Tài liệu Cải cách thủ tục Hải quan Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế: TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
CẢI CÁCH THỦ TỤC HẢI QUAN TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. PHẠM DUY LIÊN
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THUỲ LINH
LỚP: A6-K37
HÀ NỘI 2002
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Kết luận 98
Danh mục tài liệu tham khảo 99
LỜI NÓI ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Hiện nay, Việt nam là thành viên của nhiều tổ chức tài chính quốc... Ebook Cải cách thủ tục Hải quan Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế
105 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1605 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Cải cách thủ tục Hải quan Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế WB, IMF, ADB...; là thành viên chính thức của ASEAN(1995), APEC(1998), đã ký Hiệp định khung với EU, đang đàm phán gia nhập WTO... Nền kinh tế Việt nam ngày càng phát triển, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập và tham gia vào nền kinh tế quốc tế cũng đưa ra những đòi hỏi hết sức thiết thực về cải cách hành chính, như giảm bớt sự can thiệp trực tiếp quá mức vào các hoạt động kinh tế, và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế. Xuất phát từ tình hình trên, ngành Hải quan cũng cần có sự đổi mới theo hướng đơn giản hóa, hiện đại hóa, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển.
Bên cạnh những mặt tích cực mà quá trình hội nhập mang lại cho nước ta như việc mở rộng thị trường, tăng khả năng thu hút các nguồn vốn, tạo điều kiện tiếp nhận công nghệ mới có hiệu quả hơn, thì những yêu cầu, thách thức và những tác động tiêu cực ở mặt nào đó, cũng đòi hỏi phải có những biện pháp cải cách, để những vấn đề đó được giải quyết theo hướng thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo hộ sản xuất, bảo đảm nguồn thu cho ngân sách, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững chủ quyền quốc gia. Cũng như các ngành khác trong nước và Hải quan các nước trên thế giới, Hải quan Việt Nam đang đối mặt với rất nhiều khó khăn và thách thức trong bối cảnh thương mại quốc tế tăng trưởng mạnh cả về giá trị và khối lượng, cả thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự phát triển gia tăng của buôn lậu, gian lận thương mại và những loại hình tội phạm mới. Thực tế trên càng ảnh hưởng sâu sắc đền hoạt động của Hải quan và càng đòi hỏi phải thực hiện cải cách sâu rộng, trong đó, một chế độ thủ tục Hải quan đơn giản, minh bạch và hiện đại là một yêu cầu, đồng thời còn là một lợi thế của Việt Nam khi tham gia vào nền kinh tế thế giới. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, hội nhập kinh tế nhưng phải giữ vững được định hướng xã hội chủ nghĩa. Hải quan là một trong những lực lượng ở “tuyến trước” còn có nhiệm vụ góp phần bảo vệ sự ổn định của đất nước, “hội nhập mà không hòa tan”, nhiệm vụ cải cách Hải quan đặt ra hết sức nặng nề. Do vậy, cải cách thủ tục Hải quan đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực chung của Chính phủ Việt Nam nâng cao hiệu lực quản lý điều hành của bộ máy nhà nước, huy động toàn bộ nguồn lực cả bên trong và bên ngoài vì phát triển kinh tế và hiệu quả của nền kinh tế quốc dân trong điều kiện hội nhập kinh tế.
Xuất phát từ những lý do cơ bản trên, em nhận thấy vấn dề cải cách thủ tục Hải quan là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, do vậy em đã chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp là : "Cải cách thủ tục Hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế ở Việt Nam hiện nay"
Quá trình cải cách thủ tục Hải quan được khởi xướng từ những năm đầu 1990, khi Chính phủ có chủ trương cải cách hành chính, nhưng thật sự phải đến những năm 1998 đến nay thì hoạt động cải cách thủ tục Hải quan mới được thực hiện mạnh mẽ cả chiều rộng và đã đi vào chiều sâu. do vậy, nghiên cứu trong khoá luận này chủ yếu tập trung vào những cải cách cơ bản nhằm đơn giản hóa, hiện đại hóa thủ tục Hải quan, được thực hiện từ những năm 90 trở lại đây, đưa ra một số nhận định, đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất định hướng và giải pháp tiếp tục cải cách thủ tục Hải quan trong thời gian tới.
Vì cải cách thủ tục Hải quan là một đề tài tài tương đối rộng và mang tính tổng quát nên trong giới hạn của một bài viết không thể đề cập đến mọi khía cạnh của vấn đề. Bên cạnh đó, để phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu lĩnh vực ngoại thương, em chủ động nhấn mạnh đến các biện pháp cải cách thủ tục Hải quan có liên quan đến hàng hóa xuất nhập khẩu, nhất là hàng hóa xuất nhập khẩu mậu dịch.
Nội dung chính của khoá luận như sau:
Chương 1: Khái quát về Hải quan và yêu cầu cải cách thủ tục Hải quan trong xu thế hội nhập kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2:Thực trạng cải cách thủ tục Hải quan Việt Nam
Chương 3: Phương hướng cải cách thủ tục Hải quan trong giai đoạn tiếp theo
Mặc dù đã hết sức cố gắng, song bài viết khó tránh khỏi những hạn chế và sai sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của thầy Phạm Duy Liên. Em cũng xin trân trọng cảm ơn Lãnh đạo và các cô chú trong Cục giám quản - Tổng cục Hải quan, Vụ pháp chế - Tổng cục Hải quan, Phòng giám sát quản lý - Cục Hải quan Thành phố Hà nội đã nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian tìm hiểu, nghiên cứu, để em có thể hoàn thành tốt khoá luận tốt nghiệp.
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HẢI QUAN VÀ YÊU CẦU CẢI CÁCH THỦ TỤC HẢI QUAN TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ
KHÁI NIỆM VỀ HẢI QUAN VÀ THỦ TỤC HẢI QUAN
Khái quát chung về Hải quan.
Sự ra đời và phát triển của Hải quan Việt Nam.
“Hải quan” là cụm từ được phiên dịch từ chữ Hán, theo khái niệm này Hải quan là cơ quan nhà nước phụ trách việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát hàng hoá, vật phẩm và phương tiện vận tải được phép đưa vào, đưa ra khỏi lãnh thổ quốc gia, và thu thuế quan các loại động sản này.
Xét về lịch sử phát triển, từ Hải quan có nguồn gốc từ từ “Douane” của người Ai Cập ngay từ khi nhà nước của quốc gia này hình thành- từ này có nghĩa là “thu quốc gia”.Sau đó từ này được La tinh hoá, rồi Pháp cũng sử dụng từ này.Còn Hi Lạp và Đức gọi là Zull cũng có nghĩa là “thu quốc gia”, Anh và các nước nói tiếng Anh gọi là “Customs”-“tập quán”. Ban đầu, Hải quan được thành lập với chức năng cơ bản là thu thuế đối với hàng hóa, phương tiện và hành khách di chuyển qua biên giới quốc gia. Do chức năng cơ bản này, hiện nay cơ quan Hải quan của nhiều nước trực thuộc Bộ Tài chính.
Theo tập quán và thông lệ quốc tế, Hải quan là công cụ hành pháp mà bất cứ một nhà nước nào cũng đều phải tổ chức ra để bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia trong hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
Tuỳ theo tình hình chính trị, hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội và mối quan hệ quốc tế của mỗi nước, mỗi khu vực trong từng thời kỳ mà chức năng nhiệm vụ, hình thức tổ chức, tên gọi , phạm vi địa bàn hoạt động , vị trí trong hệ thống bộ máy nhà nước có thể khác nhau, nhưng xét về tính chất cơ bản, Hải quan các nước đều có vai trò quan trọng như nhau : Đó là binh chủng đặc biệt gác cửa đất nước về kinh tế, gắn liền với hoạt động đối ngoại, kinh tế đối ngoại và an ninh quốc gia.
Từ “Hải quan” du nhập vào Việt Nam từ đầu thập kỷ 50 và xuất hiện lần đầu tiên trên văn bản của cơ quan nhà nước tại nghị định số 136-BTC/KB/NĐ ngày 14-12-1954 của Bộ Công thương về thành lập Sở Hải quan thuộc Bộ Công thương .
Hải quan Việt Nam ra đời ngay từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945, được gọi là “Sở thuế quan và thuế gián thu”, đặt trong Bộ Tài chính (sắc lệnh số 27/SL, ngày 10-9-1945 của Chủ tịch chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ cộng hoà). Nhiệm vụ của Sở là thu thuế xuất nhập khẩu, thuế gián thu, chống buôn lậu và xử lý các vụ vi phạm về thuế quan và thuế gián thu.
Sau đó, Nghị định số 63/NĐ ngày 17-7-1951 của Bộ Tài chính về ấn định hệ thống tổ chức Sở thuế thuộc Bộ Tài chính gọi là ngành “Thuế xuất nhập khẩu”, rồi đổi thành Sở Hải quan (Nghị định 508/TTg ngày 6-4-1955 của chính phủ) và năm 1962 được đổi tên thành Cục Hải quan Trung ương thuộc Bộ Ngoại thương (Quyết định số 490/NTg-QĐ/TCCB ngày 17-6-1962 của Bộ Ngoại thương).
Ngày 20-10-1984, theo Nghị định 139/HĐBT. Tổng cục Hải quan, cơ quan thuộc Hội đồng bộ trưởng được thành lập.
Theo đó , Tổng cục Hải quan là công cụ chuyên trách nửa vũ trang của Đảng và Nhà nước. Năm 1990 việc Hội đồng Nhà nước thông qua Pháp lệnh Hải quan đã đánh dấu một bước phát triển mới của ngành Hải quan
Theo nghị định đó và sau này là Pháp lệnh Hải quan công bố 24-2-1990, công tác Hải quan nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam qua biên giới.
Kế thừa những thành tựu và những kinh nghiệm thực tiễn trong công tác quản lý nhà nước về Hải quan qua những năm tổ chức và thực hiện Pháp lệnh Hải quan, xuất phát từ những yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới mà Đảng và nhà nước đã đề ra, của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và các cam kết quốc tế khác mà Việt Nam đã gia nhập, tham gia, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất trong công tác quản lý nhà nước về Hải quan- Luật Hải quan đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá X ngày 29-6-2001, và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01-01-2002. Luật Hải quan năm 2001 đánh dấu bước đi quan trọng của pháp luật Hải quan trong việc tiếp tục khẳng định chính sách mở cửa nền kinh tế và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và định hướng phát triển kinh tế của nước ta, ngành Hải quan đứng trước những nhiệm vụ ngày càng nặng nề và phức tạp hơn, để đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành và tạo điều kiện phối hợp dễ dàng hơn với các cơ quan nhà nước có liên quan, và theo yêu cầu của quá trình cải cách hành chính nhà nước, Tổng cục Hải quan lại vào Bộ Tài chính. Dựa trên việc xét yêu cầu công tác ngành, căn cứ Luật tổ chức chính phủ ngày 25/12/2001 và để thực hiện cải cách bộ máy Chính phủ, Quyết định số 113/2002/QĐ-TTg về việc chuyển Tổng cục Hải quan vào Bộ Tài chính đã có hiệu lực từ ngày ký là ngày 10/9/2002
Chức năng, nhiệm vụ của Hải quan
Chức năng của Hải quan
Chức năng, nhiệm vụ truyền thống của Hải quan là bảo vệ không gian kinh tế của quốc gia. Mục tiêu tổng quát của chức năng nhiệm vụ này là đảm bảo việc bảo vệ và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế đất nước. Chức năng của Hải quan trong xã hội thể hiện qua những mục tiêu mà Hải quan nhằm đạt được thông qua các hoạt động của mình. Những mục tiêu này thay đổi tuỳ theo hình thái ý thức xã hội và mô hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
Hải quan Việt Nam qua các thời kỳ phát triển của mình có những chức năng cụ thể khác nhau.Theo nghị định 139/HĐBT ngày 20/10/1984, ngành Hải quan có chức năng : kiểm tra, quản lý hàng hoá, hành lý, ngoại hối và các công cụ vận tải xuất nhập khẩu qua biên giới nước CHXHCN Việt Nam, thi hành chính sách thuế nhập khẩu, ngăn ngừa, chống các hành vi vi phạm luật lệ Hải quan và các luật lệ khác liên quan đến xuất nhập khẩu, chống các hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới, nhằm đảm bảo đúng đắn chính sách nhà nước độc quyền về ngoại thương, ngoại hối, góp phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Sau đó, Pháp lệnh Hải quan qui định chức năng Hải quan Việt Nam là thực hiện “quản lý nhà nước bằng Hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh, mượn đường Việt Nam; đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, ngoại hối và tiền Việt Nam qua biên giới”
Việc xác định chức năng của Hải quan Việt Nam nói trên là xuất phát từ yêu cầu khách quan của đất nước và trên cơ sở những điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia, để góp phần “bảo đảm thực hiện chính sách của Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ; hợp tác và giao lưu quốc tế; bảo vệ chủ quyền và an ninh quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân;” (luật Hải quan 2001)
Như vậy, Hải quan Việt Nam có hai chức năng cơ bản là chức năng quản lý nhà nước về Hải quan và chức năng chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép “hàng hóa” qua biên giới.
Chức năng “quản lý nhà nước về Hải quan” đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu,xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam là nói đến cơ quan Hải quan sử dụng quyền lực nhà nước được thể chế hóa thành các qui phạm pháp luật để điều chỉnh hoạt động của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật Hải quan, tức là các hành vi của tổ chức và cá nhân thực hiện việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, vật phẩm và phương tiện vận tải ra, vào lãnh thổ Việt Nam, áp dụng các nghiệp vụ Hải quan nhằm bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia của Việt Nam.
Chức năng “đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” là việc cơ quan Hải quan sử dụng quyền lực nhà nước, được xác định theo pháp luật, như trong điều 97 Bộ luật hình sự, điều 93 Bộ luật tố tụng hình sự, chương 4 Luật Hải quan ... về khởi tố, điều tra ban đầu đối với hai tội xâm phạm an ninh đối nội đối ngoại của Việt Nam là tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới. Theo điều 4 luật Hải quan thì hàng hóa bao gồm hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; hành lý, ngoại hối, tiền Việt nam của người xuất cảnh, nhập cảnh; vật dụng trên phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; kim khí quí, đá quí, cổ vật, văn hóa phẩm, bưu phẩm, các tài sản khác xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong địa bàn hoạt động Hải quan.
Hai chức năng này là hai mặt của vấn đề thuộc quyền lực nhà nước về Hải quan để bảo vệ lợi ích, chủ quyền và an ninh quốc gia trong hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại. Do đó, hai chức năng này có mối quan hệ tương hỗ và tạo nên sức mạnh tổng hợp thuộc quyền lực của Hải quan Việt Nam, được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hải quan Việt Nam
1. Luật Hải quan điều 11 qui định rõ:
. Hải quan Việt Nam có nhiệm vụ thực hiện kiểm tra, giám sát hàng hoá, phương tiện vận tải;
. Phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hoá qua biên giới;
. Tổ chức thực hiện pháp luật về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
. Kiến nghị chủ trương, biện pháp quản lý nhà nước về Hải quan đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh và chính sách thuế đối với hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu.
Với những nhiệm vụ trên, Hải quan là người trực tiếp thực hiện các qui định đối với các đối tượng chịu sự quản lý Hải quan, bao gồm các qui phạm pháp luật do cơ quan Hải quan và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ban hành nghĩa là thực hiện cả “Luật nội dung” và “Luật hình thức”, nếu các đối tượng đó không làm đúng các qui định của nhà nước thì Hải quan có quyền không cho các đối tượng đó xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh.
Những nhiệm vụ này vừa mang tính kinh tế vừa mang tính chính trị, nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước và giữ gìn an ninh xã hội. Hoạt động xuất nhập khẩu càng phát triển thì các vi phạm về quản lý nhà nước về Hải quan cũng có dấu hiệu tăng nhanh.Vì vậy nhiệm vụ này ngày càng mang tính phức tạp, khó khăn hơn, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của cơ quan Hải quan, đặc biệt là cấp thừa hành.
Ngoài những nhiệm vụ cơ bản nói trên, trong điều kiên hội nhập kinh tế với những đổi mới nhiều mặt về kinh tế, xã hội của nước ta hiện nay Hải quan cũng thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
+Thực hiện thống kê nhà nước về Hải quan. Đây là nhiệm vụ tương đối quan trọng, nhất là trong việc cung cấp thông tin trong nội bộ ngành, trong việc phân luồng hàng hóa và thực hiện Luật Hải quan mới ra đời. Ngoài ra còn cung cấp thông tin cho Chính phủ và các bộ ngành khác để tổ chức điều hành xuất nhập khẩu tốt hơn.
+ Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhân viên Hải quan. Nhiệm vụ này đặc biệt quan trọng trong tình hình thực hiện mạnh mẽ cải cách thủ tục hành chính của nhà nước, và từng bước nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ Hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế.
+ Hợp tác Hải quan quốc tế và với Hải quan các nước
¨ Nhiệm vụ của Hải quan phát triển theo sự phát triển của tình hình kinh tế, xã hội của đất nước, điều này đòi hỏi sự phát triển và đổi mới của ngành Hải quan nói chung và thủ tục Hải quan nói riêng để thực hiện tốt nhiệm vụ được đặt ra.
Thủ tục Hải quan
Khái niệm chung về hành chính Hải quan
Hải quan là công cụ quan trọng của mỗi quốc gia, nằm trong hệ thống bộ máy hành pháp của Nhà nước, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh.Vì vậy, Hải quan là một bộ phận của nền hành chính quốc gia, bao gồm hệ thống thực thi quyền hành pháp, là công cụ của hành pháp, quản lý một lĩnh vực xã hội- lĩnh vực Hải quan, trên cơ sở thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước về Hải quan.
Hành chính Hải quan được thể hiện trên các phương diện:
+ Thể chế hành chính Hải quan mà nội dung của nó là hệ thống qui phạm pháp luật Hải quan về chính sách, chế độ, thủ tục, qui chế, qui trình nghiệp vụ Hải quan đối với các đối tượng quản lý nhà nước về Hải quan (là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam). Đó chính là đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đối ngoại, kinh tế đối ngoại và an ninh quốc gia được thể chế hóa nhằm đảm bảo thực hiện quyền lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực Hải quan, thông qua công cụ hành pháp là lực lượng Hải quan. Mặt khác, công tác Hải quan vừa tuân thủ pháp luật quốc gia, vừa tuân theo các điều ước quốc tế liên quan và các thông lệ, tập quán quốc tế về Hải quan, mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.Vì vậy, thể chế hành chính Hải quan còn bao hàm việc thể chế hóa những điều ước, thông lệ và tập quán quốc tế về Hải quan trong thủ tục Hải quan và các chế độ Hải quan như vấn đề ưu đãi Hải quan, về các biện pháp phối hợp và phòng ngừa trong quan hệ buôn bán giữa các nước...
+ Hệ thống thiết chế bộ máy Hải quan được tổ chức từ trung ương đến cơ sở. Hệ thống thiết chế này tương ứng với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn được giao, đồng thời phải có đủ khả năng hành động để đảm bảo cho chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hải quan được thực hiện có hiệu lực, hiệu quả trong phục vụ, quản lý, thực thi quyền hành pháp của công cụ hành pháp nhà nước. Nói cách khác, hệ thống thiết chế bộ máy Hải quan phải phù hợp với hệ thống thể chế hành chính Hải quan. Chỉ có như vậy, hệ thống thiết chế bộ máy Hải quan mới phát huy được hiệu lực quản lý nhà nước về Hải quan.
+ Hệ thống nhân sự Hải quan gồm đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và đội ngũ công chức Hải quan. Hệ thống này thuộc yếu tố con người, gắn liền với hệ thống công sở đặt dưới quyền quản lý của thủ trưởng cơ quan Hải quan các cấp, có ý nghĩa quyết định đến việc thực thi quyền hành pháp trong lĩnh vực quản lý nhà nước về Hải quan, hiệu lực, hiệu quả của quyền lực quản lý.
Ở nước ta, hệ thống hành chính Hải quan bao gồm từ hệ thống thể chế hành chính, đến hệ thống thiết chế bộ máy và hệ thống nhân sự, là công cụ đắc lực bảo vệ cho đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, Nghị quyết của Quốc hội và hệ thống văn bản pháp qui của chính phủ về phát triển kinh tế- xã hội nói chung, về đối ngoại, kinh tế đối ngoại và an ninh quốc gia nói riêng, được thực hiện, trở thành hiện thực, đem lại lợi ích cho đất nước và cho nhân dân, đóng góp ngày càng quan trọng trong việc đem lại lợi ích cho cả cộng đồng quốc tế.
Khái niệm thủ tục Hải quan
Trước hết, như đã nêu ở trên, thủ tục Hải quan là một bộ phận của hành chính Hải quan, chịu sự chi phối của các bộ phận thuộc hành chính Hải quan, cụ thể là: hệ thống văn bản pháp qui điều chỉnh trực tiếp và có liên quan, hệ thống cơ cấu tổ chức bộ máy Hải quan và đội ngũ nhân sự Hải quan.
Luật Hải quan 2001 điều 4 mục 6 nêu rõ: “Thủ tục Hải quan là các công việc mà người khai Hải quan và công chức Hải quan phải thực hiện theo qui định của Luật này đối với hàng hóa, phương tiện vận tải”
Thủ tục Hải quan là một bộ phận của nghiệp vụ Hải quan nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Hải quan. Thủ tục Hải quan cụ thể hóa, chi tiết hóa những yêu cầu đề ra cho các đối tượng chịu sự quản lý nhà nước về Hải quan. Các đối tượng đó chỉ được thông quan khi đã hoàn thành thủ tục Hải quan. Thể lệ thủ tục Hải quan được đặt ra vừa có tính chất hướng dẫn, vừa có tính chất bắt buộc phải thi hành đối với các cá nhân, tổ chức tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu.
Do thủ tục Hải quan là một bộ phận của hành chính Hải quan, chịu sự chi phối của các qui phạm pháp luật Hải quan và được thực hiện bởi hệ thống nhân sự Hải quan tổ chức theo cơ cấu nhất định do nhà nước đặt ra, nên việc thực hiện chức năng quản lý Hải quan thông qua thủ tục Hải quan phụ thuộc vào ba yếu tố : hệ thống văn bản pháp luật qui định, điều chỉnh và có liên quan đến thủ tục Hải quan, cơ cấu tổ chức bộ máy Hải quan, đội ngũ nhân sự Hải quan.
Cơ sơ pháp lý của thủ tục Hải quan
Do các văn bản pháp luật về Hải quan qui định, theo đó Tổng cục Hải quan là cơ quan thay mặt Chính phủ, Bộ Tài chính cụ thể hoá các qui định của pháp luật thành các bước thao tác nghiệp vụ để các đơn vị Hải quan cơ sơ làm căn cứ tác nghiệp – tạm gọi là “Luật thủ tục”.
Chính phủ, các Bộ, ngành là người qui định các chính sách về thuế, chính sách mặt hàng và cơ chế điều hành đối với hàng hóa xuất nhập khẩu cũng như các rào cản phi thuế quan khác - tạm gọi là “Luật nội dung”
Trên thực tiễn, nhiều khi “Luật nội dung” lại quyết định và điều chỉnh “Luật thủ tục”, rõ ràng đây là một bất cập lớn trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính về Hải quan, cần phải được các cấp, các ngành quan tâm tháo gỡ thoả đáng và kịp thời.
Qui trình thủ tục Hải quan theo tinh thần công ước Kyoto và của một số nước
Qui trình thủ tục Hải quan theo tinh thần Công ước KYOTO
Xét trên phương diện kinh tế toàn cầu, Hải quan giữ vai trò quan trọng trong thương mại quốc tế. Thủ tục Hải quan của các nước trên thế giới ngày nay nói chung đều được qui định cụ thể và chi tiết trong luật Hải quan theo hướng ngày càng đơn giản hóa, công khai hóa, thậm chí thống nhất hóa thủ tục Hải quan giữa các nước, trên qui mô khu vực cũng như quốc tế, chẳng hạn như việc thống nhất hóa về thủ tục Hải quan các nước EU, hay cố gắng thống nhất hóa thủ tục Hải quan các nước trong khối ASEAN. Các hoạt động mà Hải quan thực hiện có ảnh hưởng đến người và hàng hóa trong thương mại quốc tế, để giảm tối đa sự can thiệp của Hải quan trong dòng lưu thông hàng hóa quốc tế, cơ quan Hải quan các nước đều đang có gắng thực thi Công ước đơn giản hóa và hài hòa thủ tục Hải quan – Công ước KYOTO của Tổ chức Hải quan thế giới.
Công ước này không chỉ đáp ứng nhu cầu của cộng đồng kinh doanh là tạo điều kiện cho sự lưu thông hàng hóa mà còn tăng cường tính hiệu lực và hiệu quả trong việc tuân thủ pháp luật Hải quan. Những thay đổi nhanh chóng trong thương mại quốc tế, xu hướng toàn cầu hóa và sự quốc tế hóa công nghệ thông tin khiến cho cơ quan quản lý nhà nước cần thiết phải thay đổi những thủ tục và thông lệ để tiến kịp những thành tựu này và do đó, việc thống nhất hóa thủ tục Hải quan hầu hết đều dựa trên tinh thần công ước KYOTO.
Công ước Kyoto được chấp thuận tại kỳ họp 41/42 của Hội đồng Hải quan thế giới và có hiệu lực từ 25/9/1974. Công ước là một văn bản pháp luật quốc tế cơ bản nhất về thủ tục Hải quan, còn có tên gọi là công ước về đơn giản hóa và hài hòa thủ tục Hải quan. Như tên gọi của Công ước này, mục tiêu của Công ước này là đơn giản hóa và hài hòa các thủ tục Hải quan nhằm từng bước giảm nhẹ các thủ tục Hải quan, tạo sự thống nhất tương đối về thủ tục Hải quan của các nước, từ đó tạo điều kiên thuận lợi cho việc phát triển thương mại từng nước noi riêng và phát triển kinh tế thế giới nói chung trong điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu.
Với Công ước Kyoto, 31 phụ lục thực chất là sự hệ thống hóa các thủ tục Hải quan mà hầu như Hải quan nước nào cũng phải áp dụng, tuy có thể không phải hoàn toàn như nội dung của bản phụ lục đó, và các nước áp dụng nhưng không được thể chế hóa một cách có hệ thống và đầy đủ như Công ước. Công ước Kyoto chỉ điều chỉnh lĩnh vực thủ tục Hải quan, do đó việc tham gia ký kết Công ước này không gây ảnh hưởng gì xấu đến nguồn thu ngân sách từ xuất nhập khẩu; mặt khác nếu áp dụng tốt sẽ có tác dụng thúc đẩy thương mại từ đó tăng nguồn thu cho ngân sách.
* Qui trình thủ tục Hải quan theo tinh thần Công ước Kyoto thường gồm các bước:
Bước một: Khai báo và tiếp nhận Hồ sơ Hải quan
Bước hai: Xuất trình và kiểm tra hàng hóa
Bước ba: Tính thuế và nộp thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế có liên quan
Bước bốn: Giải phóng hàng
Nói chung đó là các bước cơ bản, thủ tục Hải quan với hàng hóa xuất nhập khẩu cụ thể (xuất khẩu hẳn, nhập khẩu tiêu dùng trong nước, tạm nhập tái xuất nguyên trạng, tạm nhập để gia công trong nước,...) được qui định trong một phụ lục cụ thể.
Hiện nay Việt Nam đã ký kết thục hiện 3 phụ lục A1, B1, C1, có thể lấy ví dụ qui trình thủ tục cụ thể từ 3 phụ lục này.
*Phụ lục B1 về thông quan hàng hóa nhập khẩu sử dụng trong nước
Khai báo và tiếp nhận hồ sơ Hải quan: người khai, tờ khai và chứng từ kèm theo, nộp tờ khai, chấp nhận tờ khai, kiểm tra tờ khai
Kiểm tra hàng hóa
Tính thuế nhập khẩu và thuế khác có liên quan, thanh toán thuế nhập khẩu và thuế khác có liên quan.
Giải phóng hàng hóa
* Phụ lục C1 về hàng hóa xuất khẩu hẳn
Khai Hải quan và tiếp nhận hồ sơ khai Hải quan: Chứng từ tài liệu xuất trình cho việc xuất khẩu hẳn
Kiểm tra hàng hóa
Tính thuế, nộp thuế xuất khẩu và các thuế có liên quan
Xuất khẩu hàng hóa
F Công ước KYOTO và các phụ lục tổng quát đã đặc biệt cụ thể hóa về thủ tục Hải quan và thông quan hàng hóa; có thể điểm qua vài chuẩn mực như sau:
Về địa điểm làm thủ tục Hải quan , kiểm tra hàng hóa và nguyên tắc thực hiện thủ tục Hải quan, bản phụ lục tổng quát Công ước KYOTO sửa đổi bổ sung năm 1999 đưa ra chuẩn mực “ cơ quan Hải quan phải chỉ định đơn vị Hải quan tại đó hàng hóa có thể được xuất trình hay được làm thủ tục thông quan. Khi quyết định về thẩm quyền hay địa điểm cũng như giờ làm việc của các đơn vị Hải quan đó, trong số các yếu tố được tính đến phải đặc biệt lưu ý đến nhu cầu của hoạt động kinh doanh. Mọi hàng hóa, kể cả phương tiện vận tải nhập vào hay ra khỏi lãnh thổ Hải quan, dù phải chịu thuế Hải quan hay không đều phải chịu sự kiểm tra Hải quan”
Về khai báo Hải quan , Chuẩn mực đưa ra “ nội dung của tờ khai hàng hóa do Hải quan qui định, mẫu văn bản tờ khai hàng hóa căn bản phải phù hợp với các tiêu chuẩn cơ bản của Liên hợp quốc. Đối với qui trình làm thủ tục thông quan tự động, hình thức tờ khai hàng hóa đăng ký bằng phương tiện điện tử phải dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế đối với việc trao đổi thông tin điện tử như qui định trong các khuyến nghị của Hội đồng hợp tác Hải quan về công nghệ thông tin”. Về thương mại điện tử, chuẩn mực cũng đưa ra “Luật quốc gia mới thông qua hay được sửa đổi cần dự kiến các phương pháp thương mại điện tử như một phương án thay thế cho các yêu cầu về chứng từ dựa trên cơ sở giấy tờ; phương pháp điện tử cũng như phương pháp xác định trên cơ sở giấy tờ; quyền của cơ quan Hải quan được thu thập thông tin để sử dụng, và tuỳ trường hợp để trao đổi thông tin đó với Hải quan các nước khác và với tất cả các bên khác được pháp luật cho phép bằng các kỹ thuật thương mại điện tử”
Qui trình thủ tục Hải quan một số nước và khu vực
TRUNG QUỐC
a/ Nguyên tắc chung
Khai báo hàng nhập khẩu
Kiểm tra hàng nhập khẩu; có thể miễn kiểm tra hàng hóa nếu có đơn xin phép và được Hải quan đồng ý.
Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế; có thể nộp thuế sau nhưng nhà nhập khẩu phải nộp một khoản tiền bảo đảm.
Thông quan hàng nhập khẩu
b/ Khai báo hàng hóa nhập khẩu
Chủ hàng, xí nghiệp khai thuê (đã đăng ký với Hải quan, được chủ hàng uỷ quyền bằng văn bản và chịu trách nhiệm trước pháp luật như chủ hàng) phải khai báo chính xác, không vượt quá phạm vi nghiệp vụ qui định sử dụng đúng tờ khai, số liệu tờ khai điện tử do Hải quan phát hành; có thể kiểm tra lấy mẫu hàng hóa trước khi khai báo, chỉ được sửa đổi, huỷ bỏ tờ khai khi được Hải quan đồng ý.
Hàng hóa có thể được giải phóng theo yêu cầu trước khi xác định phân loại, trị giá tính thuế và tờ khai chính thức khi chủ hàng đáp ứng yêu cầu bảo đảm bằng tài sản và quyền về tài sản theo qui định, được Hải quan chấp nhận và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về sự bảo đảm đó.
Hải quan thẩm định giấy phép gia công, định mức tiêu hao nguyên vật liệu, các giấy tờ liên quan đến thuế và hoạt động của xí nghiệp gia công.
c/ Kiểm tra khi làm thủ tục
Hải quan kiểm tra chứng từ, xác định giá tính thuế theo giá hợp đồng nếu đủ điều kiện; kiểm tra tất cả hàng hóa ( kể cả kiểm tra, tái kiểm tra không cần sự có mặt của người khai) ; sẽ chỉ không kiểm tra nếu chủ hàng có đơn xin phép miễn kiểm tra và được Hải quan đồng ý; cho phép tạm nhập khẩu, vận chuyển hàng hóa ( kể cả hàng thuộc dạng bảo thuế) nếu đã nộp khoản tiền bảo đảm thuế ( hoặc có giấy bảo đảm được chấp nhận)
d/ Kiểm tra sau giải phóng hàng
- Trong thời hạn 3 năm kể từ ngày giả phóng hàng hoặc hết thời hạn giám sát, quản lý Hải quan đối với hàng nhập khẩu thuộc dạng bảo thuế, miễn, giảm thuế.
Hải quan trực tiếp kiểm tra sổ sách, chứng từ kế toán và các tài liệu liên quan, kể cả hàng hóa trong trường hợp còn khả năng để kiểm tra.
Yêu cầu người có nghĩa vụ nộp thuế nộp bổ sung số thuế còn thiếu hoặc lậu thuế do Hải quan phát hiện trong vòng 1 năm kể từ ngày nộp thuế hoặc giải phóng hàng ( hoặc thoái trả thuế)
Truy thu thuế trong vòng 3 năm nếu người nộp thuế vi phạm qui định dẫn đến thiếu hoặc lậu thuế.
Cơ quan kiểm toán tiến hành kiểm toán những khoản thu, chi tài chính; điều tra, kiểm toán những việc Hải quan thực hiện liên quan đến thu, chi tài chính quốc gia.
Xác định đúng chế độ Hải quan được áp dụng, xử lý vi phạm theo qui định của pháp luật.
NHẬT BẢN
a/ Nguyên tắc chung
Khai báo hàng nhập khẩu
Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế; có một hệ thống cho phép trả chậm trong vòng 3 tháng sau khi nhập khẩu, với điều kiện phải nộp khoản tiền bảo đảm.
Cho phép nhập khẩu
Giải phóng hàng
b/ Thủ tục đơn giản
Hải quan phê duyệt nhà nhập khẩu và loại hàng hóa được lựa chọn để áp dụng thủ tục đơn giản theo các tiêu chí:
Nhập khẩu liên tục
Không vi phạm các qui định của các Luật và văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động Hải quan.
Đáp ứng yêu cầu thích hợp về lưu giữ thông tin, về sổ sách chứng từ kế toán; bảo quản thông tin lưu giữ.
Thủ tục đơn giản gồm:
-Khai báo đơn giản
Cho phép giải phóng hàng
Giải phóng hàng
Khai báo và tính thuế; tiêu chí khai báo thông thường được giảm, về cơ bản, thủ tục giảm thiểu giấy tờ; kiểm tra hàng hóa được coi là hợp pháp.
Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
b/ Khai Hải quan
Nhật bản áp dụng đồng thời hai hệ thống
1)Tự khai, tự tính thuế đ._.ối với hàng nhập khẩu mang mục đích thương mại: gồm khai báo ban đầu và khai báo bổ sung hay xác định lại số thuế
Tự khai trên tờ khai Hải quan các nội dung về thuế, mô tả số lượng và trị giá hàng hóa và các nội dung cần thiết khác, nộp các chứng từ kèm theo; hoặc áp dụng khai báo đơn giản, sử dụng Manifest, áp dụng một lần cho tất cả các nội dung khai về thuế của nhiều lần nhập khẩu thường là cho các lô hàng nhập khẩu trong một tháng, sau khi hàng hóa đã được giải phóng, phải nộp khoản bảo đảm theo theo thời hạn cho các lô hàng.
Việc trả thuế căn cứ vào khai báo ban đầu hoặc khai báo bổ sung, trả trước hoặc vào ngày khai báo bổ sung khi hàng hóa được giải phóng hoặc một tháng sau ngày thông báo thuế hay xác định thuế của Hải quan hoặc trả thuế theo bảo đảm thuế.
2) Hải quan tính thuế : chỉ áp dụng đối với các trường hợp không cần khai báo Hải quan hoặc trường hợp có sai sót về số thuế phải trả của người khai.
c/ Kiểm tra khi làm thủ tục: chủ yếu là kiểm tra chứng từ, chỉ kiểm tra hàng hóa khi cần thiết. Kiểm tra chia làm 3 loại
Kiểm tra thông thường và kiểm tra trọng điểm thì sau khi hoàn thành kiểm tra, Hải quan sẽ cho phép nhập khẩu và giải phóng hàng không cần nộp khoản bảo đảm( còn gọi là kiểm tra trước)
Kiểm tra đơn giản : áp dụng với hàng hóa nhập khẩu thường xuyên của cùng một nhà nhập khẩu mua của cùng một nhà xuất khẩu, làm thủ tục tại cùng cơ quan Hải quan theo khai báo và qui trình thủ tục đơn giản áp dụng cho thời hạn nhất định; chỉ kiểm tra mang tính hình thức về nội dung liên quan đến hàng nhập khẩu
d/ Kiểm tra sau giải phóng hàng
- Kiểm tra thông thường và kiểm tra trọng điểm cũng được áp dụng sau khi cho phép nhập khẩu và giải phóng hàng. Tuy nhiên khi thực hiện kiểm tra trước, nếu có cơ sở để nghi ngờ vào thời điểm xác định thuế hoặc yêu cầu phải kiểm tra chi tiết từ kiểm tra trước thì áp dụng kiểm tra sau giải phóng hàng.
-Tại giai đoạn kiểm tra sau, nghi ngờ liên quan đến việc tính thuế phát sinh từ giai đoạn kiểm tra trước sẽ được kiểm tra lại.
-Việc kiểm tra sau giải phóng hàng trong trường hợp kiểm tra đơn giản mang tính ngẫu nhiên. Điều 105 Luật Hải quan Nhật bản qui định rõ: ngoài thẩm quyền tố tụng và các biện pháp áp dụng trong trường hợp điều tra và xử lý vi phạm, cán bộ Hải quan có quyền và áp dụng các biện pháp thích hợp qui định cho việc kiểm tra, giám sát hàng hóa khi làm thủ tục Hải quan, ví dụ như:
+ Yêu cầu người giữ hàng hóa, chủ sở hữu hàng hóa, người yêu cầu nhập khẩu, hoặc bất cứ người nào liên quan xuất trình và nộp giấy tờ có liên quan.
+ Kiểm tra sổ sách hoặc chứng từ lưu giữ liên quan, hàng hóa, sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu nhập khẩu và niêm phong hàng hóa, và bất kỳ nơi nào lưu giữ hàng hóa
+ Lấy mẫu hoặc yêu cầu lấy mẫu hàng hóa tương ứng với chế độ quản lý Hải quan
+ Yêu cầu và kiểm tra bất kỳ nhà nhập khẩu, đại lý Hải quan, người bán hàng nhập khẩu phá giá và sổ sách chứng từ liên quan.
CỘNG ĐỒNG CHÂU ÂU
a/ Nguyên tắc chung
Khai báo hàng nhập khẩu
Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
Cho phép nhập khẩu
Giải phóng hàng
b/ Thủ tục đơn giản
Hải quan phê duyệt nhà nhập khẩu theo các điều kiện sau:
Có thể kiểm tra một cách có hiệu quả sự tuân thủ các qui định của các Luật và văn bản dưới luật.
Nhà nhập khẩu không vi phạm nghiêm trọng các qui định về Hải quan
Nhà nhập khẩu làm thủ tục nhập khẩu hàng thường xuyên( trừ những hàng hóa nhất định như hàng hạn chế nhập khẩu)
*Thủ tục gồm:
Khai báo đơn giản
Cho phép giải phóng hàng
Giải phóng hàng
Khai báo và tính thuế; nhà nhập khẩu phải nộp một khoản tiền bảo đảm
Thực hiện nghĩa vụ nộp thuế (tất cả tại cùng một thời điểm)
c/ Khai báo Hải quan
Khai báo theo thủ tục thông thường trên tờ khai viết theo mẫu, có chữ ký kèm theo các chứng từ cần thiết đủ để xác định chế độ quản lý Hải quan
Khai báo theo thủ tục đơn giản chỉ đủ để nhận dạng hàng hóa, thực hiện trên bản kê khai sơ bộ hay tờ khai phụ, có thể khai bằng miệng hoặc máy vi tính; bản khai không cần chữ ký viết và chứng từ kèm theo; có thể thay bản khai bằng bất kỳ chứng từ thương mại hay hành chính nào mà chỉ cần ghi vào sổ quản lý Hải quan. Việc khai báo chi tiết nội dung về thuế được định kỳ tổng hợp vào một bản khai chung trong một thời hạn nhất định, với điều kiện là phải nộp khoản bảo đảm cho các lô hàng.
d/ Kiểm tra khi làm thủ tục: chủ yếu là chứng từ (chỉ kiểm tra hàng khi cần thiết và phải thông báo cho người khai), cụ thể:
Tiếp nhận trực tiếp bộ hồ sơ Hải quan nếu đã đủ để xác định chế độ quản lý Hải quan hoặc yêu cầu huỷ bỏ tờ khai bằng cách:
+ Không kiểm tra tờ khai và căn cứ vào nội dung khai báo; hoặc
+ Kiểm tra, xác minh bộ hồ sơ Hải quan đã tiếp nhận và yêu cầu bổ sung chứng từ
e/ Việc kiểm tra được thực hiện mặc nhiên hoặc theo yêu cầu của người khai, kiểm tra tại cơ quan Hải quan hay có thể tại cơ sở của người khai Hải quan, người trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến đối tượng kiểm tra.
Điều 78 Luật Hải quan Cộng đồng qui định rõ:
- Kiểm tra tờ khai Hải quan
- Kiểm tra tài liệu và dữ liệu thương mại liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động thương mại có liên quan sau này để tin chắc vào sự xác định và áp dụng đúng chế độ quản lý Hải quan,
- Kiểm tra hàng hóa tại cơ sở của người khai, người trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến hàng hóa, người có quan hệ nghề nghiệp với những người trên
- Đặc biệt áp dụng các biện pháp cần thiết khác khi kết luận các qui định chi phối chế độ quản lý Hải quan được xác định áp dụng trên cơ sở thiếu chính xác hoặc không đầy đủ.
Qui trình thủ tục Hải quan của các nước trên đều có những khâu chủ yếu giống với tinh thần Công ước Kyoto, và thỏa mãn tinh thần của Công ước là đơn giản hóa thủ tục Hải quan, nhưng để khuyến khích hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì nhiều nước ngoài qui trình thông thường còn có những qui trình thủ tục đơn giản, nhằm rút ngắn hơn nữa thời gian làm thủ tục Hải quan, tạo thuận lợi cho cả cộng đồng doanh nghiệp và cơ quan Hải quan. Đây chính là một điểm mà cơ quan Hải quan Việt Nam cần xem xét và học tập
SỰ CẦN THIẾT CẢI CÁCH THỦ TỤC HẢI QUAN
Yêu cầu nội tại của nền kinh tế
Cải cách hành chính
Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1979 với tính cách là một đáp ứng sách lược trước những khó khăn kinh tế do nền kinh tế bao cấp và sự giảm viện trợ của nước ngoài gây ra. Trong suốt thập niên 80, nhà nước đã thử những biện pháp cải cách khác nhau, nhưng đã không đạt được nhiều thành công ở tầm vĩ mô, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng mất ổn định và khủng hoảng kinh tế- xã hội. Nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung không tôn trọng qui luật cung cầu và các qui luật khách quan khác trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, cùng với sự trì trệ trong công tác tổ chức, cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất, triệt tiêu nhiều động lực phát triển. Một bộ máy hành chính bộc lộ nhiều khuyết tật như: cồng kềnh, rườm rà, nhiều trung gian, chồng chéo, hoạt động kém hiệu quả, quan liêu, lãng phí, tham nhũng, chế độ công vụ lạc hậu, thêm vào đó cơ chế xin- cho tồn tại trong thời gian dài, và hệ thống pháp luật chưa đầy đủ đồng bộ; tất cả những điều đó đã hạn chế sự phát triển và cản trở thành công trong những cải cách của đất nước ta. Đứng trước thực tiễn đó, đại hội VI của Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước, chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, song song với quá trình này nền hành chính quốc gia cũng buộc phải có nhiều đổi mới, cải cách thủ tục hành chính nhà nước đã đặt ra như một đòi hỏi khách quan của thực tiễn, của qui luật phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng.
Cải cách thủ tục Hải quan
Việt Nam đang nỗ lực triển khai nền ngoại thương và hoạt động đầu tư nước ngoài với cùng phương thức như nhiều nước khác, thị trường mang đặc tính cạnh tranh và đối tượng tham gia hoạt động trên thị trường sẽ lựa chọn nơi thực hiện hoạt động kinh doanh, tại những địa điểm có điều kiện tốt nhất cho kinh doanh. Vì vậy, mục tiêu của Hải quan phải nhằm vào không những giảm chi phí hành chính của công tác Hải quan, mà còn phải giảm cả gánh nặng chi phí đối với doanh nghiệp do thực hiện các thủ tục Hải quan. Điều đó có nghĩa là Hải quan phải trở thành một tổ chức hiện đại, có thể xác định và đưa vào triển khai những hình thức quản lý, thực hiện công việc tốt nhất của Hải quan, cố gắng đáp ứng nhu cầu hợp pháp của doanh nghiệp và công chúng.
Do đó, đối với lĩnh vực Hải quan, thì cải cách thủ tục hành chính, trung tâm là cải cách thủ tục Hải quan bởi lẽ:
- Cải cách thủ tục Hải quan thực chất là làm đơn giản hóa, công khai hóa và từng bước hiện đại hóa công tác Hải quan. Quá trình này sẽ tạo ra môi trường thông thoáng cho hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch...đáp ứng yêu cầu chính sách mở cửa kinh tế của đất nước; ngăn chặn, hạn chế quan liêu cửa quyền, phiền hà, sách nhiễu, tiêu cực nội bộ trong các tổ chức thực thi nhiệm vụ Hải quan, gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, tham nhũng và xây dựng lực lượng Hải quan trong sạch, vững mạnh.
- Cải cách thủ tục Hải quan là khâu đột phá để thực hiện hoàn thiện đồng bộ công tác quản lý Hải quan từ quản lý Nhà nước đến quản lý nghiệp vụ Hải quan.
- Cải cách thủ tục Hải quan bắt buộc cải cách đồng bộ thể chế hành chính Hải quan bao gồm: tổ chức bộ máy, luật pháp và hệ thống nhân sự Hải quan.
- Cải cách thủ tục Hải quan nhằm giảm chi phí xã hội
Công tác quản lý Hải quan có tác động trực tiếp, gián tiếp làm thay đổi chi phí của nền kinh tế đối với lĩnh vực Hải quan. Chẳng hạn, một thủ tục Hải quan với thời gian ngắn sẽ làm lợi cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu một lượng chi phí đầu vào đáng kể; hoặc ngược lại, một thủ tục Hải quan phức tạp dẫn đến ùn tắc hàng hóa của doanh nghiệp tại cửa khẩu, sẽ làm gia tăng chi phí và thời gian của doanh nghiệp. Tương tự, một kết quả kiểm hóa không chính xác có thể dẫn đến thiệt hại cho doanh nghiệp, cho chính cơ quan Hải quan và gây nhiều thiệt hại khác. Đứng ở góc độ doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu, thủ tục Hải quan không làm tăng giá bán sản phẩm xuất khẩu nhưng làm tăng chi phí đầu vào của sản phẩm đó. Mức tăng này phụ thuộc cung cách quản lý Hải quan. Với giả định đó, doanh nghiệp chấp hành luật Hải quan tốt, thì trình tự thủ tục Hải quan, thái độ xử lý của công chức Hải quan đối với bộ hồ sơ Hải quan lại là “yếu tố” làm tăng hay tiết kiệm chi phí đầu vào, làm tăng hay giảm chi phí cơ hội của doanh nghiệp. Đứng ở góc độ toàn nền kinh tế, chỉ trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, thủ tục Hải quan kém hiệu quả sẽ có tác động: Làm tăng chi phí đấu vào sản phẩm xuất khẩu do vậy làm giảm lợi nhuận kinh doanh xuất khẩu; làm tăng giá nhập khẩu mà doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng phải gánh chịu, nâng cao chi phí hoạt động của ngành Hải quan, gia tăng chi phí cơ quan quản lý chức năng, thiệt hại của nền kinh tế do việc ùn tắc giao thông, bến bãi; tăng chi phí cơ hội của doanh nghiệp do lỡ cơ hội đầu tư, kinh doanh.
Cơ quan Hải quan hiện đại không chỉ đơn thuần là người thực thi pháp luật mà còn phải có mục đích đóng góp cho sự phồn thịnh của nền kinh tế quốc gia. Những thay đổi về Hải quan tác động đến các cơ quan khác, đến khu vực tư nhân và toàn thể công chúng ở góc độ tổng thể. Chính vì vậy, điều hết sức quan trọng là phải xem xét toàn bộ những nhu cầu và nhìn nhận của những đối tác chịu ảnh hưởng từ các hoạt động của cơ quan Hải quan, những đổi mới về Hải quan sẽ tiếp tục bao quát mối liên lạc với mọi bên có liên quan để đảm bảo rằng bất kỳ thay đổi nào cũng phản ánh yêu cầu của Chính phủ, của nền kinh tế, của doanh nghiệp, của cộng đồng xã hội và các yêu cầu khác của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hải quan là một lĩnh vực quan trọng gắn liền với hoạt động đối ngoại và kinh tế đối ngoại, nên nhà nước phải có chính sách thích hợp để nó vừa bảo vệ tối đa lợi ích và chủ quyền quốc gia, nhưng vừa phải phù hợp với phong tục và thông lệ quốc tế. Nhất là trong điều kiện Nhà nước thực hiện chủ trương mở cửa kinh tế, nước ta ngày càng gia nhập với nhiều tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và quốc tế. Trong tiến trình hội nhập này, chúng ta phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết song phương, đa phương. Trong đó Hải quan là một lĩnh vực “nhạy cảm”, bắt buộc phải cải cách, hoàn thiện thủ tục sao cho phù hợp với các điều ước, cam kết quốc tế mà mình đã tham gia. Nếu cải cách thủ tục Hải quan không quán triệt quan điểm phải phù hợp với thông lệ quốc tế và tiến trình hội nhập, thì rõ ràng nước ta rất khó thực hiện chính sách mở cửa, mở rông quan hệ quốc tế song phương, đa phương cùng có lợi.
Hội nhập kinh tế quốc tế yêu cầu phải thực hiện cải cách thủ tục Hải quan
Hội nhập kinh tế quốc tế
Cùng với chủ trương đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quá trình mở cửa và hợp tác với các nước trên thế giới được thúc đẩy mạnh mẽ ở nước ta kể từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 6( 1986). Chủ trương đó đã được hiến định tại Hiến pháp 1992 (điều 14) : “... Thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau; trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và các bên cùng có lợi...”, Việt Nam tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cùng thời điểm trên thế giới đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính trị và kinh tế. Hòa bình, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới.
Toàn cầu hóa và khu vực hóa được thể hiện qua sự hình thành và củng cố của các tổ chức kinh tế và khu vực. Dưới tác động của xu hướng này, nhiều tổ chức kinh tế, thương mại trên toàn cầu và hơn 40 tổ chức liên kết khu vực đã ra đời, trong đó đáng chú ý là WTO với 133 quốc gia thành viên, chiếm hơn 90% tổng giá trị thương mại quốc tế, các liên kết khu vực như EU, ASEAN, NAFTA và nhiều tam tứ giác phát triển.
Toàn cầu hóa và khu vực hóa được quyết định bởi nhiều yếu tố liên quan tới công nghệ, thị trường và chính sách, nổi lên là : sự cạnh tranh gia tăng trong kinh tế thế giới thúc đẩy tìm kiếm những thị trường có lợi nhất cho hàng xuất khẩu và nguồn nhập khẩu rẻ nhất. Đối với xu thế khu vực hóa, ngoài những nguyên nhân trên, còn có những tác động khác như những mục tiêu quốc phòng, an ninh, hợp tác kinh tế để tranh thủ những yếu tố bổ trợ...
Toàn cầu hóa và khu vực hóa có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hóa, dịch vụ, vốn và lao động. Liên kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hóa vừa giúp các nước trong từng khu vực bảo vệ lợi ích của mình. Mặt khác, toàn cầu hóa, khu vực hóa cũng làm cho sự cạnh tranh giữa các thực thể kinh tế trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Trong xu hướng toàn cầu hóa ngày càng tăng, bất cứ nước nào không muốn bị gạt ra khỏi dòng chảy phát triển đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, có những điều chỉnh chính sách thích hợp, giảm dần hàng rào thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hóa, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ thuật trên phạm vi thế giới ngày càng thông thoáng hơn.
Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27-11-2001 của Bộ Chính trị đã một lần nữa khẳng định đường lối mở cửa, hợp tác kinh tế của Việt Nam, coi hội nhập kinh tế là một chính sách hàng đầu của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã nỗ lực thúc đẩy hợp tác với tất cả các nước với các thể chế chính trị khác nhau, đã phá được thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với trên 167 nước trong đó có tất cả các nước lớn, phát triển quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ. Đồng thời chúng ta đã khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB và đang tích cực đàm phán chuẩn bị gia nhập WTO.
Trong lĩnh vực ký kết các điều ước quốc tế, tính từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã ký kết hơn 1000 điều ước quốc tế song phương, tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực thương mại, thuế, ngân hàng...; đặc biệt gần đây Chủ tịch nước đã có quyết định số 361/QĐ-CTN gia nhập Công ước Viena 1969 về Luật Điều ước.
Trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và quốc tế như Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á (APEC) ...Ngoài ra, trong lĩnh vực Hải quan, Hải quan Việt Nam đã là thành viên của tổ chức Hải quan thế giới (WCO) mà tiền thân là Hội đồng hợp tác Hải quan từ năm 1993. Với mục tiêu thuận lợi hoá thương mại quốc tế, các tổ chức khu vực và quốc tế đều đã đề ra và thực hiện nhiều chương trình nhằm đơn giản hóa, hài hòa hóa thủ tục Hải quan, thống nhất biểu thuế xuất nhập khẩu và dỡ bỏ những hàng rào thương mại. Những chương trình cải cách thủ tục Hải quan đều dựa trên những điều ước quốc tế quan trọng về Hải quan như Công ước Kyoto về đơn giản và hài hòa thủ tục Hải quan , công ước về Hệ thống thống nhất phân loại và mã hóa hàng hóa ( Công ước HS), Hiệp định trị giá Hải quan ( Hiệp định thực hiện Điều 7 GATT)...
Việt Nam đã tham gia ký kết Công ước Kyoto vào tháng 10 năm 1997 với mức độ chấp nhân 3 phụ lục A1, B1, C1 có bảo lưu một số điều. Việt Nam cũng đã chính thức áp dụng danh mục mô tả mã hóa hàng hóa theo Công ước HS từ ngày 1-1-2000 và chính thức áp dụng phương pháp tính trị giá Hải quan theo Hiệp định thực hiện Điều 7 GATT. Những điều ước quốc tế trên được nhiều nước tham gia và được coi là những chuẩn mực mà bất kỳ một nước nào muốn hội nhập vào nền kinh tế thế giới phải đạt được.
Trong khuôn khổ ASEAN, Việt Nam cùng 6 nước thành viên khác đã ký kết Hiệp định Hải quan ASEAN ngày 1-3-1997 và hàng năm đều tổ chức hội nghị cấp cao về Hải quan các nước ASEAN. Hải quan các nước ASEAN đã hợp tác trong nhiều lĩnh vực và thực hiện những chương trình hành động chung về thuế quan, đơn giản hóa thủ tục để sớm đưa khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trở thành hiện thực và đẩy nhanh tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hội nghị cấp cao Hải quan các nước ASEAN lần thứ 8 tại Myanmar ngày 28-29/ 7/2000 đã đưa ra một tuyên bố chung, trong đó nêu rõ: “ tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tầm nhìn Hải quan ASEAN 2020” nhằm đạt được tiêu chuẩn quốc tế về Hải quan, sự thành thạo, tính chuyên nghiệp, sự phục vụ tuyệt vời và sự thống nhất thông qua thủ tục Hải quan được hài hòa hóa, để thúc đẩy thương mại và đầu tư, bảo vệ sức khỏe và lợi ích của cộng đồng.
Việt Nam tiếp tục thúc đẩy tiến trình hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế đã tham gia, ký kết. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực tháng 12/2001 đã đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ nói riêng và quan hệ thương mại quốc tế nói chung, mở ra một giai đoạn mới cho nền kinh tế hướng vào xuất khẩu, cũng như tiến trình gia nhập WTO của nước ta. Quyết định số 37/QĐ-TTg ngày 14-3-2002 của Thủ tướng Chính phủ về chương trình hành động thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế, đã xác định định hướng cho quá trình hội nhập kinh tế nước ta trong thời kỳ mới, với một nội dung hết sức quan trọng là tổng hợp và hoàn thiện Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế.
Điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế này yêu cầu ngành Hải quan phải cố gắng nỗ lực kết hợp yếu tố con người với trang thiết bị hiện đại, mặt khác phải sớm hoàn thiện pháp luật Hải quan. Các qui định của pháp luật Hải quan phải sát hợp với các định chế của pháp luật quốc tế, không những đảm bảo chức năng hành chính công quyền, bảo vệ chủ quyền, an ninh kinh tế quốc gia, mà còn phải bảo đảm hướng dẫn cho các tổ chức, cá nhân trong làm ăn, buôn bán quốc tế.
Những yêu cầu của hội nhập kinh tế tác động đến hoạt động của Hải quan
Với mức độ và lộ trình khác nhau, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế có những tác động trực tiếp khác nhau lên các hoạt động của Hải quan
Những nghĩa vụ và qui tắc bắt buộc về thuế
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, việc tham gia WTO, trở thành thành viên của tổ chức có tầm quan trọng quốc tế trong thương mại này, là điều cần thiết mà hiện nay Việt Nam đang cố gắng thực hiện được. Do vậy việc xem xét các cam kết ràng buộc về thuế trong WTO có ảnh hưởng lớn đến quá trình cải cách thủ tục Hải quan của nước ta.
Các cam kết ràng buộc về thuế trong WTO
Cam kết ràng buộc về thuế quan, khi gia nhập WTO các quốc gia phải cam kết ràng buộc về thuế suất thuế nhập khẩu cho các mặt hàng (dòng thuế ) cụ thể, để đảm bảo trong tương lai các mức thuế nhập khẩu cho các mặt hàng đó không tăng lên vượt quá mức thuế đã cam kết ràng buộc này. Trên thực tế, nội dung cam kể ràng buộc về thuế quan của các nước WTO không nhất thiết phải cam kết ràng buộc 100% các mặt hàng nhập khẩu, trừ mặt hàng nông sản.
* Các cam kết khác có liên quan đến chính sách thuế
Chỉ được bảo hộ bằng thuế quan, không được bảo hộ bằng biện pháp khác như hạn chế số lượng nhập khẩu, các biện pháp phi thuế quan khác sẽ được loại bỏ.
Các loại phí khác cũng như thuế chống bán phá giá, phí trả cho việc cung cấp dịch vụ, các loại thuế nội địa áp dụng đồng thời với hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu, phải được liệt kê trong bản cam kết nhượng bộ của thành viên, để đảm bảo rằng không tăng mức thuế áp dụng lên cao hay áp dụng thêm so với thời điểm cam kết về thuế quan.
Áp dụng Hiệp định trị giá Hải quan GATT, thực hiện cơ chế áp giá tính thuế nhập khẩu chủ yếu căn cứ theo giá giao dịch thực, không áp dụng giá tính thuế tối thiểu.
Những qui định về thuế, đặc biệt là các ưu đãi miễn giảm sẽ phải tuân thủ theo các qui định của hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại.
Các qui định về thuế nhập khẩu trong APEC
Xây dựng chương trình hành động quốc gia (IAP) để thực hiện tự do hóa thương mại vào năm 2020 với các nước đang phát triển, và năm 2010 với các nước phát triển. Có nghĩa là thuế nhập khẩu sẽ giảm xuống mức 0% ( mức 10% cũng có khả năng được chấp nhận đối với các nước đang phát triển) cùng với việc bãi bỏ hàng rào phi thuế quan và những rào cản khác gây trở ngại cho thương mại, đầu tư.
Xây dựng chương trình hành động cụ thể (CAP) gồm, thiết lập hệ thống cơ sơ dữ liệu bằng máy tính cho hệ thống thuế và nối mạng với các nước APEC; hợp tác chung giữa các nước trong vấn đề thông tin, đào tạo.
Thực hiện chương trình tự do hóa tự nguyện (chương trình hành động quốc gia ) sớm từng lĩnh vực, cụ thể là 15 lĩnh vực: lâm sản, cá và các sản phẩm từ cá, đồ chơi, đá quí và đồ trang sức, hóa chất, thiết bị và dụng cụ y tế, hàng hóa liên quan đến môi trường, năng lượng, thoả thuận thừa nhận lẫn nhau về thiết bị viễn thông, cao su tự nhiên và cao su tổng hợp, phân bón, thực phẩm, ô tô, hạt có dầu và các sản phẩm, máy bay dân dụng. Trong đó 9 lĩnh vực đầu thời hạn hoàn thành trong khoảng 2000-2005, với mức thuế suất cuối cùng 0%-5%, tuy nhiên nội bộ thành viên vẫn còn có những tranh luận về vấn đề này.
Các vấn đề thuế trong ASEAN.
Hiệp định CEPT qui định việc giảm thuế cho tất cả các mặt hàng (trừ một số mặt hàng loại trừ hoàn toàn ) xuống mức 0-5% vào năm 2006.
Đối với những mặt hàng đã được đưa vào Danh mục giảm thuế hàng năm thì không được tăng thuế suất, trừ trường hợp đang có thuế suất thấp hơn 5%, hoặc công nghiệp trong nước đang gặp tổn thương nghiêm trọng (Điều 6, Hiệp định CEPT, điều khoản khẩn cấp ).
Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể giai đoạn 2001-2006 đã được Chính phủ công bố, theo đó chính sách thuế nhập khẩu được xây dựng theo hướng tất cả các nhóm ngành hàng đến năm 2006 đều có mức thuế suất giống nhau 0-5%, nhưng tốc độ giảm thuế nhanh, chậm là khác nhau để có thể cân nhắc cho các chính sách phát triển công nghiệp trong một tầm nhìn dài hạn. Trong khi đó, với WTO thì nội dung, mức độ nhóm cam kết cho các mặt hàng rất khác nhau; do vậy giải các pháp và lịch trình cắt giảm sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chiến lược kinh tế trung và dài hạn, chỉ có từ đó mới xác định được mức độ bảo hộ, thời gian bảo hộ phù hợp cho ngành hàng cụ thể. Mặt khác, cam kết với WTO là tuỳ thuộc rất nhiều vào kết quả đàm phán, do đó cần phải đầu tư, chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như phân tích sâu sắc về mặt kinh tế thì mới có khả năng thuyết phục các bên đối tác chấp nhận những nội dung có lợi, không bị động và bị ép thực hiện những cam kết không có lợi.
Thuế nhập khẩu trong hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Ngay từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam phải thực hiện chương trình cắt giảm khoảng 250 mặt hàng trong biểu thuế hiện hành (4/5 trong số đó là nông sản ), mức cắt giảm sẽ từ 33%- 50% trong giai đoạn 3 năm. Về lâu dài, trên cơ sở nền tảng cam kết về thuế nhập khẩu với WTO và ràng buộc của Hiệp định, Việt Nam sẽ phải đàm phán về cam kết đối với danh mục thuế nhập khẩu cho tất cả các mặt hàng còn lại.
Giảm bớt và từng bước đi tới xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, đặc biệt là hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu.
AFTA qui định bỏ ngay hạn ngạch đối với các mặt hàng trong CEPT, còn các hàng rào phi thuế quan khác sẽ được bỏ dần trong 5 năm.
APEC cũng đặt mục tiêu xóa bỏ dần các hàng rào phi quan thuế và kết thúc chậm nhất vào năm 2020 đối với các nước đang phát triển.
WTO qui định cụ thể việc xóa bỏ dần những qui định về giấy phép nhập khẩu và hạn ngạch, chuyển các biện pháp phi quan thuế sang biện pháp thuế quan và giảm dần mức thuế theo các lộ trình trong từng lĩnh vực. Tuy nhiên WTO cho phép áp dụng hạn ngạch nhập khẩu trong một thời gian nhất định nếu nước nhập khẩu ( nhất là các nước đang phát triển và các nước đang chuyển đổi nền kinh tế) gặp khó khăn về cán cân thanh toán, có trình độ phát triển thấp, cần bảo vệ môi trường hoặc an ninh quốc gia.
Về các biện pháp đầu tư (TRIMS)
Hiệp định TRIMS của WTO qui định các nước dành cho nhau MFN giảm dần và tiến tới xoá bỏ những hạn chế về số lượng nhập khẩu, công bố rõ các qui định về mức đóng góp vốn, mức độ sử dụng nguyên liệu nội địa, mức xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường nội địa, về sử dụng ngoại hối và chuyển giao công nghệ... Đối với các nước đang phát triển và chuyển đổi kinh tế, WTO qui định tạm thời chưa áp dụng những yêu cầu trên vì lý do thâm hụt cán cân thanh toán hoặc gặp khó khăn do đang chuyển đổi kinh tế. Hiệp định này có hiệu lực sau 2 năm đối với các nước phát triển và 5 năm với các nước đang phát triển, 7 năm với các nước kém phát triển nhất kể từ tháng 1 năm 1995.
Về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Hiệp định về vấn đề này của WTO ( TRIPS ) qui định các nước thành viên phải điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách, luật lệ cho phù hợp với các công ước và hiệp định quốc tế, phải có những biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ (IPR) như quyền tác giả, nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng công nghiệp, phát minh sáng chế...; các nước phát triển và đang chuyển đổi kinh tế được hưởng những ưu đãi miễn trừ; ví dụ: các nước đang phát triển có thể hoãn thi hành TRIPS trong 5 năm đối với các công nghệ đã có bảo hộ và được thêm 5 năm nữa đối với các công nghệ chưa được bảo hộ (tổng cộng là 10 năm), nhưng phải thực hiện ngay với tân dược và hóa chất nông nghiệp.
Về các vấn đề khác
Các nước thành viên phải cung cấp thông tin, minh bạch hóa chính sách, luật lệ, qui chế về thương mại và đầu tư, đảm bảo tính ổn định trong một thời gian dài, áp dụng thống nhất trên toàn quốc để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tính toán và thi hành. Các thành viên cũng có nghĩa vụ cung cấp thường kỳ 1-2 năm một lần cho WTO các thông tin kinh tế như về kim ngạch thương mại, cán cân thanh toán, GDP, các dữ liệu về phát triển kinh tế, kế hoạch cải cách, biểu thuế quan, các biện pháp phi thuế quan đang áp dụng...
Trong trường hợp một nước lâm vào tình trạng khẩn cấp do khó khăn trong nội tại nền kinh tế hoặc khi nền sản xuất trong nước bị hàng nhập khẩu đe dọa nghiêm trọng, thì nước đó có thể tạm thời sử dụng quyền tự vệ bằng cách khước từ một số nghĩa vụ đã cam kết. Quyền tự cho phép áp dụng mức thuế quan cao hơn mức đã cam kết, hoặc áp dụng hình thức hạn chế về số lượng cũng như các biện pháp khác để hạn chế nhập khẩu, hỗ trợ sản xuất trong nước. Tuy nhiên các biện pháp trên chỉ được áp dụng tạm thời, bình đẳng không phân biệt đối xử và thông báo trước cho WTO.
*Rõ ràng để tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, cải cách thủ tục Hải quan phải dựa vào những yêu cầu của các tổ chức mà Việt Nam đã tham gia và dự định sẽ tham gia để có định hướng trong việc thực thi những biện pháp cải cách.
MỤC TIÊU, YÊU CẦU CỦA CẢI CÁCH THỦ TỤC HẢI QUAN
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta “xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”, “cải cách thủ tục hành chính trong việc tiếp nhận và giải quyết công việc của công dân và tổ chức”, căn cứ thực tiễn hoạt động của Hải quan trong thời gian qua cũng như những yêu cầu mới đặt ra cho công tác Hải quan trong thời gian tới, ngành Hải quan đã xây dựng nhiều đề án, đề ra các giải pháp đồng bộ và xác định mục tiêu, yêu cầu cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về Hải quan.
Mục tiêu của cải cách thủ tục Hải quan
a/ Tạo chuyển biến căn bản trong hoạt động quản lý nhà nước về Hải quan; xóa bỏ những thủ tục thiếu đồng bộ, chồng chéo, rườm rà, phức tạp đã và đang gây trở ngại trong việc tiếp nhận và xử lý công việc giữa cơ quan Hải quan với cá nhân tổ chức có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, xuất cảnh, nhập cảnh; xây dựng và thực hiện các thủ tục, chế độ Hải quan đơn giản, rõ ràng, thống nhất, đúng pháp luật và công khai, vừa tạo thuận tiện, nhanh chóng góp phần thúc đẩy hoạt động XNK, đầu tư du lịch phát triển, vừa có tác dụng quản lý chặt chẽ, kiểm tra phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về Hải quan, để giữ vững kỷ cương pháp luật, vừa hạn chế tệ quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng tiêu cực trong công chức Hải quan.
b/ Tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nói chung và ngành Hải quan Việt Nam nói riêng hội nhập nhanh chóng với sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu, nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng – “hòa nhập nhưng không hòa tan”
c/ Chấn chỉnh kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy ngành Hải quan, đảm bảo nguyên tắc thống nhất, dưới sự lãnh đạo của chính phủ và bộ Tài chính xây dựng lực lượng Hải quan trong sạch, vững mạnh, chín._. chế của WTO cũng như được cam kết cụ thể trong Hiệp định thương mại Việt –Mỹ. Hải quan là cơ quan chịu trách nhiệm thực thi bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với hoạt động XNK.
Pháp luật Việt Nam hiện hành qui định việc thực thi Quyền sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền của cơ quan Hải quan tại Nghị định 101/NĐ-CP . Thủ tục tạm dừng làm thủ tục Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu có yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ngoài việc phải có đơn yêu cầu tạm dừng làm thủ tục Hải quan gửi cho Chi cục trưởng Hải quan nơi làm thủ tục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu; còn phải nộp khoản tiền tạm ứng bằng 20% trị giá lô hàng ghi trong hợp đồng vào tại khoản tạm gửi của cơ quan Hải quan tại kho bạc nhà nước, hoặc nộp chứng từ bảo lãnh của tổ chức tín dụng để bảo đảm việc bồi thường thiệt hại cho chủ hàng hóa và việc thanh toán các chi phí phát sinh do yêu cầu tạm dừng làm thủ tục Hải quan không đúng gây ra cho cơ quan tổ chức, cá nhân có liên quan. Và phải xuất trình cho cơ quan Hải quan văn bằng bảo vệ hoặc tài liệu chứng minh sở hữu hợp pháp quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời đưa ra chứng cớ ban đầu về việc nghi ngờ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu vi phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình.
Khi yêu cầu tạm dừng thủ tục Hải quan đã đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu nói trên, Chi cục trưởng Hải quan quyết định dừng làm thủ tục Hải quan đối với lô hàng đó. Thời hạn tạm dừng là 10 ngày kể từ ngày ban hành, và có thể kéo dài thời hạn tạm dừng nhưng không quá 10 ngày kể từ ngày thời hạn tạm dừng hết hạn, đồng thời người yêu cầu tạm dừng phải nộp bổ sung một khoản tiền tạm ứng bằng số tiền đã nộp trước đó.
Qua những vấn đề trình bày trên, có thể hình dung ngay những khó khăn trong quá trình thực thi, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ, cũng như sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật để đảm bảo thực hiện có hiệu quả.
- Thời hạn qui định chuyển tiếp trong hiệp định buộc phải thi hành đầy đủ nghĩa vụ này đối với Việt Nam là 24 tháng kể từ ngày Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, tức hạn cuối cùng là 10/12/2004; đối với Hoa kỳ là thi hành ngay kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Vậy nên, sự chuẩn bị các điều kiện để thực hiện ta còn hạn chế về nhiều mặt, cả về điều kiện pháp lý cũng như con người.
- Số tiền 20% trị giá lô hàng được nộp vào tài khoản tạm gửi của Hải quan là chưa có cơ sở chắc chắn, vì trên thực tế có thể xảy ra trường hợp trị giá lô hàng thấp, nhưng lô hàng cồng kềnh, chiếm thể tích lớn thì chi phí lưu kho, lưu bãi cao, thêm vào đó trong thương mại có thể phát sinh những vấn đề phức tạp khi chủ sở hữu hàng hóa thấy không có lợi. Vì vậy việc tính toán để ấn định số tiền nộp bảo chứng và sử dụng bảo lãnh của ngân hàng, nơi kiểm soát được số tiền kết dư trong tài khoản của người có yêu cầu bảo hộ là một giải pháp đáng quan tâm.
- Khi người yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu gửi đơn đến cơ quan Hải quan đề nghị tạm dừng thủ tục Hải quan thì đồng thời cũng tiến hành khởi kiện ra toà án theo đúng trình tự pháp luật tố tụng dân sự. Hải quan chỉ căn cứ vào sự đầy đủ của hồ sơ để đề nghị, quyết định tạm dừng thủ tục Hải quan theo thời hạn trên; trách nhiệm chứng minh thuộc về người yêu cầu và toà án.
Như vậy khi lô hàng chưa có quyết định thông quan, hay kể cả trường hợp đã thông quan rồi thì vấn đề trách nhiệm hay thực hiện quyết định của Hải quan hay phán quyết của toà án mới được các bên chấp hành nghiêm túc.
Một biện pháp chế tài đủ mạnh, như việc phải qui định rõ trong văn bản pháp luật ở mức pháp lệnh về các thủ tục, trình tự tố tụng cũng như thẩm quyền khung phạt riêng cho vấn đề này thì mới mang lại khả năng thực thi một cách hiệu quả.
Khai Hải quan điện tử và trao đổi dữ liệu điện tử trong việc làm thủ tục Hải quan
Việc phát triển công nghệ thông tin, xây dựng căn cứ pháp lý về khai Hải quan điện tử và trao đổi dữ liệu điện tử trong việc làm thủ tục Hải quan theo qui định của Luật Hải quan là một yêu cầu cấp bách, và là khâu đột phá để đảm bảo đổi mới cơ bản về thủ tục Hải quan hiện nay.
Ngày 21/3/2002, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 44/2002/QĐ-TTg về việc sử dụng những chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn của các Tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán như ngân hàng và các tổ chức được làm dịch vụ thanh toán “được sử dụng chứng từ điện tử làm chứng từ hạch toán và thanh toán vốn”
Tờ khai Hải quan hiện nay bằng giấy, theo mẫu thống nhất, xét trên phương diện tài chính kế toán là một chứng từ kế toán. Việc khai báo Hải quan điện tử, thay cho khai bằng hình thức viết, hay nói khác đi là việc sử dụng chứng từ điện tử không còn là vấn đề mới mẻ. Khai báo Hải quan điện tử và trao đổi dữ liêu điện tử hiện đang thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều cơ quan, nhiều giới và của cộng đồng doanh nghiệp.
Khai Hải quan điện tử có thể hiểu là hình thức khai Hải quan có sử dụng phương tiện, thiết bị điện tử để khai, truyền gửi chứng tử điện tử khai Hải quan và lưu giữ thông tin dữ liệu về hàng hóa là đối tượng làm thủ tục Hải quan theo qui định của pháp luật, tạm thời thay thế bản viết để cơ quan Hải quan quyết định thông quan hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Chứng từ điện tử khai Hải quan gồm tờ khai Hải quan điện tử, các chứng từ khác thuộc tờ khai Hải quan được tạo ra, gửi đi, tiếp nhận hoặc lưu trữ thông qua trao đổi dữ liệu điện tử từ máy tính điện tử của người khai Hải quan nối mạng với máy của cơ quan Hải quan, theo tiêu chuẩn được thống nhất về nội dung, hình thức, phương pháp cấu trúc và xử lý thông tin.
Ngoài phạm vi như qui định về tờ khai Hải quan, chứng từ điện tử cũng có thể được ngân hàng, kho bạc, cơ quan nhà nước liên quan trao đổi thông tin dữ liệu về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phục vụ yêu cầu quản lý của nhà nước của mình và của cơ quan Hải quan, như việc quản lý thuế, lệ phí và các khoản thu khác bằng hệ thống máy tính, Tổng cục Hải quan chủ trì phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước thống nhất qui định quản lý việc tiếp nhận, truyền gửi và xử lý thông tin khai Hải quan điện tử về thông báo thuế, biên lai thuế, bảo lãnh thuế và thanh toán nộp thuế đối với hàng hóa XNK.
Trình tự khai Hải quan điện tử được thực hiện như sau:
Người khai Hải quan điện tử phải chuẩn bị các thông tin dữ liệu khai theo nội dung yêu cầu về hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại máy tính của mình theo mẫu tờ khai Hải quan điện tử qui định.
Dùng mã số điện tử đã đăng ký để truyền gửi dữ liệu thuộc tờ khai Hải quan điện tử đến máy chủ của cơ quan Hải quan thông qua kết nối trao đổi dữ liệu điện tử.
Tiếp nhận số đăng ký tờ khai Hải quan điện tử từ cơ quan Hải quan và truyền gửi thông tin dữ liệu thuộc chứng tử điện tử khai Hải quan khác theo qui định đến cơ quan Hải quan.
Cơ quan Hải quan có trách nhiệm tiếp nhận, kiểm tra dữ liệu thuộc tờ khai Hải quan điện tử do người khai Hải quan chuyển đến. Đăng ký số tờ khai Hải quan điện tử.
Chứng từ khai Hải quan điện tử được sử dụng phục vụ cho mục đích thông quan, nội dung tờ khai điện tử và các chứng từ điện tử khai Hải quan khác được tạo ra, truyền gửi, lưu giữ phải đảm bảo được in ra và truy nhập để sử dụng cho các mục đích quản lý Hải quan thì được công nhân có giá trị hình thức như hình thức văn bản viết.
Chữ ký trên chứng từ điện tử khai Hải quan được truyền gửi thông qua trao đổi dữ liệu điện tử được công nhận có giá trị như hình thức viết nếu cơ quan Hải quan xác định được người có thẩm quyền ký đúng qui định vè chữ ký điện tử.
Xây dựng hệ thống thông tin máy tính Hải quan
Hệ thống thông tin máy tính Hải quan phải được xây dựng, bảo đảm việc truyền, nhận thông tin từ trung tâm thông tin dữ liêu Tổng cục Hải quan đến Chi cục Hải quan, cơ quan nhà nước, tổ chức liên quan để phục vụ yêu cầu quản lý, điều hành, trao đổi, sử dụng dữ liệu điện tử trong việc làm thủ tục Hải quan, kiểm tra hàng hóa, quản lý thu nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và yêu cầu hiện đại hóa quản lý Hải quan phù hợp với các qui định về thiết lập mạng viễn thông Internet. Cũng như đảm bảo việc kiểm tra, giám sát Hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bằng phương thức thương mại điện tử.
Hiện nay Hải quan mới đưa vào sử dụng hệ thốn máy vi tính để quản lý, cập nhật, khai thác vi phạm pháp luật Hải quan trên toàn quốc phục vụ cho việc ra quyết định kiểm tra của Chi cục trưởng Hải quan; và thu thập, cập nhật, quản lý, khai thác thông tin về đối tượng nợ thuế quá hạn phải cưỡng chế hay giải toả cưỡng chế trên phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên bước đầu không thể tránh khỏi những trục trặc về mặt kỹ thuật, cần phải tổ chức những buổi hội thảo để tiếp thu, học tập kinh nghiệm từ các chuyên gia Tổ chức Hải quan thế giới.
Kiểm tra sau thông quan
Giải pháp tích cực hằm cải tiến thủ tục Hải quan, rút nhắn thời gian, thông quan hàng hóa nhanh chóng, nhưng vẫn kiểm soát chặt chẽ hang hóa xuất khẩu, nhập khẩu, chống gian lận thương mại, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật Hải quan, gây thất thu cho ngân sách nhà nước, đó là công tác kiểm tra sau giải phóng hàng hay kiểm tra sau thông quan.
Công tác kiểm tra sau thông quan là một nghiệp vụ mới, để công tác này thực sự có hiệu quả cao thì vấn đề thẩm quyền điều tra và thu thập thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu về tình hình hoạt động của doanh nghiệp cũng như tình hình lô hàng phải được đặt ra, và phải được pháp lý hóa bằng văn bản qui phạm pháp luật được ban hành bởi Chính phủ, Tổng cục Hải quan chịu trách nhiệm cụ thể hóa qui định này. Có nghĩa là bên cạnh việc qui định thẩm quyền điều tra của cơ quan Hải quan các cấp mà trực tiếp là cấp Chi cục Hải quan trong những văn bản chuyên biệt đó, bổ sung các luật có liên quan như Bộ luật Tố tụng hình sự và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự để đảm bảo tính đồng bộ của các văn bản luật về công tác điều tra.
Về lĩnh vực thuế quan
Những biện pháp cụ thể và điều kiện thực hiện trong lĩnh vực thuế quan
- Cải tiến hệ thống tổ chức thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới, vừa tăng cường kiểm soát chặt chẽ hàng hóa XNK, vừa đảm bảo thông quan nhanh chóng; tránh trùng lặp thậm chí chồng chéo giữa các cơ quan chức năng của Chính phủ trong nhiệm vụ thu thuế. Do vậy việc kiểm soát chính sách thuế quan là trách nhiệm của Hải quan là cần thiết. Trước mắt giao cho Hải quan chịu trách nhiệm trong việc xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính thuế Hải quan GATT/WTO, xây dựng biểu thuế theo Công ước HS, xác định quản lý các vấn đề về xuất xứ hàng hóa.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế xuất khẩu, nhập khẩu để đảm bảo phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, bằng việc ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi, thay thế cho Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu hiện hành ban hành năm 1991, sửa đổi bổ sung năm 1993 và 1998.
Vấn đề trọng tâm là cải cách cơ bản biểu thuế nhập khẩu, xây dựng danh mục biểu thuế tương thích với Danh mục HS của Tổ chức Hải quan thế giới
Xây dựng biểu thuế ở cấp độ 8 số, tiến tới thực hiện danh mục biểu thuế chung ASEAN (AHTN) mà Bộ Tài chính đã thay mặt Chính phủ Việt Nam ký Nghị định thư thực hiện AHNT, và Chính phủ đang xem xét ban hành Quyết định về việc thực hiện bản danh mục đó.
Thay đổi, kết cấu lại mức thuế suất trong biểu thuế dựa trên cơ sở lượng hóa mức độ bảo vệ sản xuất trong nước theo hướng :
Xác định mức độ bảo hộ theo 3 loại: bảo hộ cấp thấp, bảo hộ mức trung bình và bảo hộ cao.
Xác định các mặt hàng và hóm hàng bảo hộ
Xác định mức thuế suất cho từng mặt hàng
Cụ thể như sau:
- Loại 1: các ngành hàng được bảo hộ thấp
. Các ngành hàng mà Việt Nam hiện đã và đang có thế mạnh xuất khẩu, ít lo ngại về vấn đề cạnh tranh.
. Các ngành hàng mà hàng hóa nhập khẩu là đầu vào của nhiều ngành sản xuất, mà trong nước không có khả năng đáp ứng và tập trung đầu tư phát triển. Các ngành hàng này sẽ được bảo hộ theo 2 cấp độ: cấp độ 1 , bảo hộ duy nhất bằng thuế nhập khẩu với mức thuế suất tối đa là 10% (cam kết ràng buộc WTO) không có các biện pháp bảo hộ phi thuế quan; cấp độ 2, bảo hộ duy nhất bằng thuế nhập khẩu, với mức tối đa là 20% ( cam kết ràng buộc WTO) không có các biện pháp bảo hộ phu thuế ( Xem phu lục 3 biểu 1)
- Loại 2: các ngành hàng được bảo hộ trung bình, bao gồm đa số các ngành hàng sản xuất của Việt Nam hiện nay ( tất cả các ngành không thuộc loại 1 và loại 3 ), đó là một số ngành sản xuất trong thời gian qua phần nào đã được đầu tư thay thế hàng nhập khẩu; một số ngành phần nào đó đã có thế mạnh xuất khẩu nhưng cần phải được đảm bảo độ an toàn nhất định. Các ngành này được bảo hộ theo cấp độ 3, bảo hộ duy nhất bằng thuế nhập khẩu với mức độ tối đa là 30% ( cam kết ràng buộc WTO) không có các biện pháp bảo hộ phi thuế (xem phụ lục 3 biểu 2)
- Loại 3: Các ngành hàng được bảo hộ cao, đó là những ngành hàng ta chưa có đủ khả năng cạnh tranh xuất khẩu, các ngành chế biến nông sản, một số ngành công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ mũi nhọn có ý nghĩa trọng yếu đảm bảo an toàn cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Các ngành này sẽ được bảo hộ theo cấp độ 4, với mức tối đa là 40%, bảo hộ cấp 5 với mức tối đa là 50%; duy nhất bằng thuế nhập khẩu (cam kết ràng buộc với WTO), không có các biện pháp bảo hộ phi thuế; bảo hộ cấp 6 sẽ loại trừ hoàn toàn khỏi việc thực hiện tự do hóa thương mại, không thực hiện ràng buộc thuế quan với WTO, không giảm thuế theo APEC, Hiệp định thương mại Việt –Mỹ, ASEAN (xem phụ lục 3 biểu 3)
Trên cơ sở mức độ bảo hộ theo từng nhóm ngành hàng được dự kiến, sẽ xây dựng thuế suất của từng mặt hàng và cam kết về mức thuế suất theo từng dòng thuế.
Tiếp tục cải cách bộ máy công quyền và cải cách đội ngũ công chức Hải quan
Cải cách bộ máy công quyền Hải quan phù hợp với cơ chế mới
Hiện nay, Tổng cục Hải quan sau khi chuyển về Bộ Tài chính cần chú ý nhiều hơn đến cải cách bộ máy công quyền cho phù hợp. Cải cách bộ máy công quyền Hải quan cần căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ trên cơ sở làm việc, phối hợp nhuần nhuyễn với các cơ quan nhà nước liên quan khác, trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất dưới sự chỉ đạo của Bộ Tài chính. Tăng cường quản lý vĩ mô, tăng cường hiệu quả thực hiện ở cấp cơ sở, đảm bảo quản lý nhà nước về Hải quan được thống nhất trong cả nước, đảm bảo tuân thủ Hiến pháp và pháp luật Việt Nam và những điều ước quốc tế mà Việt nam đã ký kết. Cải cách bộ máy Hải quan phải theo kịp sự phát triển nhanh của nền kinh tế xã hội nói chung , của kinh tế đối ngoại và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Nâng cao trình độ chuyên môn và phẩm chất dạo đức của đội ngũ cán bộ công chức Hải quan.
Có thể thấy rõ trong các kiến nghị để giải quyết một số khó khăn, vướng mắc ở trên đã đưa ra không ít những yêu cầu, phương hướng đổi mới trong vấn đề nhân sự ngành Hải quan, nhằm đáp ứng với những yêu cầu đổi mới trong điều kiện hội nhập kinh tế, nhưng để thực hiện cải cách thủ tục Hải quan có hiệu quả vẫn cần những phương hướng có hệ thống về vấn đề nhân sự.
Bản chất công việc cán bộ Hải quan thực hiện đã và sẽ thay đổi một cách đáng kể khi thực hiện những biện pháp hiện đại hóa. Các cán bộ sẽ dành ít thời gian hơn cho công tác kiểm tra chứng từ và hàng hóa, tập trung nhiều hơn vào việc phân tích, quản lý rủi ro, kiểm tra sau giải phóng hàng, hệ thống thông tin và hướng vào cung cấp dịch vụ cho xã hội.
Theo đó cần điều chỉnh đặc điểm của đội ngũ cán bộ, các cán bộ sẽ cần có trình độ đào tạo theo chuẩn mực khác nhau, và tập hợp các kỹ năng cao hơn để có thể thực thi được nhiệm vụ một cách có hiệu quả trong việc thực hiện những cải cách.
Do đó, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động Hải quan trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, ngành Hải quan cần xây dựng một lực lượng cán bộ Hải quan chuyên nghiệp, có chuyên môn sâu, hiện đại, hoạt động minh bạch, liêm chính và hiệu quả cao.
Trong quá trình hội nhập, được sự giúp đỡ của WCO, của Hải quan các nước trong khu vực và quốc tế, đồng thời được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Ngành Hải quan đã có điều kiện thực hiện chiến lược đào tạo cán bộ, công chức Hải quan. Trong thời gian tới để đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực, ngành Hải quan còn cần chú trọng hơn nữa tới các hoạt động:
¬ Đào tạo
Bản chất những đổi mới trong hoạt động Hải quan đòi hỏi phải suy nghĩ thận trọng về vấn đề đào tạo, những cải cách về qui chế thủ tục và phương pháp diễn ra trên phạm vi rộng ảnh hưởng đến không chỉ là công chức Hải quan, mà còn hàng ngàn doanh nghiệp, các nhà khai thuê Hải quan và các đối tượng có liên quan khác. Do đó, đào tạo là một phần quan trọng trong công cuộc cải cách thủ tục Hải quan, yêu cầu này đòi hỏi phải khẩn cấp xây dựng một chiến lược đào tạo, các chính sách đào tạo toàn diện, một đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm và chuẩn bị tốt, một quá trình triển khai thực hiện đào tạo cẩn thận, có hiệu quả. Điều này đòi hỏi phải có sự đầu tư về tài chính và nguồn lực, sự chú ý của các cấp quản lý, sự phối hợp giữa các Cục, Vụ nghiệp vụ và Vụ tổ chức Cán bộ và đào tạo. Đào tạo ở đây vừa kết hợp giữa đào tạo mới và việc bồi dưỡng năng cao trình độ của cán bộ Hải quan, trong thời gian tới cần chú ý hơn tới những vấn đề:
+ Bồi dưỡng thêm cho các cán bộ lãnh đạo về khả năng quản lý, điều này đã được ngành quan tâm đến từ lâu nhưng với những thay đổi phức tạp hiện nay,việc bồi dưỡng thêm cho các cán bộ lãnh đạo vẫn cần được đẩy mạnh hơn nữa.
+ Nâng cao trình độ nghiệp vụ của đội ngũ nhân viên Hải quan:
jNâng cao trình độ kiểm hóa để nhanh chóng thích nghi với những thay đổi để đáp ứng với những qui định và thông lệ quốc tế mà Việt Nam đã và sẽ áp dụng. Cụ thể là :
Phải thường xuyên tập huấn, bổ sung kiến thức mới về hàng hóa và phương pháp kiểm hóa cho kiểm hóa viên.
Đào tạo kiểm hóa viên theo hướng chuyên sâu về từng loại hình, từng mặt hàng để có thể nhận biết nhanh chóng những khác biệt, mâu thuẫn giữa thực tế hàng hóa và hồ sơ khai báo, nếu không dễ dẫn đến sai làm hoặc kết quả kiểm tra không sát với thực tế.
Có những hoạt động đúc kết, rút kinh nghiệm thường xuyên để nâng cao kinh nghiệm của các kiểm hóa viên, đồng thời tạo ra cách làm việc khoa học, thống nhất.
k Do yêu cầu phát triển của kiểm tra sau thông quan nên phải có một đội ngũ kiểm toán viên Hải quan có trình độ cao và chuyên nghiệp. Việc xây dựng đội ngũ kiểm toán Hải quan chuyên nghiệp này sẽ nâng cao tính hiệu quả trong việc thực hiện kiểm tra sau thông quan, nâng cao trách nhiệm trước pháp luật của chủ hàng, thực hiện có hiệu quả công cuộc cải cách thủ tục Hải quan trong quá trình hội nhập kinh tế của nước ta.
l Nhiệm vụ của công chức Hải quan ngày càng nặng nề, phức tạp đòi hỏi phải bồi dưỡng thêm cho cán bộ Hải quan về ngoại ngữ, khả năng phối hợp công tác, khả năng tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân cộng tác, giúp đỡ Hải quan hoàn thành nhiệm vụ; bên cạnh đó, luôn nhấn mạnh về trình độ nắm vững và thi hành pháp luật, chính sách để thực hiện tốt và giúp đỡ các doanh nghiệp trong thực hiện đúng pháp luật Hải quan.
m Có phương pháp, phong cách làm việc phù hợp với những đổi mới hiện đại hóa và đơn giản hóa trong thủ tục Hải quan
* Phương pháp làm việc hiện đại: Cùng với việc hiện đại hóa ngành Hải quan các trang thiết bị Hải quan ngày càng hiện đại và đổi mới để phù hợp với sự phát triển của Việt Nam nói chung và hoạt động của Hải quan thế giới, do đó nhân viên Hải quan cũng phải thành thạo trong việc ứng dụng những công nghệ hiện đại trong hoạt động Hải quan như sử dụng hệ thống máy tính, máy chuyên dùng như máy soi. Ngoài ra phương pháp làm việc còn phải mang tính khoa học, nắm bắt tình hình nhanh chóng, chính xác, đề ra quyết định đúng đắn theo cương vị của mình. Điều này đòi hỏi lãnh đạo trong ngành phải chú ý đến:
1/ Sắp xếp cán bộ nhân viên phù hợp về trình độ và đáp ứng được yêu cầu công việc.
2/ Thường xuyên giáo dục tư tưởng chính trị cho đội ngũ cán bộ nhân viên Hải quan.
3/ Có chế độ đãi ngộ thích hợp với đội ngũ công chức Hải quan
4/ Đề cao liêm chính Hải quan, năng cao uy tín và sự tin tưởng vào liêm chính Hải quan trong cộng đồng doanh nghiệp và xã hội.
* Phong cách làm việc mới: Luôn đề cao trách nhiệm cá nhân và thái độ làm việc của công chức Hải quan. Tạo ra phong cách làm việc nhanh, gọn, đúng pháp luật và luôn tạo thuận lợi cho các bên có liên quan.
Giải pháp luân chuyển cán bộ
Một biện pháp có thể làm tăng trình độ năng lực, cơ sở kinh nghiệm tổng thể là tạo điều kiện để cán bộ có những kinh nghiệm công tác đa dạng thông qua hình thức luân chuyển nhiệm vụ. Việc này đem lại lợi thế hai mặt để phát triển các cá nhân trong nội bộ cơ quan trong khi đồng thời đem lại những kinh nghiệm mới và đa dạng cho các mảng công việc liên quan.
Lợi thế khác có thể thấy là việc luân chuyển có thể hỗ trợ cho công tác đấu tranh chống tham nhũng, giảm nếp suy nghĩ “cục bộ” và tạo điều kiện thích nghi nhanh với những đổi mới.
Hải quan cần xem xét một chính sách linh hoạt để khuyến khích các cán bộ có được các kinh nghiệm phong phú, đa dạng thông qua luân chuyển công việc. Chủ đề luân chuyển cán bộ cũng đã được đề cập đến trong việc xem xét đổi mới về vấn đề nhân sự ngành Hải quan.
Tiếp tục tăng cường nghiên cứu, thực hiện các cam kết, công ước và tham gia vào các tổ chức quốc tế về lĩnh vực Hải quan
Thực hiện lộ trình thực hiện Hiệp định trị giá GATT/ WTO
Hiện nay, Tổng cục Hải quan đang tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện tốt Hiệp định trị giá gatt/WTO. Trong thời gian qua, Tổ công tác về thực hiện trị giá WTO đã làm việc tích cực để xây dưng lộ trình, phương án khả thi thực hiện Hiệp định trị giá trình Chính phủ.Tổng cục Hải quan đã dự thảo, sau đó đã ban hành nghị định 60/NĐ-CP về việc xác định trị giá tính thuế hàng hóa nhập khẩu theo Hiệp định trị giá GATT/WTO và đưa ra lộ trình thực hiện tiếp Hiệp định trong những năm tiếp theo
Năm 2003
+ Rà soát lại các văn bản về trị giá, kiểm tra sau thông quan qua một thời gian thực hiện để tiến hành hiệu chỉnh cần thiết;
+ Mở rộng các đối tượng được áp dụng Nghị định về xác định trị giá tính thuế hàng hóa XNK đối với hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ, hàng hóa nhập khẩu của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ;
+ Phát triển hệ thống thông tin dữ liệu giá- Giai đoạn 2;
+ Tiếp tục xem xét cắt giảm danh mục mặt hàng nhà nước quản lý giá tối thiểu;
+ Soạn thảo sổ tay Hiệp định trị giá GATT/WTO dành cho cán bộ Hải quan
+ Qui hoạch cán bộ làm công tác định trị giá, kiểm tra sau thông quan.
Năm 2004
+ Sửa đổi Nghị định, Thông tư hướng dẫn tính giá trị tính thuế theo Hiệp định trị giá GATT/ WTO để chuẩn bị áp dụng cho tất cả hàng hóa nhập khẩu ;
+ Sắp xếp lại hệ thống xác định trị giá tính thuế thống nhất trên toàn ngành;
+ Danh mục mặt hàng nhà nước quản lý giá tối thiểu chỉ giữ lại một số mặt hàng có nguy cơ gian lận cao;
+ Ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro để chống gian lận trị giá;
+ Phát triển chiến lược tự nguyện tuân thủ của cộng đồng doanh nghiệp.
Năm 2005
+ Thực hiện đầy đủ Hiệp định trị giá Hải quan GATT/WTO
+ Hoàn thiện toàn bộ hệ thông văn bản pháp luật về xác định trị giá tính thuế hàng hóa XNK.
Phương hướng tiếp tục thực hiện Công ước HS
-Như đã trình bày ở trên, Việt nam đã tham gia Công ước HS từ năm 1998, Công ước có hiệu lực đối với Việt Nam từ 1/1/2000
-Tổng cục Hải quan đã phối hợp các Bộ, ngành trong nước xây dựng chương trình kế hoạch triển khai thực hiện Công ước. Đã thành lập tổ công tác liên Bộ về HS để hoàn chỉnh các văn bản pháp lý.
Dự thảo Nghị định về việc phân loại hàng hóa XNK trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt để triển khai thực hiện. Hiện nay, Tổng cục Hải quan đang lấy ý kiến thẩm định lần cuối của Bộ tư pháp, và các Bộ, ngành khác có liên quan.
Phối hợp trong nội bộ Bộ tài chính tham gia đàm phán xây dựng danh mục Biểu thuế hài hòa AESEAN, ký Nghị định thư thực hiện AHTN. Việt Nam dự kiến có thể áp dụng AHTN từ ngày 1/1/2003 và hiện nay đang tiến hành các công việc chuẩn bị cần thiết như sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan đến biểu thuế xuất nhập khẩu, rà soát lại Danh mục Biểu thuế quốc gia cho phù hợp với AHTN, tuyên truyền và đào tạo AHTN cho các cán bộ Hải quan và cộng đồng doanh nghiệp.
Thực hiện và chuẩn bị tham gia một số Công ước quốc tế có liên quan đến Hải quan
Công ước Kyoto
Việt Nam đã tham gia Công ước Kyoto từ năm 1997, Công ước đã được sửa đổi vào năm 1999, hiện nay, Tổng cục Hải quan đang tiến hành nghiên cứu và tham khảo ý kiến của các Bộ, ngành hữu quan để trình Chính phủ về việc tham gia Công ước Kyoto sửa đổi 1999.
Về Công ước ATA
Tổng cục Hải quan phối hợp với Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam và một số Bộ ngành hữu quan nghiên cứu chuẩn bị làm tờ trình Chính phủ về việc Việt Nam gia nhập Công ước ATA.
Về hiệp định TRIPs
Trong thời gian qua, Tổng cục Hải quan đã phối hợp cùng với Bộ Khoa học-Công nghệ và Môi trường, Bộ Văn hóa –Thông tin hướng dẫn về thực thi quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa XNK.
Biện pháp cải thiện mối quan hệ phối hợp của cơ quan Hải quan với cấp uỷ chính quyền địa phương và bộ, ngành liên quan
- Để giải quyết mối quan hệ công tác giữa cơ quan Hải quan với cấp uỷ chính quyền đại phương các tỉnh, thành phố nơi có tổ chức Hải quan hoạt động thì cần phải có văn bản qui định của cấp có thẩm quyền về mối quan hệ công tác này, để đảm bảo chỉ đạo thống nhất của ngành trong triển khai thực hiện Luật Hải quan.
- Một số nội dung cần phối hợp trong nội bộ Bộ Tài chính để trình cơ quan có thẩm quyền về:
Thực hiện thời điểm ra thông báo thuế đối với lô hàng nhập khẩu thuộc diện phải kiểm tra thực tế hàng hóa, song phải chờ kết quả giám định mất nhiều ngày mới thực hiện được việc kiểm tra , để đảm bảo vừa phù hợp giữa những qui định của nghị định hướng dẫn thực hiện Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu và của Bộ Tài chính với qui định của Nghị định 101/NĐ-CP và của Tổng cục Hải quan.
Việc xây dựng bảng giá tối đa đối với hàng xuất khẩu thuộc đối tượng được hoàn thuế VAT nhằm chống gian lận về giá.
Quan hệ với các cơ quan kho bạc các cấp để phối hợp trao đổi số liệu nộp thuế của các doanh nghiệp qua kho bạc, để chuyển vào tài khoản chuyên thu cơ quan Hải quan qua mạng tin học.
Thẩm quyền phạt vi phạm qui định về thuế theo các Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế quan và trong lĩnh vực Hải quan.
- Để phục vụ kịp thời việc triển khai công tác nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan, cần thống nhất với Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc cung cấp số liệu chứng từ, kiểm tra và xác minh các chứng từ thanh toán qua ngân hàng theo qui định tại Nghị định 102/NĐ-CP.
Thống nhất với Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, một số cơ quan có chức năng kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa XNK, người và phương tiện xuất nhập cảnh như kiểm dịch động vật, kiểm dịch y tế, hàng không để hướng dẫn các lực lượng quản lý trực thuộc tại các cửa khẩu đường bộ, đường biển, đường hàng không, bưu điện quốc tế, cửa hàng miễn thuế thực hiện qui định và trách nhiệm về quan hệ phối hợp với cơ quan Hải quan trong cung cấp thông tin, số liệu liên quan về hàng hóa XNK và phương tiện xuất nhập cảnh, về quản lý giấy phép và làm thủ tục Hải quan theo qui định của pháp luật.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện hội nhập kinh tế , với chủ trương thực hiện cải cách một bước nền hành chính, ngành Hải quan đã tiến hành cải cách hành chính với trọng tâm là cải cách thủ tục Hải quan, theo hướng đơn giản hóa, hiện đại hóa.
Những năm gần đây cùng với những biến chuyển mạnh mẽ về kinh tế, và các hoạt động tham gia hội nhâp kinh tế của nước ta, thì những cải cách thủ tục Hải quan đã có những kết quả nhất định, tạo điều kiện để phát triển giao lưu thương mại quốc tế đồng thời với quản lý hoạt động Hải quan có hiệu quả.
Những thành công ban đầu đã cho thấy bước đi đúng hướng của Hải quan Việt Nam trong công cuộc cải cách thủ tục Hải quan và đòi hỏi phải thực hiện cải cách sâu rộng, mạnh mẽ hơn nữa. Công cuộc cải cách thủ tục Hải quan liên quan trực tiếp đến quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước trên thể giới. Vai trò của Hải quan được xem như “người gác cửa về kinh tế của đất nước”, trong điều kiện hội nhập kinh tế thì người gác cửa cũng chính là những người chào đón, và do đó càng phải thể hiện đúng với tinh thần hữu nghị, hợp tác, các bên đều có lợi, và tinh thần hiếu khách của người Việt Nam, điều này đòi hỏi ngành Hải quan, kết hợp với các bộ ngành liên quan, cùng tiến hành có hiệu quả cải cách không chỉ thủ tục Hai quan mà cả các lĩnh vực khác trong ngành Hải quan, để Ngành Hải quan thực sự là cầu nối giữa các doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường thế giới bằng tính hiệu quả và cạnh tranh của nền kinh tế.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Cải cách hành chính thủ tục Hải quan, NXB Tài chính ,Hà Nội 1999
2. Tài liệu dự án VIE/97/059 do UNDP tài trợ “Tăng cường năng lực cho Hải quan Việt Nam”
3. Báo cáo về hoạt động thường niên của Tổng cục Hải quan Việt Nam 1994- 2000
4. Kế hoạch phát triển ngành Hải quan Việt Nam 2001- 2005
5. Việt Nam hội nhập ASEAN, NXB Hà Nội, 1997; và các tài liệu về Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN 6 cùng tuyên bố Hà Nội ngày 23/7/2001.
6. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế của Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1999, trang 25, 126-129
7. Chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế của Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế, Hà Nội tháng 10/1999
8. Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành Thủ tục Hải quan, phương pháp xác định giá tính thuế, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội 2002
9. Luật Doanh nghiệp
10. Luật thuế xuất nhập khẩu và các Luật sửa đổi bổ sung
11. Luật Hải quan các nước ASEAN
12. Pháp lệnh Hải quan 1990
13. Công ước Kyoto về đơn giản và hài hòa thủ tục Hải quan
14. Công ước quốc tế về Hệ thống hài hòa trong mô tả và mã hóa hàng hóa ( Công ước HS)
15. Hiệp định trị giá GATT/WTO
16. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ
17. Cải cách hành chính quốc gia là khâu đột phá để Việt nam hội nhập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997
18. Tài liệu bài giảng về kiểm toán Hải quan, Jica, Japan –Tổng cục Hải quan Việt Nam, 2001
19. Convention establishing Customs Co-operation Council, Brussels 1981, p 43-58
20. Uncitral Model Law on Electronic Commerce
21. Customs Technicque Trainning, Taejon, Korea 2000
22. Website: http//www.customs.gov.vn/
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19326.doc