch sử được Tô Hoài hồi tưởng chồng chất lên nhau tạo nên phong cách rất riêng. Trong khi tái hiện hiện thực Tô Hoài thay đổi liên tục không gian và thời gian. Có khi gặp một sự kiện nào mạnh kể lại bất ngờ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 chuyển hướng. Mặc dù vậy, trong tầng sâu của dòng hồi tưởng các sự kiện trọng đại vẫn tạo nên sự lôgic nhất định. Vùng quê Vĩnh Linh sau chiến tranh được tác giả ghi lại: “Vĩnh Linh hòa bình bây giờ khác xưa, nhưng mỗi lần qua tôi vẫn một nỗi bâng khuâng ấy. Cuối 1975, chuyến tàu suốt Hà Nội – Sài Gòn vào ga Tiền An trên Bến Hải hơn mười cây số. Người đôi bên hàng tàu xôn xao, náo nức. (…)” [23. 564]. Hòa bình đã mang lại cho con người đất Vĩnh Linh anh hùng sự “xôn xao, náo nức”. Đó chính là âm thanh của cuộc sống hòa bình. Khoảnh khắc ấy mỗi người dân Việt Nam đều đã chờ đợi từ rất lâu. Từ đây cuộc sống của người dân Vĩnh Linh nói riêng và của người dân Việt Nam nói chung bước sang một trang mới. Thời gian lịch sử được mở rộng ra nhiều chiều ở những sự kiện và hoàn cảnh khác nhau. Trong hồi ký của mình, Tô Hoài có trên một lần nhắc tới không khí của cái tết. Những cái tết trong lửa đạn: “Năm cùng tháng tận, tết nhất đến nơi mà thành phố vẫn phấp phỏng không biết bom đạn trên trời ập xuống lúc nào” [25. 593]. Tết là quãng thời gian sum vầy, đầm ấm của mỗi người vậy mà họ phải đón tết trong lo âu, phấp phỏng. Chiến tranh đã khiến niềm vui và hạnh phúc đó không được trọn vẹn. Giao thừa ở Hà Nội trong những năm bom đạn chiến tranh thật khắc nghiệt: “Đêm nay Hà Nội lại giao thừa. Chặp tối, năm hết tết đến, vẫn loa báo động máy bay địch cách 40 ki lô mét … máy bay địch 20 ki lô mét … trong cái thành phố thương tâm bất cần đời này, cái tết mơ ước vẫn đến như từ bao nhiêu năm qua. Tối tối, vô khối xe đạp còn hối hả đi mua hoa – những bó hoa cúc vạn thọ vàng rỉ ế ẩm, người chơi hoa năm nào cũng khuân cúc vạn thọ sau cùng.” [25. 612]. Bom đạn chiến tranh là thế, có thể chết bất cứ lúc nào nhưng “cái tết mơ ước vẫn đến”. Hình như người Hà Nội không quan tâm tới việc “máy bay địch cách 40 ki lô Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 mét” hay “20 ki lô mét”, họ chỉ muốn có một cái tết – một cái tết bình thường như “mơ ước”. Bằng sự lồng ghép tài tình giữa lịch sử và sự kiện, nhà văn đã giúp người đọc hướng tới khung cảnh lịch sử trọng đại bằng cách nhìn vào cuộc sống sinh hoạt. Người dân không thể được hưởng cái tết bình yên nếu vẫn còn “loa báo động máy bay địch”. Tuy vậy, Hà Nội dù phải chịu những trận “mưa bom bão đạn” nhưng không vì thế mà nếp sinh hoạt của người dân Hà Thành bị mất đi. Họ vẫn sống trong không khí chuẩn bị đón giao thừa cũng những thói quen nếp sống từ ngàn đời. Với các mốc thời gian sự kiện lịch sử ấy, ta càng hiểu hơn về nhà văn Tô Hoài. Không chỉ là nhà văn ông còn là một chiến sĩ, không chỉ là một người yêu nước gắn bó với từng bước đi của cách mạng, ông còn là một người am hiểu sâu sắc nét đẹp văn hóa của người dân Hà Nội nói riêng và truyền thống dân tộc Việt Nam nói chung. Thời gian qua những trang hồi ký của Tô Hoài đã đem đến cho người đọc những hình dung thật cụ thể về cuộc sống, về những gì diễn ra trong các giai đoạn lịch sử trọng đại của dân tộc, để từ đó mỗi chúng ta các thế hệ độc giả thêm hiểu, thêm tự hào về đất nước mình. Một đất nước 30 năm chìm trong bom đạn mà vẫn giữ gìn được nét đẹp văn hóa và bản sắc dân tộc. Như vậy, qua thời gian lịch sử trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Tô Hoài đã làm sống lại những sự kiện, những bước đi của cách mạng Việt Nam. Yếu tố thời gian lịch sử đã trở thành phương tiện để nhà văn miêu tả một cách chân thực các sự kiện đáng nhớ của cách mạng. 3.2.2. Thời gian đời tƣ đồng hiện chồng chéo Thời gian đời tư là thời gian mà các sự kiện trong cuộc đời nhân vật được hiện diện theo một trình tự rất linh hoạt và đa dạng. Thời gian đời tư của nhân vật có thể được tác giả sắp xếp theo một trình tự tuyến tính nhưng cũng có khi được tác giả tổ chức theo kiểu thời gian gấp khúc, có sự giãn cách. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 Thời gian trong hồi ký Tô Hoài thường là thời gian đồng hiện giữa quá khứ gần và quá khứ xa. Trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều có rất nhiều nhân vật xuất hiện, chủ yếu là các nhà văn hiện đại Việt Nam. Các sự kiện liên quan tới mỗi nhà văn được Tô Hoài ghi lại chi tiết, cụ thể nhưng các sự kiện ấy lại không được tác giả tổ chức theo trật tự thời gian tuyến tính. Có rất nhiều nhà văn nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam được Tô Hoài nhắc đến trong Cát bụi chân ai và mỗi nhà văn đều được gắn với những sự kiện đáng nhớ khiến họ hiện diện bằng xương bằng thịt. Nhà văn xuất hiện với tần số đậm đặc trong cuốn hồi ký Cát bụi chân ai là “người bạn vong niên” [25. 399] của Tô Hoài - Nguyễn Tuân. Hình ảnh Nguyễn Tuân được xuất hiện bắt đầu từ một mốc thời gian ước lệ: “Năm ấy, Nguyễn Tuân cũng chỉ khoảng trên ba mươi đôi chút.” [25. 383], nhưng đã có cách ăn mặc, đi đứng khác người. Để khắc họa hình ảnh và cá tính của Nguyễn Tuân, Tô Hoài lựa chọn những mốc thời gian giãn cách. Các sự kiện trong cuộc đời của nhà văn không được miêu tả theo trật tự thời gian xuôi chảy mà theo diễn biến cuộc đời nhân vật theo dòng hồi tưởng của tác giả. - “Những năm về sau, Nguyễn Tuân vẫn làm việc cho viết, khắc khoải sự viết, mà không viết bao nhiêu” [25. 385]. - “Đi và đi, thực và mộng cả đời Nguyễn Tuân. Làm thế nào đi được, chỉ cốt đi được. Năm 1937, Nguyễn Tuân ra Hương Cảng làm tài tử màn bạc” [25. 391]. - “Mùa hạ năm 1949, Nguyễn Tuân và tôi theo tiểu đoàn 54 Trung đoàn Thủ đô tiến quân vào mở chiến dịch tiêu diệt một chuỗi cứ điểm hành lang bờ sông Thao án ngữ Tây Bắc, các đồn Đại Bục, Đại Phác, Khe Pịa, Ngòi Mác, Mã Yên Sơn lên đến đồn tiểu khu Phố Ràng” [25. 394]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 - “Năm 1961, Nguyễn Tuân lên Hà Giang dự khánh thành đường Bắc Quang – Hoàng Su Phì” [25. 395]. Đây là những sự kiện gắn với từng mốc thời gian cụ thể trong cuộc đời của Nguyễn Tuân được tác giả đan xen cùng những câu chuyện đời thường của ông. Tô Hoài không miêu tả đầy đủ chi tiết mà bằng những nét phác họa khái quát, con người và tính cách của nhân vật vẫn hiện lên rõ rệt. Vẫn là một Nguyễn Tuân khắc khoải cho sự đi và viết. Từ những năm trước cách mạng, Nguyễn Tuân đi làm tài tử ở Hương Cảng, rồi những năm tham gia kháng chiến trong Trung đoàn Thủ đô, năm đi Hà Giang dự khánh thành đường Bắc Quang Nguyễn Tuân vẫn thể hiện rõ cá tính của mình. Từ thời gian gần, Tô Hoài bất ngờ quay ngược lại thời gian quá khứ xa, thuở: “Nguyễn Tuân được sinh ra và nhớn nhao lên ở Hàng Bạc. Phố Hàng Bạc, số nhà 49, năm 1910 – Nguyễn Tuân ghi lại như thế ở mép một quyển sách Hướng dẫn du lịch Ba Lan, có lẽ vì đương đọc chợt nghĩ đến một kỷ niệm” [25. 455]. Sau rất nhiều sự kiện và bao năm trôi qua, Tô Hoài chợt quay về thời gian xa xưa, quay về năm Nguyễn Tuân ra đời và lớn lên ở phố Hàng Bạc. Có nhiều kỷ niệm gắn liền giữa tác giả của Cát bụi chân ai và Chiều chiều với Nguyễn Tuân. Chuyện đời thường ở ngã năm, ngã sáu, chuyện ở quán ông lão 81, quán Tiểu Lạc Viên… . Tất cả đều trở thành những kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời nhà văn, và cũng từ những chi tiết vô giá ấy mà người đọc có thể hiểu thêm về tính cách, con người mỗi nhà văn. Rồi mùa thu năm 1930 trên chuyến tàu hỏa từ Pnôm Pênh ra đến Poipet, lúc đó Nguyễn Tuân còn trẻ lắm: “mặt non choẹt, chưa chắc đã được hai mươi tuổi” [25. 501]. Nguyễn Tuân bị bắt và giam ở Thái Lan, sau đó “ đến Pnôm Pênh, vẫn bị còng tay vào nhau như thế, tống ngay xuống Sài Gòn. Lại chui vào cái xe cây khác. Rồi bị giam ở bóp cảnh sát Xóm Chiếu. Đấy gần bến tàu, hôm sau, bị đưa ra Hải Phòng” [25. 507]. Những câu chuyện gắn với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 cuộc đời Nguyễn Tuân được Tô Hoài kể lại với những thời gian khác nhau, ở đó có những thời gian xác định và không xác định nhưng vẫn đầy đủ chi tiết mọi sự kiện để người đọc có thể hiểu hơn về nhà văn Nguyễn Tuân. Một sự kiện rất quan trọng đối với cuộc đời của mỗi nhà văn đó là khi được kết nạp vào Đảng. “Nguyễn Tuân được kết nạp vào Đảng ngày 18 tháng Tư năm 1950” [25. 537]. Đây là cái mốc đáng ghi nhớ đối với mỗi người đặc biệt là Nguyễn Tuân. Khi nhà văn đang hòa mình vào dòng chảy của cuộc kháng chiến thực hiện lý tưởng sống. Nhưng “Mỗi lần cáu kỉnh, Nguyễn Tuân vùng vằng nói: - Thế này thì tao đem trả thẻ Đảng cho Tố Hữu” [25. 537]. Nguyễn Tuân nói vậy chứ chưa bao giờ ông làm thế vì suốt cuộc đời ông vẫn lăn lộn, vẫn đi cho dù có lúc sức khỏe cạn kiệt. Cái nhìn đời thường khiến chân dung nhà văn được hiện lên nhiều chiều. Kỷ niệm cuối cùng về Nguyễn Tuân là một sự kiện buồn: “Buổi sáng có người đến bảo Đào Vũ và tôi: - Đêm qua, nghe đài báo ông Nguyễn Tuân mất rồi. Tôi nghĩ như vẫn buổi tôi ngồi uống một mình ở nhà ông, nhưng Nguyễn Tuân đã nằm yên từ buổi sáng hôm tôi ra đây.” [25. 663, 664]. Đời người thật ngắn ngủi, phút chốc đã ra đi. Từ một thanh niên trên “ba mươi đôi chút” nay đã vĩnh biệt thế giới này. Tô Hoài đã sử dụng nghệ thuật miêu tả thời gian giãn cách để kể lại các sự kiện liên quan đến nhà văn Nguyễn Tuân. Sự đảo ngược trình tự thời gian kể và trình tự các sự kiện trong chuỗi sự kiện gắn với cuộc đời của Nguyễn Tuân tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Với từng mốc thời gian gắn với mỗi chặng đường đã qua của cuộc đời con người, càng để người đọc có thể hình dung đầy đủ hơn về nhân vật. Rõ ràng là, mỗi sự kiện trong cuộc đời nhà văn đều là một sự kiện có ý nghĩa. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 Trong hồi ký Cát bụi chân ai cùng với Nguyễn Tuân, Tô Hoài còn có biết bao kỷ niệm với Nguyên Hồng. Nguyên Hồng “nhà văn của người cùng khổ” tuy không xuất hiện với tần số đậm đặc như Nguyễn Tuân nhưng chuyện về ông được Tô Hoài miêu tả đều để lại dấu ấn khó quên. Đó là kỷ niệm về một truyện ngắn được in ở tuần báo Văn của Hội Nhà văn mà chính Nguyên Hồng phụ trách. “Câu chuyện một con hổ người nuôi ở nhà như con chó (…). Con hổ được đem về nuôi trong nhà … Hổ hiền lành bè bạn với con cún, con mèo, con gà” [25. 449]. Câu chuyện Nguyên Hồng viết ra với ý nghĩa đơn giản nhưng “với cách đọc soi lên gạch bút chì đỏ và suy diễn ra thì lại không thấy thế. Đời thuở nào mà người lại nuôi hổ như nuôi vịt, dễ hơn nuôi vịt” [25. 450]. “Không hiểu tức là có vấn đề” [25. 450]. Truyện ngắn này của Nguyên Hồng đã bị “Những lời đao búa truy dồn. Thế là Nguyên Hồng khùng lên, khóc òa” [25. 452]. Từ đó “nhiều cuộc phê Nguyên Hồng, tôi không thể nhớ xiết lần nào cụ thể.” [25. 458]. Truyện ngắn của Nguyên Hồng bị cho rằng là “Nhân Văn vẫn sờ sờ ra đấy, chứ đâu” [25. 452], sự kiện đó khiến Nguyên Hồng suốt một thời gian dài luôn “kè kè cặp bản thảo, (…) với những tờ báo Văn như một lá đơn để trình bày khắp nơi.” [23. 458], và mỗi lần ở đâu họp tổ hay liên tổ hay lên hội trường, Nguyên Hồng đều phân trần về sự kiện này, có những lúc nhà văn xúc động đến nỗi “to giọng đến bật khóc, vừa mếu máo vừa nói tiếp, nước mắt ròng ròng” [25. 458]. Không phải ngẫu nhiên Tô Hoài nhớ lại câu chuyện này của Nguyên Hồng. Bởi đây có thể là sự kiện không nhỏ tác động tới việc Nguyên Hồng dứt khoát trở về Nhã Nam. Và từ đó chúng ta càng hiểu rõ hơn tính tình, tâm tư “nhà văn của người cùng khổ”. Những ai đã đọc cuốn hồi ký Cát bụi chân ai không thể quên một sự kiện của nhà thơ Nguyễn Bính. Nhà thơ đã đánh mất đứa con gái ở ngã sáu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 Bà Triệu trong một cơn say rượu và sau đó thì không tìm được “đã trên ba mươi năm rồi” [25. 432]. Trong cả hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều những mốc thời gian cùng những sự kiện có liên quan đến tác giả được nhắc đến thật rõ ràng và sinh động. Mặc dù Tô Hoài không ghi lại các sự kiện theo dòng thời gian tuyến tính, nhưng mỗi sự kiện được hiện diện theo dòng hồi tưởng, đều cho người đọc cảm nhận rõ hơn về cuộc đời với những vui buồn, sướng khổ của mỗi con người. Tô Hoài đã từng làm phóng viên của báo Cứu Quốc, tham gia chiến dịch tiêu diệt một chuỗi cứ điểm hành lang bờ sông Thao mùa hạ năm 1949, chiến dịch giải phóng biên giới mùa thu năm 1950 ở Cao Bằng, ở rừng Thượng Yên chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ tác giả làm nhà xuất bản Văn Nghệ rồi nhà xuất bản Hội Nhà Văn. Quãng thời gian dài với những công việc triền miên theo năm tháng trong Cát bụi chân ai là sự tiếp tục về những hồi ức ngày xưa trong Cỏ dại: “Năm tôi sáu bảy tuổi, ngày Tết, thường theo các dì tôi ra Kẻ Chợ xem hát bói tuồng đầu năm ở rạp Quảng Lạc – quen gọi là ngõ Quảng Lạc, cái quán Tiểu Lạc viên bây giờ ở trong hẻm này” [25. 454]. Tô Hoài đi Lai Châu sau những “mổ xẻ phê bình” [25. 550] về tiểu thuyết Mười năm, “Tôi đi Lai Châu, cho đỡ bận lòng.” [25. 551]. Chuyến tàu đưa tác giả lên Tây Bắc kéo về bao ký ức, những ký ức đời tư của tác giả. Đó là mốc thời gian rất cụ thể: “năm 1945, mờ sáng, tôi đi với bộ đội đánh Quốc dân đảng” [25. 553]. Những ngày tháng trực tiếp tham gia chiến đấu là thời gian quý giá đối với nhà văn. Trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài không quên những ngày chất chứa bao kỷ niệm với các nhà văn ở Yên Dã. Đặc biệt là “mối tình” với “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” – Xuân Diệu: “Tôi quen Xuân Diệu trước 1945. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 Tôi cũng là người được Xuân Diệu rủ đi nghe và cổ vũ Xuân Diệu lần đầu tiên diễn thuyết bài Thanh niên với quốc văn ở giảng đường đại học Hà Nội” [25.540]. Ký ức ngày xưa vụt về chốc lát: “Nhớ những tình yêu con trai với nhau, ở trong làng và ở lớp, khi mới lớn. Học lớp nhất trường Yên Phụ, nói vỡ tiếng ồ ồ, mặt sùi trứng cá” [25. 541], rồi mạch hồi tưởng lại trở về những ngày ở Yên Dã “Đương cữ mưa rào. Trong thung lũng, có khi cơn nước trắng xóa mù mịt cả ngày” [25. 541]. Ở núi rừng Yên Dã nhà văn càng hiểu hơn nét sinh hoạt và tính cách của Xuân Diệu. Tô Hoài hiểu đến từng chân tơ kẽ tóc của nhà thơ: “Xuân Diệu nhiều nữ tính thường cẩn thận, từ chi tiêu đến sáng tác”. Trong mỗi lần đi nói chuyện văn thơ, nhà thơ đều “đặt kế hoạch hẳn hoi” [25. 544], đến “mỗi bữa ăn, Xuân Diệu săn sóc thực đơn lấy” [25. 544] để “không làm chủ nhà tốn kém, lại hợp sự đòi hỏi của mình” [25. 545]. Ngay cả đến việc viết “Xuân Diệu cũng tính chi ly tức cười, mỗi bài đều có mục đích hai việc một lúc. Bài nói ở đài hoặc đăng báo rồi để in sách. Nếu không, không viết.” [25. 545], rất chi ly và kỹ càng. Không chỉ thế, nhà thơ còn là người rất cẩn thận cho mình: “ba lô Xuân Diệu vẫn đủ thứ dự trữ, mỗi chuyến đi đều sắp sẵn thế” [25. 545] và chu đáo, lo lắng cho người khác: “đến bữa vẫn cho tôi miếng thịt kho và củ tỏi” [25. 545], “hay bảo ban, nhiều khi từ những việc nho nhỏ” [25. 546]. Xuân Diệu cẩn thận, chi ly, chu đáo và thường “Xuân Diệu chê tôi viết lung tung, khuyên tôi không nên phí chữ” [25. 545] rồi “cứ phàn nàn, cảu nhảu tôi cẩu thả.” [25. 545]. Những ký ức về Xuân Diệu khiến cho nhà thơ hiện lên trên từng trang hồi ký của Tô Hoài thật gần gũi, thân tình. Trong hồi ký Chiều chiều có rất nhiều kỷ niệm về chính tác giả. Đó là những năm tháng Tô Hoài đi thực tế ở Thái Ninh – Thái Bình. Những năm tháng Tô Hoài trực tiếp sinh hoạt với người dân, tham gia sản xuất, tham gia cải cách. Thời gian ấy là thời gian rất quý giá bởi tác giả được hòa vào dòng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 chảy của cuộc sống, được tận mắt chứng kiến những thăng trầm đang diễn ra, tất cả trở thành những chất liệu phong phú trong các câu chuyện mà ông ghi lại. Từ những chuyện tham gia hoạt động các đoàn thể: “Tôi được giấy gọi đi học trường Nguyễn Ái Quốc khóa 1961” [24. 116]. Sau đó “Ở trường về, tôi lại được bầu vào ban chấp hành đảng bộ, lại tiếp tục như đã làm hai năm trước khi đi học. Đã sát nhập Đảng đoàn Văn hóa và Văn nghệ. Về Đảng bộ, đã thành lập Đảng bộ Văn hóa Văn nghệ. Bí thư Hà Huy Giáp, chịu trách nhiệm chung, phó bí thư tôi nắm khu vực các hội văn học nghệ thuật” [24. 184], đến những chuyện đời thường ở khu phố - những chuyện đời thường, nhỏ nhặt, rối rắm như “mớ bòng bong” [24. 204]: chuyện có một ông lão ở nhà ba tầng “người nhỏ thó, mặt và râu nhợt nhạt, áo sơ mi trong áo vét tử tế nhưng đã cũ. Cụ ra vỉa hè, ngồi xuống vén ống quần. (…). – Trong sổ hộ khẩu tên cụ là Vi Văn Định” [24. 219, 220]; chuyện không được nuôi chó ở khu phố vì sợ chó bị dại; rồi chuyện mẹ con nhà một chị lên xin trước cái tem phiếu để đem bán lấy tiền đong gạo cho con; chuyện đứa trẻ con chết dưới hồ; chuyện mở lớp học chữ quốc ngữ, khi khai mạc thì: “Bỗng “choang” một tiếng, vỡ cái bóng điện tối om. Nhớp nháp trên trán, tôi sờ thấy ươn ướt, nhưng ngửi không tanh, không phải chảy máu.(…). Tôi cúi nhặt được nửa quả mõ ném vào mặt tôi. Quả mõ đã chín nát nhoe nhoét, trơ cái hạt cứng. Trán tôi sưng bằng quả ổi” [24. 26]; rồi cả chuyện có gia đình cố tình trốn không cho con đi lính; chuyện cái nhà vệ sinh ở khu phố v.v. Mọi chuyện thường nhật của cuộc sống đi vào hồi ký của Tô Hoài không chỉ để người đọc rõ hơn về một thời đã sống đã trải của nhà văn của lịch sử, mà còn góp phần khẳng định nét đặc sắc trong hồi ký của Tô Hoài. Thời gian trong hồi ký của Tô Hoài được tổ chức theo một phong cách riêng. Trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Tô Hoài vừa miên man theo thời gian giãn cách, khiến các sự kiện không hiện diện theo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 trình tự, vừa có sự đồng hiện chồng chéo để các sự kiện về xã hội lịch sử, về đời tư của mỗi nhà văn hiện lên khá đầy đủ. Từ đó người đọc có sự hình dung rõ nét về cuộc sống con người của mỗi nhân vật trong những thời điểm lịch sử khác nhau và trong tính cách của họ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 KẾT LUẬN Cho đến nay, Tô Hoài là một cây bút văn xuôi lực lưỡng nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam cả về tuổi đời và tuổi nghề. Trải qua gần 70 năm miệt mài sáng tạo nghệ thuật, Tô Hoài đã có một gia tài văn chương đồ sộ mà không phải cây bút nào cũng đạt được. Trong gia tài văn chương đồ sộ ấy, Tô Hoài viết trên nhiều thể loại và ở thể loại nào ông cũng ghi được những dấu ấn đặc sắc. Nghiên cứu cái nhìn, không gian, thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài (qua hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều), chúng tôi muốn góp phần khẳng định những đặc sắc của tác giả trong thể hồi ký. Qua qua trình nghiên cứu, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau: 1. Trong hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Tô Hoài đã thể hiện một cái nhìn chân thực mang đậm dấu ấn lịch sử. Là người có gần 70 năm cầm bút, được chứng kiến và trải qua những giai đoạn phát triển quan trọng, những bước thăng trầm của lịch sử, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thông điệp nhiều chiều cùng sự ảnh hưởng mạnh mẽ của nó. Sự tinh tế và sâu sắc trong việc lựa chọn chi tiết đã khẳng định cái nhìn chân thực và điển hình trong hồi ký của tác giả. Cái nhìn chân thực qua những sự kiện lịch sử xã hội và văn học đáng nhớ của Tô Hoài không nghiêng về một thái cực nào. Nhà văn đã “mạnh dạn thẳng thắn nói ra những chuyện buồn quá khứ, những ấu trĩ trong quan niệm văn học và chính trị một thời” cũng như thay đổi mạnh mẽ theo chiều hướng tốt đẹp để người đọc có những nhận thức, thái độ “tường minh hơn về lịch sử, văn học nước nhà trong những năm tháng đầy biến động” Đặc biệt là với cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt đời thường, Tô Hoài đã cảm nhận con người từ mọi phương diện tự nhiên nhất. Trong con mắt của Tô Hoài, con người không chỉ có phẩm chất, có mọi điều tốt đẹp, cao quý mà thẳm sâu trong họ còn không ít những cá tính, thói tật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 bình thường, thậm chí là nhỏ nhen tầm thường. Không tô điểm, không cường điệu kể cả bản thân và những nhà văn có tên tuổi trong nền văn học Việt Nam, ông viết về họ, nhớ về họ bằng tất cả sự trân trọng và tấm lòng chân thật của mình. Bởi chính nhà văn đã nhận thấy: “Chúng tôi cũng có đủ thói hư tật xấu của kiểu người như chúng tôi trong xã hội, những ích kỉ ganh ghét nhỏ nhen” [22. 13]. Cái nhìn đó của Tô Hoài đã làm nên nét đặc sắc và chi phối thế giới nghệ thuật trong hồi ký của ông, góp phần quan trọng tạo nên phong cách nghệ thuật tác giả. 2. Trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều, Tô Hoài đã tạo nên không gian rộng mở với nhiều tầng bậc góp phần chuyển tải nội dung tư tưởng của tác phẩm tới người đọc. Đó là không gian hiện thực cụ thể với những sự kiện in đậm dấu ấn lịch sử - xã hội một thời. Điều đáng nói là, qua những sự kiện đó người đọc không chỉ hiểu được từng bước thăng trầm của lịch sử xã hội, mà còn hiểu được những khó khăn, thách thức mà Đảng Nhà nước và dân tộc đã phải đối mặt, phải trải qua. Cùng với không gian hiện thực cụ thể in đậm dấu ấn lịch sử, trong Cát bụi chân ai và Chiều chiều còn có không gian sự kiện in đậm dấu ấn cá nhân. Nếu không gian lịch sử với các sự kiện xã hội đem lại cho người đọc những thông điệp nhiều chiều, thì từ những sự kiện liên quan đến đời sống, số phận của từng con người hồi ký của Tô Hoài đã làm phong phú hiện thực phản ánh và sự hấp dẫn cho người đọc. Với cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt, không gian sinh hoạt với những khung cảnh hết sức đời thường, gần gũi, quen thuộc và thân thiết được tác giả đặc biệt chú ý. Đó là không gian làng quê, không gian gia đình – căn phòng và không gian đường phố. Thông qua không gian ấy chân dung và số phận mỗi con người được hiện diện rõ nét để từ đó người đọc hiểu hơn về cuộc sống, về con người trong mỗi giai đoạn lịch sử. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 3. Thời gian nghệ thuật trong hai cuốn hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều được Tô Hoài sắp xếp theo một nghệ thuật thể hiện riêng. Nhà văn đã đan cài những biến cố của lịch sử với từng mốc thời gian lịch sử. Dấu ấn sự kiện nhiều khi không hiện diện cụ thể ở từng ngày, từng tháng nhưng lại rõ ràng ở từng chi tiết. Vì thế nó đã đem đến cho người đọc những thông điệp khá đầy đủ về hoàn cảnh lịch sử và đời sống xã hội của thế hệ nhà văn cũng như người dân đất Việt trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Cùng với cách thể hiện riêng độc đáo, trong hồi ký của Tô Hoài mỗi cuộc đời, mỗi số phận con người còn gắn với những sự kiện riêng đáng nhớ. Tô Hoài đã đưa người đọc đến với nhiều số phận tiêu biểu. Nhà văn đã miêu tả những sự kiện, những biến cố có ý nghĩa quan trọng đối với số phận nhân vật. 4. Nghiên cứu hồi ký của Tô Hoài qua hai cuốn Cát bụi chân ai và Chiều chiều từ phương diện cái nhìn, không gian và thời gian nghệ thuật chúng tôi càng khẳng định hồi ký của ông mang một đặc điểm riêng độc đáo. Để cho độc giả chiêm ngưỡng bức chân dung tự họa của bản thân và chân dung các nhà văn tầm cỡ trong nền văn học hiện đại nước nhà. Tô Hoài đã xóa nhòa khoảng cách tiếp cận và không đi theo kiểu hồi tưởng biên niên. Nhà văn chọn lựa những sự kiện về lịch sử và đời tư mà nhà văn quan tâm và có ấn tượng nhất để ghi lại. Những sự kiện sâu đậm ấy lại được hiện diện theo dòng hoài niệm lan man nhưng vẫn có định hướng để phản ánh cuộc sống và con người qua nhiều thời kỳ đầy sôi động của đất nước. Theo dòng hồi ký của Tô Hoài, từ Cỏ dại, Tự truyện đến Cát bụi chân ai và Chiều chiều, chúng ta càng khẳng định cái nhìn chân thực, khách quan điềm đạm của Tô Hoài. Chính cái nhìn đó đã chi phối thế giới nghệ thuật trong hồi ký của ông và đem đến sức hấp dẫn cho người đọc. Nghiên cứu văn chương và phong cách nghệ thuật Tô Hoài không thể không nghiên cứu mảng hồi ký của ông nhất là Cát Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 bụi chân ai – “tập hồi ký đặc sắc” tập hồi ký khẳng định “bước tiến mới về hồi ký” của Tô Hoài nói riêng và của nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hoàng Thị Anh (2008). Hình tượng tác giả trong truyện ngắn của Nguyễn Khải, thời kỳ đổi mới. Luận văn thạc sĩ. Thái Nguyên. 2. Lại Nguyên Ân (2003). 150 thuật ngữ văn học. NXB ĐH QG. H. 3. Hoàng Thị Bằng (2006). Không gian, thời gian, cái nhìn nghệ thuật trong tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài. Luận văn thạc sĩ. Thái Nguyên. 4. Nam Cao (1997). Tuyển tập Nam Cao. NXB Văn học.H. 5. Đào Thị Mai Dung (2005). Thời gian, không gian và cái nhìn nghệ thuật trong tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài. Luận văn thạc sĩ. Thái Nguyên. 6. Hoàng Thị Diệu (2003). Văn xuôi viết cho thiếu nhi của Tô Hoài sau cách mạng tháng Tám. Luận văn thạc sĩ. Thái Nguyên. 7. Phan Cự Đệ (2000). Tuyển tập Nguyên Hồng (Tập 2). NXB Văn học. H. 8. Nguyễn Đăng Điệp (2004). “Tô Hoài, sinh ra để viết”, Tạp chí văn học số 9. 9. Hà Minh Hữu Đức Nhuận (2001). Nguyên Hồng về tác giả và tác phẩm. NXB Giáo dục. 10. Hà Minh Đức (1996). Lý luận văn học. NXB Giáo dục. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 11. Ngô Văn Đức (1996). Ngâm khúc quá trình hình thành phát triển và thi pháp thể loại. NXB Thanh niên. H. 2001.H. 12. Nhiều tác giả (2007). Từ điển thuật ngữ văn học. NXB Giáo dục. H. 13. Nhiều tác giả (2006). Lý luận văn học. NXB Văn học. 14. Nhiều tác giả (1996). Năm mươi năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám. NXB ĐH QG. H. 15. Nhiều tác giả (1990). Văn học Việt Nam 1945 – 1975 tập 2. NXB Giáo dục. 16. Nhiều tác giả (2002). Lịch sử văn học Việt Nam- tập 3. NXB GD. 17. Nhiều tác giả (2000). Văn học Việt Nam (1900 - 1945). NXB GD. 18. Nhiều tác giả (1998). Triết học Mác- Lênin. NXB Giáo dục. 19. Đỗ Thị Hà Giang (2002). Vai trò của không gian nghệ thuật đối với việc thể hiện đời sống tinh thần nhân vật Pie Bêdukhôp trong tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình” của L.Tônxtoi. Luận văn TN ĐHSP. Thái Nguyên. 20. Đặng Thị Hạnh (1998). “Về một cuộc đời và những cuộc đời” (Cấu trúc thời gian và ngôn ngữ trong Cát bụi chân ai), Tạp chí văn học số 12. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 21. Nguyễn Văn Huỳnh Như Hạnh Phương (1998). Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ. NXB Giáo dục. 22. Dương Thị Thu Hiền (2004). Tô Hoài với 2 thể văn; chân dung và tự truyện. Luận văn Thạc sĩ. Thái Nguyên. 23. Tô Hoài (1985). Tự truyện. NXB Văn học. 24. Tô Hoài (1999). Chiều chiều. NXB Hội Nhà văn. 25. Tô Hoài (2005). Hồi ký. NXB Hội Nhà văn. 26. Tô Hoài (1973). Miền Tây (Tiểu thuyết). NXB Văn học. H. 27. Tô Hoài (1999). Truyện Tây Bắc. NXB Văn hóa dân tộc. H. 28. Tô Hoài (1997). Sổ tay viết văn. NXB Tác phẩm mới. H. 29. Duy Khán (1996) Tuổi thơ im lặng. NXB Kim Đồng. 30. M.B Khrapch enko (1978). Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học.(Lê Sơn – Nguyễn Minh dịch), NXB Hội nhà văn. 31. M.B Khrapch enko (2002). Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học (nhiều người dịch – Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 32. Phong Vân Lê Thanh (2007). Tô Hoài về tác gia và tác phẩm. NXB Giáo dục. 33. Nguyễn Đăng Mạnh (1983). Nhà văn, tư tưởng và phong Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 cách. NXB Văn học. 34. Nguyễn Đăng Mạnh (2003). Nhà văn hiện đại, chân dung và phong cách. NXB Văn học. 35. Nguyễn Đăng Mạnh (2002). Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn. NXB Giáo dục. 36. Lê Thị Na (2003). Ngôn ngữ giàu tính tạo hình trong văn xuôi viết về đề tài miền núi của nhà văn Tô Hoài. Luận văn thạc sĩ. Thái Nguyên. 37. Trần Đình Nam (1995). “Nhà văn Tô Hoài”, Tạp chí văn học số 9. 38. Vương Trí Nhàn (1989). “Cuộc phưu lưu giữa trần ai cát bụi”, Cánh bướm và đóa hướng dương, NXB Hải Phòng. 39. Vương Trí Nhàn (2002). “Tô Hoài và thể hồi ký”, Tạp chí văn học số 8. 40. Mai Thị Nhung (2006). Phong cách nghệ thuật Tô Hoài. NXB Giáo dục. 41. Vũ Ngọc Phan (1998). Nhà văn hiện đại (tập 1 và 2). NXB Văn học. H. 42. Hoàng Phê (2000). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng. 43. Vũ Quần Phương (1999). “Tô Hoài – văn và đời”, Tạp chí văn học số 8. 44. G.N. Pôxpelo v (1985). Dẫn luận nghiên cứu văn học. NXB Giáo dục. H. 45. Xuân Sách (1993). “Cát bụi chân ai”, Báo văn nghệ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 Trần Đức Tiến 46. Trần Đình Sử (1993). Một số vấn đề thi pháp học hiện đại. Bộ GD- ĐT. Vụ GV. H. 47. Trần Đình Sử (1998). Dẫn luận thi pháp học. NXB Giáo dục. 48. Trần Đình Sử (1995). Thi pháp thơ Tố Hữu. NXB Giáo dục. 49. Trần Đình Sử (1997). Những thế giới nghệ thuật thơ. NXB Giáo dục. 50. Trần Đình Sử (1996). Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn. H. 51. Trần Hữu Tá (2001) Tô Hoài một đời văn phong phú và độc đáo, NXB Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. 52. Hoài Hoài Thanh Chân (1996). Thi nhân Việt Nam. NXB Văn học. H. 53. Vân Thanh (1980), “Tô Hoài qua tự truyện”, Tạp chí văn học số 6. 54. Lý Hoài Thu (2008). Hồi ký và bút ký thời kỳ đổi mới. Tạp chí nghiên cứu lý luận, phê bình và lịch sử văn học. Số 10. H. 55. Trần Thị Diệu Thúy (2004). Đặc điểm của ký Nguyên Hồng sau cách mạng tháng Tám. Luận văn thạc sĩ. Hà Nội. 2004. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9057.pdf
Tài liệu liên quan