Cải cách hệ thống Ngân hàng - Bài học cho Việt Nam

Mở đầu Hiện nay, sự phát triển của hệ thống tài chính đóng vai trò như một yếu tố đầu vào đối với sự tăng trưởng kinh tế. Một hệ thống tài chính hoạt động có hiệu quả sẽ thực hiện chức năng kinh tế nòng cốt trong việc dẫn vốn từ những người có tiết kiệm tới những người có nhu cầu về vốn. Trong hệ thống tài chính, các ngân hàng thương mại là mạch máu quan trọng. Không thể nói đến một nền kinh tế mạnh với một hệ thống ngân hàng yếu kém và ngược lại. Trong những thập kỷ qua, nhiều nước công nghi

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1602 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Cải cách hệ thống Ngân hàng - Bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp, chuyển đổi và đang phát triển đã từng gặp phải những vấn đề của hệ thống ngân hàng. Các vấn đề này thường gắn liền với những cuộc khủng hoảng kinh tế vĩ mô. Gần đây nhất là cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực mà một trong những nguyên nhân cơ bản là do hệ thống ngân hàng yếu kém và mắc nhiều sai lầm. Việt Nam tuy không bị khủng hoảng nhưng cũng bị ảnh hưởng mạnh, qua đó hệ thống ngân hàng đã bộc lộ những nhược điểm vốn có. Cải cách ngân hàng, do đó, đóng một vai trò lớn trong cải cách hệ thống tài chính nói riêng cũng như phục hồi nền kinh tế nói chung. Các chính phủ, trong đó có chính phủ Việt Nam đã nhận thấy điều này và đang tập trung tiến hành cải cách hệ thống ngân hàng. Bài thảo luận này gồm 3 phần: đó là những vấn đề cơ bản về cải cách ngân hàng, những cải cách Việt Nam đã thực hiện được, và kinh nghiệm cải cách hệ thống ngân hàng của các nước gần gũi với Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, từ đó rút ra những bài học cho Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo của thầy giáo: thạc sỹ Đào Hùng đã giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu. Em cũng xin chân thành cảm ơn thư viện nhà trường đã cung cấp tư liệu cho bài viết. Chương I: Những vấn đề cơ bản về cải cách hệ thống ngân hàng 1. Vai trò của hệ thống ngân hàng Trong hệ thống tài chính, ngân hàng đóng vai trò quan trọng. Ngân hàng là tổ chức tài chính nhận tiền gửi và cho vay tiền. Thuật ngữ các ngân hàng (banks) bao gồm những hãng như các ngân hàng thương mại, các công ty tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết kiệm tương trợ và các liên hiệp tín dụng. Các ngân hàng có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu tiền tệ vì: -Ngân hàng là một cầu nối giữa những người muốn tiết kiệm và những người muốn đầu tư. -Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định số lượng tiền trong nền kinh tế. -Ngân hàng đã là một nguồn tạo ra đổi mới tài chính nhanh chóng thường xuyên mở rộng các cách cho chúng ta có thể đầu tư tiền tiết kiệm của mình. Trung gian tài chính Nếu bạn muốn cho một công ty vay tiền, bạn sẽ không đến gặp thẳng các chủ tịch công ty đó để cho họ vay. Hầu hết chúng ta cho những công ty như vậy vay tiền qua những người đững giữa, được gọi là các trung gian tài chính: các tổ chức như ngân hàng thương mại, công ty tiết kiệm và cho vya, ngân hàng tiết kiệm tương trợ, liên hiệp tín dụng, công ty bảo hiểm, quỹ tương trợ, quỹ trợ cấp và những công ty tài chính, những trung gian này vay vốn của những người đã tiết kiệm được tiền, rồi ngược lại, cho những người khác vay. Ngân hàng là trung gian tài chính mà một người bình thường thường xuyên giao dịch nhât. Khi một người cần vay một món tiền để mua nhà hay xe hơi, hay phát triển sản xuất hộ gia đình, người này thường vay từ một ngân hàng địa phương, đặc biệt là ngân hàng phát triển. Trung gian tài chính là một hoạt động quan trọng trong nền kinh tế vì rằng nó khơi nguồn vốn từ những người có thể vì lý do gì đó không dùng nó một cách sinh lợi sang những người có ý muốn dùng nó để sinh lợi. Theo cách này, những trung gian tài chính có thể giúp thúc đẩy nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Lý do là ở chỗ: có những chi phí thông tin và chi phí giao dịch lớn trong nền kinh tế. Khi có các trung gian tài chính tham gia vào nền kinh tế, những chi phí này giảm xuống đáng kể. Tiết kiệm do quy mô: một giải pháp cho vấn đề chi phí giao dịch cao là góp những vốn muốn cho vay của nhiều nhà đầu tư với nhau, do vậy, họ có thể thu được lợi ích nhờ phương pháp tiết kiệm do quy mô. Nhờ gộp các vốn của những nhà đầu tư lại với nhau, chi phí giao dịch cho mỗi cá nhân nhà đầu tư nhỏ hơn nhiều, tổng chi phí của việc thực hiện một giao dịch trong thị trường tài chính tăng lên chỉ một chút ít khi quy mô giao dịch tăng. Mở rộng hiểu biết để giảm các phí giao dịch: Những trung gian tài chính cũng xuất hiện bởi vị họ có khả năng tốt hơn để mở rộng hiều biết nhằm hạ thấp chi phí giao dịch. Các ngân hàng trở thành những chuyên gia lành nghề vì tiếp thu được những kiến thức pháp lý thích hợp, do đó họ có thể không tốn kém gì mà vẫn viết được hợp đồng vay chặt chẽ. Hoạt động ngân hàng và lượng tiền cung ứng Các ngân hàng đóng một vai trò đáng kể trong việc tạo ra tiền, không phải vì việc in những tờ tín phiếu, mà do việc cho vay: những khoản tiền cho vay của ngân hàng tạo ra những khoản tiền gửi ở dạng tài khoản séc, một thành phần của tiền tệ. Bằng hoạt động của mình, ngân hàng tạo ra số nhân tiền và qua đó làm thay đổi lượng tiền cung ứng. Đổi mới về tài chính Với sự phát triển của hệ thống ngân hàng, ngày nay những khoản tiền nhỏ cũng có đem gửi tiết kiệm với một lãi suất cao hơn trước. Các tổ chức tài chính liên tục sáng tạo ra các cách đưa được lợi nhuận lên cao... Những thay đổi nhanh chóng đó trong hệ thống ngân hàng làm cho những điều lệ áp dụng do chính phủ đưa ra trở thành lỗi thời, tác hại đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ cũng tiềm ẩn trong lòng các ngân hàng nguy cơ xảy ra các cuộc khủng hoảng. 2. Hệ thống ngân hàng bị trục trặc như thế nào Quá trình phát triển kinh tế trong những thập niên gần đây của các quốc gia trên thế giới cho thấy rằng việc phát triển kinh tế nhanh hay chậm, thậm chí bị suy thoái nền kinh tế đều phụ thuộc rất nhiều vào chính sách cũng như cơ cấu hệ thống tài chính ở mỗi nước. Bài học thực tiễn từ cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Mỹ Latinh năm 1994 và ở Đông Nam á mới đây, là hồi chuông cảnh báo rằng hệ thống tài chính và chính sách tài chính ở các nước này hoạt động thiếu hiệu quả và kém linh hoạt trước những biến động của thị trường. Xem xét nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng, có thể thấy hệ thống ngân hàng gặp phải khó khăn do những nguyên nhân sau: a) Sự bất cập trong chính sách quản lý vĩ mô của chính phủ. Các chính phủ thường đưa ra một chính sách tỷ giá được điều hành một cách chậm trễ và cứng nhắc. Các Ngân hàng Trung ương giữ đồng nội tệ của mình ổn định theo ngoại tệ mạnh của nhóm G7, đặc biệt Thái Lan đã neo giá đồng bạt hàng chục năm theo USD. Do đó nguồn vốn nước ngoài đổ xô vào qua tất cả các kênh. Bên cạnh đó, chính sách lãi suất được duy trì cao tạo ra chênh lệch lãi suất nội tệ với USD làm những người đi vay tăng cường vay nóng USD (với lãi suất thấp) và chuyển sang nội tệ (với lãi suất cao) để hưởng lợi. Do đó, giá trị tài sản và cổ phiếu tăng lên, tạo ra một nền “kinh tế ảo”. Khi xảy ra một sự biến đổi về giá trị đồng USD dù nhỏ cũng có thể gây hỗn loạn cho đồng nội tệ do sự cứng nhắc này. Sức cạnh tranh hàng xuất khẩu giảm, tăng thâm hụt tài khoản vãng lai, giá trị tài sản thế chấp hạ xuống. Các nhà đầu tư bắt đầu rút vốn. Nền kinh tế bị đẩy đến sự hoảng loạn. Sự can thiệp sâu vào nền kinh tế của chính phủ thông qua các chính sách có định hướng và bảo hộ kéo dài khiến thị trường bị ảnh hưởng bởi những yếu tố cứng nhắc và bị bóp méo, làm giảm hiệu quả chung. Các ngân hàng thường được chỉ đạo phải cung cấp tín dụng trợ cấp cho những khu vực hoặc lĩnh vực được ưu đãi. Những công ty ở lĩnh vực ưu tiên lại thường không có khả năng sinh lời, thường chiếm một tỷ lệ lớn vốn khê đọng. Thủ tục luật pháp không đủ gây áp lực để buộc con nợ phải thanh toán số nợ của mình. Chính phủ lại dành quá ít sự quan tâm đến sự tập trung rủi ro, chất lượng của các luồng thông tin, sự đầy đủ của hệ thống luật pháp và bản chất của môi trường pháp lý. b) Sai lầm của các nhà đầu tư trong nước. Do chỉ đơn thuần tính đến những nhân tố kinh doanh trong quá khứ (sức mua thị trường, tỷ giá ổn định... ), các doanh nghiệp sẵn sàng vay những khoản tín dụng ngắn hạn khổng lồ để đầu tư vào các dự án hiệu quả kinh tế thấp. Số nợ của các doanh nghiệp vượt quá tổng số vốn của bản thân doanh nghiệp tới 200- 400%. Các doanh nghiệp lại đưa ra các quyết định đầu tư sai, đầu tư quá nhiều vào bất động sản, nhiều công trình phô trương, kém hiệu quả, có tính đầu cơ, bị chôn vốn... dẫn đến mất khả năng thanh toán, gây ra khủng hoảng thanh toán lan truyền toàn bộ nền kinh tế xã hội. c) Năng lực quản lý và điều hành trong mỗi ngân hàng còn yếu kém. -Quản lý chuyên môn kém: Các chính sách cho vay tồi là dạng quản lý chuyên môn yếu kém chung nhất và thường là hậu quả cuả việc kiểm soát nội bộ không hiệu quả, của những phân tích tín dụng không thích đáng hoặc của những sức ép chính trị. Chính sách cho vay tồi thường dẫn đến tập trung rủi ro quá mức- kết quả của việc tập trung với tỷ lệ cao các khoản vay cho một khách hàng hay một khu vực hoặc ngành kinh doanh cụ thể nào đó. Các ngân hàng đôi khi cho những công ty có quan hệ hay cho chính những nhà quản lý của mình vay quá mức. Sự không tương xứng giữa tài sản có và tài sản nợ về loại tiền, lãi suất, hay thời hạn trả nợ là một dạng thông thường khác của sự yếu kém trong quản lý chuyên môn. -Che giấu việc quản lý tồi: Khi một ngân hàng bị thua lỗ, các nhà ngân hàng có thể cố gắng che giấu những thua lỗ trước kia cũng như hiện nay. Có nhiều cách để thực hiện việc này. Để tránh báo động cho các cổ đông về những khó khăn, các nhà ngân hàng thường giữ cho lãi cổ phần không đổi mặc dù thu nhập giảm đi. Và để giữ cho lãi cổ phần tăng lên, các chủ ngân hàng có thể chỉ dành cho các quỹ dự phòng thất thoát một phần trích từ thu nhập nhỏ hơn, làm mất đi sự tương xứng của mức vốn. Nếu mức lãi cổ phần được yêu cầu vượt quá lợi nhuận, các chủ nhà băng có thể dùng các biện pháp kế toán để làm tăng lợi nhuận ròng trên giấy. Bằng việc lập lại kế hoạch trả nợ các khoản vay, các nhà ngân hàng có thể phân loại những khoản nợ khó đòi thành những món nợ chất lượng tốt và như vậy tránh được việc phải trích lập quỹ dự phòng. Việc nhập các khoản lãi chưa trả vào gốc làm nâng lợi nhuận lên thông qua việc tăng thêm số thu nhập trên giấy tờ. Việc báo cáo thu nhập có thể được thực hiện trước và việc ghi chép chi phí hoãn lại sau. -Quản lý một cách liều lĩnh: Khi thua lỗ quá lớn, không thể che đậy bằng những biện pháp kế toán, các ngân hàng có thể áp dụng các chiến lược liều lĩnh hơn: cho những dự án rủi ro vay với lãi suất cao hơn, đầu cơ trên thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Khi luồng tiền mặt trở nên khó khăn, ngân hàng có thể đưa ra lãi suất tiền gửi cao nhằm thu hút thêm người gửi tiền mới, nhưng chi phí vốn cao có thể làm vấn đề tồi tệ thêm. -Gian lận: Như là phương sách cuối cùng, các ngân hàng buộc phải tự cho bản thân mình vay những khoản vay mà họ không có khả năng hoàn trả. Một cách khác là “chuyển đổi quyền sở hữu” của những công ty một phần do ngân hàng hoặc nhà ngân hàng sở hữu: nếu một công ty có khả năng sinh lời, chủ nhà băng sẽ thu xếp để mua nó từ ngân hàng với giá thấp, ngược lại, nhà ngân hàng sẽ bán nó cho ngân hàng với giá cao. Ta đã có thể thấy một hệ thống ngân hàng có thể gặp những vấn đề gì, từ đó cho thấy rằng cần phải cải cách hệ thống ngân hàng để hoạt động của nó có hiệu quả hơn. 3. Những vấn đề cơ bản về cải cách hệ thống ngân hàng Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng, đó là khôi phục lại khả năng trả nợ và khả năng thu lợi nhuận, nâng cao khả năng trung gian tài chính giữa người tiết kiệm và người đi vay của hệ thống ngân hàng, và khôi phục niềm tin của công chúng. Nói một cách đơn giản là, cơ cấu lại tài chính là cố gắng khôi phục khả năng trả nợ (giá trị ròng) bằng việc cải thiện các bảng cân đối tài sản của ngân hàng. Giá trị ròng- chênh lệch giữa tài sản Có và tổng các khoản phải trả, càng lớn thì khả năng trả nợ của ngân hàng càng cao. Một ngân hàng có thể cải thiện bảng cân đối tài sản của mình bằng cách: -Tăng thêm vốn bổ sung (Ví dụ: nhận tiền mặt từ những người sở hữu cũ và mới hoặc từ chính phủ). -Giảm tài sản nợ. -Tăng giá trị tài sản nợ (Ví dụ: tăng giá trị thu hồi của các khoản vay có vấn đề và các tài sản thế chấp) -Cơ cấu lại các hoạt động có khả năng thu lợi nhuận, bao gồm: xem xét lại các chiến lược kinh doanh; cải tiến phương pháp quản lý và hệ thống kế toán; đánh giá tín dụng tốt hơn, và nâng cao trình độ thẩm định dự án. -Các chi phí hoạt động có thể cắt giảm bằng cách cắt giảm chi nhánh và nhân viên. Để tăng khả năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng, việc cơ cấu lại thường có nghĩa là hoàn thiện cơ chế giám sát và phòng ngừa rủi ro. Đôi khi các phương pháp như cung cấp bảo hiểm tiền gửi và Ngân hàng Trung ương thực hiện chức năng người cho vay cuối cùng cũng cần thiết. Khả năng trả được nợ chỉ là bước đầu tiên. Cải tổ thành công đòi hỏi phải chế ngự được xu hướng tự thoả mãn khi khả năng trả nợ được khôi phục; cho phép các ngân hàng có vấn đề lại tiếp tục cho vay. Kinh nghiệm chỉ ra rằng các ngân hàng đó chẳng bao lâu sẽ lại rơi vào tình trạng rắc rối nếu họ không tìm cách cải thiện các điều kiện để khôi phục khả năng thu lợi nhuận. Điều đó có nghĩa là phải có những thay đổi cần thiết trong quản lý và cắt giảm chi phí hoạt động. Nó cũng đòi hỏi phải tăng cường hệ thống kế toán, luật pháp và điều hành, hậu thuẫn cho cải cách bằng sự giám sát chặt chẽ và đồng bộ. Một khía cạnh tinh tế của các chiến lược cải tổ thành công, gồm cả việc xác định đúng vai trò của Ngân hàng Trung ương là hỗ trợ chứ không tham dự vào hoạt động.Khi Ngân hàng Trung ương là cơ quan chỉ đạo, nó thường dễ sa đà vào việc tài trợ cho các phương pháp cải tổ ngân hàng, vượt quá nguồn lực của nó và thực hiện những biện pháp trái với trách nhiệm chính của cơ quan quản lý tiền tệ. Một phương pháp tiếp cận tốt hơn là thành lập một cơ quan chỉ đạo riêng để phối hợp và thực hiện việc cải tổ. Để có hiệu quả, tổ chức này phải tập trung giám sát các chính sách cải tổ, cũng như hoạt động cơ cấu lại của các ngân hàng riêng lẻ nếu cần thiết. Giám sát là quan trọng vì cải tổ ngân hàng mất nhiều thời gian và chi phí lớn. Nguyên tắc chia sẻ thiệt hại giữa Chính phủ, các ngân hàng và công chúng là một phần không thể tách rời. Một phương pháp chia sẻ thiệt hại trong chiến lược tổng thể là thông qua cơ quan bảo hiểm tiền gửi được tài trợ bằng sự đóng góp của các ngân hàng, nhờ đó có thể hạn chế cho người gửi tiền và các chủ nợ khác, không gây những hoang mang hoặc khiến mọi người đổ xô đến ngân hàng rút tiền. Cuối cùng, các kinh nghiệm không chỉ ra được mối quan hệ trực tiếp giữa những nỗ lực cải tổ hệ thống ngân hàng và các điều kiện kinh tế. Nó thống nhất với nguyên tắc chính phủ cần phải lập tức thực hiện biện pháp khó khăn và phức tạp mà không chờ đợi đến khi nền kinh tế khôi phục lại.Một nguyên nhân có thể là vì các quốc gia đã nhận thấy rằng việc họ đề cao con đường thoát khỏi những vấn đề của hệ thống ngân hàng là không hợp lý. Một nguyên nhân khác là những tổn thất về tài sản có liên quan đến khủng hoảng ngân hàng thường làm giảm nhu cầu trong nước nhanh chóng. Tóm lại, mặc dù các chương trình cải tổ ngân hàng thường được khởi xướng vào thời điểm nền kinh tế bị đình trệ và suy thoái nghiêm trọng, mức tăng trưởng kinh tế dương sẽ giúp cho các ngân hàng khôi phục lại cho vay và có khả năng thu lợi. Chương II: Hệ thống ngân hàng Việt Nam, hiện trạng và những cải cách đã thực hiện. 1. Thực trạng hệ thống ngân hàng Việt Nam Từ trước năm 1988, trong nền kinh tế quốc dân chỉ có một Ngân hàng nhà nước duy nhất, với hệ thống tổ chức ba cấp trên địa bàn hành chính: cấp Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện, thực hiện đồng thời hai chức năng quản lý và kinh doanh. Thực chất đó là hệ thống ngân hàng một cấp thực hiện nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương vừa thực hiện chức năng của các tổ chức trung gian tài chính trong nền kinh tế quốc dân. Ngày 26-3-1988, Chính phủ ban hành Nghị định 53-HĐBT về tổ chức bộ máy ngân hàng, đưa ngân hàng vào thời kỳ đổi mới có tính cách mạng. Ngân hàng nhà nước được cải tổ thành hệ thống ngân hàng gồm 2 cấp: Ngân hàng nhà nước và ngân hàng chuyên doanh trực thuộc là Ngân hàng ngoại thương Việt Nam chuyên về tài trợ ngoại thương và quản lý ngoại hối, và Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam chuyên về tài trợ dài hạn cho các dự án hạ tầng cơ sở và công trình công cộng. Có thêm hai ngân hàng thương mại quốc dân được thành lập: Ngân hàng công thương Việt Nam từ Vụ Tín dụng Công và Thương của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam từ Vụ Tín dụng Nông nghiệp. Với sự ra đời cơ sở pháp lý từ sau năm 1990, dịch vụ ngân hàng được mở rộng bao gồm các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các hợp tác xã tín dụng và một số ngân hàng nhà ở. Cuối năm 1994, ngoài 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, có 46 ngân hàng cổ phần đang hoạt động, 69 hợp tác xã tín dụng, 3 ngân hàng liên doanh và 9 ngân hàng nước ngoài. Mười năm qua, hệ thống ngân hàng không ngừng được củng cố và phát triển, góp phần tích cực vào những thành tựu chung của công cuộc đổi mới, nổi bật là đẩy lùi nạn lạm phát phi mã, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô, là nòng cốt trong huy động... Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều điều bất cập và thiếu sót. Một là, cơ cấu tổ chức của ngân hàng nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu hoạt động có hiệu lực của một hệ thống quản lý tập trung thống nhất. Cơ chế điều hành lãi suất còn mang nặng tính hành chính giản đơn. Các công cụ gián tiếp trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ còn rất sơ khai. Các công cụ quản lý hành chính trực tiếp không còn phù hợp và ít hiệu lực vẫn còn sử dụng khá phổ biến. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái vẫn còn cần nâng cao tính linh hoạt và khả năng ứng phó với cơ chế thị trường đầy biến động. Hai là năng lực điều hành kinh doanh ngân hàng thương mại còn nhiều bất cập, năng lực tài chính của nhiều ngân hàng thương mại rất yếu, vốn tự có nhỏ, chất lượng tín dụng thấp (tỷ lệ nợ quá hạn cao) làm cho hoạt động tín dụng thiếu lành mạnh, có nhiều rủi ro, đe doạ nền tảng của các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, các ngân hàng thương mại quốc doanh có tổng lượng tài sản chính chiếm tới 80% tổng tài sản của toàn hệ thống, nhưng hoạt động cho vay theo chỉ thị vẫn còn lẫn lộn với các hoạt động cho vay theo tiêu chuẩn thương mại dẫn đến tình trạng nợ đọng dây dưa và không có khả năng thanh toán (hiện tổng số nợ xấu, không sinh lời theo tiêu chuẩn kế toán Việt Nam khoảng 1 tỷ USD, còn tính theo tiêu chuẩn quốc tế khoảng 3- 4 tỷ USD). Hiện nay có 60 ngân hàng thương mại đang hoạt động ở Việt Nam, nhưng Việt Nam vẫn là nước có dịch vụ ngân hàng thấp. Về cơ bản, hệ thống tài chính bao gồm hệ thống ngân hàng do ngân hàng thương mại quốc doanh chi phối. Hệ thống này phát triển chưa đủ nhanh để theo kịp những yêu cầu của khu vực sản xuất kinh doanh. Việc huy động tiết kiệm ngân hàng vẫn chưa thoả đáng và còn thấp nhiều so với tiềm năng, chi phí trung gian còn cao, hiệu quả giao dịch và cấp vốn của hệ thống ngân hàng còn thấp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả được ưu đãi tiếp cận với nguồn tín dụng bằng cách này hay cách khác cũng gây ra sự thiếu lành mạnh của hệ thống ngân hàng (tỷ trọng nợ quá hạn của doanh nghiệp Việt Nam trong tổng số nợ quá hạn đã lên tới mức báo động). Đây là những nguyên nhân chính phải thực hiện cơ cấu lại các ngân hàng. Ba là, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động ngân hàng không được coi trọng đúng mức, chất lượng hiệu quả kém, thiếu nghiêm khắc trong xử lý sai phạm, tạo điều kiện cho những sai phạm nghiêm trọng làm ảnh hưởng xấu đến nền tảng tài chính. Bốn là, tình trạng thiếu kinh nghiệm quản lý của cán bộ ngân hàng về quản lý tài chính ngân hàng, quản lý tín dụng, tổ chức còn rất phổ biến có khoảng 40- 50% nhân viên ngân hàng không đủ khả năng tiếp cận công nghệ ngân hàng hiện đại, khoảng 30-40% phải được đào tạo lại mới đáp ứng nhu cầu đề ra. 2. Cải cách ngân hàng ở Việt Nam- sự giúp đỡ của các nhà tài trợ Nhóm làm việc về cải cách ngân hàng của các nhà tài trợ và Chính phủ mới được thành lập gần đây. Các nhà tài trợ đã thảo luận về chương trình cải cách ngân hàng theo Tín dụng Điều chỉnh Cơ cấu/ Chương trình Hỗ trợ tăng trưởng và Giảm nghèo (SAC/PRGF). Tầm nhìn trung và dài hạn Tầm nhìn ở đây là phát triển một hệ thống ngân hàng lành mạnh và ổn định, có thể huy động vốn tiết kiệm trong dân một cách hiệu quả và đầu tư hiệu quả trở lại để tăng trưởng nhanh và giảm nghèo. Trong dự thảo chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001-2010 của Việt Nam: Đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng- huy động vốn và cho vay; cung cấp các dịch vụ thuận tiện và kịp thời tới các cá nhân và doanh nghiệp, kịp thời cấp tín dụng cho sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác, bao gồm cả các đối tượng trong khu vực nông nghiệp và nông thôn- là mục đích chính của hệ thống ngân hàng. Với mục tiêu đó, tạo ra một môi trường công khai, lành mạnh và công bằng cho tất cả các hoạt động ngân hàng là một việc quan trọng. Cũng cần thiết phải hỗ trợ các tổ chức trong nước để nâng cao năng lực quản lý và kỹ năng của họ để có thể cạnh tranh với các đối tác nước ngoài. Các biện pháp cần thực hiện là áp dụng công nghệ thông tin, nhanh chóng mở rộng hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt và dịch vụ ngân hàng tự động, xây dựng khung pháp lý tổng thể bao gồm các nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về hoạt động ngân hàng, nâng cao hoạt động kiểm tra, thanh tra chất lượng nội bộ của các tổ chức tín dụng. Giải quyết các khoản vay không sinh lời còn tồn đọng cùng với nâng cao các định chế quản lý pháp luật và hành chính về trách nhiệm của người đi vay và quyền lợi của người cho vay là rất cần thiết để tránh tình trạng khủng hoảng tín dụng. Trong trung hạn- khoảng 5 năm- mục tiêu phải cụ thể hơn nữa. Hệ thống ngân hàng phải có khả năng chi trả, có tính cạnh tranh và có năng lực lớn hơn để thu hút và phân phối hiệu quả các nguồn lực. Khi đó, sẽ có một môi trường tương đối bình đẳng cho tất cả các ngân hàng, tạo sự cạnh tranh lớn hơn và các dịch vụ ngân hàng tốt hơn cho tất cả mọi người, đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam là những đối tượng sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt từ bên ngoài trong tương lai. Các ngân hàng cổ phần (NHCP) sẽ được củng cố lại, với số lượng ít hơn nhưng quy mô lớn hơn và lành mạnh hơn thành các ngân hàng ngoài quốc doanh cạnh tranh với các ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) là những ngân hàng cũng lành mạnh hơn và mang tính thương mại hơn. Các ngân hàng nước ngoài và liên doanh cũng sẽ cạnh tranh trên cùng một thị trường. Chính phủ đã vạch ra chiến lược 5 mũi nhọn để đạt được tầm nhìn nói trên: giải quyết các vấn đề nêu trên để xây dựng một hệ thống ngân hàng mạnh và ổn định có khả năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng cần thiết cho công cuộc công nghiệp hoá đất nước. Điều này liên quan tới các hoạt động sau: -Cơ cấu lại NHCP để tăng cường năng lực và phù hợp với các tiêu chuẩn quy định mới. -Cơ cấu lại NHTMQD sao cho các ngân hàng này hoạt động mang tính thương mại hơn và có trách nhiệm hơn. -Nâng cao khuôn khổ pháp lý, quản lý, giám sát bao gồm cả công tác kế toán. -Tạo môi trường bình đẳng dần cho tất cả các ngân hàng -Đào tạo các cán bộ trong công tác giám sát và trong các ngân hàng thương mại bằng nhiều biện pháp khác nhau. Cơ cấu lại NHCP: Chính phủ đã có kế hoạch tinh giản 48 NHCP bằng biện pháp đóng cửa và sáp nhập đồng thời hỗ trợ và phục hồi một số ngân hàng khác. Quá trình này đang được thực hiện từ cuối năm 1998, tuy còn chậm. Người gửi tiền đã được bảo vệ hoàn toàn trong trường hợp ngân hàng đóng cửa, và các cổ đông buộc phải bổ sung thêm vốn cho phù hợp với quy định mới. Ba NHCP đã bị đóng cửa, 2 ngân hàng khác được sáp nhập và một vài ngân hàng đang nằm trong sự giám sát và kiểm soát đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước. Cơ cấu lại NHTMQD: Sự thành công của kế hoạch cơ cấu lại NHTMQD- là yếu tố quan trọng để đạt được quy mô của tầm nhìn- đòi hỏi không chỉ giải quyết các khoản vay không sinh lời còn tồn đọng mà còn cả việc thông qua các cải cách trong các ngân hàng thương mại để đảm bảo các ngân hàng này hoạt động đúng tính chất thương mại và hạn chế tối đa các khoản vay không sinh lời. Cho nên việc cải cách và tái cơ cấu lại hoạt động của 4 NHTMQD, đảm bảo định hướng thương mại là công việc trọng tâm. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đang trong quá trình chuẩn bị kế hoạch tái cơ cấu chi tiết cho từng ngân hàng để đạt được mục tiêu đó và dự kiến sẽ được thực hiện trong năm nay. Hoàn thiện các khuôn khổ pháp lý, quản lý và giám sát: Các quy chế an toàn cùng với sự giám sát hiệu quả phù hợp với các quy định đó là rất cần thiết để đảm bảo vận hành hệ thống ngân hàng hoạt động một cách hiệu quả trong tương lai. Có rất nhiều các quy định về việc gửi tiền, giao dịch ngoại tẹ, bảo hiểm tiền gửi, về các điều kiện cho phép can thiệp vào các ngân hàng có vấn đề, yêu cầu có đủ vốn, và thanh tra ngân hàng (bao gồm việc xác định phạm vi và trách nhiệm của Ban Thanh tra của Ngân hàng Nhà nước) đã được ban hành. Tuy nhiên còn nhiều việc cần làm, như về lĩnh vực phân loại các khoản vay, trích lập dự phòng rủi ro để đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế và tính công khai và chính xác của các Báo cáo tài chính về ngân hàng. Tăng cường khả năng giám sát của NHNN là yếu tố quan trọng để đảm bảo các ngân hàng hoạt động hiệu quả. Các tiêu chuẩn kế toán phản ánh trung thực tình hình tài chính của ngân hàng là điều kiện tiên quyết để giám sát một cách hiệu quả. Việc giám sát cần dựa trên các rủi ro và thanh tra tại chỗ cũng như kiểm tra gián tiếp thông qua hệ thống kế toán và kiểm toán. Để đảm bảo việc này các tiêu chuẩn kế toán Việt Nam cần phù hợp với các tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IAS) để đảm bảo thông tin trung thực và chính xác về tình hình tài chính của các ngân hàng. Đặc biệt, việc phân loại các khoản vay và trích lập quỹ dự phòng rủi ro của các ngân hàng cần phản ánh rủi ro tín dụng của các khoản vay nhưng các quy định về kế toán hiện hành không cho phép làm điều đó. Việc cải thiện hơn nữa khung pháp lý cũng đã được lên kế hoạch để giải quyết các khoản nợ có vấn đề. Tạo môi trường bình đẳng cho tất cả các ngân hàng: Chương trình cải cách của chính phủ nhằm tăng khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng, nhưng dự kiến sẽ tiến hành từ từ và có quản lý điều tiết. Tuy nhiên, các ngân hàng hiện đã được phép cạnh tranh qua giá cho vay bởi lãi suất đã được thả nổi trong giới hạn cho phép. Các hạn chế về việc huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam đã được xoá bỏ đối với các ngân hàng liên doanh nhưng vẫn còn áp dụng đối với ngân hàng nước ngoài; cũng cần giảm dần các hạn chế đó với các ngân hàng nước ngoài. Các hạn chế về loại ngoại tệ cho vay cũng đã được xoá bỏ (?). Việc dần bình đẳng sân chơi này cho các NHTMQD này gặp khó khăn để cạnh tranh hiệu quả trong 3 năm tới. Dần ổn định môi trường chính sách là việc rất quan trọng để tạo ra cạnh tranh từ các ngân hàng liên doanh và các ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Hiện nay các nhà tài trợ đã và đang cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật và cố vấn cho việc cải cách và bước đầu thực hiện chương trình cải cách hệ thống ngân hàng cũng như nâng cao vai trò của NHNN (chi tiết ở phần phụ lục). Các hoạt động tư vấn và hỗ trợ kỹ thuật cho việc hình thành chương trình cải cách cho tới nay tập trung chủ yếu vào 3 lĩnh vực: -Đánh giá tài chính của các NHCP và xây dựng kế hoạch đóng cửa/ sáp nhập ngân hàng. -Kiểm toán độc lập các NHTMQD và xây dựng kế hoạch cơ cấu lại cho từng ngân hàng. -Thiết kế và soạn thảo nội dung các quy chế thận trọng và hệ thống giám sát. Phần lớn sự hỗ trợ này là cho Ban Cơ cấu lại ngân hàng, một phần tới thẳng các ngân hàng thương mại. Hơn nữa, cũng có hỗ trợ đào tạo cho NHNN trong các lĩnh vực quản lý kinh tế chung cũng như hoạt động kiểm tra giám sát. Các nhà tài trợ cũng có kế hoạch tài trợ chi phí thực hiện cơ cấu lại các ngân hàng. Đặc biệt là việc dần dần cơ cấu lại vốn của các NHTMQD trong một vài năm dự kiến sẽ được các nhà tài trợ cấp kinh phí. Việc đánh giá các hỗ trợ kỹ thuật cần thiết cho việc thực hiện chương trình cải cách hệ thống ngân hàng trong 3-5 năm dự kiến sẽ được thực hiện dưới sự hỗ trợ của Nhóm làm việc về cải cách ngân hàng. Chương III: Kinh nghiệm cải cách ngân hàng ở một số nước. Bài học cho Việt Nam. Kinh nghiệm các nước trong khu vực Trung Quốc Đối với Trung Quốc, việc cơ cấu lại ngân hàng bao gồm không chỉ có việc cơ cấu lại các ngân hàng mà còn cả việc cơ cấu lại các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Các biện pháp Trung Quốc thực hiện bao gồm: -Bổ sung vốn: Vào tháng 3/1998, 270 tỷ nhân dân tệ trái phiếu kho bạc đặc biệt đã được phát hành. Mục đích là để tăng cường vốn cho 4 ngân hàng thương mại quốc doanh và để tăng tỷ lệ an toàn vốn lên 8%. Các trái phiếu này được 4 ngân hàng quốc doanh mua với số tiền được giải toả thông qua việc hạn tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 13% xuống 8%. -Chuyển đổi nợ thành vốn: Vào tháng 10/1996, công ty Đầu tư tín thác Everbright- một công ty có các chủ nợ lớn nhất gồm một công ty dầu khí của nhà nước và 2 ngân hàng thương mại quốc doanh đã không thanh toán được các khoản nợ đến hạn của mình. Để tránh cho công ty này khỏi bị phá sản, Ngân hàng Trung ương đã quyết định chuyển đổi các khoản nợ của công ty, khoảng 5 tỷ NDT thành vốn. -Sáp nhập: Từ năm 1995 đến 1998, hơn 2000 hợp tác xã tín dụng đô thị đã được sáp nhập vào 88 ngân hàng thương mại đô thị theo các nguyên tắc sau: Định giá tài sản có và vốn, xoá một số khoản nợ tồi, ước tính giá trị ròng của số vốn cổ phần và khuyến khích các cổ đông mới. Ngoài ra, để giảm thiểu rủi ro của các công ty đầu tư tín thác, chính quyền Trung Quốc đang có kế hoạch giảm số lượng các công ty này từ 239 vào thời điểm hiện tại xuống 60 thông qua việc hợp nhất, sáp nhập. -Đóng cửa, thanh lý và cho phá sản: Việc đóng cửa một tổ chức tài chính được tiến hành như sau: +Trước tiên, Ngân hàng Trung ương tuyên bố việc đóng cửa một tổ chức tài chính và uỷ quyền cho một ngân hàng thương mại đứng ra giải quyết các trái quyền và các khoản nợ của tổ chức này. +Thứ hai, ngân hàng thương mại này hoặc một công ty kế toán/ kiểm toán bên ngoài thanh lý các tài sản của tổ chức bị đóng cửa, tính toán phần lỗ và các tài sản có ròng có thể bán được cũng như tiến hành đăng ký và xác nhận các khoản nợ. +Thứ ba, các nguyên tắc cho việc thanh toán các khoản nợ được quyết định. Các khoản nợ nước ngoài và những người gửi tiền cá nhân sẽ được ưu tiên thanh toán. Tiền gửi của các pháp nhân trong nước có thể được thanh toán bao nhiêu tuỳ thuộc tài sản có ròng sau khi thanh lý. +Thứ tư, nếu một tổ chức gánh chịu mức lỗ đặc ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0956.doc
Tài liệu liên quan