KÝ HIỆU VIẾT TẮT
1. UBND: Uỷ ban nhân dân
2. XHCN: Xã hội chủ nghĩa
LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Mặc dù cải cách hành chính đã được thực hiện từ nhiều năm nay, song trên thực tế vấn đề này vẫn còn tồn tại nhiều bất cập nhất là thủ tục tiếp nhận và giải quyết công việc của công dân và pháp nhân. Biểu hiện thủ tục hành chính hiện còn thiếu đồng bộ, rườm rà, phức tạp. Các cơ quan thường xuất phát từ yêu cầu thuận tiện của cơ quan mà chưa quan tâm đầy đủ đến nguyện vọng và sự thuận tiệ
24 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1967 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cải cách thủ tục hành chính - Thực tiễn cải cách thủ tục hành chính ở UBND quận Đống Đa - CI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n của dân. Nhiều cơ quan chưa chấp hành đúng các quy định của việc tiếp nhận và giải quyết công việc của dân, còn đùn đẩy trách nhiệm trong việc giải quyết giữa các cơ quan. Thậm chí, có cơ quan còn tự đặt ra các khoản phí và lệ phhí không đúng thẩm quyền hoặc thu quá mức quy định, không niêm yết công khai cho nhân dân biết các thủ tục hành chính, không bố trí cán bộ có đủ trình độ và phẩm chất làm nhiệm vụ... Do đó làm cho "bộ máy hành chính hoạt động kém hiệu quả, bộc lộ những mặt yếu kém, bất cập về chất lượng và năng lực của bộ máy Nhà nước dẫn đến ách tắc chậm trễ trong việc thực hiện các chương trình cải cách cũng như trong quản lý xã hội một cách có hiệu quả. (14;114)
Nhận thức được vấn đề này, các Nghị quyết của Đại hội Đảng kháo VII và VIII (đặc biệt là Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành trung ương Đảng) đã khẳng định: "tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN. Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính Nhà nước". Trên cơ sở đó Chính phủ cũng ra Nghị quyết số 38/CP ngày 4/5/1994 về "Cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức", coi đó là khâu đột phá trong cải cách hành chính nhằm cải thiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, tổ chức. Đáp ứng đòi hỏi thiết yếu của cuộc sống từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và phù hợp với tiền trình hội nhập, xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, Nghị quyết 38/CP đã chỉ đạo tập trung cải cách thủ tục hành chính vào 7 lĩnh vực cơ bản là: Cấp giấy phép đầu tư, cấp phép sử dụng nhà và đất xây dựng, xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, thành lập doanh nghiệp và đăng ký kinh doanh, giải quyết khiếu nại tố cáo, cấp phát vốn ngân sách và vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Sau một thời gian thực hiện, nhiều ngành nhiều cấp đã tiến hành niêm yết công khai thủ tục hành chính, rà soát bãi bỏ hoặc sửa đổi những thủ tục đã lỗi thời và ban hành những thủ tục hành chính phù hợp. Đặc biệt nhiều địa phương đã xây dựng được các mẫu hình chính về cải cách thủ tục hành chính và thí điểm có kết quả cao, xong chưa được kịp thời tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm để triển khai trên toàn quốc.
Vì vậy việc nghiên cứu cải cách thủ tục hành chính là luôn luôn cần thiết.
Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
Mục đích của đề tài là làm rõ cơ sở lý luận của thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính trong công cuộc cải cách nền hành chính Quốc gia. Đồng thời phân tích thực trạng cải cách thủ tục hành chính của UBND quận Đống Đa từ khi có Nghị quyết 38/CP của Chính phủ.
Trên cơ sở đó đề tài đưa ra nhận xét và đánh giá về cải cách thủ tục hành chính, so sánh giữa lý luận về thực tiễn, đồng thời đưa ra giải pháp góp phần hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính theo mô hình "một cửa" ở UBND quận Đống Đa.
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu thủ tục liên hệ, đó là thủ tục giải quyết công việc liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân. Bên cạnh đó đề tài cũng nghiên cứu việc xây dựng một số mẫu hình hành chính về cải cách thủ tục hành chính ở một số địa phương. Đặc biệt là việc xây dựng mô hình "một cửa" ở UBND quận Đống ĐA và những vấn đề quan tâm để thúc đẩy hoàn thiện mô hình "một cửa".
Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được tiếp cận theo phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, lấy học thuyết Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách hành chính và cải cách thủ tục hành chính làm nền tảng sau đó soi qua thực tiễn quan sát để rút ra kết luận.
Đồng thời đề tài cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp từ các báo cáo, các hội thảo, các tài liệu tham khảo và các thông tin mới nhất về cải cách thủ thục hành chính.
Một số tài liệu được đề tài sử dụng làm cơ sở như:
- Nghị quyết Hội nghị lần 8 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII.
- Nghị quyết Hội nghị lần 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII.
- Nghị quyết 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ.
- Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, tổng kết UBND quận Đống Đa trong quá trình thực hiện cải cách thủ tục hành chính.
- Các tài liệu, giáo trình của Học viện hành chính Quốc gia.
Luận văn được kết cấu như sau:
Lời mở đầu: Trình bày lý do chọn đề tài, mục đích, đối tượng phạm vi, phương pháp nghiên cứu, và các nguồn tư liệu sử dụng.
Chương I: Những vấn đề về lý luận về thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính
Chương II: Thực tiễn cải cách thủ tục hành chính ở UBND quận Đống Đa.
Chương III: Một số nhận xét và giải pháp góp phần hoàn thiện cải cách thủ tục hành chính theo mô hình "một cửa" ở UBND quận Đống Đa.
Kết luận: Tóm tắt một số vấn đề đã nghiên cứu.
Danh mục tài liệu tham khảo
Vì thời gian và kiến thức có hạn, thêm vào đó lại chưa trải qua kinh nghiệm công tác thực tế, cho nên trong luận văn này chỉ hệ thống lại những vấn đề cơ bản về thủ tục hành chính và cải cách thủ tục hành chính, trình bày lại mô hình "một cửa" mà UBND quận Đống Đa đang áp dụng. Cũng vì những hạn chế trên nên luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong sẽ nhận được sự giúp đỡ và góp ý kiến của ban lãnh đạo của UBND quận Đống Đa, các thầy cô giáo của Học viện Hành chính Quốc gia để em hoàn thiện luận văn này.
Ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân luận văn này được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của ban lãnh đạo UBND quận Đống Đa và các thầy cô giáo trong Học viện Hành chính Quốc gia, đặc biệt là sự giúp đỡ, quan tâm tận tình của thầy giáo, Thạc sỹ Bùi Xuân Lự - Phó trưởng khoa Văn bản và công nghệ hành chính Học viện hành chính Quốc gia.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sau đây em xin trình bày nội dung chính của luận văn.
CHƯƠNG 1:
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH VÀ VẤN ĐỀ CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
1.1.1. Khái niệm thủ tục hành chính.
Để giải quyết một công việc nhất định đều cần có những thủ tục phù hợp. Theo nghĩa thông thường, thủ tục có nghĩa là phương pháp, cách thức giải quyết công việc theo một trình tự nhất định, một thể lệ thống nhất.
Cũng có thể hiểu thủ tục là những quy tắc, chế độ, phép tắc hay quy định chung phải tuân theo khi làm việc công. Theo quan niệm này nhiều nước đã đề ra luật thủ tục cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Như vậy thủ tục không đơn thuần chỉ là giấy tờ hành chính.
Hoạt động quản lý Nhà nước cần phải tuân theo những quy tắc pháp lý, quy định về trình tự, cách thức khi sử dụng thẩm quyền của từng cơ quan để giải quyết công việc. Khoa học pháp lý gọi đó là những quy phạm thủ tục. Quy pham này gồm các nhóm: Thủ tục lập pháp; thủ tục tố tụng tư pháp và thủ tục hành chính. Thủ tục lập pháp là thủ tục làm Hiến pháp và luật. Thủ tục tố tụng tư pháp là thủ tục giải quyết các tranh chấp dân sự và định tội, được thực hiện bởi các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử... còn thủ tục hành chính là thủ tục thực hiện thẩm quyền trong hoạt động hành chính Nhà nước.
Hành chính Nhà nước là tổng thể các tổ chức và quy chế hoạt động của bộ máy hành pháp có trách nhiệm quản lý công việc hàng ngày của Nhà nước do các cơ quan có tư cách pháp nhân công quyền tiến hành bằng các văn bản dưới luật, để giữ gìn trật tự công cộng, bảo vệ các quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hàng ngày của công dân (26;36). Với ý nghĩa đó hành chính Nhà nước là hệ thống làm chức năng của Nhà nước đảm bảo thực thi quyền hành pháp và hoạt động liên tục của bộ máy Nhà nước, các công sở.
Mục tiêu của quản lý Nhà nước trong mọi trường hợp đều nhằm tổ chức và quản lý đời sống xã hội theo pháp luật. Thông qua cơ chế áp dụng quy phạm pháp luật, các cơ quan Nhà nước đưa ra quyết định hành chính và thực hiện các hành vi hành chính trực tiếp, liên tục, thường xuyên hành ngày để giải quyết các công việc Nhà nước trong các đơn vị, lãnh thổ hành chính, các ngành, các lĩnh vực. Hoạt động của các cơ quan Nhà nước cũng mang tính chất cưỡng chế hành chính theo quy định của pháp luật.
Yêu cầu hàng đầu trong hoạt động công vụ hiện nay là hỗ trợ, tổ chức quản lý tạo điều kiện để các hoạt động của đời sống xã hội, hoạt động kinh tế được thực hiện thuận lợi, đồng thời hoạt động đó phải tuân theo những nguyên tắc, những thể chế nhất định, phục vụ tối đa lợi ích của người dân, chịu sự giám sát của dân và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy tuân thủ thực hiện các thủ tục của các cơ quan là hết sức cần thiết, nó quyết định tính hợp pháp, hợp lý và tính hiệu quả trong giải quyết các công việc của nhân dân.
Như vậy quy phạm thủ tục là toàn bộ các quy tắc pháp lý quy định về trình tực, trật tự thực hiện thẩm quyền của cơ quan Nhà nước trong việc giải quyết nhiệm vụ và công việc liên quan đến công dân. Các quy phạm thủ tục này là những nguyên tắc bắt buộc các cơ quan Nhà nước cũng như các công chức Nhà nước phải tuân theo trong quá trình giải quyết công việc thuộc chức năng và thẩm quyền của mình, chúng nhằm đảm bảo cho công việc đạt được mục đích nhất định, phù hợp với thẩm quyền, chức năng do luật quy định cho các cơ quan trong hoạt động quản lý Nhà nước. Bởi trong hành chính có thể xem thủ tục hành chính là trinh tự, cách thức giải quyết công việc của các cơ quan hành chính Nhà nước trong mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nó nhằm đảm bảo cho công việc đạt được mục đích nhất định, phù hợp với thẩm quyền, chức năng do luật định cho các cơ quan trong hoạt động quản lý Nhà nước hoặc có thể coi thủ tục hành chính là trình tự thực hiện thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước (hoặc của các cá nhân tổ chức được uỷ quyền) trong việc thực thi công vụ (9.82).
Từ những điều trình bày ở trên, có thể đưa ra một định nghĩa tổng quát về thủ tục hành chính như sau: "Thủ tục hành chính là trình tự thực hiện thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước trong thời gian và không gian, là cách thức giải quyết công việc của cơ quanh hành chính Nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan tổ chức và cá nhân công dân". (11.10) Nó được đặt ra trong đó bao gồm cả trình tực thành lập các công sở, trình tự bổ nhiệm, bãi nhiệm, điều động viên chức, trình tự lập quy và áp dụng quy phạm để bảo đảm các quyền của chủ thể quản lý trong xử lý các vi phạm, thực hiện việc điều hành, tổ chức các hoạt động tác nghiệp hành chính.
Thủ tục hành chính là một bộ phận chế định của luật hành chính. Nói cách khác, thủ tục hành chính là một loại hình quy phạm hành chính mang tính công cụ để giúp các cơ quan Nhà nước có điều kiện thực hiện chức năng của mình, vì vậy nó còn được gọi là quy phạm thủ tục. Quy phạm thủ tục đảm bảo cho các quy phạm vật chất của luật hành chính đi vào đời sống, góp phần quan trọng để mở rộng tính pháp chế của nền dân chủ, tính công khai, khoa học trong quản lý Nhà nước.
Những thủ tục hữu hiệu là rất cần thiết vì nó đảm bảo cho tiến trình hành chính không bị phá rối hay cản trở. Chúng có ý nghĩa to lớn trong thực hiện các lợi ích xã hội, đảm bảo kết hợp hài hoà các lợi ích của nhà nước và của công dân. Vì vậy các cơ quan Nhà nước khi ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý Nhà nước đều phải tuân theo một quy trình đã được quy phạm thủ tục hành chính quy định nhằm thực hiện một cách tốt nhất các chủ trương chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước, cũng như phục vụ nhu cầu hàng ngày của công dân. Chỉ có như vậy mới đảm bảo đủ điều kiện cho các hoạt động quản lý Nhà nước đạt hiệu quả mong muốn, mới nâng cao được hiệu lực của các quyết định hành chính.
Từ đó có thể thấy rằng thủ tục hành chính trước hết là do cơ quan Nhà nước đề ra và công bố để thực thi hiến pháp và Pháp luật, nhằm thực hiện chức năng quản lý của nềnn hành chính Nhà nước và hoàn thành nhiệm vụ của mình do luật pháp quy định. Đồng thời, các cơ quan hành chính Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc thực thi các thủ tục đó.
Về chế định, thủ tục hành chính được phân thành các nhóm.
Một là, nhóm quy định nguyên tắc thủ tục hành chính và thẩm quyền của cơ quan tiến hành thủ tục,
Hai là, nhóm quy định quyền của các bên tham gia thủ tục.
Ba là, Nhóm quy định trình tự tiến hành thủ tục và nội dung, hình thức văn bản phù hợp với thủ tục.
Bốn là, nhóm quy định việc thông qua quyết định cho từng loại thủ tục truyền đạt đến người thi hành, việc thực hiện và trình tực khiếu nại, giải quyết khiếu nại đối với quyết định ban hành.
Tóm lại, thông qua các chế định thủ tục hành chính ta thấy chỉ có các hoạt động quản lý hành chính chứa định quy phạm thủ tục hành chính mới tạo thành thủ tục hành chính. Còn các hoạt động tổ chức tác nghiệp nào đó trong hoạt động quản lý hành chính do các quy định nội bộ điều chỉnh không phải là thủ tục hành chính. Ví dụ: Thủ tục đăng ký phòng họp, thủ tục trả sách thư viện...
1.1.2. Đặc điểm của thủ tục hành chính
Xuất phát từ tính đa diện và nội dung phong phú của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước cũng như thực tế xây dựng và thực hiện các thủ tục hành chính thì ngoài cơ quan hành chính và công chức hành chính là chủ thể chủ yếu tiến hành thủ tục hành chính, một số hoạt động của cơ quan lập pháp, tư pháp theo quy định của Pháp luật hiện hành cũng được thực hiện một số thủ tục hành chính nhất định. Việc nghiên cứu các đặc điểm của thủ tục hành chính sẽ giúp chúng ta dễ dàng phân biệt với các thủ tục hoạt động của cơ quan lập pháp và tư pháp.
Một là, thủ tục hành chính là tổng thể các hành động diễn ra theo trình tự thời gian, nó được thực hiện bởi nhiều cơ quan và công chức Nhà nước. Biểu hiện trong quá trình giải quyết công việc cụ thể, có thể có một hay nhiều chủ thể tham gia thủ tục hành chính họ có quyền và nghĩa vụ thực hiện những hành vi nhất định, trong một giai đoạn cụ thể nhằm góp phần vào giải quyết công việc chung, hành vi của chủ thể trong giai đoạn trước sẽ là tiền đề cho hành vi của chủ thể ở giai đoạn sau và trong nhiều trường hợp phải thiết lập những quan hệ pháp luật về thủ tục. Thủ tục hành chính được thực hiện bởi nhiều cơ quan và công chức Nhà nước, điều này xuất phát từ chính bản thân hoạt động của nền công cụ là thông qua hệ thống cơ quan hành chính và đội ngũ công chức hoạt động trong đó. Ngoài cơ quan hành chính và đội ngũ công chức Nhà nước là những chủ thể chủ yếu tiến hành thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật hiện hành các cơ quan lập pháp, tư pháp cũng có loại hoạt động thuộc hệ thống nền hành chính Nhà nước nên các cơ quan đó cũng được thực hiện một số thủ tục hành chính nhất định. Ví dụ: Thẩm phán xét xử phiên toà thực hiện thủ tục hành chính để cưỡng chế đối với công dân cố tình gây rối tại phiên toà.
Hai là, thủ tục hành chính giải quyết công việc nội bộ Nhà nước và công việc liên quan đến quyền chủ chể và nghĩa phụ pháp lý của công dân. Do đó đối tượng công việc cần thực hiện thường rất phức tạp. Có việc cần thực hiện nhanh gọn qua ít khâu ít cấp như công chứng, nhưng có những công việc đòi hỏi phải thận trọng, phải qua nhiều khâu, yêu cầu nhiều loại giấy tờ xác minh tỉ mỉ để đảm bảo cho công việc được giải quyết chính xác.
Ba là, quản lý hành chính Nhà nước là hoạt động cho phép được ra mệnh lệnh có tính chất đơn phương và đòi hỏi thi hành kịp thời nhằm giải quyết nhanh chóng có hiệu quả mọi công việc diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội. Chính điều đó dẫn đến quy định thủ tục hành chính phải kết hợp những khuôn mẫu ổn định tương đối và chặt chẽ với các biện pháp thích ứng cho từng loại công việc và đối tượng để đảm bảo kịp thời giải quyết công việc theo từng trường hợp cụ thể. Chẳng hạn hiện nay các cơ quan chuyên môn đã ban hành các mẫu đơn in sẵn thống nhất trong toàn quốc về lĩnh vực mình phụ trách. Ví dụ Bộ Văn hoá thông tin có mẫu đơn xin cấp giấy chứng nhận hành nghề dịch vụ Karaoke, hành nghề dịch vụ chụp ảnh.........
Bốn là, nền hành chính Nhà nước hiện nay đang chuyển từ hành chính cai quản (hành chính đơn thuần) sang hành chính phục vụ, làm dịch vụ cho xã hội; từ quản lý tập trung sang cơ chế thị trường làm cho hoạt động quản lý hành chính đa dạng về nội dung, phong phú uyển chuyển về hình thức, biến pháp; đồng thời đối tượng quản lý của nó là xã hội dân sự muôn màu muôn vẻ. Nó không chỉ thu hẹp trong nội bộ công dân nước ta mà còn liên quan đến các yếu tố nước ngoài. Do đặc điểm này mà thủ tục hành chính hiện nay đa dạng phức tạp. Ví dụ như thủ tục đăng ký kết hôn với người nước ngoài, nhân con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Năm là, Hoạt động hành chính Nhà nước được thực hiện chủ yếu tại văn phòng công sở Nhà nước và phương diện truyền đạt quyết định cũng như các thông tin quản lý phần lớn là các văn bản như công văn, giấy tờ. Vì vậy thủ tục hành chính gắn chặt với công tác văn thư, với việc tổ chức ban hành, sử dụng và quản lý các văn bản trong các cơ quan nhà nước.
Tóm lại, việc nghiên cứu các đặc điểm của thủ tục hành chính giúp chúng ta phân biệt được thủ tục hành chính với thủ tục của các cơ quan lập pháp và tư pháp (thủ tục lập pháp và thủ tục tư pháp)
1.1.3. Vai trò của thủ tục hành chính.
Thủ tục hành chính giữ một vai trò tác động rất quan trọng trong việc điều hành bộ máy công quyền. Bởi vì đặc trưng của hoạt động công cụ là hỗ trợ tổ chức quản lý hay tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất và các hoạt động khác của nhân dân, nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân và cơ quan quyền lực, tôn trọng sự bình đẳng của mọi công dân, viên chức Nhà nước không có đặc quyền đặc lợi nào so với những người lao động khác. Để đạt được điều này, mọi công vụ phải tuân theo thủ tục hành chính đồng thời mj người dân cũng phải căn cứ vào các thủ tục này để xin hưởng quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ của mình. Do đó thủ tục hành chính rườm rà, công vụ chậm chạp; Thủ tục hành chính đơn giản, công vụ thuận lợi cho việc làm ăn sinh sống của nhân dân và phát triển xã hội; nếu thủ tục hành chính thiết yếu bị bỏ qua hay bị vi phạm thì công việc của chính quyền coi như bất hợp pháp và do đó công việc của công dân cũng bị xoá bỏ vì thiếu điều kiện về hình thức; thủ tục hành chính chặt chẽ, hợp pháp, hợp lý là cơ sở để thực hiện sự tự do và nghĩa vụ công dân, còn nếu thiếu thủ tục sẽ tạo nên tình trạng không dứt khoát đối với công việc và các cơ quan quản lý và công dân phải làm để thực hiện quyền làm chủ thể của mình.....Vậy vai trò của thủ tục hành chính được thể hiện;
Thứ nhất, thủ tục hành chính là một nhân tố đảm bảo sự hoạt động chặt chẽ thuận lợi, đúng chức năng quản lý hành chính của bộ máy Nhà nước, vì nó là chuẩn mực hành vi cho các công dân và các viên chức Nhà nước để họ tuân theo và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Dựa vào đó. các công việc hành chính sẽ được xử lý và đạt được hiệu quả luật pháp đúng như dự định. Ví dụ: Công dân có nhu cầu xin trích lục giấy khai sinh, khai tử, kết hôn có các giấy tờ sau:
- Đơn xin trích lục theo mẫu, có xác nhận của chính quyền địa phương nơi đương sự có hộ khẩu thường trú.
- Hộ khẩu hoặc chứng thư của người đến trích lục.
- Bản sao hoặc bản phô tô các giấy tờ đến trích lục (nếu có)
Căn cứ vào các giấy tờ, đối chiếu với các quy định về thủ tục xin trích lục, cán bô pháp lý có trách nhiệm giải quyết nhanh, gọn, có hiệu quả công việc của người dân.
Hai là, thủ tục hành chính đảm bảo sự đầy đủ, tính toàn diện và tính khách quan của việc phân tích vấn đề và nghiên cứu tình huống của những sự việc cụ thể, xác định sự thật trong đó, sử dụng đúng đắn và vô tư các quy phạm vật chất của luật hành chính.
Ba là, thủ tục hành chính tạo điều kiện để thực hiện luật pháp, quyền và lợi ích hợp pháp, cũng như các nghĩa vụ của công dân, tổ chức và các đối tượng quản lý khác. Vai trò này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thể hiện rõ nét bản chất Nhà nước " của dân, do dân, vì dân". Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trước sức hút vòng xoáy nền kinh tế thị trường và trình độ pháp lý của dân cư còn hạn chế thì việc quy định các thủ tục hành chính càng đơn giản, gọn nhẹ bao nhiêu càng tạo điều kiện cho công dân thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của mình.
Bốn là, thủ tục hành chính giúp cho việc phát triển nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý, tính công khai và sự kiểm tra của dư luận xã hội vì chúng tạo điều kiện cho nhân dân tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, cung cấp cho họ vũ khí chống lại chủ nghĩa quan liêu, chống lại những hành vi phạm pháp làm rối loạn kỷ cương, đốc thúc các cơ quan hành chính và các viên chức hành chính tôn trọng các quyền hợp pháp của công dân, tuân thủ kỷ luật pháp luận. Ví dụ: Căn cứ vào mức thu lệ phí hồ sơ hành chính, các công dân có quyền tố cáo các công chức lạm dụng quyền lực tự đặt ra các khoản lệ phí cao hơn so với mức quy định.
Năm là, thủ tục hành chính góp phần tiết kiệm sức lực, phương tiện và thời gian của công chức, viên chức trong bộ máy Nhà nước. Điều này được thể hiện thủ tục hành chính càng đơn giản, gọn nhẹ, qua ít các khâu, ít cấp, sẽ góp phần thu gọn lại bộ máy quản lý, biên chế lại đội ngũ cán bộ công chức và thời gian giải quyết vụ việc cũng nhanh chóng hơn. Như vậy, thủ tục hành chính đã thúc đẩy việc tiết kiệm trong cơ quan Nhà nước.
Sáu là, thủ tục hành chính đưa vào cuộc sống nguyên tắc, trách nhiệm của từng cơ quan, nhà đương sự đối với công việc được giao. Việc quy định rõ các thủ tục hành chính trong quá trình giải quyết từng vụ việc cụ thể cũng như thời gian tối đa để giải quyết từng vụ việc sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, công chức đối với nhân dân, xứng đáng là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trên thực tế, sau hơn mười năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đất nước đã có nhiều chuyển biến xong vẫn đang đứng trước nhiều thử thách phức tạp. Các hoạt động kinh tế xã hội phát sinh hàng ngày, hàng giờ và cũng chứa nhiều yếu tố bất cập và nhức nhối. Trong khi đó xu hướng hội nhập của nền kinh tế thế giới ngày càng diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ đã đẩy các quốc gia xích lại gần nhau. Để tránh nguy cơ tụt hậu trong quá trình hội nhập, đòi hỏi bọ máy Nhà nước ta phải hoạt động nhanh nhạy có hiệu quả để đưa đất nước tiến lên. Trong tình hình đó vai trò của thủ tục hành chính là rất quan trọng nó được coi là khâu đột phá trong tiến trình thực hiện cải cách nền hành chính Quốc gia. Nghị quyết 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính đã đánh giá đúng mức vai trò của thủ tục hành chính trong công cuộc cải cách nền hành chính và trong đời sống xã hội.
Tóm lại, là một bộ phận trong hệ thống quy phạm pháp luật hành chính, quy phạm thủ tục hành chính giữ một vai trò vô cùng quan trọng là phương tiên truyền tải những nội dung quy phạm vật chất vào đời sống xã hội. Đồng thời, thủ tục hành chính góp phần hoàn thiện bộ máy quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ công chức để hướng vào xây dựng một Nhà nước " của dân, do dân và vì dân".
1.1.4. Ý nghĩa của thủ tục hành chính.
Thủ tục hành chính có ý nghĩa to lớn trong việc thực hiện các lợi ích xã hội, nó đảm bảo kết hợp hài hoà giữa lợi ích cá nhân, tập thể và Nhà nước cũng như quyền ưu tiên các lợi ích. Nếu bỏ quan thủ tục hành chính thì trong nhiều trường hợp một quyết định hành chính có thể bị vô hiệu hoá. Ví dụ: Nếu không đăng ký đúng thủ tục thì một doanh nghiệp không được thành lập. Một thương nhân không đăng ký các mặt hàng nhập khẩu theo đúng thủ tục quy định thì được xem là buôn bán, vận chuyển hàng lậu......Vậy ý nghĩa của thủ tục hành chính được thể hiện:
Trước hết, thủ tục hành chính được đảm bảo cho các quy phạm vật chất quy định trong các quyết định hành chính được thi hành thuận lợi. Thủ tục càng có tính cơ bản thì ý nghĩa càng lớn bởi vì các thủ tục cơ bản thường tác động đến giai đoạn cuối cùng của quyết định hành chính, đến hiệu quả của việc thực hiện chúng. Khi thủ tục bị vi phạm thì có nghĩa hiện tượng vi phạm pháp luật xuất hiện và gây hậu quả không tốt. Ví dụ: Tuyển dụng cán bộ công chức vào làm việc nhưng vi phạm thủ tục thi tuyển dẫn đến người có đủ năng lực trình độ lại không được tuyển dụng. Ngược lại, quyết định tuyển dụng đã có nhưng thiếu chữ ký của người có thẩm quyền của cơ quan tuyển dụng thì cá nhân đó cũng không được nhận vào làm việc.
Thứ hai, thủ tục hành chính là cơ sở đảm bảo cho việc thi hành các quyết định được thống nhất và có thể kiểm tra được tính hợp pháp, hợp lý cũng như các hệ quả do việc thực hiện các quyết định hành chính tạo ra. Chẳng hạn trong giai đoạn hiện nay, một số ngành chức năng quy định thủ tục theo mẫu in sẵn trong phạm vị ngành và lưu hành trên toàn quốc, do đó một công vụ ở bất cứ địa phương nào cũng đòi hỏi các cơ quan hành chính áp dụng các biện pháp thích hợp và thống nhất.
Thứ ba, thủ tục hành chính khi được xây dựng và vận dụng một cách hợp lý sẽ tạo ra khả năng sáng tạo trong việc thực hiện các quyết định quản lý đã được thông qua, đem lại hiệu quả thiết thực cho quản lý Nhà nước. Thủ tục hành chính liên quan đến quyền lợi của công dân, do đó khi được xây dựng và vận dụng tốt vào đời sống nó sẽ có ý nghĩa thiết thực, làm giảm sự phiền hà, củng cố được quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Công việc có thể được giải quyết nhanh chóng, chính xác theo đúng yêu cầu của cơ quan Nhà nước, góp phần chóng được tệ tham nhũng, sách nhiễu nhân dân. Ở những nơi thủ tục hành chính vận dụng không hợp lý do căn bệnh cửa quyền, quan liêu chưa được khắc phục, do phải đi quá nhiều cấp nhiều nơi, thì nhìn chung việc giải quyết công việc đều không có hiệu quả hoặc bị ách tắc hoặc nhiều khi rất trì trệ, tốn kém. Ngược lại, ở những nơi nào thực hiện giảm nhẹ các thủ tục hành chính, tập trung vào "một cửa" để giải quyết yêu cầu của dân thì ở đó hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng cao rõ rệt, công việc được giải quyết nhanh chóng thuận lợi và ở đó lòng tin của nhân dân vào cơ quan Nhà nước được khôi phục, củng cố và nâng cao.
Thứ tư, thủ tục hành chính là một bộ phận của pháp luật hành chính, nên việc xây dựng và thực hiện tốt các thủ tục hành chính sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với quá trình triển khai và thực thi luật pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đã và đang đề ra nhiều phương pháp, biện pháp nhằm cải tiến thủ tục hành chính theo hướng đơn giản, thông thoáng góp phần tích cực mở đường cho kinh tế phát triển nhanh đồng thời làm cho tiến trình hành chính phù hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế. Ví dụ: Cải cách thủ tục hành chính trong quá trình giải quyết khiếu nại tố cáo của nhân dân góp phần hoàn thiện luật khiếu nại, tố cáo....Có thể khẳng định nếu không nhanh chóng cải cách thủ tục hành chính thì dù hệ thống pháp luật của chúng ta có được bổ sung hoàn thiện đến đâu, vai trò của Nhà nước vẫn không thể nâng cao theo yêu cầu của tình hình mới. Ví dụ: Chúng ta ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để thu hút vốn đầu tư nhưng các thủ tục thành lập công ty tại Việt Nam lại phải trải qua nhiều bước, nhiều khâu nhiều cấp, nhiều giấy tờ phiền hà, phức tạp.....điều này gây tâm lý hoang mang cho nhà đầu tư nước ngoài không muốn vào Việt Nam kinh doanh.
Thứ năm, thủ tục hành chính trên một phương diện nhất định là biểu hiện trình độ văn hoá của tổ chức - đó là văn hoá giao tiếp trong bộ máy Nhà nước, văn hoá điều hành. Nó cho thấy mức độ văn minh của một nền hành chính phát triển. Vì vậy, cải cách thủ tục hành chính sẽ không đơn thuần chỉ liên quan đến pháp luật, pháp chế XHCN, mà còn liên quan đến sự phát triển chung của đất nước về mặt chính trị, văn hoá giáo dục và đến sự mở rộng giao lưu giữa nước ta với các nước khác trong khu vực và trên vũ trường chính trị thế giới. Cải cách thủ tục hành chính thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đối với nhân dân và là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước Việt Nam.
Tóm lại, thủ tục hành chính có ý nghĩa như một chiếc cầu nối quan trọng giữa cơ quan Nhà nước với nhân dân và các tổ chức khác. Nó có khả năng làm bền chặt các mối quan hệ, làm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân. Vì vậy Nghị quyết 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ đã khẳng định: Cải cách thủ tục hành chính đòi hỏi bức xúc, đáp ứng yêu cầu chính đáng của nhân dân. Đây cũng là một nội dung quan trọng của cải cách nền hành chính Quốc gia.
1.1.5. Phân loại thủ tục hành chính.
Phân loại thủ tục hành chính là sự phân chia, sắp xếp các thủ tục hành chính có cùng nội dung tính chất, hoặc phạm vi điều chỉnh vào một nhóm. Hay đó là sự phân chia các thủ tục hành chính thành các nhóm dựa vào các đặc trưng của chúng.
Phân loại thủ tục hành chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hoàn thiện thủ tục hành chính, đồng thời góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của việc hoạt động quản lý Nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc phân loại thủ tục hành chính còn tạo cho các cơ quan, các công chức hành chính và mọi công dân thực hiện dễ dàng, nhanh chóng, chính xác các thủ tục hành chính.
Tuỳ thuộc vào các đặc điểm, các tiêu chí khác nhau và các nhà nghiên cứu hành chính đã phân chia thủ tục hành chính thành các nhóm sau:
* Phân loại thủ tục hành chính theo đối tượng quản lý hành chính là cách phân loại theo đó các thủ tục hành chính được xác định cho từng lĩnh vực quản lý Nhà nước và được phân chia theo cơ cấu, chức năng của bộ máy quản lý hiện hành. (Đây cũng là cách phân loại của Nghị quyết 38/CP của Chính phủ ngày 4/5/1994)
Ví dụ: - Thủ tục cấp giấy phép hành nghề cho hoạt động kinh doanh dịch vụ thuộc ngành văn hoá.
- Thủ tục xin phép xây dựng.
- Thủ tục đăng ký hoạt động kinh doanh.
Lợi ích của phân chia này là nó giúp cho người quản lý xác định được tính đặc thù của lĩnh vực mà mình phụ trách. Từ đó mà đề ra yêu cầu xây dựng cho lĩnh vực này những thủ tục hành chính cần thiết, thích hợp nhằm quản lý tốt các nhiệm vụ đặt ra theo mục tiêu của Nhà nước quy định.
* Phân loại thủ tục hành chính theo các loại hình công việc cụ thể mà các cơ quan Nhà nước được giao nhiệm vụ trong quá trình hoạt động của mình.
Đây là một cách phân loại rất đơn giản được áp dụng rộng rãi. Thực chất của cách phân loại này chính là sự ghi nhận các thủ tục của một sự việc hành chính cụ thể mà các cơ quan chức năng tiến hành khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong mỗi thủ tục đó có thể có một hay nhiều thủ tục liên quan đến hoạt động cụ thể hơn. Nói cách khác để thực hiện một vụ việc hành chính có thể phải thực hiện qua nhiều bước và mỗi bước lại có một thủ tục nhất định._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24656.doc